Tải bản đầy đủ (.ppt) (150 trang)

Hành Chính Nhà Nước Từ Thế Kỷ XVI – XVIII (Thời Kỳ Nội Chiến Nam - Bắc Triều Và Triều Đại Tây Sơn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 150 trang )

Phần thứ hai
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC THỜI KỲ
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN QUỐC
GIA PHONG KIẾN
Chương 4
Hành chính Nhà nước từ thế kỷ
XVI – XVIII
(thời kỳ nội chiến Nam - Bắc triều và triều
đại Tây Sơn)


I. Khái quát đôi nét về bối cảnh lịch sử
II. Cơ chế quản lý hành chính dưới triều
Mạc – Bắc triều (từ 1527 đến 1592. Kinh
đô: Đông Đô – Hà Nội)
III. Cơ chế quản lý hành chính của Nam
triều (Vua Lê – Chúa Trịnh ở Thanh
Hoá từ 1533 – 1592)


IV. Cơ chế quản lý hành chính dưới thời
Vua Lê – Chúa Trịnh ở đàng ngoài (từ
1593 – 1786)
V. Cơ chế quản lý hành chính thời các
chúa Nguyễn ở đàng trong (từ 1558 đến
1801)
VI. Hành chính nước ta dưới thời Tây
Sơn (1788 – 1802)


I. Khái quát đôi nét về bối



cảnh lịch sử
Nhà Lê suy yếu
• Đầu thế kỷ XVI, sau khi Lê Hiến Tông
mất, xã hội Đại Việt mất dần cảnh
thịnh trị, kinh tế sa sút, nhân dân sống
cực khổ, các thế lực phong kiến tranh
chấp lẫn nhau mỡ đầu cho một giai
đoạn mới của chế độ xã hội phong kiến
Việt Nam.


• Năm 1504, hiến Tông ”vì ham sắc quá
nhiều” chết sớm, Lê uy mục(1505-1509)
sao nhãng việc triều chính “đêm cùng
cung nhân uống rượu vô độ, ai say thì
giết”.
• Nước nhà hết kiệt tiền của.
• Chính quyền Trung ương, địa phương
quan lại mặc sức tung hoành…


• Trong bài dịch của Lương Đắc Bằng có
tố cáo quan lại “tước đã hết mà lạm
thưởng không hết, dân đã cùng mà lạm
thung không cùng, phú thuế thu đến tơ
tóc mà dùng như bùn đất.”;
• Ông khuyên vua mới nên “đuổi bỏ kẻ tà
nịnh”, “công bằng tuyển bổ quan lại”,
“cấm hối lộ để bỏ thói tham ô”.

• Dĩ nhiên Tương Dực cũng như Chiêu
Tông sau này đã không theo.


• Nước Nam ta từ khi Ngô Vương Quyền
đánh đuổi được quân Nam Hán, vua
Đinh Tiên Hoàng dẹp yên được loạn
Thập nhị Sứ quân lập thành một nước tự
chủ, đời nọ qua đời kia kế truyền được
gần 600 năm.
TỪ THỜI NHÀ ĐINH (968) ĐẾN THỜI
NAM TRIỀU - BẮC TRIỀU (1527-1592)


• Đến đầu thế kỷ XVI, bởi vì vua
nhà Lê, bỏ bê việc chính trị - đổ
nát, cho nên trong nước loạn lạc,
nhà Mạc nhân dịp mà làm sự
thoán đoạt ngôi.


NHÀ HẬU LÊ
Thời kỳ phân tranh (1533-1788)

NAM TRIỀU - BẮC TRIỀU
(1527-1592)


Nhà Mạc chuyên quyền
• Từ 1522, thế lực của nhà Lê ngày càng tàn

tạ.
• Thái phó nhân Quốc công Mạc Đăng Dung
tự quyền phế vua Chiêu Tông, lập Lê Xuân
(Cung Hoàng) lên làm vua, sau đó, năm1527
nhận thấy sự bất lực của nhà Lê và “thần dân
trong nước đã theo mình”, ông bức vua Lê
phải nhường ngôi, lập ra nhà Mạc(1527-1592).


• Năm Đinh Hợi (1527) Mạc Đăng Dung
cướp ngôi nhà Lê lên làm vua, đặt niên
hiệu là Minh Đức.
• Mạc Đăng Dung bắt chước lối nhà Trần,
làm vua được 3 năm thì nhường ngôi
cho con là Mạc Đăng Doanh rồi về ở Cổ
Trai Nghi Dương Kinh làm Thái
Thượng Hoàng.


• Tồn tại trong một bối cảnh luôn
luôn bị chống đối của các cựu thần
nhà Lê, nhà Mạc chỉ cố gắng củng
cố mô hình tổ chức chính quyền từ
Trung ương đến địa phương đã khá
hoàn chỉnh từ cuối thế kỷ XV.


NAM TRIỀU - BẮC TRIỀU (1527-1592)
1. Chính trị nhà Mạc


2. Việc nhà Mạc giao thiệp với nhà
Minh
3. Họ Nguyễn khởi nghĩa giúp nhà

4. Quyền về họ Trịnh
5. Trịnh Tùng thống lĩnh binh quyền


NAM TRIỀU - BẮC TRIỀU (1527-1592)

6. Khôi phục thành Thăng long
7. Nhà Mạc mất ngôi
8. Việc nhà Hậu Lê giao thiệp với
nhà Minh
9. Con cháu nhà Mạc ở Cao bằng


Đại Việt
NAM TRIỀU - BẮC TRIỀU (1527-1592)
CN

Từ năm
1527

Đến năm
1592

Triều Mạc
Mạc –– Bắc
Bắc triều

triều
Triều
(từ 1527
1527 đến
đến 1592)
1592)
(từ

Kinh đô

Đông Đô
– Hà Nội


BẮC TRIỀU
Thái Tổ Mạc Đăng Dung (1527-1529)
Niên hiệu: Minh Đức
Thái Tông Mạc Đăng Doanh (1530-1540)
Niên hiệu: Đại Chính


NAM TRIỀU - BẮC TRIỀU (1527-1592)
Chính trị Nhà Mạc

Năm đinh hợi (1527) Mạc Đăng
Dung thoán đoạt ngôi nhà Lê lên
làm vua, đặt niên hiệu là Minh Đức.


• Mạc Đăng Dung bắt chước lối nhà Trần,

làm vua được ba năm thì nhường ngôi
cho con là Mạc Đăng Doanh rồi về ở Cổ
Trai, làm Thái Thượng Hoàng.


Hình rồng chạm trên đá thời Mạc
(1528-1592)


Triều đình nhà Mạc


• Năm canh dần (1530) Mạc Đăng Doanh
lên làm vua, đặt niên hiệu là Đại Chính.
Đăng Doanh tuy làm vua nhưng công
việc trong nước thường do Mạc Đăng
Dung quyết đoán cả.


• Mạc Đăng Doanh làm vua được 10
năm, đến năm canh tý (1540) thì mất,
truyền ngôi lại cho con là Mạc Phúc
Hải.
• Mạc Phúc Hải lên nối ngôi, đổi niên
hiệu là Quảng Hòa.


TIẾP NHÀ MẠC…
• Hiến Tông Mạc Phúc Hải
(1541-1546) Niên hiệu: Quãng hòa



• Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên (1546 1561) Niên hiệu: Vĩnh Định (1547) Cảnh
lịch (1548-1553) Quang bảo (1554-1561).
• Mạc Phúc Nguyên cố đánh lấy Thanh
hóa nhưng không được.
• Mạc Mậu Hợp (1562-1592) Niên hiệu:
Thuần phúc (1562-1565) Sùng khang
(1566-1577) Diên thành (1578-1585)
Đoan thái (1586-1587) Hưng trị (15881590) Hồng ninh (1591-1592)


Mạc Mậu Hợp làm vua được 30 năm.
Sau bị Trịnh Tùng bắt được đem về
chém ở Thăng Long và đem đầu vào
bêu ở Thanh hóa.
Nhà Mạc mất ngôi từ đấy. Nhưng con
cháu được nhờ nhà Minh bênh vực,
còn được giữ đất Cao bằng ba đời nữa.


×