Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG LÃNG PHÍ TRONG bộ máy HÀNH CHÍNH NHÀ nước từ năm 2006 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.91 KB, 109 trang )

"Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phòng, chống tham nhũng, lãng phí
trong bộ máy hành chính nhà nước từ năm 2006 đến năm 2015”
1. Lý do chọn đề tài
Tình trạng TNLP đang là vấn đề bức xúc, gây nhức nhối ở nhiều quốc
gia, nhất là ở các nước kém phát triển và các nước đang phát triển, trong đó
có Việt Nam. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1/1994)
của Đảng đã chỉ rõ tham nhũng là một trong bốn nguy cơ của cách mạng
trong giai đoạn mới. TNLP diễn ra và gây tổn hại nghiêm trọng trên các lĩnh
vực KT-XH, nhất là trong bộ máy nhà nước với các mức độ và hình thức biểu
hiện khác nhau. Bộ máy HCNN là cơ quan công quyền, trực tiếp thể chế hóa,
tổ chức thực thi quyền lực nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong các lĩnh vực đời sống KT-XH; là nơi tập trung các mối quan hệ chính trị
- kinh tế rất nhạy cảm, rất dễ nảy sinh TNLP. Mức độ nguy hại của TNLP đặc
biệt nghiêm trọng: thể chế hóa sai lệch chủ trương, đường lối của Đảng, thực
thi pháp luật không nghiêm, làm tha hóa, biến chất nền công vụ và đội ngũ
CBCCVC; gây tổn thất ngân sách, tài sản của nhà nước, nhân dân; bộ máy tổ
chức và hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả, gây mất ổn định chính trị, xã hội;
“gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một
trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”
[63, tr.12]. TNLP tạo cơ hội cho các thế lực thù địch thực hiện âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” ngay trong nội bộ tổ chức.
Trong thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh cải cách
hành chính gắn với đấu tranh phòng, chống quan liêu, TNLP trong hệ thống
chính trị nói chung, bộ máy HCNN nói riêng, đã đạt được những kết quả quan
trọng: ban hành thể chế, luật pháp về phòng, chống TNLP, cải cách thủ tục
hành chính, tối ưu hóa tổ chức bộ máy, đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ,
công chức; tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành


mạnh cho đội ngũ CBCCVC; thực thi các chế tài xử lý cá nhân, tổ chức để


xảy ra TNLP… Tuy nhiên, công tác phòng, chống TNLP trong bộ máy
HCNN còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế yếu kém: nhận thức, ý thức, trách
nhiệm về phòng, chống TNLP của CBCCVC, nhất là người đứng đầu các tổ
chức, bộ máy còn hạn chế; công tác thanh tra, kiểm tra công vụ chưa chặt chẽ,
xử lý vi phạm chưa nghiêm minh và kịp thời; công tác cải cách HCNN chưa
đạt yêu cầu đề ra, nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà gây phiền hà, sách
nhiễu cho nhân dân, tổ chức, doanh nghiệp; bộ máy HCNN còn cồng kềnh,
nhiều tầng nấc, quan liêu, kém hiệu lực; đội ngũ CBCCVC còn nhiều bất cập,
nhất là về trình độ, năng lực quản lý nhà nước và đạo đức công vụ; tình trạng
lãng phí, thất thoát, quản lý chưa tốt tài sản công, ngân sách nhà nước còn phổ
biến ở nhiều cơ quan HCNN; chưa tạo được sự đồng thuận và phát huy sức
mạnh của các lực lượng vào phòng, chống TNLP… đã hạn chế đến chất
lượng và hiệu quả hoạt động quản lý KT-XH của bộ máy HCNN.
Hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang phát triển
trong bối cảnh toàn cầu hóa, tác động không nhỏ đến hoạt động của bộ máy
HCNN: đối tượng, nội dung, phạm vi quản lý của bộ máy HCNN được tăng
lên cả về tính chất, quy mô, khó khăn, phức tạp… đặt ra yêu cầu phải cải
cách, xây dựng một bộ máy HCNN trong sạch, không quan liêu, TNLP, có đủ
năng lực, hiệu lực quản lý, thúc đẩy KT-XH phát triển. Cùng với việc cải cách
thể chế, tổ chức bộ máy, nhân sự thì việc phòng, chống TNLP trong bộ máy
HCNN đang là một trong những ưu tiên hàng đầu của Đảng, Nhà nước nhằm
xây dựng một nền HCNN trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại,
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu quản lý KT-XH theo cơ chế
thị trường định hướng XHCN và tăng cường hội nhập quốc tế.
Đến nay đã có nhiều công trình ở phạm vi quốc tế và trong nước nghiên
cứu về phòng, chống TNLP trong các lĩnh vực KT-XH, trong bộ máy nhà

2



nước. Tùy theo cách tiếp cận và nghiên cứu về phòng, chống TNLP, có thể
phân thành các nhóm như sau:
Nhóm công trình nghiên cứu về phòng, chống TNLP của nước ngoài:
Kreimer A. (1998), World Bank's Experience with Post - Conflict
Reconstruction, Publishing house Washington, D.C.: The World Bank; Giugale
M.M. (2001), Mexico - A Comprehensive Development Agenda for the New
Era, Publishing house Washington, D.C.: The World Bank. Đây là hai công
trình nghiên cứu, làm rõ thực trạng và tác động của sự lãng phí đối với sự phát
triển bền vững của quốc gia; rút ra kinh nghiệm và đề xuất giải pháp nhằm
khắc phục sự lãng phí, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của quốc gia.
Lý Quang Diệu (2001), Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965 2000, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh; Ngân hàng Thế giới (2002), Kiềm
chế tham nhũng hướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia, Nxb
CTQG, Hà Nội; Ngân hàng Thế giới (2004), Chống tham nhũng ở Đông
Á:Giải pháp từ khu vực kinh tế tư nhân, Nxb CTQG, Hà Nội; Hồng Vĩ
(2004), Các biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc, Nxb CTQG, Hà
Nội. Các công trình trên đã đi sâu luận giải, phân tích làm rõ tác hại của tham
nhũng và vai trò của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đối với sự ổn
định và phát triển của các quốc gia; nêu bật thực trạng chống tham nhũng, làm
rõ các giải pháp chống tham nhũng ở một số quốc gia, góp phần xây dựng,
làm trong sạch bộ máy HCNN.
Công trình là các bài viết của tác giả là người Việt Nam nghiên cứu về
phòng, chống tham nhũng của thế giới như: Bình Phương (5-2005), “Chống
tham nhũng - Cuộc chiến khắp hành tinh”, báo Nhân dân cuối tháng, số 97;
Trần Thái Hà (2014), “Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của Cộng hòa
Phần Lan”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 02; Vũ Thanh Sơn (2014), “Nhận diện
tham nhũng và chống tham nhũng ở Trung Quốc hiện nay”, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 12; Nguyễn Hưng Hà (2016), “Một số kinh nghiệm của Singapo
3



về phòng, chống tham nhũng”, Tạp chí Nội chính, số 32. Các công trình đã làm
rõ tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng; nêu bật
những kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở một số nước trên thế
giới.
Nhóm công trình nghiên cứu về phòng, chống TNLP của Việt Nam:
Những công trình được xuất bản thành sách như: Bùi Minh Thanh
(2005), Đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt
Nam hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Xuân Yêm, Nguyễn
Hòa Bình, Bùi Minh Thanh (Đồng chủ biên - 2007), Phòng chống tham
nhũng ở Việt Nam và thế giới, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Phan Xuân
Sơn, Phạm Thế Lực (Đồng chủ biên - 2008), Nhận diện tham nhũng và các
giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG, Hà
Nội; Thanh tra Chính phủ (2013), Tài liệu tham khảo về phòng, chống tham
nhũng, Nxb CTQG, Hà Nội; Trần Đình Thắng (2011), Đảng Cộng sản Việt
Nam với việc cải cách hành chính nhà nước, Nxb CTQG, Hà Nội; Trần Đình
Thắng (2013), Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức nhà nước, Nxb CTQG, Hà Nội; Trần Đình Thắng (2016), Quá trình
Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển bộ máy hành chính nhà nước, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2016.
Nhóm các công trình trên đã phác họa rõ nét, sinh động bức tranh tổng
thể của TNLP, đặc biệt là vấn đề tham nhũng ở Việt Nam; luận giải những
tác động của TNLP đối với sự ổn định và phát triển của đất nước, trong đó
có tác động tới bộ máy HCNN; đưa ra những cơ sở lý luận và thực tiễn tiến
đấu tranh chống TNLP; phản ánh thực trạng, đánh giá những thành công,
hạn chế và đề ra một số giải pháp để thực hiện có hiệu quả công tác đấu
tranh phòng, chống TNLP ở nước ta hiện nay.
Những công trình luận văn, luận án, đề tài khoa học: Nguyễn Hữu Ngọc
(2008), Hợp tác quốc tế của Việt Nam trong đấu tranh phòng chống tội phạm
4



xuyên quốc gia, Luận văn Thạc sỹ Quan hệ quốc tế, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn Hà Nội; Trần Hồng Nhung (2010), Tham nhũng và phòng
chống tham nhũng thời Nguyễn giai đoạn 1802 -1884, Luận văn Thạc sỹ Lịch
sử Việt Nam, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội; Lê Tuyết Mai
(2011), Vai trò của báo chí trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
Luận văn Thạc sỹ Khoa học chính trị, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Hà Nội; Trần Thị Hồng Trang (2011), Sự lãnh đạo của Đảng trong
đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Chính trị học,
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội; Đỗ Thu Huyền (2014), Phòng,
chống tham nhũng và những vấn đề bảo đảm quyền con người, Luận văn Thạc
sỹ Luật, Đại học Quốc gia, Hà Nội; Đỗ Ngọc Bình (2014), Công tác đặc tình
trại tạm giam phục vụ điều tra vụ án do Cục Cảnh sát Điều tra tội phạm về
tham nhũng thụ lý. Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ Luật, Học viện
Cảnh sát nhân dân, Hà Nội. Những đề tài này đi sâu phân tích làm rõ những tác
hại của TNLP đối với sự ổn định và phát triển của đất nước; trên cơ sở đó đã
đưa ra những giải pháp để phòng, chống có hiệu quả. Đặc biệt có đề tài đã đề
cập đến sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, phân tích và làm sáng tỏ một số chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống TNLP hiện nay.
Các bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí: Phạm Hồng Thái
(2005), “Tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay”,
Tạp chí Quản lý nhà nước, số 115; Phạm Tất Thắng (2006), “Công tác
tổ chức - cán bộ với việc phòng, chống tham nhũng”, Tạp chí Quản lý nhà
nước, số 124; Trần Đăng Vinh (2007), “Một số giải pháp trước mắt nhằm
tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4 (228).
Nguyễn Kim Diện (2008), “Đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực
trong đội ngũ công chức hành chính nhà nước, Tạp chí Tổ chức nhà nước, Số
5



5; Nguyễn Thế Mạnh (2010), “Nhìn lại bốn năm thực hiện Luật phòng, chống
tham nhũng ở Việt Nam”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 170; Lê Hồng Liêm
(2012), “Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát đối với việc phòng, chống
tham nhũng từ Đại hội X đến nay”, Tạp chí Kiểm tra, số 8; Nguyễn Thị
Phượng (2012), “Tham nhũng trong hoạt động công vụ- những vấn đề đặt ra”,
Tạp chí Quản lý nhà nước, số 193; Trần Đình Thắng (2012), “Xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu hoạt động công
vụ”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 1; Trần Đình Thắng (2012), “Vấn đề cải
cách tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số
194; Đinh Ngọc Giang- Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2013), “Đẩy mạnh thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 209; Nguyễn Thị Lê Thu (2013),
“Về pháp luật phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí
Quản lý Nhà nước, số 209; Trần Nam Chuân (2014), “Chống tham nhũng,
lãng phí là góp phần bảo vệ đảng, nhà nước và chế độ ta”, Tạp chí Tổ chức
nhà nước, số 7; Đặng Quang Định (2014), “Lợi ích nhóm với vấn đề chống
tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 02; Huỳnh
Phong Tranh (2014), “Đẩy mạnh công tác thanh tra góp phần phòng ngừa,
phát hiện, xử lý tham nhũng”, Tạp chí Cộng sản, số 866; Nguyễn Lan Anh
(2015), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 295. Các bài báo khoa học nêu trên đã đi sâu
luận giải làm rõ thực trạng vấn đề TNLP cũng như tác hại của TNLP đối với
sự ổn định và phát triển của đất nước. Một số bài viết đã phân tích làm nổi bật
tính cấp thiết của cuộc đấu tranh phòng, chống TNLP với việc nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy HCNN; phản ánh chân thực, sinh động
cuộc đấu tranh phòng, chống TNLP ở Việt Nam hiện nay.
Các công trình khoa học trên đã nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của
TNLP như nhận diện tham nhũng, những ảnh hưởng tiêu cực của TNLP; khẳng

6


định tính cấp thiết của việc đấu tranh phòng, chống TNLP; phản ảnh quá trình
đấu tranh chống TNLP trên từng mặt, từng lĩnh vực ở Việt Nam cũng như một
số nước trên thế giới. Các công trình tuy phong phú, nghiên cứu, đề cập đến
TNLP dưới nhiều mặt, nhiều góc độ khác nhau nhưng chủ yếu ở các góc độ
của khoa học pháp lý, kinh tế học, xã hội học, quản lý nhà nước
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ TRONG BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2015

1.1. Những nhân tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng về phòng,
chống tham nhũng, lãng phí trong bộ máy hành chính nhà nước từ năm
2006 đến năm 2015
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
Thứ nhất, tham nhũng, lãng phí:
Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: CBCCVC; sỹ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ
thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong doanh nghiệp của nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện
phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực hiện
nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Tham nhũng trong bộ máy HCNN: là hành vi của những CBCCVC trong các
cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy HCNN, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi.
Tham nhũng trong bộ máy HCNN được biểu hiện ở những hành vi như:

Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì
7


vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi;
giả mạo trong công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi
người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn
vị hoặc địa phương vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài
sản của Nhà nước vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không thực hiện nhiệm vụ,
công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi
vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra,
thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Lãng phí là việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian lao
động và tài nguyên không hiệu quả. Đối với lĩnh vực đã có định mức, tiêu
chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì lãng phí là
việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước,
lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên vượt định
mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc không đạt mục tiêu đã định.
Tham nhũng và lãng phí có mối quan hệ đan xen, gắn bó chặt chẽ với nhau.
Đây là mối quan hệ phức tạp, khó nhận biết, khó phân biệt rõ ràng và quy trách
nhiệm cụ thể đâu là tham nhũng, đâu là lãng phí, từ đó dẫn đến việc lẫn lộn,
chồng chéo trong việc xử lý các mối quan hệ này. Thường ở đâu có lãng phí thì
ở đó có tham nhũng và ngược lại quy mô lãng phí càng lớn thì mức độ tham
nhũng càng nặng. Lãng phí dường như đang trở thành vỏ bọc che đậy và tạo cơ
hội cho những hành vi tham nhũng; tham nhũng đang trở thành động lực thúc
đẩy lãng phí. Khi các hành vi tham nhũng bị phanh phui thì không ít tổ chức và
cá nhân đã đổ lỗi cho nhau, quy trách nhiệm ở những nguyên nhân khách quan.
Thứ hai, hành chính và bộ máy HCNN:
Hành chính được hiểu theo nghĩa thông thường là: (1) Hoạt động quản

lý chuyên nghiệp của nhà nước đối với xã hội; (2) Tổng thể các cơ quan
hành chính của nhà nước, bao gồm chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
8


quan khác thuộc chính phủ, ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn
thuộc các bộ và ủy ban nhân dân các cấp; (3) Ban giám đốc, ban lãnh đạo
các cơ quan hành chính, sự nghiệp; (4) Cán bộ (nhân viên) điều hành của
cơ quan tổ chức.
Hành chính được hiểu theo nghĩa hẹp là công tác nghiệp vụ như bảo đảm
trật tự an toàn xã hội, hộ tịch, hộ khẩu; các công tác sự vụ bảo đảm hoạt động
thường ngày, trật tự, nền nếp chung trong cơ quan, tổ chức.
Hành chính được hiểu theo nghĩa rộng là nền HCNN (nền hành chính
công, nền hành chính quốc gia) là tổng thể các tổ chức và định chế hoạt động
của bộ máy hành pháp, có trách nhiệm quản lý công việc công hằng ngày của
nhà nước, do các cơ quan có tư cách pháp nhân công quyền tiến hành bằng
các văn bản dưới luật, nhằm thực thi chức năng quản lý của nhà nước, giữ
gìn, bảo vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu hằng ngày của nhân dân trong
quan hệ giữa công dân với nhà nước. Về mặt quản lý, nền HCNN gồm ba bộ
phận chính: thể chế hành chính, tổ chức bộ máy hành chính, nền công vụ.
Bộ máy HCNN được thiết lập để thực thi quyền hành pháp (quyền tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc
phòng và đối ngoại của Nhà nước). Hệ thống các cơ quan nhà nước đứng đầu
là Chính phủ, thực hiện quyền hành pháp được gọi là bộ máy HCNN. Bộ máy
HCNN là hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước được thành lập, tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật để thực hiện quyền lực nhà nước, có
chức năng quản lý HCNN trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bộ
máy HCNN là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước.
Đội ngũ CBCCVC của nền HCNN bao gồm những người được tuyển
dụng, bổ nhiệm, bầu cử vào làm việc trong biên chế chính thức của bộ máy

HCNN; được xếp vào một ngạch, bậc trong hệ thống ngạch, bậc công chức
nhà nước và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

9


Thứ ba, quan niệm về phòng, chống TNLP
Phòng ngừa TNLP là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội, của toàn thể cộng đồng và mọi công dân bằng nhiều biện pháp phát
hiện, khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng TNLP nhằm ngăn
chặn, hạn chế nguy cơ nảy sinh TNLP, giảm từng bước, tiến tới đẩy lùi TNLP.
Đấu tranh chống TNLP là hoạt động tổ chức lực lượng, sử dụng các biện
pháp, phương tiện cần thiết và có thể, nhằm phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh
ngăn chặn và xử lý các hành vi TNLP. Đấu tranh chống TNLP là nhiệm vụ quan
trọng, lâu dài, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sự tham gia của toàn xã hội. Đối tượng của
công tác đấu tranh chống TNLP là các cá nhân có hành vi TNLP. Chủ thể đấu
tranh chống TNLP là mọi công dân thuộc các tầng lớp xã hội, các cơ quan, tổ
chức chính trị, KT-XH, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối của các cấp ủy Đảng,
trong đó các cơ quan chức năng về phòng, chống TNLP giữ vai trò nòng cốt.
Phòng ngừa và đấu tranh chống TNLP có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ
với nhau, trong đó phòng ngừa là phương hướng chính, là tư tưởng chỉ đạo
trong công tác đấu tranh phòng, chống TNLP; góp phần ngăn ngừa từ gốc
nguyên nhân, điều kiện nảy sinh TNLP. Làm tốt công tác phòng ngừa là cơ sở
để chủ động đấu tranh chống TNLP có hiệu quả. Đẩy mạnh đấu tranh chống
TNLP góp phần phòng ngừa, hạn chế TNLP.
1.1.2. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong bộ máy hành chính nhà nước
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn quan tâm tới công
tác phòng, chống TNLP trong bộ máy HCNN. C.Mác đã chỉ rõ: Nguồn gốc

của tham nhũng là do sự tha hóa lao động, tha hóa quyền lực trong bộ máy
của giai cấp tư sản. Biện pháp chủ yếu để chống tham nhũng là khắc phục sự
tha hóa đó bằng việc cải tạo lại xã hội theo nguyên tắc của chủ nghĩa cộng

10


sản trong đó có xóa bỏ nhà nước của giai cấp áp bức bóc lột, xây dựng nhà
nước kiểu mới của giai cấp vô sản.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng nhà nước XHCN Xô viết công nông,
V.I.Lênin rất chú trọng đến phòng, chống TNLP, đặc biệt là vấn đề thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí, Người yêu cầu phải “thực hành tiết kiệm nghiêm
ngặt” [79, tr.458], “phải thực hành tiết kiệm tột mức trong bộ máy nhà nước
của chúng ta” [79, tr.458]. Người chỉ dẫn, “nhờ một sự tiết kiệm nghiêm ngặt
nhất trong việc quản lý nhà nước của chúng ta, chúng ta sẽ có thể dùng cả đến
món tiền tiết kiệm nhỏ nhất để phát triển đại công nghiệp cơ khí của chúng ta,
để phát triển việc điện khí hóa” [79, tr.459].
Từ những năm đầu xây dựng chính quyền Xô viết non trẻ, V.I.Lênin đã
chỉ ra nguy cơ tham nhũng và coi đó là một căn bệnh của bộ máy nhà nước.
Người cảnh báo: Khi đã có chính quyền, hầu hết các chức quyền trong bộ
máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở đều do những người cộng sản đảm
nhiệm, Đảng cộng sản trở thành đảng cầm quyền thì khi ấy những người cộng
sản đứng trước ba kẻ thù chính: “kẻ thù thứ nhất - tính kiêu ngạo cộng sản
chủ nghĩa; kẻ thù thứ hai - nạn mù chữ; kẻ thù thứ ba - nạn hối lộ” [77,
tr.217]. Lênin gọi nạn hối lộ là một trong ba kẻ thù chính những người cộng
sản, nạn hối lộ gây ra những hệ lụy làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tư cách
người cộng sản và đến kết quả của cách mạng “nếu còn có thể hối lộ được, thì
cũng không thể nói đến chính trị được” [77, tr.218]. Theo Người, nạn hối lộ
sẽ gây ra những tác hại nghiêm trọng, làm méo mó các đạo luật, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chính trị: “Một đạo luật chỉ có thể đưa đến kết quả xấu hơn,

nếu trên thực tiễn nó được đem áp dụng trong điều kiện nạn hối lộ còn được
dung thứ và đang thịnh hành” [77, tr.218]. Người cảnh báo bệnh quan liêu,
tham nhũng và nạn hối lộ sẽ tiêu hủy sự nghiệp của những người cộng sản.

11


Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, xây dựng bộ máy
Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nghiêm khắc phê phán, đồng
thời quyết tâm phòng chống TNLP. Người coi đó là những “căn bệnh nguy
hiểm”, là “giặc nội xâm”, là “tội ác”, gây thiệt hại không chỉ về kinh tế, vật
chất mà còn về mặt tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, làm suy yếu Đảng.
Người luôn chú ý đến việc giáo dục cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần
thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí.
Về thực hành tiết kiệm, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: tiết kiệm là “không xa
xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” [74, tr.122]. Không hoang phí theo cách
nói của Người có nghĩa là không lãng phí. Lãng phí được Người chỉ rõ là tiêu
dùng bừa bãi, tập trung vào ba loại: lãng phí sức lao động, lãng phí thời gian,
lãng phí tiền của của nhân dân, của đất nước. Theo Người, tiết kiệm là sử
dụng hợp lý và có hiệu quả tiền của, thời gian, công sức lao động của nhân
dân trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Giữa thực hành tiết
kiệm và chống lãng phí có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Không
hoang phí nhằm mục đích thực hành tiết kiệm, muốn thực hành tiết kiệm thì
phải “không hoang phí”. Người yêu cầu tất cả mọi người đều phải tiết kiệm,
nhất là cán bộ ở các cơ quan, các đơn vị bộ đội, các nhà máy, xí nghiệp, bởi vì
theo Người “nếu ta khéo tiết kiệm sức người, tiền của và thời giờ, thì với sức
lao động, tiền tài của nước ta hiện nay, ta có thể gia tăng sản xuất gấp bội mà
lực lượng của ta về mọi mặt cũng tăng gấp bội” [75, tr.354].
Đi đôi với thực hành tiết kiệm là chống tham ô, lãng phí. Chủ tịch Hồ
Chí Minh phân tích: “Có tiết kiệm, không hoang phí xa xỉ, thì mới giữ được

liêm khiết, trong sạch. Nếu hoang phí, xa xỉ, thì ắt phải tìm cách xoay tiền. Do
đó mà sinh ra hủ bại, nhũng lạm, giả dối” [73, tr.241]. Tham ô trong bộ máy
Đảng, Nhà nước được Người chỉ rõ: tham ô là ăn cắp của công làm của tư;
đục khoét của nhân dân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của
chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình.
12


Người chỉ rõ nguyên nhân chủ quan của bệnh tham ô, lãng phí là thuộc về bản
thân cán bộ, đảng viên, công chức. Đó là những cán bộ mang nặng chủ nghĩa
cá nhân, đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích chung, tham danh trục lợi, tham tiền
của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên; cậy quyền thế mà
đục khoét dân, ăn của đút, hoặc ăn trộm của công làm của tư… Những bệnh
này được Hồ Chí Minh diễn đạt bằng thuật ngữ “bất liêm”. Theo Hồ Chí
Minh, “liêm” là trong sạch, không tham lam, người “biết liêm” là người biết
giữ bản thân trong sạch, không tham lam. Người nghiêm khắc cảnh báo, “ai
không phạm phải những lỗi lầm trên này, thì nên chú ý tránh đi và gắng sức
cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những sai lầm trên này, thì phải hết sức sửa
chữa; nếu không tự sửa chữa, thì Chính phủ sẽ không khoan dung”[72, tr.66].
Theo Người, cả tham ô và lãng phí đều rất có hại cho bộ máy Đảng, Nhà
nước, Người đặc biệt nhấn mạnh tác hại của lãng phí, “Có khi tai hại hơn nạn
tham ô” [75, tr.357], bởi vì lãng phí rất phổ biến, không chỉ là sự tiêu tốn tiền
của, mồ hôi, nước mắt của nhân dân, mà nguy hiểm hơn, từ lãng phí sẽ dẫn
đến tham ô, nhũng nhiễu, làm mất tư cách đạo đức của người cán bộ, đảng
viên, làm suy yếu bộ máy HCNN, gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân,
ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy,
Người đặc biệt chú trọng đấu tranh chống tham ô, lãng phí, trong đó nhấn
mạnh quyết tâm “kiên quyết chống nạn lãng phí” [75, tr.367].
1.1.3. Thực trạng tham nhũng, lãng phí và công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí trong bộ máy hành chính nhà nước trước năm 2006

* Thực trạng TNLP trong bộ máy HCNN ở Việt Nam trước năm 2006.
Trước năm 2006, tình trạng TNLP trong bộ máy HCNN đã diễn ra
nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là lòng tin,
sự tín nhiệm của người dân đối với Đảng, Nhà nước. TNLP hầu như có mặt ở
mọi ngành, mọi cấp trong bộ máy nhà nước, CBCCVC có chức, có quyền
nhưng kém về phẩm chất, đạo đức đều có thể lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
13


thực hiện thành vi TNLP nhằm trục lợi bất chính. TNLP xảy ra ở hầu hết các
lĩnh vực hoạt động của đời sống KT-XH, trong đó phổ biến ở các lĩnh vực:
Lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản: Là lĩnh vực TNLP xảy ra phổ biến
nhất với tần suất nhiều nhất, số tài sản bị thất thoát lớn nhất, gây thiệt hại
nghiêm trọng tài sản của Nhà nước. TNLP xảy ra ở tất cả các khâu, từ việc lập
và chạy dự án, thiết kế, dự toán, duyệt kế hoạch, cấp vốn đến đấu thầu, tư vấn,
giám sát, nghiệm thu, thanh toán công trình… với các thủ đoạn như gian lận
trong đấu thầu, khai khống giá trị vật tư, thiết bị; đưa vật liệu kém chất lượng
vào công trình; thi công sai quy trình để giảm chi phí; hợp lý hóa bằng chứng
từ giả, chứng từ khống. Theo kết quả của cơ quan điều tra cho thấy, tỷ lệ thất
thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản trung bình từ 10% đến 25% [26, tr.37].
Lĩnh vực quản lý đất đai: TNLP được biểu hiện ở việc CBCCVC các cấp
lợi dụng quyền hạn, tham ô, trục lợi từ đất bằng những hình thức, biện pháp
như: tự ý giao, cấp đất trái thẩm quyền, mua bán, chuyển nhượng đất trái
phép, lấn chiếm đất công; lợi dụng việc đền bù giải phóng mặt bằng, lấy đất
của dân, áp giá đền bù thấp để chiếm dụng, chia chác cho nhau nhằm thu lợi
trái phép, vụ lợi cho cá nhân hay tập thể những người có chức, có quyền….
Một số cơ quan, đơn vị được giao đất, thuê đất nhưng không sử dụng hoặc sử
dụng không đúng mục đích, gây lãng phí và bức xúc trong dư luận xã hội.
Lĩnh vực quản lý tài chính, ngân sách và quản lý tài sản công: TNLP được
biểu ở việc vi phạm các nguyên tắc quản lý tài chính, ngân sách để trục lợi như

chi tiêu tiền của cơ quan, đơn vị tùy tiện; thu tiền không nhập quỹ, không vào
sổ sách; làm khống chứng từ rút tiền để chia nhau; cố ý làm trái các quy định
của nhà nước như đặt ra các loại quỹ, các mức đóng góp; khai tăng giá khi mua
sắm, sửa chữa trang thiết bị để hưởng hoa hồng, lại quả…. Ví dụ vụ Nguyễn Văn
Trung, kế toán, Trưởng phòng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Long Mỹ, tỉnh
Hậu Giang, từ tháng 8/1996 đến hết năm 2002 đã lập chứng từ khống chiếm đoạt

14


8,37 tỷ đồng; hành vi gian dối sổ sách, khống hóa đơn chứng từ, chiếm đoạt hàng
trăm tỷ đồng trong đề án tin học hóa quản lý HCNN (Đề án 112)…[94, tr.85].
Lĩnh vực tín dụng, ngân hàng: TNLP được biểu hiện ở việc cố ý làm trái
các quy định về quản lý kinh tế của ngân hàng, không tuân thủ những quy
định có tính nguyên tắc về thế chấp, thẩm định tài sản thế chấp, các quy định
về thủ tục cho vay, mức cho vay; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây khó khăn,
vòi vĩnh tiền bồi dưỡng trong duyệt chi, cấp vốn; thông đồng, với khách hàng
hợp thức hóa những tài liệu, luồn lách qua những kẽ hở của pháp luật để vay
được vốn sau đó lừa đảo... Điển hình là vụ án Minh Phụng - Epco, cán bộ
ngân hàng thông đồng với cán bộ doanh nghiệp làm thất thoát trên 5000 tỷ
đồng; vụ ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Bình, có 4
cán bộ móc nối với khách làm hồ sơ giả, chiếm đoạt 6,5 tỷ đồng [94, tr.87].
TNLP về cơ chế, chính sách, hành chính: Là những hành vi hối lộ (đem
lại lợi ích) cho những người có vai trò chuẩn bị hay quyết định cơ chế, chính
sách của Nhà nước theo hướng thiên vị cho lợi ích cục bộ của một hay nhiều
nhóm xã hội nhất định. Mô hình quản lý hành chính của nước ta bộc lộ nhiều
khuyết tật, chậm được đổi mới: bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng, nấc, mang
nặng chủ nghĩa quan liêu, cách làm việc thiếu dân chủ, công khai và minh
bạch… là những kẻ hở làm nảy sinh tình trạng TNLP.
Trong công tác tổ chức, cán bộ: TNLP được biểu hiện ở việc “chạy chức,

chạy quyền”, “kinh doanh quyền lực”. Không ít CBCCVC, nhất là những
người kém về phẩm chất, yếu về năng lực chuyên môn đã dùng tiền và các
loại vật chất khác để “mua quan, bán chức”, sau khi đã có chức vị, họ thường
tranh thủ khai thác tối đa những lợi ích kinh tế, chính trị mà chức vụ có thể
mang lại trong nhiệm kỳ của mình để “hoàn vốn” và có lãi. Những người có
phẩm chất và năng lực chuyên môn tốt nếu không “chạy”, không có “quan hệ”
sẽ khó có thể được tiếp nhận vào làm việc trong bộ máy Đảng, Nhà nước.

15


Trong tổ chức các buổi lễ kỷ niệm, mít tinh, liên hoan, tiếp khách: Hàng
năm, nước ta có hàng trăm các ngày lễ kỷ niệm, các sự kiện chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội…, việc tổ chức các ngày lễ kỷ niệm, các hoạt động là cần
thiết, phù hợp với truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, song không ít
người, trong đó có cả những CBCCVC có chức, có quyền lợi dụng các hoạt
động tổ chức lễ kỷ niệm, mít tinh, liên hoan, tiếp khách… để trục lợi, tư hữu
cá nhân. Số lượng tiền của và công sức của nhà nước, nhân dân bị TNLP trên
lĩnh vực này cũng không hề nhỏ, gây ra nhiều bức xúc trong nhân dân, ảnh
hưởng tiêu cực đến ý nghĩa, giá trị trang trọng của các buổi lễ kỷ niệm.
Trên đây là một số lĩnh vực cơ bản minh chứng cho thực trạng tình hình
TNLP trong bộ máy HCNN ở nước ta. Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch
Quốc tế (Transparency International - TI) - một tổ chức phi chính phủ nghiên
cứu về vấn đề tham nhũng, sự trong sạch của bộ máy chính quyền ở các nước
trên thế giới, tình trạng tham nhũng ở Việt Nam trước năm 2006 ở mức độ
nghiêm trọng. Tổ chức Minh bạch Quốc tế đưa ra chỉ số nhận thức tham
nhũng (Corruption Perceptions Index - CPI). Điểm số CPI được xếp từ 0 đến
10, theo đó điểm 0 phản ánh tham nhũng ở mức cực kỳ trầm trọng, điểm 10
phản ánh tham nhũng ở mức cực thấp (cực kỳ trong sạch); điểm số từ 0 đến
10 mô tả mức độ trong sạch tăng dần. Việt Nam được đưa vào xếp hạng theo

chỉ số này từ năm 1997.
Qua bảng xếp hạng CPI hàng năm, thấy rõ vị trí của Việt Nam là tương
đối kém so với thế giới và khu vực. Từ năm 1997 đến năm 2006, điểm số của
Việt Nam không được cải thiện, luôn dao động từ 2.4 đến 2.7 (các quốc gia có
điểm số dưới 3 được đánh giá là mức độ tham nhũng nghiêm trọng). Bảng
xếp hạng cho thấy Đảng, Nhà nước đã nỗ lực chống tham nhũng nhưng kết
quả chưa tiến triển, xếp hạng của Việt Nam qua các năm đều rất thấp và chậm

16


tiến bộ. Những nỗ lực chống tham nhũng và tăng cường tính minh bạch của
Việt Nam chưa đủ mạnh và chưa mang lại những bước đột phá cần thiết.
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, tham nhũng sinh ra do ba nguyên
nhân chính: Độc quyền, bưng bít thông tin và trách nhiệm giải trình yếu. Đây
cũng là ba nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham nhũng ở nhiều nước trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Ngoài những nguyên nhân đó, TNLP trong bộ
máy HCNN ở Việt Nam còn do một số nguyên nhân khác như:
Thứ nhất, cơ chế, chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ,
còn nhiều sơ hở, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung.
Thứ hai, tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nói chung, của bộ
máy nhà nước nói riêng còn nhiều khuyết điểm, chất lượng và hiệu quả chưa
cao; cải cách hành chính còn chậm và lúng túng.
Thứ ba, sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số tổ chức đảng, chính quyền đối
với công tác phòng, chống TNLP chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; xử lý
vi phạm chưa nghiêm.
Thứ tư, công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục CBCCVC nói
riêng còn yếu kém. Một bộ phận không nhỏ CBCCVC, trong đó có cả cán bộ
lãnh đạo, quản lý suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống.
Thứ năm, chưa quan tâm đúng mức đến việc huy động nhân dân cũng

như sự tham gia của lực lượng báo chí vào cuộc đấu tranh chống TNLP. Đây
chính là nguyên nhân cơ bản của việc bưng bít thông tin, thiếu minh bạch, dẫn
đến tình trạng bùng phát của tệ nạn TNLP.
* Công tác phòng, chống TNLP trong bộ máy HCNN trước năm 2006
Nhận thức rõ tính nghiêm trọng và sự nguy hại của TNLP, Đảng và Nhà
nước đã tỏ rõ quyết tâm chính trị phòng, chống TNLP. Đại hội VIII của Đảng
nhấn mạnh: “Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn với đấu tranh chống buôn
lậu, lãng phí, quan liêu”[60, tr.133]. Đại hội IX khẳng định quyết tâm “đẩy

17


mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ
thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ trung ương đến cơ sở. Gắn chống
tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các hành
vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính”[61, tr.135 - 136].
Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn kiện để lãnh đạo, chỉ đạo công
tác phòng, chống TNLP như: Chỉ thị số 15/CT-TW ngày 20 tháng 11 năm
1992 của Bộ Chính trị Về việc tiếp tục ngăn chặn và bài trừ tệ tham nhũng,
buôn lậu; Nghị quyết số 14- NQ/TW ngày 15 tháng 5 năm 1996 của Bộ
Chính trị về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ đã cụ thể hóa chủ trương của Đảng và ban hành các văn bản
về phòng, chống TNLP: Quyết định số 240-HĐBT ngày 16 tháng 6 năm 1990
của Chính phủ (lúc đó là Hội đồng Bộ trưởng) Về đấu tranh chống tham
nhũng; Chỉ thị số 171-TTg ngày 16 tháng 12 năm 1992 của Thủ tướng Chính
phủ Về việc chống tham nhũng, lãng phí và thất thoát trong xây dựng cơ bản;
Chỉ thị số 701-TTg ngày 23 tháng 11 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ Về
sơ kết công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng,
chống buôn lậu; Nghị định số 38/1998/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 1998 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống

lãng phí; Chỉ thị số 29/2001/CT-TTg ngày 30 tháng 11 năm 2001 của Thủ
tướng Chính phủ Về việc đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí… Ủy
ban Thường vụ Quốc hội cũng ban hành các pháp lệnh về phòng, chống
TNLP như: Pháp lệnh số 2-L/CTN ngày 26 tháng 2 năm 1998 về việc thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí; Pháp lệnh số 22/2000/PL-UBTVQH10 ngày
28 tháng 4 năm 2000 Về sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh chống
tham nhũng. Nội dung của các Pháp lệnh tập trung chủ yếu vào việc “chống”
TNLP trên cơ sở các quy định về trừng trị, xử lý tội phạm và tài sản TNLP.
Thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Nhà nước về đấu tranh
phòng, chống TNLP, các ngành, các cấp đã có cố gắng và đạt được một số kết
18


quả: đã phát hiện và xử lý được một số vụ TNLP, trừng trị những kẻ đục khoét
tài sản của Nhà nước, tập thể và của nhân dân; thu hồi lại cho Nhà nước và trả
lại cho dân một số tài sản đã bị bọn TNLP chiếm dụng. “Chỉ tính từ năm 1993
đến năm 1996, đã phát hiện 4.903 vụ việc có dấu hiệu tham nhũng với số tiền
và tài sản bị thiệt hại trị giá 1.222 tỷ 708 triệu đồng và 34,1 triệu USD. Trong
số 6.520 bị can đã bị khởi tố điều tra về tội tham nhũng, buôn lậu có 322 người
giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý từ trưởng, phó phòng cấp huyện và tương đương
trở lên” [94, tr.160 - 161]. Đặc biệt, đã xử lý được nhiều vụ án tham nhũng
nghiêm trọng, phức tạp như vụ Tân Trường Sanh, Epco - Minh Phụng, vụ Lã
Thị Kim Oanh, vụ Lương Cao Khải ở Thanh tra Chính phủ… Kết quả đó đã
củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của bộ máy
Nhà nước; góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, phát
triển KT-XH. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh, phòng, chống TNLP vẫn còn nhiều
hạn chế, giữa quyết tâm chính trị với việc tổ chức triển khai thực hiện còn
khoảng cách lớn; công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống TNLP chưa
sâu rộng; tình trạng sa sút phẩm chất, nhũng nhiễu, gây phiền hà của một bộ
phận cán bộ, công chức trong thi hành công vụ chậm được khắc phục; hiện

tượng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “lên chức nhanh” chưa được
quan tâm chỉ đạo làm rõ; công tác tự kiểm tra phát hiện vẫn là khâu yếu, việc
xử lý có nhiều khó khăn; các hành vi tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp
hơn. Một số vụ án TNLP được phát hiện, xử lý chậm, kéo dài, khó khăn lớn
cho việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm cũng như thu hồi tài sản bị
chiếm đoạt, gây tâm lý hoài nghi trong nhân dân về tính nghiêm minh của pháp
luật. Ví dụ vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn, tham ô, cố ý làm trái xảy ra tại Ban
điều hành Đề án 112 của Chính phủ xảy ra từ năm 2001 đến năm 2005 nhưng
năm 2007 mới bị phát hiện; vụ tham ô, cố ý làm trái xảy ra tại Tổng Công ty Vật
tư nông nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xảy ra từ năm 2002
nhưng đến năm 2007 mới bị phát hiện [26, tr.43]. Trước thực trạng đó, cần đẩy
19


mạnh đấu tranh phòng, chống TNLP trong bộ máy HCNN, góp phần làm trong
sạch bộ máy, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của nền HCNN.
1.1.4. Yêu cầu xây dựng bộ máy hành chính nhà nước trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả
Bước vào thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán
và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cơ sở kinh tế thay
đổi, phát triển, đòi hỏi phải có một khuôn khổ thể chế pháp lý tương ứng.
Khi mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường thay đổi, đòi hỏi vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, đặc biệt là nền hành chính đối với nền
kinh tế phải được đổi mới. Trong nền hành chính nhà nước, tổ chức bộ máy
HCNN là bộ phận trọng yếu, phải được cải cách, xây dựng trong sạch, vững
mạnh nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý KT-XH.
Bộ máy HCNN có vai trò quan trọng trong tổ chức, quản lý và điều hành
các quá trình phát triển KT-XH của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cải

cách, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy HCNN là trực tiếp góp phần
xây dựng nền HCNN trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Trước yêu cầu của thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội
nhập quốc tế, bộ máy HCNN phải được xây dựng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Hiện nay bộ máy HCNN ta bộc lộ
nhiều khuyết tật lại chậm được cải cách, đổi mới như: bộ máy còn mang nặng
chủ nghĩa quan liêu, cách làm việc thiếu dân chủ, công khai và minh bạch;
cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều cấp quyền lực, nhiều cấp trung gian; việc
phân cấp quản lý không rõ ràng, nhiều quy định chồng chéo, mâu thuẫn khó
thực thiện; thiếu các thể chế, quy phạm hành chính cần thiết, thiếu cơ chế
kiểm soát chất lượng cung cấp các dịch vụ công. Quản lý, sử dụng chưa chặt
chẽ, chưa hiệu quả, minh bạch trong chính sách chi tiêu của Chính phủ, thiếu
20


dân chủ trong trách nhiệm giải trình, còn để thất thoát, lãng phí nhiều ngân
sách nhà nước, tài sản công. Cải cách hành chính còn chậm và lúng túng, cơ
chế xin - cho vẫn phổ biến; thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp lý,
tạo kẽ hở cho sự sách nhiễu, vòi vĩnh, ăn hối lộ… Đây là những kẽ hở đang tạo
ra những điều kiện, cơ hội cho TNLP tồn tại và phát triển. TNLP đã và đang
tác động tiêu cực đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy HCNN.
Hiện nay, KT-XH Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ
theo cơ chế thị trường định hướng XHCN trong bối cảnh toàn cầu hóa, dẫn
đến sự gia tăng, phức tạp hóa các quan hệ KT-XH và đối tượng quản lý của
bộ máy HCNN; đồng thời cũng gia tăng những mặt tiêu cực trong bộ máy
HCNN, nhất là tệ quan liêu, TNLP. Để quản lý, thúc đẩy phát triển KT-XH
theo cơ chế thị trường định hướng XHCN thì bộ máy HCNN phải được đẩy
mạnh cải cách, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, tăng cường năng
lực quản lý nhà nước trên cơ sở hệ thống thể chế đồng bộ, hoàn thiện, có bộ
máy tinh gọn, đa năng với đội ngũ CBCCVC có đủ phẩm chất năng lực, một

nền công vụ trong sạch, vững mạnh, không quan liêu, TNLP.
Kinh nghiệm về phòng, chống TNLP, xây dựng bộ máy HCNN của một
số nước trên thế giới cho thấy: Ở Mỹ và Tây Âu, việc chống lạm quyền nói
chung và chống TNLP nói riêng được chú trọng. Bộ máy HCNN được thiết kế
trên cơ sở kiềm chế, đối trọng về quyền lực; tạo ra cơ chế độc lập giữa các cơ
quan tư pháp; thiết lập nền đạo đức công vụ, xây dựng nền công vụ mẫu mực
về tính trong sạch và thái độ phục vụ của công chức. Ở Singapore, các nhà lãnh
đạo, nhất là những lãnh đạo cấp cao luôn thể hiện rõ quyết tâm chính trị trong
đấu tranh chống tham nhũng, nhằm xây dựng bộ máy hành chính trong sạch,
vững mạnh. Ở Trung Quốc, công tác phòng, chống tham nhũng trong bộ máy
HCNN được quan tâm đặc biệt, các biện pháp phòng, chống tham nhũng tập
trung vào kiện toàn, tăng cường sức mạnh cho ủy ban kiểm tra kỷ luật đảng, cơ
quan tư pháp; thành lập các tòa án xét xử lưu động độc lập với các tòa án của
21


các bộ, ngành, địa phương; cung cấp thông tin và triệt để phối hợp, sử dụng
công cụ tố cáo của nhân dân. Ở Nhật Bản, luôn coi trọng xây dựng một bộ máy
HCNN làm việc trọng danh dự, liêm khiết, trong sạch, phục vụ nhân dân, gắn
với hoàn thiện thể chế thống nhất, minh bạch hóa trong tổ chức và hoạt động
bộ máy hành chính. Thường xuyên chú trọng giáo dục ý thức, trách nhiệm và
đạo đức công vụ cho CBCCVC nhà nước. Khi các quan chức nhận hối lộ, gây
lãng phí, thất thoát tài sản công, thì ngoài việc xét xử hành chính, hình sự, yêu
cầu phải tịch thu bằng được số tài sản được hối lộ. Những kinh nghiệm phòng,
chống TNLP của một số nước nêu trên có thể giúp cho Việt Nam tham khảo,
vận dụng vào quá trình đấu tranh, phòng, chống TNLP trong bộ máy HCNN.
1.2. Chủ trương của Đảng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí
trong bộ máy hành chính nhà nước từ năm 2006 đến năm 2015
Đấu tranh phòng, chống TNLP là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác
xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị

và toàn xã hội. Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống TNLP là đòi hỏi
bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước nhằm xây
dựng bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một
trong những nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ đấu tranh phòng,
chống TNLP là vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực, quyết tâm
cao, “Toàn Đảng, toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội phải có quyết tâm
chính trị cao đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí”[62, tr.128]. Đại hội đề ra
chủ trương: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng
phí”[62, tr.128], “Thực hiện đồng bộ, kiên quyết các giải pháp để phòng,
chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước” [62, tr.255], trong đó nhấn mạnh:
“Phải kiên trì thực hiện tốt vừa xây, vừa chống trong phòng và chống tham
nhũng; xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những CBCCVC tham nhũng”
[62, tr.255]; tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật về phòng, chống tham
22


nhũng; cải cách mạnh thủ tục hành chính, tiếp tục đổi mới chế độ tiền lương
đối với cán bộ, công chức; có quy định về kiểm soát, giám sát thu nhập của
cán bộ, công chức. “Xử lý nghiêm minh, kịp thời, công khai cán bộ, công
chức tham nhũng, không phân biệt chức vụ và địa vị xã hội còn đương chức
hay đã nghỉ việc” [62, tr.256]. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những
người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; đồng thời xử lý nghiêm
những người bao che tham nhũng, ngăn cản việc chống tham nhũng. Đẩy
mạnh hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Hội nghị lần
thứ ba BCHTW Đảng khóa X đã ra Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21 tháng
8 năm 2006, Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí. Đây là Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của
BCHTW Đảng đề cập một cách toàn diện, tập trung về công tác phòng, chống

TNLP. Nghị quyết HNTW đưa ra những nhận định, đánh giá về công tác
phòng, chống TNLP; chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu của những thiếu sót,
khuyết điểm trong phòng, chống TNLP; đề ra những mục tiêu, quan điểm chỉ
đạo, nhiệm vụ và giải pháp của công tác phòng, chống TNLP, cụ thể:
Mục tiêu:
“Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển
biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; củng cố
lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội
ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính” [63, tr.13 - 14]. Đây là mục tiêu
tổng quát của công tác phòng, chống TNLP, thực hiện được mục tiêu này sẽ
góp phần quan trọng xây dựng bộ máy HCNN trong sạch, vững mạnh.
Quan điểm:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác phòng, chống TNLP; phát huy
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng
bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức hành chính, kinh tế, hình sự.
23


Thứ hai, phòng, chống TNLP phải phục vụ nhiệm vụ phát triển KT-XH,
giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng cố hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Thứ ba, vừa tích cực, chủ động phòng ngừa vừa kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, trong đó phòng ngừa là chính. Gắn phòng, chống TNLP
với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy dân chủ, thực hành tiết kiệm, chống
chủ nghĩa cá nhân, chống quan liêu.
Thứ tư, phòng, chống TNLP là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài; phải
tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực
và có trọng tâm, trọng điểm.
Thứ năm, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chú trọng tổng kết
thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài.

Giải pháp: Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý
thức trách nhiệm của CBCCVC và nhân dân về công tác phòng, chống TNLP;
Nâng cao tính tiên phong, gương mẫu của tổ chức đảng và đảng viên, tăng
cường vai trò của chi bộ trong quản lý, giáo dục đảng viên; Tiếp tục hoàn thiện
công tác cán bộ phục vụ phòng, chống TNLP; Bảo đảm công khai, minh bạch
trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị; Tiếp tục hoàn thiện cơ chế,
chính sách về quản lý KT-XH; Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm
tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử hành vi tham nhũng; Thực
hiện tốt công tác truyền thông về phòng, chống TNLP; Xây dựng các cơ quan,
đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng; Tăng cường giám sát của
nhân dân và cơ quan dân cử; Chủ động tham gia các chương trình, sáng kiến,
diễn đàn quốc tế về phòng, chống tham nhũng phù hợp với điều kiện Việt
Nam.
Nghị quyết HNTW 3 (khóa X) đã đánh dấu sự phát triển rõ rệt trong
nhận thức, chủ trương của Đảng về công tác phòng, chống TNLP trong bộ
máy HCNN. Lần đầu tiên Đảng ra nghị quyết chuyên đề, xác định rõ mục
24


tiêu, quan điểm, giải pháp phòng, chống TNLP. Chủ trương của Đảng về
phòng, chống TNLP đã tạo cơ sở, động lực thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh
phòng, chống TNLP trong bộ máy Đảng, Nhà nước. Điều đó đã khẳng định rõ
hơn quyết tâm chính trị của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống TNLP
nói chung, phòng chống TNLP trong bộ máy HCNN nói riêng.
Ngày 02 tháng 02 năm 2009, BCHTW (khóa X) ra Nghị quyết số 31NQ/TW Về một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng, chủ trương đẩy mạnh cải
cách hành chính; phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí. Đối với công tác phòng, chống TNLP trong bộ máy HCNN, Nghị quyết
nhấn mạnh: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá X về
phòng, chống TNLP; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực hành tiết kiệm,

phòng, chống TNLP, quan liêu. Tập trung rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế,
chính sách; thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước về phòng,
chống TNLP. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát;
phối hợp thật tốt giữa các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát,
nhất là khi giải quyết các trường hợp có dấu hiệu TNLP. Kiên quyết xử lý
nghiêm kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật các vụ việc
tham nhũng, tịch thu tài sản tham nhũng. Kiện toàn hệ thống các cơ quan
chuyên trách về phòng, chống tham nhũng. Phát huy vai trò của nhân dân, các
tổ chức chính trị - xã hội, của báo chí trong đấu tranh phòng, chống TNLP,
quan liêu; có chính sách bảo vệ người dũng cảm đấu tranh chống TNLP.
Ngày 22 tháng 7 năm 2010, BCHTW ban hành Chỉ thị Số 45-CT/TW Về
đổi mới, nâng cao hiệu quả tổ chức các ngày kỷ niệm, nghi thức trao tặng,
đón nhận danh hiệu vinh dự Nhà nước và các hình thức khen thưởng cao. Chỉ
thị chỉ rõ: Trong những năm qua, việc tổ chức các ngày kỷ niệm, trao tặng,
đón nhận danh hiệu vinh dự Nhà nước và các hình thức khen thưởng cao được
các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị thực hiện trang trọng, nghiêm túc, góp
25


×