Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh thông qua dạy học chương i sinh học 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.21 KB, 95 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi gặp không ít những khó khăn
nhưng nhờ vào sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô giáo và sự động viên, cổ vũ
của bạn bè, người thân đã giúp tôi hoàn thành khóa luận này.
Đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến cô giáo Th.S Hoàng
Thị Kim Huyền đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình tôi hoàn
thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu và các cô giáo trong
TrườngTHPT Tống Văn Trân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong việc tìm hiểu
và cung cấp các số liệu về trường. Đây là bước đầu tiên tôi làm quen với công
tác nghiên cứu khoa học nên không tránh khỏi sự thiếu xót. Tôi mong sẽ nhận
được những ý kiến, góp ý của các thầy, cô và các bạn đọc để khóa luận hoàn
thiện hơn.



Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 15 thán 5 năm 2013
Sinh viên
Nguyễn Thị Phương


LỜI CAM ĐOAN

Đề tài: “Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh thông qua dạy học
chương I Sinh học 11” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của cô giáo Th.S Hoàng Thi Kim Huyền không trùng với kết quả

nghiên cứu nào khác.
Các số liệu, kết quả thu thập được trong khóa luận là: Trung thực, rõ
ràng, chính xác và chưa từng công bố trong bất kì một công trình nghiên cứu
nào.
Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn mọi trách nhiệm.

Hà Nội, ngày ....15.. tháng 05năm.2013
Sinh viên

Nguyễn Thị Phương



MỤC LỤC
Phần I. MỞ ĐẦU ............................................................................................
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 2
2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 3
3. Nhiện vụ nghiên cứu .................................................................................. 4
4. Đối tượng, khách thể nghiên cứu ................................................................ 4
5. Phạm vi giới hạn của đề tài......................................................................... 4
6. Giả thuyết khoa học.................................................................................... 4
7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4
8. Những đóng góp và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ......................................... 5
Phần II. NỘI DUNG..................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .............. 6

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu đề tài ........................................................ 6
1.1.1Nghiên cứu trên thế giới ......................................................................... 6
1.1.2Nghiên cứu trong nước ........................................................................... 8
1.2. Cơ sở lí luận .......................................................................................... 10
1.2.1. Khái niệm về tự học và kĩ năng tự học ............................................... 10
1.2.2. Vai trò của tự học ............................................................................... 11
1.2.3. Kĩ năng tự học và rèn luyện kĩ năng tự học......................................... 13
1.2.4. Cơ sở của việc nâng cao kĩ năng tự học cho học sinh ......................... 14
1.2.4.1. Cơ sở triết học ................................................................................. 14
1.2.4.2. Cơ sở tâm sinh lí học ....................................................................... 14
1.3. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................... 15
1.3.1. Phương pháp xác định ........................................................................ 15

1.3.2.Thực trạng rèn luyện KNTH cho HS thông qua dạy học chương I
sinh học 11 ................................................................................................... 16


CHƯƠNG 2. Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh thông

qua dạy học chương I sinh học 11 ................................................ 20
2.1. Đặc điểm kiến thức các bài thuộc chương I sinh học 11 ........................ 20
2.2. Một số kĩ năng tự học cần rèn luyện cho HS thông qua dạy học
sinh học 11 ................................................................................................... 20
2.2.1 Kĩ năng đọc SGK ................................................................................ 20
2.2.2 Kĩ năng tìm câu trả lời cho câu hỏi ...................................................... 21

2.2.3 Kĩ năng làm việc với hình vẽ trong SGK ............................................. 22
2.2.4 Kĩ năng diễn đạt nội dung đã học và đã đọc bằng sơ đồ, bảng biểu ..... 25
2.2.5 Kĩ năng thảo luận nhóm cho HS .......................................................... 27
2.3 Một số biện pháp rèn luyện KNTH cho HS thông qua dạy học Sinh
học 11 .......................................................................................................... 30
2.3.1 Sử dụng hệ thống câu hỏi, .................................................................. 30
2.3.2 Sử dụng Phiếu học tập ......................................................................... 33
2.3.3 Sử dụng bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan ........................................ 36
2.4. Hệ thống câu hỏi, bài tập, phiếu học tập …nhằm rèn luyện kĩ năng
tự học cho HS thông qua dạy học chương I sinh học 11 ............................... 44
2.5 Giáo án minh họa ................................................................................... 69
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ . ............................................... 85

1.Kết luận ..................................................................................................... 85
2.Kiến nghị................................................................................................... 86
Tài liệu tham khảo...................................................................................... 87
Phụ lục ........................................................................................................ 89


DANH MỤC VIẾT TẮT

TCN

: Trước công nguyên


HS

: Học sinh

GV

: Giáo viên

KNTH

: Kĩ năng tự học


PHT

: Phiếu học tập

SGK

: Sách giáo khoa

THCS

: Trung học cơ sở


THPT

: Trung học phổ thông

CNH- HĐH

: Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa

VD

: Ví dụ


Tb

: Tế bào

QH

: Quang hợp

HH

: Hô Hấp


HTH

: Hệ tuần hoàn

1


Phần 1. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong mấy thập kỷ trở lại đây, cùng với sự tiến bộ của các ngành khoa
học cơ bản, lý luận dạy học trong khoa học giáo dục cũng có những bước tiến
đáng kể. Sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước gắn liền với sự

phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế trí thức đang đòi hỏi đổi mới giáo dục,
trong đó có sự đổi mới căn bản về phương pháp dạy và học.
Cùng với xu thế đổi mới quan niệm về SGK trên thế giới, từ năm 2001
Bộ Giáo dục và Đào tạo nước ta đã triển khai thực hiện đổi mới chương trình
SGK cho các bậc học từ tiểu học đến trung học phổ thông. Đồng thời, tiến
hành đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp. Có thể nói, cốt lõi của
phương pháp dạy và học mới là hướng tới học tập chủ động, độc lập, tự giác
Trong điều kiện của xã hội hiện đại, khoa học và công nghệ phát triển rất
mạnh mẽ, sự bùng nổ của cách mạng thông tin đã tác động, ảnh hưởng sâu
sắc đến giáo dục nói chung và quá trình dạy học nói riêng. Trong hoàn cảnh
như vậy, giáo dục ý thức tự học, tự học một cách thường xuyên, có kế hoạch,
phương pháp học tập đúng đắn, khoa học cho HS là một nhiệm vụ bắt buộc và

trách nhiệm nặng nề của GV. Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay: Đổi mới
phương pháp dạy học (PPDH) ở trường phổ thông luôn là nhiệm vụ thời sự,
cấp bách, do sự đòi hỏi của thực tiễn giáo dục phổ thông nhất là đối với việc
thực hiện chương trình, SGK mới. Sau khi nội dung dạy học bộ môn đã đổi
mới thì nhiệm vụ nghiên cứu về phương pháp dạy học phù hợp nội dung là
công tác trung tâm của khoa học sư phạm ở nước ta Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt đã nêu: cần “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục .Chuyển từ
truyền đạt tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ
động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp

2



tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ thống và có tư duy phân tích, tổng
hợp; phát triển được năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động
,tính tự chủ của học sinh.
Chỉ có tự học, tự sáng tạo, học đi đôi với hành mới đáp ứng yêu cầu
của sự phát triển xã hội đang đòi hỏi một nguồn nhân lực chất lượng cao. Do
đó trước hết cần phải rèn luyện cho HS kĩ năng tự học, tự nghiên cứu tài liệu.
Đó sẽ là cơ sở để phát huy năng lực tự học sau này cho các em.
Trong các môn học mà học sinh được học trong trường phổ thông thì
môn Sinh học chiếm một vị trí quan trọng nó giúp học sinh vươn tới mọi khía
cạnh của cuộc sống. Để con người thực sự có cuộc sống văn minh, ổn định,
bất kì ở lĩnh vực nào không thể thiếu được những hiểu biết cơ bản về sinh

giới. Vì rằng từ việc giữ gìn sức khỏe đến việc làm tăng của cải vật chất đều
cần có sự hiểu biết về Sinh học.
Đối tượng của sinh học luôn sẵn có trong cuộc sống hàng ngày của học
sinh như các loài động vật, thực vật… và đặc thù của môn Sinh học là khoa
học thực nghiệm, chính vì thế việc rèn kĩ năng tự học, tự nghiên cứu môn sinh
học cho học sinh là rất cần thiết .
Xuất phát từ lí do trên em chọn đề tài “Rèn luyện kĩ năng tự học cho
học sinh thông qua dạy học chương I Sinh học 11”
Tổ chức các hoạt động học tập của học sinh thông qua hệ thống câu
hỏi, bài tập,thảo luận nhóm,hoàn thành phiếu học tập...ở nhà và trên lớp giúp
học sinh rèn luyện các phương pháp ,kĩ năng, thói quen và ý trí tự học từ đó
tạo cho các em lòng say mê học tập, khơi dậy nội lưc vốn có trong mỗi người

học và từ đó kết quả học tập được tăng lên.
2. Mục đích nghiên cứu
Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh ở nhà và trên lớp.

3


3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Tìm hiểu cơ sở lí luận về KNTH và rèn luyện KNTH.
3.2 Điều tra thực trạng tổ chức các hoạt động tự học chương I trong
chương trình SH 11 BCB
3.3 Phân tích nội dung kiến thức thuộc chương I sinh học 11

3.4 Đề xuất một số KNTH cần rèn luyện cho HS và các biện pháp rèn
luyện KNTH
3.5 Lấy ý kiến của chuyên gia ...về phương pháp tổ chức hoạt động tự
học cho HS
3.6 Thiết kế giáo án minh họa
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1 Đối tượng
Nội dung các bài thuộc chương I trong chương trình SH 11 BCB từ đó
đề xuất giải pháp nâng cao kĩ năng tự học cho HS trong phần này.
4.2 Khách thể
Quá trình dạy và học chương trình Sinh học lớp 11 ở trường THPT cụ
thể là phần kiến thức thuộc chương I.

5. Phạm vi giới hạn của đề tài
Nghiên cứu các bài thuộc chương I trong chương trình SH 11 BCB.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu xác định được biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho HS và thiết
kế được hoạt động tự học cho HS thì sẽ rèn luyện được kĩ năng tự học cho
học sinh.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Nghiên cứu lí thuyết
Nghiên cứu các tài liệu về hệ thống cơ sở lí luận về kĩ năng tự học, biện
pháp rèn luyện kĩ năng tự học.

4



7.2 Điều tra quan sát
- Sử dụng phiếu điều tra đối với giáo viên và học sinh để điều tra thực
trạng tự học ở học sinh
- Dự giờ của giáo viên phổ thông để tìm hiểu thực trạng tổ chức hoạt
động tự học cho HS
7.3 Phương pháp phỏng vấn.
7.4 Phương pháp chuyên gia
Xin ý kiến chuyên gia tư vấn về biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho
HS và hệ thống câu hỏi, PHT, bài tập đã biên soạn để rèn luyện kĩ năng tự học
cho HS.

8. Những đóng góp của đề tài /Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài (dự
kiến)
- Hệ thống hóa cơ sở lí luận về kĩ năng tự học
- Phân tích, phát hiện được những mâu thuẫn và khó khăn trong việc tổ
chức hoạt động tự học và rèn luyện kĩ năng tự học
- Vận dụng được một số biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho HS
thông qua dạy học chương I sinh học 11
-Thiết kế một số giáo án mẫu

5



Phần 2. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Trong lịch sử phát triển Giáo dục, tổ chức quá trình học tập theo hướng
tăng cường tính tự học của học sinh là vấn đề được quan tâm và nghiên cứu từ
lâu. Về vấn đề tự học như vai trò của tự học, năng lực tự học cho học sinh, cách
thức rèn luyện năng lực tự học cho HS đã được nhiều tác giả nghiên cứu.
1.1.1.Nghiên cứu trên thế giới
- Ngay từ cổ đại, nhiều nhà giáo dục lỗi lạc như Xocorat (470 – 399
TCN), Khổng Tử (551 – 479 TCN) ... Đã từng nói đến tầm quan trọng to lớn
của việc phát huy tính tích cực, chủ động của HS và nói đến nhiều biện pháp

phát huy tính tích cực nhận thức.
- Từ thế kỉ 17 đến thế kỉ 19 nhiều nhà giáo dục lớn như J.A Conmesky
(1592 – 1670); Jacques Rousseau (1712 – 1778); A.Đixtecvec (1790 –
1866)... Trong các công trình nghiên cứu của mình về giáo dục phát triển trí
tuệ đều đặc biệt nhấn mạnh: Muốn phát triển trí tuệ bắt buộc người học phải
phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo để tự mình dành lấy trí thức. Muốn
vậy phải tăng cường khuyến khích người học tự khám phá, tự tìm tòi và suy
nghĩ trong quá trình học tập [13, tr.26 – 33].
- Ở Pháp, vào những năm 20 đã hình thành những “nhà trường mới”,
đặt vấn đề phát triển năng lực trí tuệ của học sinh, khuyến khích các hoạt
động do chính học sinh tự quản.
- Nhiều tác giả Liên Xô (cũ) và xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đứng trên

quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các nhà giáo dục không ngừng
khẳng định vai trò và tiềm năng to lớn của hoạt động tự học trong giáo dục nhà
trường. Đặc biệt nhiều tác giả còn nghiên cứu sâu sắc cách thức nhằm nâng cao

6


hiệu quả hoạt động tự học của người học. Trong đó nêu lên những biện pháp tổ
chức hoạt động độc lập nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học như:
Catxchuc G.X; Retzke R; Ilina T.A; Brunop E.P; Picaxistui P.I [5, tr.9].
- Động cơ học tập và giáo dục đúng đắn được N.A. Rubakin; H.Smitman
và nhiều nhà giáo dục học coi là yếu tố quan trọng nhất có tính quyết định đến

hiệu quả tự học, vì nó thúc đẩy người học tích cực chủ động trong tự học [5,
tr10].
- Những năm 30 của thế kỉ XX, nhiều nhà giáo dục Châu Á cũng quan
tâm sâu sắc đến lĩnh vực tự học của học sinh – sinh viên. T.Makiguchi –
người Nhật- nhà sư phạm lỗi lạc đã trình bày các tư tưởng nổi tiếng trong tác
phẩm “Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo”. Ông cho rằng giáo dục có thể coi là
quá trình hướng dẫn tự học mà động lực của nó là kích thích người học tạo ra
giá trị để đạt đến hạnh phúc của bản thân và cộng đồng.
- Về nhiệm vụ của giáo dục được Unesco nghiên cứu và chỉ rõ “Để đáp
ứng thành công nhiệm vụ của mình, giáo dục phải được tổ chức xoay quanh
bốn loại hình học tập cơ bản, mà trong suốt cuộc đời của mỗi con người,
chúng sẽ là trụ cột về kiến thức: Học để biết, học để làm, học để cùng chung

sống, học để làm người” [14, tr 71].
- Ngày nay, chủ trương giáo dục của mọi quốc gia trên thế giới đều
khẳng định: Lên lớp mà GV chỉ thông báo kiến thức là ít có hiệu quả, cần thay
dần việc thông báo bằng việc tổ chức HS tự tìm tòi để phát hiện kiến thức.
- Tóm lại hoạt động tự học đã được các tác giả xem xét tương đối cụ
thể, từ vai trò của tự học, các kĩ năng tự học cần thiết đến các điều kiện để tổ
chức quá trình tự học đạt kết quả.
- Hoạt động tự học được các tác giả kết luận là nó phải được thực hiện
trong mối quan hệ tương tác hợp lý giữa các yếu tố, cá nhân người học, giáo
viên và các điều kiện hỗ trợ khác.

7



1.1.2 Nghiên cứu trong nước
Trong lịch sử phát triển của giáo dục ở Việt Nam, vấn đề tự học, tự bồi
dưỡng đã được chú ý từ lâu.
Thời kì phong kiến, tư tưởng Nho giáo là hệ tư tưởng thịnh hành nhất ở
nước ta, đã xuất hiện các lớp tự phát của các công đồ tâm huyết với nghề dạy
học, song còn nhiều hạn chế.
Thời kì thực dân Pháp đô hộ, giáo dục nước ta rất chậm đổi mới. Hoạt
động tự học không được nghiên cứu và phổ biến, nhưng thực tiễn giáo dục lại
xuất hiện nhu cầu tự học có tính tự giác rất cao ở nhiều tầng lớp xã hội.
Ở miền Nam thời Mỹ - Ngụy, hoạt động tự học đã được chú ý nghiên

cứu bởi nhiều tác giả, trong đó phải kể đến Đinh Gia Trinh với quan niệm có
hai hình thức học là học lấy và học ở nhà trường. Ông cho rằng: “Học lấy là
tự mình học lấy triết học, khoa học, văn chương, không cần theo sự giảng dẫn
tuần tự của một ông thầy ... Người ta ai cũng cần học lấy dù cả những người
đỗ đạt cao” [1].
Hoạt động thực sự được nghiên cứu nghiêm túc và triển khai từ khi nền
giáo dục cách mạng ra đời (1954) trong đó Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tấm
gương sáng về tinh thần và phương pháp tự học đã dạy: “Về cách học, phải
lấy tự học làm nòng cốt” [4 tr 67].
Thủ tướng Phạm Văn Đồng, một trong những học trò xuất sắc của chủ
tịch Hồ Chí Minh, đã tiếp nhận, thể hiện và làm phong phú tư tưởng, sự
nghiệp giáo dục của Người. Đồng chí chỉ rõ: “Đối với các em học sinh điều

quan trọng có tầm cỡ rộng lớn là tránh tham nhồi nhét, tránh lối học vẹt, chỉ
cần học thuộc lòng điều thầy giảng, đối với GV cần sử dụng phương pháp dạy
người học suy nghĩ, tìm tòi, hiểu rộng hơn điều thầy nói, mở rộng tư duy và
năng lực sáng tạo của người học ... làm sao cho giờ học là cơ hội để thầy trò
thảo luận, tranh luận từ đó các em rút ra những điều cần học, cần biết...” [11,

8


tr 47 – 51]. Trong lí luận và thực tiễn Đồng chí cũng đã chỉ rõ “ phương pháp
giáo dục không phải chỉ là những kinh nghiệm, thủ thuật trong truyền thụ và
tiếp thu kiến thức mà còn là con đường để người học có thể tự học, tự nghiên

cứu chứ không phải là bắt buộc trí nhớ làm việc một cách máy móc, chỉ biết
ghi rồi nói lại”
Trong nghị quyết của bộ chính trị về cải cách giáo dục (11/1/1979) đã
viết “Cần coi trọng việc bồi dưỡng hứng thú, thói quen và phương pháp tự
học cho HS, hướng dẫn HS biết cách nghiên cứu SGK, thảo luận chuyên đề
ghi chép tài liệu, tập làm thực nghiệm khoa học”. Chính vì vậy việc nghiên
cứu những vấn đề này có tính thời sự và đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu.
Từ năm học 1977 đến nay, có rất nhiều tác giả với các công trình viết
về vấn đề tự học như tác giả Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn
Kỳ, Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức, Lê Khánh Bằng, Nguyễn Như Ất, Nguyễn
Văn Hộ... Khi nói về tự học GS Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng “Cốt lõi của học

là tự học. Hễ có học là có tự học, vì không có ai có thể học hộ người khác
được”. Nhiệm vụ của chúng ta là “biến quá trình dạy học thành quá trình tự
học”, tức là khéo léo kết hợp quá trình dạy học của thầy với quá trình tự học
của trò thành một quá trình thống nhất biện chứng” [7, tr 60 – 66].
Riêng lĩnh vực Sinh học có rất nhiều công trình nghiên cứu về tự học
điển hình như Đinh Quang Báo, Nguyễn Đức Thành, Trần Bá Hoành và nhiều
tác giả khác. Trong các công trình nghiên cứu của mình, tác giả Trần Bá
Hoành đã phân tích cơ sở khoa học, cách thiết kế bài học sinh học theo
phương pháp tích cực và kỹ thuật thực hiện các phương pháp tích cực như kĩ
thuật xác định mục tiêu bài học, sử dụng câu hỏi, phiếu học tập, kỹ thuật đánh
giá. Trong đó ông nhấn mạnh phát triển trí sáng tạo của HS, ông chỉ rõ: “GV
phải biết hướng dẫn, tổ chức cho học sinh tự mình khám phá kiến thức mới,


9


dạy cho học sinh không chỉ kiến thức mà cả phương pháp học, trong đó cốt
lõi là phương pháp tự học... Nếu rèn luyện cho người học có được kĩ năng,
phương pháp, thói quen tự học, biết ứng dụng những điều đã học vào những
tình huống mới, biết phát hiện và tự lực giải quyết vấn đề đặt ra sẽ tạo cho họ
lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có trong mỗi người. Làm được như
vậy thì kết quả học tập sẽ tăng gấp bội, HS sẽ có thể tiếp tục tự học khi vào
đời, dễ dàng thích ứng với cuộc sống xã hội” [12, tr. 50].
Nhiều công trình, nhiều báo cáo viết về tự học nói chung ở các lĩnh vực

như “Một số vấn đề cần thiết khi hướng dẫn HS tự học” – Thái Duy Tuyên;
“Dạy học phát huy năng lực tự học cá nhân của học sinh” – Nguyễn Gia Cầu
và nhiều bài báo khác.
Một số luận án tiến sĩ của các tác giả Nguyễn Thị Bích Hạnh; Hoàng
Thị Lợi; Nguyễn Thị Tính... Nhiều luận văn thạc sĩ viết về những vấn đề có
liên quan đến tự học như luận văn của các tác giả Bùi Thúy Phượng, Vũ
Phương Thảo, Ngô Thị Mai Hương... Các tác giả đã nêu và phân tích cơ sở
khoa học của hoạt động tự học, cơ sở tâm lí học, giáo dục học, xã hội học...
Các tác giả đã khẳng định rõ các yếu tố thuộc về cá nhân (nội lực) có vai trò
quyết định đối với kết quả học tập trong đó có năng lực tự học, ngoài ra còn
có yếu tố bên ngoài như biện pháp hướng dẫn của giáo viên, phương pháp,
phương tiện cũng có vai trò quan trọng.

1.2 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.2.1 Khái niệm về tự học và tự học có hướng dẫn
* Khái niệm về tự học: “Tự học là quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội
tri thức khoa học và rèn luyện kĩ năng thực hành không có sự hướng dẫn trực
tiếp của GV và sự quản lí trực tiếp của cơ sở giáo dục và đào tạo”. Cụ thể hơn
“Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát,
so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ

10


cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan,

thế giới quan (như trung thực, khách quan có ý chí tiến thủ, không ngại khó,
kiên trì nhẫn nại, lòng say mê khoa học) để chiếm lĩnh mọi lĩnh vực hiểu biết
nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình” [7, tr.59].
* Tự học có hướng dẫn: “Tự học có hướng dẫn là việc học cá nhân và
tự chủ, được sự giúp đỡ và tăng cường của một số yếu tố như GV (có hướng
dẫn), như công nghệ giáo dục hiện đại”. Việc tự học có hướng dẫn có thể
được cụ thể hóa theo mô hình sau:
- Thu nhận thông tin: Qua đọc SGK, tài liệu, qua quan sát, qua thí
nghiệm, qua bài tập, ...
- Xử lý thông tin: Phân tích, tổng hợp, khái quát, nhận xét đánh giá, phê
phán, tự trình bày, ứng dụng, lập bảng hệ thống,...
- Tự kiểm tra, tự điều chỉnh: qua trả lời của bạn, qua tự trả lời, qua tổng

kết của thầy.
Như vậy người học là chủ thể, trung tâm tự mình chiếm lĩnh tri thức,
chân lí bằng hành động của chính mình. Thầy là tác nhân hướng dẫn, tổ chức,
đạo diễn cho vai trò tự học trong sự hợp tác với bạn.
1.2.2. Vai trò của tự học
1.2.2.1. Tự học - nhu cầu và đòi hỏi của thời đại đối với mỗi con người trong
thế kỷ XXI
Khoa học và công nghệ phát triển ở cấp vũ trụ đã tạo ra nhiều phương
pháp tiếp cận tri thức khác nhau theo khả năng và điều kiện cho phép. Để cập
nhật và ứng dụng được tri thức lý thuyết và thực hành vào cuộc sống và sản
xuất thì phải có năng lực tự học ở bất cứ đâu, hoàn cảnh nào.
Vấn đề thay sách mới đây nhất cho thấy, chúng ta đã tăng lượng kiến

thức lên quá nhiều. Để chiếm lĩnh được khối lượng kiến thức đó đòi hỏi HS
phải có những phương pháp tự học tốt nhất. Tri thức nhân loại là vô tận,

11


những công trình khoa học được các nhà khoa học phát minh ra hàng ngày, để
chiếm lĩnh và ứng dụng được các tri thức khoa học vào đời sống đòi hỏi mỗi
người phải tự nghiên cứu tìm tòi ra phương pháp tự học ở nhà trường và ngoài
xã hội.
1.2.2.2. Tự học – lời giải cho vấn đề mang nhiều nghịch lý đang đặt ra trong
chiến lược giáo dục con người

Nghịch lí đầu tiên mà tự học khắc phục đó là con đường tri thức thì vô
hạn nhưng tuổi học đường thì có giới hạn. Ở nước ta đào tạo Trung học phổ
thông là 3 năm, đại học là 4 năm có trường 5 năm trong khi khối lượng tri
thức khổng lồ của nhân loại thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội, khoa học cùng với sự bùng nổ thông tin đang diễn ra hàng ngày.
Nghịch lý thứ hai đó là tự học – con đường để khắc phục khó khăn thử
thách rèn luyện ý chí vươn lên, tạo tri thức bền vững cho mỗi con người trên
con đường phát triển học vấn và nhân cách suốt cuộc đời.
1.2.2.3. Tự học là một nét đẹp truyền thống của dân tộc ta đã được Đảng và
Nhà nước xem là vấn đề mang tính chiến lược cho sự phát triển nguồn lực
con người
Chúng ta tự hào về dân tộc có 4 nghìn năm văn hiến. Để có được niềm

tự hào đó ông cha ta đã biết kết hợp sức mạnh, sức sáng tạo dân tộc đã tạo ra
chữ viết của riêng mình trên cơ sở đó hình thành nền văn hoá riêng đậm đà
bản sắc dân tộc. Đã có biết bao tấm gương hiếu học như Chu Văn An,
Nguyễn Bỉnh Khiêm ...
Chúng ta đang sống ở thế kỷ XXI, cần thắp sáng truyền thống tự học,
tự đào tạo - một nét đẹp văn hoá trong nhân cách của mỗi người và của dân
tộc.
Biến tự học thành “chiếc gậy thần kỳ”, góp phần phát triển nội sinh dân
tộc, đưa đất nước tiến nhanh trên con đường CNH-HĐH.

12



Tóm lại vai trò của tự học: Tự học giúp ta nhớ lâu và vận dụng những
kiến thức đã học một cách hữu ích hơn trong cuộc sống. Không những thế tự
học còn giúp con người trở nên năng động, sáng tạo, không ỷ lại, không phụ
thuộc vào người khác . Từ đó biết tự bổ sung những khiếm khuyết của mình
để tự hoàn thiện bản thân . Vì vậy tự học là con đường ngắn nhất và duy nhất
để hoàn thiện bản thân và biến ước mơ thành hiện thực.
1.2.3 Kĩ năng tự học và rèn luyện kĩ năng tự học
* Kĩ năng: là giai đoạn trung gian giữa tri thức và kĩ xảo trong quá trình
nắm vững một phương thức hành động. Đặc điểm là đòi hỏi sự tập trung chú
ý cao, sự kiểm soát chặt chẽ của thị giác, hành động chưa bao quát, còn có
động tác thừa. Được hình thành do luyện tập hay do bắt chước.[10].

Nói cách khác “Kĩ năng là một việc gì đó mà HS phải thể hiện cái phải
làm. Kĩ năng bao hàm một hành vi trong đó kiến thức, hiểu biết và lập luận
được vận dụng một cách công khai” [11, tr.35].
* Rèn luyện kĩ năng tự học: Thực chất là hình thành và hoàn thiện hệ
thống kĩ năng tự học. Khi tiếp xúc với nguồn kiến thức khác nhau, học sinh
cần có kĩ năng hành động tương ứng. HS biết cách tổ chức, thu thập thông tin,
xử lí thông tin, tự kiểm tra, tự điều chỉnh trong quá trình làm việc với các
nguồn tri thức nghĩa là đã nắm được phương pháp học để học trên lớp và tự
học. Hoạt động học bao gồm một số hành động học có mục đích phù hợp, đáp
ứng mục đích chung của hoạt động học, biết cách sắp xếp trình tự, các hành
động một cách hợp lí, biết thực hiện các hành động học có kết quả. Người nào
biết lựa chọn, sắp xếp và thực hiện đúng các hành động theo đúng quy trình

để đạt tới mục đích hoạt động thì người đó có phương pháp học.

13


1.2.4 Cơ sở của việc rèn luyện KNTH cho HS
1.2.4.1 Cơ sở triết học
Theo quan điểm triết học thì kết quả của hành động bị chi phối bởi hai
yếu tố là nội lực và ngoại lực. Yếu tố ngoại lực trong học tập là sự tác động,
hướng dẫn, tổ chức, đạo diễn của GV. Người thầy giỏi là người biết tự học
sáng tạo suốt đời. Yếu tố nội lực là vốn tri thức đã có, động cơ học tập, năng
lực tự điều chỉnh và nội lực là quan trọng nhất. Nội lực là nhân tố quyết định

đến kết quả quá trình nhận thức và rèn luyện kĩ năng. Do đó cần chú trọng
đến yếu tố nội lực.
Song tự học – thuộc quá trình cá nhân hóa việc học – không có nghĩa là
học một mình, đơn thân độc mã, mà học trong sự hợp tác với các bạn, trong
môi trường xã hội, dưới sự hướng dẫn của thầy và sự hợp tác của các bạn –
ngoại lực. Ngược lại, tác động của thầy và của môi trường xã hội sẽ kém hiệu
lực nếu không phát huy được năng lực tự học của người học.
Như vậy, kết hợp quá trình dạy với quá trình tự học là nhằm làm cho
“dạy” và “tự học” cộng hưởng được với nhau tạo ra chất lượng và hiệu quả
cao để đạt mục tiêu đào tạo con người lao động: tự chủ, năng động và sáng
tạo, có năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự học.
1.2.4.2 Cơ sở tâm, sinh lý học sư phạm

* Cơ sở tâm lí:
Do đặc điểm tâm lí học lứa tuổi: ở HS phổ thông (từ 15 – 18 tuổi), sự
chú ý tập trung và độ bền cao hơn, khả năng ghi nhớ có tính khái quát hơn,
mang tính chọn lọc và có phê phán hơn HS cấp THCS, phẩm chất tư duy sáng
tạo, khả năng tự điều chỉnh, tự đánh giá cũng bộc lộ rõ hơn.
Về mức độ phát triển cần đạt được là học sinh làm chủ từng bước các
mối quan hệ xã hội của bản thân, phát triển nhân cách với tư cách là chủ thể
xã hội.[6].

14



* Cơ sở sinh lý học:
Mô hình dạy – tự học (hướng dẫn tự học) có cơ sở sinh học là: “Học
thuyết về phản xạ có điều kiện chủ động” của B.F.Skinner với hai thí nghiệm
nổi tiếng là: thí nghiệm dạy chim bồ câu tự tìm lấy thức ăn trong các hạt có
hình thù giống nhau nhưng mầu sắc khác nhau, và thí nghiệm “Dạy chuột đạp
cần câu cơm”[6].
Theo học thuyết này, bài học là vì lợi ích của chính người học; mục
đích học, nội dung học là do chính nhu cầu của người học. Chim bồ câu tự
tìm thấy thức ăn, chuột đạp cần câu cơm trong sơ dồ dạy học của Skinner là
hình ảnh của người tự học, tích cực chủ động tìm ra kiến thức – thức ăn tinh
thần bằng hành động của chính mình. Đó chính là dạy – tự học trong đó việc
học (tự học) thực chất là một quá trình.

Tóm lại, trên cơ sở hiểu được các vấn đề liên quan đến năng lực tự học,
ta có thể vận dụng vào trong giảng dạy để hình thành năng lực tự học cho HS.
1.3 CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.3.1 Phương pháp xác định thực trạng
Để tìm hiểu thực trạng của việc giảng dạy và việc rèn luyện kĩ năng tự
học cho HS thông qua chương I Sinh học 11, chúng em đã sử dụng các
phương pháp sau:
* Sử dụng phương pháp điều tra: Thiết kế phiếu điều tra( Phụ lục 1,2)
để điều tra về thực trạng rèn luyện kĩ năng tự học cho HS thông qua chương I
sinh học 11.
* Sử dụng phương pháp phỏng vấn.
- Em đã tiến hành phỏng vấn 5 thầy (cô) dạy môn Sinh học lớp 11 và

các em học sinh khối 11 ở trường THPT Tống Văn Trân- Nam Định.
* Sử dụng phương pháp quan sát : Dự giờ dạy, tham khảo bài soạn của
một số GV dạy môn Sinh học 11, quan sát hoạt động tự học của HS, gặp gỡ
trao đổi với các giáo viên và HS về vấn đề quan tâm.

15


1.3.2 Thực trạng việc rèn luyện kĩ năng tự học cho HS thông qua dạy học
chương I sinh học 11
Qua điều tra, em có thể tóm tắt được kết quả như sau:
1.3.2.1 Thực trạng

* Về việc GV hướng dẫn HS tự học chương I Sinh học 11:
- Giáo viên thường chỉ yêu cầu HS học bài cũ và chuẩn bị bài mới theo
câu hỏi và bài tập trong SGK, một số GV có thể hướng dẫn HS học bài cũ và
chuẩn bị bài mới. Một số GV quan tâm đến việc yêu cầu học sinh lập dàn ý và
xây dựng sơ đồ Grap cho các bài học và các bài ôn tập chương.
- GV ở trường phổ thông đã sử dụng một số biện pháp rèn luyện kĩ
năng tự học cho HS như: Hướng dẫn HS trả lời câu hỏi, hướng dẫn HS giải
bài tập... có một số GV đã hướng dẫn HS biện pháp tự học tích cực khác nhau
như: Hướng dẫn HS xây dựng đề cương, xây dựng sơ đồ tóm tắt (GRAP),
hướng dẫn HS phân tích đồ thị hình vẽ, tổ chức cho HS thảo luận... Tuy
nhiên, việc hướng dẫn chủ yếu là do GV chuẩn bị sẵn nội dung, giảng giải
cho các em rồi yêu cầu HS làm lại. Việc phát huy tính tích cực chưa thực sự

được chú trọng.
* Về việc HS rèn luyện kĩ năng tự học
- Về việc chuẩn bị bài mới trước khi lên lớp: Nếu thầy cô giáo giao
nhiệm vụ, yêu cầu HS đọc bài ở nhà thì phần lớn HS có ý thức đọc trước. Nếu
các thầy cô không giao nhiệm vụ, không yêu cầu HS đọc bài ở nhà thì chỉ một
phần nhỏ các em tự giác đọc (chủ yếu là các em học khá, giỏi). Qua điều tra
em thấy rằng hầu hết các em chỉ đọc lướt qua (đọc lấy lệ hoặc đọc đối phó),
một số có tìm hiểu xem nội dung bài sẽ học gồm những mục nào, nội dung
nào, rất ít các em tìm thuật ngữ khó hiểu dể dự định hỏi thầy cũng như tìm
mối liên quan giữa kiến thức mới với kiến thức đã học.

16



- Đối với việc sào bài (tức là xem lại bài vừa học): Nhiều em không
xem lại bài vừa học mà các em chỉ có thói quen học bài cũ chuẩn bị cho việc
kiểm tra bài của ngày hôm sau, một số chỉ xem qua ở mức đơn giản và một số
các em xem lại bài kết hợp điều chỉnh vở ghi chép bài giảng trên lớp và tìm
hiểu thêm những điều mà chưa có ở trên lớp hoặc nghe chưa rõ, hoặc khó
hiểu nhưng không thường xuyên.
- Về việc học bài cũ và thực hiện ôn tập chương: Hầu hết các em sử
dụng hình thức học thuộc lòng bài cũ thậm chí cả bài ôn tập chương cũng học
thuộc (có một số em không hiểu nhưng vẫn học thuộc), một số ít học bằng
cách xây dựng đề cương, lập sơ đồ (Grap) làm bài tập thông qua đó mà ghi

nhớ kiến thức. Một số ít học kiến thức cơ bản của bài, chương và có thực hiện
đọc thêm tài liệu để mở rộng kiến thức có liên quan nhưng mức độ còn ít. Có
thể kết luận rằng xu hướng chung của HS về tự học là: để chuẩn bị cho việc
kiểm tra bài cũ của GV để lấy điểm, một số để nắm vững những kiến thức cơ
bản chứ ít có nhu cầu mở rộng, hiểu sâu kiến thức.
- Về hoạt động của HS trong giờ lên lớp: Phần nhiều HS thụ động nghe
giảng, ít động não suy nghĩ, chỉ trả lời khi thầy yêu cầu và không dám hỏi
thầy khi có thắc mắc, ghi (chép lại) theo nội dung đọc tóm tắt của thầy, chỉ có
một số nhỏ HS tích cực, chủ động trong quá trình học như sẵn sàng trả lời câu
hỏi của thầy nếu biết và thậm chí sẵn sàng hỏi lại thầy nếu có thắc mắc.
- Về vấn đề thảo luận nhóm: Qua dự giờ và trao đổi với các em HS và
GV em thấy: Khi GV yêu cầu nghiên cứu SGK trao đổi nhóm và thảo luận,

một số nhỏ HS không làm gì chỉ nghe các bạn trong nhóm làm và báo cáo,
phần lớn các em có tham gia (để GV không phê bình) nhưng không nhiệt tình.
Chỉ những HS học khá, hay phát biểu (năng động) thì giữ vai trò chủ chốt
trong giờ học khi GV sử dụng hình thức trao đổi nhóm. Đa số các em biết
bám sát yêu cầu của câu hỏi khi thảo luận song khả năng diễn đạt ý kiến rõ

17


ràng, ngắn gọn và khả năng tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình, của nhóm
mình còn hạn chế.
- Về ý thức môn học: thì phần lớn các em chỉ coi môn sinh học là

nhiệm vụ bắt buộc, không hứng thú, say mê môn học. Chỉ một phần nhỏ là
yêu thích và say mê nó.
1.3.2.2 Nguyên nhân của thực trạng nói trên:
* Về phía HS:
- Do các em đã quá quen với cách học từ cấp 2 theo lối bị động, chưa
có phương pháp tự học hiệu quả.
- Do có nhiều HS thiếu hụt về kiến thức, động vào đâu cũng thấy khó
thành ra chán nản với việc học và từ đó dẫn đến không quan tâm đến tự học.
- Tâm lí nhiều HS cho bộ môn Sinh là môn phụ do vậy không quan
tâm, không chịu đầu tư công sức, thời gian cũng như không hứng thú lắm đến
học bộ môn này nên thường học đối phó mà chưa thực sự say mê, yêu thích
môn học.

- Một số HS yêu thích môn học nhưng lại chưa được hướng dẫn
phương pháp tự học do vậy gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tự học.
* Về phía GV:
- Phần lớn các GV đều nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới
phương pháp dạy học truyền thống sang dạy học – tự học, song do ảnh hưởng
của lối dạy truyền thống đã quá quen thuộc trong thời gian dài, do thói quen
ngại thay đổi cái cũ cũng như ngại mất nhiều công sức, thời gian cho việc soạn
bài theo hướng tăng dần tính tích cực của người học. Do vậy, những giờ dạy
theo phương pháp dạy - tự học tăng cường hoạt động của HS chưa được nhiều.
- Do các em HS có trình độ nhận thức không đều, rất nhiều em học yếu,
ít nói do vậy tâm lí của nhiều GV chỉ lo dạy cho các em nắm được kiến thức
cơ bản, còn việc rèn luyện, hướng dẫn phương pháp tự học rất hạn chế.


18


* Ngoài các nguyên nhân cơ bản trên chúng tôi thấy còn có một số
nguyên nhân khác như thiếu tài liệu hướng dẫn tự học, do cơ sở vật chất còn
chưa đáp ứng đầy đủ cho việc đổi mới phương pháp như phòng học hiện đại,
máy tính, đèn chiếu...
Qua nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân nói trên thì khẳng định việc
tăng cường rèn luyện kĩ năng tự học cho HS về bộ môn Sinh học 11 cần được
quan tâm và chú trọng hơn nữa.


19


Chương 2. RÈN LUYỆN KNTH CHO HS THÔNG QUA DẠY HỌC
CHƯƠNG I, SINH HỌC 11

2.1 Đặc điểm kiến thức các bài thuộc chương I Sinh học 11
Nội dung kiến thức lí thuyết trong bài giảng trên lớp dài và mất nhiều
thời gian nếu chỉ nghiên cứu ở trên lớp. Nếu giáo viên tự mình truyền đạt hết
lượng kiến thức này thì sẽ thiếu thời gian đồng thời học sinh bị động và tiếp
thu bài giảng không hiệu quả
Cần có nhiều mẫu vật trực quan mà giáo viên phải nêu ra hoặc chuẩn bị

và mang tới lớp giúp bài học sinh động. Mà những mẫu vật hay hiện tượng
này học sinh có thể dễ dàng chuẩn bị hoặc trực tiếp quan sát được trong cuộc
sống xung quanh ngay trong vườn nhà hay ngoài đồng ruộng.
2.2 Một số KNTH cần rèn luyện cho HS thông qua dạy học Sinh học 11
2.2.1 Kĩ năng đọc SGK
* “Để nâng cao giá trị dạy học, GV phải xem SGK là công cụ để tổ
chức hoạt động tự học của HS” [5]. SGK chứa đựng những kiến thức khoa
học cơ bản và hệ thống nên HS có thể lĩnh hội kiến thức một cách logic, ngắn
gọn, súc tích, rõ ràng và khái quát nhất. Trong quá trình làm việc với SGK,
HS không những chỉ nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện các thao tác tư
duy, hình thành kĩ năng, kĩ xảo đọc sách. Với tư cách là nguồn cung cấp kiến
thức cơ bản cho HS. Do vậy điểm mấu chốt của việc nâng cao năng lực tự học

cho HS là mỗi GV phải biết tổ chức cho HS cách làm việc với các bài trong
SGK.
* Để giới thiệu cho HS cách làm việc với các bài học trong SGK, GV
chỉ cho HS biết làm việc với bài học là làm việc với cả phần chữ và phần hình
dựa theo các câu hỏi tương ứng ở phần đó, đồng thời chỉ ra cho HS thấy, để
làm việc với bài học có kết quả thì có thể tiến hành theo quy trình sau:

20


1. Đọc và tìm hiểu sơ bộ về nội dung bài học: Tên bài, tìm hiểu thông
tin ở đầu bài và đọc lướt qua xem trong bài có những tiểu mục gì để hiểu sơ

bộ bài học nghiên cứu vấn đề gì?
2. Đọc kĩ và tìm hiểu nội dung khoa học của bài và nội dung các hoạt
động cần thực hiện qua việc:
- Xác định các thuật ngữ mới trong bài, tìm hiểu nghĩa của những thuật
ngữ đó.
- Tìm hiểu ý nghĩa của các công thức, các số liệu bằng cách so sánh với
những số liệu cùng loại về đối tượng mình đã biết.
- Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi nêu ra ở phần đề mục hoặc cuối
đoạn văn bản, sau đó tóm tắt ý chính của phần đó.
- Nghiên cứu các hình vẽ, bảng biểu kết hợp với thông tin bằng lời và
trả lời các câu hỏi kèm theo.
3. Ghi tóm tắt dàn bài theo các nội dung cơ bản hoặc tìm hiểu nội dung

của phần ghi nhớ cuối bài học.
4. Vận dụng lý thuyết để trả lời các câu hỏi, bài tập bằng ngôn ngữ viết,
nói (kể cả bằng hình vẽ sơ đồ, bảng biểu) qua đó tự kiểm tra lẫn nhau về mức
độ nắm vững tài liệu và kĩ năng vận dụng.
Điều quan trọng là GV cần tổ chức cho HS vận dụng thường xuyên quy
trình trên khi tự học với bài học trong SGK, từng bước di chuyển kĩ năng sang
các hoạt động phức tạp hơn.
2.2.2 Kĩ năng tìm câu trả lời cho câu hỏi
* Để rèn luyện kĩ năng tự học trong việc tìm câu trả lời các câu hỏi cho
HS trong quá trình nghiên cứu SGK, trong khâu chuẩn bị bài mới, khâu làm
việc với SGK để phát hiện kiến thức mới trong giờ dạy hay trong quá trình ôn
tập bài cũ, GV cần thực hiện các bước sau:


21


×