Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm
ơn cô giáo - Thạc sỹ. An Biên Thùy, người đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ em
trong suốt quá trình làm đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa, đặc biệt các thầy cô
trong tổ bộ môn phương pháp dạy học thuộc khoa Sinh - KTNN, các bạn sinh
viên đã tạo điều kiện về mọi mặt để em có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu
của mình.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo của trường THPT Xuân
Hòa - Phúc Yên - Vĩnh Phúc, đã nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ em trong quá
trình thực hiện đề tài này.
Mặc dù đã cố gắng nhưng đề tài của em không tránh khỏi những sai
sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô, các
bạn sinh viên để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Hồ Thị Hồng Gấm
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu tìm tòi của riêng
bản thân tôi dưới sự hướng dẫn tận tình của thạc sỹ. An Biên Thùy - Giảng
viên khoa Sinh - KTNN, Trường ĐHSP Hà Nội 2. Nó chưa từng được công
bố tại bất kỳ một công trình nghiên cứu khoa học nào hoặc của ai. Đề tài và
nội dung khóa luận là chân thực được viết trên cơ sở khoa học là các sách,
tài liệu do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Hồ Thị Hồng Gấm
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG/SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU
1
1. Lí do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
4. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
3
5. Giả thuyết khoa học
3
6. Phương pháp nghiên cứu
3
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
3
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
3
6.3. Xử lí số liệu
4
7. Những đóng góp mới của đề tài
4
7.1. Lí luận
4
7.2. Thực tiễn
4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIÁO DỤC
5
KNS CHO HS THPT THÔNG QUA BÀI HỌC SINH HỌC 10
1.1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
5
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
5
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
7
1.2 . Cơ sở lí luận của đề tài
10
1.2.1. Khái niệm KNS, giáo dục KNS
10
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
1.2.2. Các thành tố cấu trúc của giáo dục KNS cho học sinh
15
THPT
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng và đặc điểm của giáo dục KNS cho
31
học sinh THPT
1.3. C ơ s ở t h ự c t i ễ n
32
1.3.1. Nhận thức của giáo viên và học sinh về KNS
32
1.3.2. Đánh giá của giáo viên về thực trạng KNS của học sinh
34
THPT
1.3.3. Nhận thức của giáo viên về vai trò giáo dục KNS cho học
35
sinh THPT
Chương 2: GIÁO DỤC KNS CHO HỌC SINH THPT THÔNG
43
QUA TÍCH HỢP GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC
2.1. Sinh học và vấn đề giáo dục KNS cho học sinh THPT
43
2.1.1. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ môn Sinh học 10
2.1.2. Bản chất và nguyên tắc của giáo dục KNS cho học sinh THPT
44
thông qua dạy môn Sinh học
2.1.3. Phương thức tích hợp
46
2.1.4. Địa chỉ tích hợp
48
2.2 . Các bước cơ bản thực hiện một bài tích hợp giáo dục KNS
65
CHƯƠNG 3: THAM VẤN Ý KIẾN CHUYÊN GIA
70
3.1. Nội dung
70
3.2. Phương pháp
70
3.3. Đánh giá sơ bộ kết quả
70
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
73
PHỤ LỤC
74
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
DANH MỤC VIẾT TẮT
STT
VIẾT TẮT
DỊCH NGHĨA
1
Unicef
Quỹ Nhi đồng liên hợp quốc
2
KNS
Kĩ năng sống
3
THPT
Trung học phổ thông
4
HIV
Tên 1 loại virut
5
AIDS
Bệnh do virut HIV gây ra
6
UNESCO
Tổ chức giáo dục – khoa học – văn hóa quốc tế
7
WHO
Tổ chức Y tế thế giới
8
PPDH
Phương pháp dạy học
9
HTDH
Hình thức dạy học
10
KTDH
Kĩ thuật dạy học
11
QĐDH
Quan điểm dạy học
12
GV
Giáo viên
13
HS
Học sinh
14
VSV
Vi sinh vật
15
TLXH
Tâm lí xã hội
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
DANH MỤC BẢNG / SƠ ĐỒ
TÊN BẢNG/SƠ ĐỒ
Bảng 1.a
Kết quả khảo sát nhận thức của GV và HS THPT về KNS/ Tr 32
Bảng 1.b
Sự tiếp nhận thông tin liên quan đến KNS của HS THPT/ Tr 33
Bảng 2
Đánh giá của giáo viên về mức độ KNS của học sinh THPT/ Tr 34
Bảng 3.a
Nhận thức của GV về bản chất, sự cần thiết của việc giáo dục
KNS cho học sinh THPT/ Tr 35
Bảng 3.b
Quan điểm của GV về mục đích GD KNS cho HS THPT/ Tr 36
Bảng 3.c
Cơ sở vận dụng các biện pháp giáo dục KNS cho học sinh/ Tr 37
Bảng 3.d
Mức độ sử dụng các biện pháp giáo dục KNS cho HS/ Tr 39
Hình 1
Biểu đồ các biện pháp giáo dục KNS cho học sinh/ Tr 39
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Môi trường sống, hoạt động và học tập của thế hệ trẻ hiện nay có
những thay đổi đáng kể. Sự phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực kinh tế xã hội và giao lưu quốc tế đã và đang tạo ra những tác động đa chiều phức tạp
ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Thực tiễn này khiến các nhà giáo dục và những người tâm huyết với sự
nghiệp giáo dục đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho thế
hệ trẻ, trong đó có học sinh trung học phổ thông.
Từ năm 2001, Bộ giáo dục và đào tạo đã thực hiện giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh phổ thông với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là
Unicef tại Việt Nam. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh được thực hiện
bằng việc khai thác nội dung của một số môn học ưu thế như: Sinh học, Công
nghệ, hoạt động ngoài giờ lên lớp… Đồng thời, Bộ giáo dục và đào tạo đang
tiếp tục xây dựng chương trình giáo dục kĩ năng sống để đưa vào chương
trình giáo dục phổ thông theo hình thức tích hợp ở nhiều môn học và hoạt
động giáo dục trong và ngoài nhà trường. Tuy nhiên, việc tích hợp giáo dục kĩ
năng sống vào nội dung môn học, hoạt động giáo dục, bằng phương pháp
nào? Thời lượng, cơ cấu chương trình và cách tổ chức thực hiện ra sao lại là
những câu hỏi đặt ra cần phải giải đáp.
Lứa tuổi học sinh đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước
mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá xong còn thiếu hiểu biết sâu sắc về
xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, dễ bị kích động. Đặc điểm
học sinh lớp 10: Mới vào cấp 3; Muốn khẳng định giá trị bản thân, mong
muốn tự lập, mong muốn trở thành “người lớn”… Đặc biệt trong bối cảnh hội
nhập quốc tế và kinh tế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ hiện nay thường xuyên
chịu tác động đan xen của các yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực, luôn được
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn các giá trị, phải đương đầu với những khó
khăn, thách thức và những áp lực tiêu cực. Nếu không được giáo dục KNS,
nếu thiếu KNS các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối
sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Mà các
em chính là chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ quyết định sự
phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có KNS các em sẽ
không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và
đất nước.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng để có thể thích ứng với xã hội hiện
đại học sinh cần được trạng bị nhiều KNS khác nhau, đó cũng chính là một
trong những đích quan trọng của quá trình giáo dục. Như người Việt Nam
chúng ta thường nói giáo dục phải đồng thời dạy chữ đi đôi với dạy người.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay, môn Sinh học là môn khoa học
thực nghiệm giúp học sinh nhận thức được đặc điểm hình thái, cấu tạo của cơ
thể sống của các sinh vật và cơ thể con người trong mỗi quan hệ với môi
trường sống. Xuất phát từ mối quan hệ căng thẳng giữa tự nhiên và xã hội, đặt
ra các yêu cầu về kĩ năng như: biết thu thập thông tin, làm việc cá nhân và làm
việc theo nhóm, sưu tầm tư liệu, làm báo cáo nhỏ, trình bày trước tổ trước lớp,
nhận dạng, đặt ra và giải quyết các vấn đề gặp phải trong học tập và thực tiễn
cuộc sống, biết vệ sinh cá nhân, bảo vệ cơ thể, phòng chống bệnh tật, xây dựng ý
thức tự giác bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống, có thái độ đúng đắn với
các vấn đề về dân số, sức khỏe sinh sản, phòng chống ma túy và HIV/AIDS…
Một trong những hướng trả lời cho câu hỏi trên là tích hợp trong từng tiết học
của môn Sinh Học 10 để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Giáo dục KNS
thông qua các hoạt động học tập vì chỉ có thông qua hoạt động mới có thể hình
thành kĩ năng, nâng cao nhận thức, phát triển thái độ, tình cảm, niềm tin, bản lĩnh
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
cũng như sự năng động, sáng tạo ở học sinh. Đó là lí do chúng tôi chọn đề tài
“Tích hợp kĩ năng sống trong dạy học Sinh học 10”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong các dạy học Sinh học 10.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về KNS, giáo dục KNS, giáo dục
KNS cho học sinh phổ thông trung học thông qua các tiết học ở môn Sinh học 10.
- Khảo sát thực trạng giáo dục KNS cho học sinh THPT thông qua các
tiết học ở bộ môn Sinh học 10 tại trường THPT Xuân Hòa - TX Phúc Yên Vĩnh Phúc.
- Đề xuất các biện pháp giáo dục KNS cho học sinh THPT thông qua
môn học Sinh học 10.
- Tham vấn ý kiến chuyên gia.
4. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
- Nội dung, phương pháp giáo dục KNS trong dạy học Sinh học 10.
5. Giả thuyết khoa học
- Nếu hệ thống các nội dung, phương pháp tích hợp giáo dục KNS
trong Sinh học 10 sẽ góp phần phát triển KNS cho học sinh THPT.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
- Nghiên cứu các đề tài, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và
Nhà nước về vấn đề giáo dục và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT;
Phân tích tổng hợp những tư liệu, tài liệu lí luận về giáo dục KNS cho học
sinh THPT, những kết quả nghiên cứu lý thuyết và những kết quả khảo sát,
đánh giá giáo dục KNS cho học sinh THPT thông qua các tiết học môn Sinh
học 10.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Nhằm thu thập thông tin về
thực trạng giáo dục KNS cho học sinh THPT. Đối tượng được điều tra gồm
giáo viên, học sinh
- Phương pháp phỏng vấn: Nhằm tìm hiểu các nguyên nhân về thực
trạng giáo dục KNS cho học sinh THPT và tìm hiểu quan điểm của các đối
tượng phỏng vấn về việc giáo dục KNS cho học sinh THPT. Phương pháp
thực hiện chủ yếu với giáo viên và học sinh THPT
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các chuyên gia là GV, GV phổ
thông trung học dạy giỏi về nội dung, phương pháp giáo dục kĩ năng sống
môn Sinh học 10về một số kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Phương
pháp cũng được sử dụng để đánh giá tính khả thi của các biện pháp giáo dục
KNS cho học sinh THPT trước khi tổ chức thực nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm: Kiểm nghiệm tính hiệu quả các biện pháp
giáo dục KNS cho học sinh THPT qua các tiết học ở môn Sinh học 10.
6.3. Xử lí số liệu
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các kết quả thực
nghiệm sư phạm và kết quả điều tra bằng phiếu hỏi (Excel).
7. Những đóng góp mới của đề tài
7.1. Về lí luận
- Đề tài đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về KNS, giáo dục KNS, giáo
dục KNS cho học sinh phổ thông trung học thông qua các tiết học ở môn Sinh học
10.
7.2. Thực tiễn
- Đề ra các biện tích hợp giáo dục KNS theo các nội dung, hình thức cụ thể.
- Thiết kế được các giáo án tích hợp giáo dục KNS theo từng nội dung kiến
thức.
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÔNG QUA
BÀI HỌC SINH HỌC 10
1.1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Từ những năm 90 của thế kỉ XX, thuật ngữ “Kĩ năng sống” đã xuất
hiện trong một số chương trình giáo dục của UNICEF, trước tiên là chương
trình “giáo dục những giá trị sống” với 12 giá trị cơ bản cần giáo dục cho
thế hệ trẻ. Những nghiên cứu về kĩ năng sống trong giai đoạn này mong
muốn thống nhất được một quan niệm chung về kĩ năng sống cũng như đưa
ra được một bảng danh mục các kĩ năng sống cơ bản mà thế hệ trẻ cần có.
Phần lớn các công trình nghiên cứu về KNS ở giai đoạn này quan niệm về
KNS theo nghĩa hẹp, đồng nhất nó với các kĩ năng xã hội. Dự án do
UNESCO tiến hành tại một số nước trong đó có các nước Đông Nam Á là
một trong những nghiên cứu có tính hệ thống và tiêu biểu cho hướng
nghiên cứu về kĩ năng sống nêu trên.
Mặc dù, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đã được nhiều nước quan
tâm và cùng xuất phát từ quan niệm chung về kĩ năng sống của Tổ chức Y
tế thế giới hoặc của UNESCO, nhưng quan niệm và nội dung giáo dục kĩ
năng sống ở các nước không giống nhau. Ở một số nước, nội hàm của khái
niệm kĩ năng sống được mở rộng, trong khi một số nước khác xác định nội
hàm của khái niệm kĩ năng sống chỉ gồm những khả năng tâm lí, xã hội.
Quan niệm, nội dung giáo dục kĩ năng sống được triển khai ở các nước
vừa thể hiện cái chung vừa mang tính đặc thù của từng quốc gia. Mặt khác,
ngay trong một quốc gia, nội dung giáo dục kĩ năng sống trong lĩnh vực giáo
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
dục chính quy và không chính quy cũng có sự khác nhau. Trong giáo dục
không chính quy ở một số nước, những kĩ năng cơ bản như đọc, viết, nghe,
nói được coi là những kĩ năng sống cơ sở trong khi trong giáo dục chính quy,
các kĩ năng sống cơ bản lại được xác định phong phú hơn theo các lĩnh vực
quan hệ của cá nhân.
Theo UNESCO, KNS là năng lực cá nhân để họ thực hiện đầy đủ các
chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày với 4 cấp độ:
+ Học để biết: Gồm các kĩ năng tư duy như tư duy phê phán, tư duy
sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc
làm…
+ Học để làm: Gồm các kĩ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như
kĩ năng đặt mục tiêu, kĩ năng đảm nhận trách nhiệm…
+ Học để làm người: Gồm các kĩ năng cá nhân như ứng phó với căng
thẳng, kiềm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…
+ Học để chung sống: Gồm các kĩ năng xã hội như giao tiếp, thương
lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự thông cảm…
Có thể thấy rằng KNS bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần thiết
cho cuộc sống hằng ngày của con người. Về bản chất, đó là kĩ năng tự quản lý
bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập
và làm việc hiệu quả…Nói cách khác, KNS là khả năng làm chủ bản thân của
mỗi con người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội,
khả năng ứng phó trước các tình huống của cuộc sống. KNS hướng vào việc
giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và giá trị trong những hành động
theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng.
- Nghiên cứu xác định mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống
Hội thảo Bali khái quát báo cáo tham luận của các quốc gia tham gia
hội thảo về giáo dục kĩ năng sống cho thanh thiếu niên đã xác định mục
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
tiêu của giáo dục kĩ năng sống trong giáo dục không chính quy của các nước
vùng Châu Á - Thái Bình Dương là: Nhằm nâng cao tiềm năng của con
người để có hành vi thích ứng và tích cực nhằm đáp ứng nhu cầu, sự thay đổi,
các tình huống của cuộc sống hàng ngày, đồng thời tạo ra sự thay đổi và
nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Nghiên cứu xác định chương trình và hình thức giáo dục kỹ năng sống
Đây là nội dung được nhiều công trình nghiên cứu quan tâm. Các
nghiên cứu này cho thấy: C hương trình, tài liệu giáo dục kĩ năng sống
được thiết kế cho giáo dục không chính quy là phổ biến và rất đa dạng về
hình thức. Cụ thể:
+ Lồng ghép vào chương trình dạy chữ (chương trình các môn học) ở
các mức độ khác nhau. Ví dụ: Có nước lồng ghép dạy kĩ năng sống vào các
chương trình dạy chữ cơ bản nhằm xoá mù chữ. Bên cạnh dạy chữ có kết
hợp dạy kĩ năng làm nông nghiệp, kĩ năng bảo tồn môi trường, sức khỏe, kĩ
năng phòng chống HIV/AIDS…
+ Dạy các chuyên đề cần thiết cho người học. Ví dụ: Tạo thu nhập;
Môi trường; Kĩ năng nghề; Kĩ năng kinh doanh.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Thuật ngữ kĩ năng sống được người Việt Nam bắt đầu biết đến từ
chương trình của UNICEF (1996) “Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức
khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà
trường” [10]. Thông qua quá trình thực hiện chương trình này, nội dung của
khái niệm kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống ngày càng được mở rộng.
Trong giai đoạn đầu tiên, khái niệm kĩ năng sống được giới thiệu trong
chương trình này chỉ bao gồm những kỹ năng sống cốt lõi như: Kĩ năng
tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng ra quyết định,
kĩ năng kiên định và kĩ năng đạt mục tiêu. Ở giai đoạn này, chương trình chỉ
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
tập trung vào các chủ đề giáo dục sức khỏe của thanh thiếu niên. Giai đoạn 2
của chương trình mang tên “Giáo dục sống khỏe mạnh và kỹ năng sống”.
Trong giai đoạn này nội dung của khái niệm kỹ năng sống và giáo dục kỹ
năng sống đã được phát triển sâu sắc hơn.
Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là:
Cẩm nang tổng hợp kĩ năng hoạt động thanh thiếu niên, của tác giả Phạm
Văn Nhân (2002) [43]; Kĩ năng thanh niên tình nguyện, tác giả Trần
Thời (1998) [70];
Nguyễn Thanh Bình là tác giả đầu tiên nghiên cứu KNS có hệ thống ở
Việt Nam, ông nghiên cứu theo các hướng chính sau:
- Xác định những vấn đề lí luận cốt lõi về kĩ năng sống và giáo dục
kĩ năng sống.
Theo hướng nghiên cứu này còn có một số công trình nghiên cứu khác
như: Kĩ năng sống cho tuổi vị thành niên [49]; Một số cơ sở tâm lý của việc
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh [50] và những nghiên cứu của một số
tác giả khác [20; 22; 52; 61; 62; 66; 80].
Một số nghiên cứu khác có giá trị quan trọng trong việc thiết lập
quan điểm phương pháp luận cũng như những định hướng và tiếp cận
trong việc nghiên cứu kĩ năng sống, giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ.
Đó là nghiên cứu của các tác giả Đặng Quốc Bảo [4]; Dương Tự Đam
[24]; Phạm Minh Hạc [28; 29]; Phạm Đình Nghiệp [42; 43].
- Nghiên cứu so sánh giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam với một số
quốc gia khác.
Một số công trình nghiên cứu theo hướng nghiên cứu này đã đề cập
đến những thách thức liên quan đến giáo dục pháp luật, giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh như đề tài “Thực trạng phạm tội của học sinh - sinh viên
Việt Nam trong mấy năm gần đây và vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
trường” của tác giả Vương Thanh Hương và Nguyễn Minh Đức [31].
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thanh Bình và cộng sự [10] đã mô tả
sinh động, đầy đủ, hệ thống về tiếp cận và thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh do Ngành giáo dục thực hiện. Ngành giáo dục đã triển khai chương
trình đưa giáo dục kỹ năng sống vào hệ thống giáo dục chính quy và không
chính quy. Nội dung giáo dục của nhà trường phổ thông được định hướng bởi
mục tiêu giáo dục kĩ năng sống.
+ Trong giáo dục trung học phổ thông, giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh đã được triển khai qua chương trình ngoại khóa theo dự án VIE 01/10 do
UNFPA tài trợ. Tài liệu hướng dẫn tổ chức các hoạt động ngoại khóa về giáo
dục kỹ năng sống VTN trong các trường trung học phổ thông đã thể
hiện được cách tiếp cận về kĩ năng sống. Quá trình đưa giáo dục kĩ năng sống
vào chương trình giáo dục học đường, đặc biệt là chương trình giáo dục phổ
thông nêu trên được thực hiện dựa trên những kết quả nghiên cứu về vấn
đề này đồng thời cũng tạo điều kiện để các nghiên cứu về đưa giáo dục kĩ
năng sống vào chương trình giáo dục phổ thông ngày càng phát triển. Hướng
nghiên cứu về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học,
có ưu thế hơn cả trong những nghiên cứu về vấn đề này. Biểu hiện cụ
thể là thông qua bộ môn Sinh học.
Qua tập hợp nghiên cứu, phân tích tổng hợp từ việc khảo sát các đề
tài liên quan ở trong nước và có thể đưa ra một số nhận xét như sau:
- Các đề tài chủ yếu phân tích làm rõ thực trạng trước tính cấp bách
của vấn đề kĩ năng sống, chưa tập trung giải quyết nhiệm vụ nghiên
cứu lí luận một cách có hệ thống về phương pháp, hình thức giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh, sinh viên nói chung và học sinh trung học phổ
thông nói riêng.
- Các đề tài đã đề cập đến những hình thức giáo dục kĩ năng sống
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
cụ thể và chưa có kết quả thử nghiệm rõ ràng, cụ thể nên tính thuyết phục
chưa cao. Một số đề tài nghiên cứu tương đối đầy đủ các nhiệm vụ:
nghiên cứu lí luận, đánh giá thực trạng và đề xuất các biện pháp giáo
dục kĩ năng sống nhưng ở trên đối tượng sinh viên.
Những phân tích trên đây cho thấy, giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh trung học phổ thông mặc dù đã được định hướng bởi mục tiêu,
nội dung chương trình giáo dục những triển khai thực tiễn hoạt động này
trong nhà trường còn rất nhiều hạn chế. Giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh trung học phổ thông mới chỉ được thực hiện như một nội dung,
một mục tiêu phụ của các chương trình/ dự án cho cấp học này. Do vậy,
cần thiết phải khai thác nội lực của chính các hoạt động trong nhà trường
trung học phổ thông nhằm thực hiện có hiệu quả nội dung giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh ở bậc học này.
1.2. Cơ sở lí luận của đề tài
1.2.1. Khái niệm KNS, giáo dục KNS
1.2.1.1. Kỹ năng sống
a. Khái niệm
Kỹ năng sống (life skills) là khái niệm được sử dụng rộng rãi nhằm
vào mọi lứa tuổi trong lĩnh vực hoạt động thuộc các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội. Ngay những năm đầu thập kỷ 90, các tổ chức Liên Hiệp
Quốc (LHQ) như WHO (Tổ chức Y tế Thế giới), UNICEF (Quỹ cứu trợ Nhi
đồng LHQ), UNESCO (Tổ chức Văn hóa, khoa học và Giáo dục của
LHQ) đã chung sức xây dựng chương trình giáo dục Kỹ năng sống cho
thanh thiếu niên. Tuy nhiên, cho đến nay, KNS vẫn là 1 khái niệm chưa có
sự thống nhất cao:
Theo WHO (1993): Kĩ năng sống là năng lực tâm lý xã hội, là khả
năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
cuộc sống. Là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe
mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực
khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh.
Năng lực tâm lý xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức
khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất, tinh thần và xã hội. Kỹ năng sống là
khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã hội này.
Theo UNICEF (UNICEF Thái Lan, 1995): Kĩ năng sống là khả năng
phân tích tình huống và ứng xử, khả năng phân tích cách ứng xử và khả năng
tránh được các tình huống. Các kĩ năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển
dịch kiến thức “cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị “cái chúng ta nghĩ, cảm
thấy, tin tưởng” thành hành động thực tế “làm gì và làm cách nào” là tích
cực nhất và mang tính chất xây dựng.
UNESCO (2003) quan niệm: Kĩ năng sống là năng lực cá nhân để thực
hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả
năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử
tích cực giúp con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu quả các nhu
cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày.
- Do tính chất phức tạp của KNS nên trong thực tế, các tài liệu về
kĩ năng sống đề cập đến mọi lĩnh vực hoạt động từ học tập để chuẩn bị
vào nghề, cách học ngoại ngữ, kỹ năng làm cha mẹ đến tổ chức trại hè. Tuy
nhiên cần phân biệt giữa những kỹ năng để tồn tại (livelihood skills,
survival skills) như học chữ, học nghề, làm toán... với khái niệm KNS đã
được đề cập ở các định nghĩa nêu trên.
Tóm lại, có nhiều cách biểu đạt khái niệm kĩ năng sống. Khái niệm
KNS được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những năng lực tâm lý xã hội
(TLXH). Theo nghĩa rộng, KNS không chỉ bao gồm năng lực tâm lý xã hội
mà còn bao gồm cả những kĩ năng tâm vận động. Do đó, KNS được phát
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
triển cho mọi đối tượng để với những KNS đó con người có thể vận dụng vào
giải quyết các vấn đề xã hội khác nhau, trong các hoàn cảnh và tình huống
khác nhau của từng loại đối tượng. Tuy nhiên, xu hướng chung là sử
dụng khái niệm KNS của UNESCO (sử dụng khái niệm KNS theo nghĩa
rộng) để triển khai các hoạt động phát triển KNS cho các đối tượng trong xã
hội, đặc biệt là thanh thiếu niên.
Như vậy, có thể hiểu: “KNS là khả năng làm cho hành vi và sự thay
đổi của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực giúp con người có thể
kiểm soát, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong
cuộc sống hàng ngày”.
Do tiếp cận kĩ năng sống tương đối đa dạng nên cũng có nhiều cách
phân loại KNS.
b. Phân loại
Theo tổng hợp của tác giả Nguyễn Thanh Bình có 3 cách phân loại sau
đây:
- Phân loại xuất phát từ lĩnh vực sức khỏe: Theo cách phân loại này
có 3 nhóm KN:
+ Nhóm thứ nhất, là nhóm kĩ năng nhận thức bao gồm các kĩ năng,
cụ thể: tư duy phê phán, giải quyết vấn đề, nhận thức hậu quả, tư duy phân
tích, khả năng sáng tạo, tự nhận thức, đặt mục tiêu, xác định giá trị...;
+ Nhóm thứ hai, là các kĩ năng đương đầu với xúc cảm, gồm các kĩ
năng cụ thể: ý thức trách nhiệm, cam kết, kiềm chế sự căng thẳng, kiềm chế
được cảm xúc, tự quản lí, tự giám sát và tự điều chỉnh;
+ Nhóm cuối cùng, là nhóm kĩ năng xã hội (hay kĩ năng tương tác) với
các kĩ năng thành phần: Giao tiếp, quyết đoán, thương thuyết, từ chối, hợp
tác, sự cảm thông chia sẻ, khả năng nhận thấy thiện cảm của người khác.
UNESCO cho rằng cách phân loại KNS theo 3 nhóm nêu trên mới chỉ
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
dừng ở các KNS chung, trong khi đó, còn có những KNS thể hiện
trong những vấn đề cụ thể khác nhau trong đời sống xã hội. Vì thế,
UNESCO đề xuất thêm các KNS như: Vệ sinh, vệ sinh thực phẩm, sức
khỏe, dinh dưỡng; Các vấn đề về giới, giới tính, sức khỏe sinh sản; Ngăn
ngừa và chăm sóc người bệnh HIV/AIDS; Phòng tránh rượu, thuốc lá và ma
túy; Phòng ngừa thiên tai, bạo lực và rủi ro; H òa bình và giải quyết xung
đột; G ia đình và cộng đồng; Giáo dục công dân; Bảo vệ thiên nhiên và môi
trường; Phòng chống buôn bán trẻ em và phụ nữ.
- Với mục đích giúp người học ứng phó với các vấn đề của cuộc
sống và tự hoàn thiện mình, UNICEF phân loại KNS theo các mối quan hệ
của cá nhân với các nhóm KNS:
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kĩ
năng: Kĩ năng tự nhận thức, lòng tự trọng, sự kiên định, đương đầu với
cảm xúc, đương đầu với căng thẳng;
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với người khác, với các kĩ năng
thành phần: Kĩ năng quan hệ tương tác liên nhân cách, sự cảm thông,
đứng vững trước áp lực tiêu cực của bạn bè hoặc của người khác, thương
lượng, giao tiếp có hiệu quả.
+ Nhóm kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, gồm các kĩ năng:
Tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề.
Những cách phân loại nêu trên đã đưa ra bảng danh mục các KNS có
giá trị trong nghiên cứu phát triển lý luận về KNS và chỉ có tính chất
tương đối. Trên thực tế, các KNS có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi
khi tham gia vào một tình huống cụ thể, con người cần phải xử dụng rất nhiều
kĩ năng khác nhau. Ví dụ, khi cần quyết định một vấn đề nào đó, cá nhân phải
sử dụng những kĩ năng như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tư duy phê phán,
kĩ năng tư duy sáng tạo và kĩ năng kiên định...
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
Kết quả nghiên cứu về KNS của nhiều tác giả, đã khẳng định: “Dù
phân loại theo hình thức nào thì một số kĩ năng vẫn được coi là kĩ năng cốt
lõi như: Kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng đương đầu
với cảm xúc, căng thẳng, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn một cách tích cực,
kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng đặt mục tiêu...” .
1.2.1.2. Giáo dục kĩ năng sống
Khái niệm giáo dục cũng được hiểu theo nghĩa rộng, hẹp khác nhau ở
cấp độ xã hội và cấp độ nhà trường. Ở cấp độ nhà trường, khái niệm
giáo dục chỉ quá trình giáo dục tổng thể (dạy học và giáo dục theo
nghĩa hẹp) được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục. Hoạt
động giáo dục là những hoạt động do các cơ sở giáo dục tổ chức thực hiện
theo kế hoạch, chương tình giáo dục, trực tiếp đều hành và chịu trách nhiệm
về chúng. Trong các hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học là nền tảng và
chủ đạo trong các môn học trong nhà trường. Khi tham gia các hoạt động
giáo dục, người học tiến hành các hoạt động của mình theo những nguyên tắc
chung, những mục tiêu chung, những chuẩn mực giá trị chung và những
biện pháp chung, nhờ vậy họ được giáo dục theo những tiêu chí chung.
Kĩ năng sống được hình thành thông qua quá trình xây dựng những
hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ
sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng thích hợp. Do
vậy, kỹ năng sống phải được hình thành cho học sinh thông qua con
đường đặc trưng - hoạt động giáo dục. Theo UNICEF, giáo dục dựa trên
KNS cơ bản là sự thay đổi trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm
tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ, hành vi.
Như vậy, có thể hiểu: “Giáo dục KNS là một quá trình với những hoạt
động giáo dục cụ thể nhằm tổ chức, điều khiển để học sinh biết cách
chuyển dịch kiến thức (cái học sinh biết) và thái độ, giá trị (cái học sinh
nghĩ, cảm thấy, tin tưởng) thành hành động thực tế (làm gì và làm cách
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
nào) một cách tích cực và mang tính chất xây dựng”.
1.2.2. Các thành tố cấu trúc của giáo dục KNS cho học sinh THPT
Thành tố cấu trúc giáo dục KNS bao gồm: Mục tiêu, nội dung, phương
pháp giáo dục.
* Mục tiêu của giáo dục KNS cho học sinh THPT
Ngoài việc làm thay đổi nhận thức cho học sinh còn tập trung vào mục
tiêu xây dựng hoặc làm thay đổi hành vi của học sinh theo hướng tích cực,
đối với các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Giáo dục KNS giúp học sinh
THPT hiểu được những tác động mà hành vi và thái độ của mình có thể
gây ra, có thái độ và hành vi tích cực đối với môi trường tự nhiên, môi
trường xã hội, đối với các vấn đề của cuộc sống. Từ đó sẽ biết ứng dụng
những nguyên tắc phát triển bền vững vào cuộc sống của mình, giúp các em
thích ứng với cuộc sống hiện đại không ngừng biến đổi.
* Nội dung giáo dục KNS cho học sinh THPT
Nội dung giáo dục KNS cho học sinh THPT là những KNS cốt lõi cần
hình thành và phát triển cho các em. Theo giới hạn nghiên cứu của luận
văn ch ú ng tô i tập trung vào các kĩ năng:
+ Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin
+ Kĩ năng giải quyết vấn đề;
+ Kĩ năng quản lí thời gian;
+ Kĩ năng tư duy sáng tạo;
+ Kĩ năng đặt mục tiêu;
+ Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm;
+ Kĩ năng tự nhận thức;
+ Kĩ năng hợp tác;
+ Kĩ năng giao tiếp;
+ Kĩ năng lắng nghe tích cực.
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
1- Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, kĩ năng tìm kiếm và xử lí
thông tin là một KNS quan trọng giúp con người có thể có được những thông
tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính xác, kịp thời.
Để tìm kiếm và xử lí thông tin, chúng ta cần:
- Xác định rõ chủ đề mà mình cần tìm kiếm thông tin là chủ đề gì.
- Xác định các loại thông tin về chủ đề mà mình cần phải tìm kiếm là gì.
- Xác định các nguồn / các địa chỉ tin cậy có thể cung cấp những loại
thông tin đó (vi dụ: Sách, báo, mạng internet, cán bộ các cơ qua / tổ chức có
liên quan , bạn bè, người quen…).
- Lập kế hoạch thời gian và liên hệ trước với những người có liên quan
đến việc cung cấp thông tin, nếu có.
- Chuẩn bị giấy tờ, phương tiện, bộ công cụ để thu thập thông tin (ví
dụ: máy tính, máy ghi âm, phiếu hỏi, bộ câu hỏi phỏng vấn,…), nếu cần thiết.
- Tiến hành thu thập thông tin theo kế hoạch đã xây dựng.
- Sắp xếp các thông tin thu thập được theo từng nội dung và một cách
hệ thống.
- Phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc
biệt là các thông tin trái chiều; xem xét một cách toàn diện, thấu đáo, sâu sắc
và có hệ thống các thông tin đó.
- Viết báo cáo, nếu được yêu cầu.
- Ví dụ: GV yêu cầu HS tìm kiếm thông tin kênh hình, kênh chữ) hình
thành khái niệm virut
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
Hoạt động của GV
- GV yêu cầu HS
Hoạt động của HS
- HS hoạt động cá nhân quan sát hình
Em hãy quan sát hình và đọc thông 29.1 và đọc thông tin (Tìm kiếm và
xử lí thông tin), cần trả lời
tin SGK trả lời câu hỏi
Vi rút là gì?
KN: + Cấu trúc, hình thái
+ Đặc điểm sống…
2- Kĩ năng giải quyết vấn đề.
Kĩ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa
chọn phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết
vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống. Giải quyết vấn đề có liên
quan tới kĩ năng ra quyết định và cần nhiều KNS khác như: Giao tiếp, xác
định giá trị, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, tìm kiếm sự hỗ trợ, kiên định…
Để giải quyết vấn đề có hiệu quả, chúng ta cần:
- Xác định rõ vấn đề hoặc tình huống đang gặp phải, kể cả tìm kiếm
thêm thông tin cần thiết.
- So sánh các phương án để đưa ra quyết định cuối cùng.
- Liệt kê các cách giải quyết vấn đề / tình huống đã có.
- Hình dung đầy đủ về kết quả xảy ra nếu ta lựa chọn phương án giải
quyết nào đó.
- Xem xét về suy nghĩ và cảm xúc của bản thân nếu thực hiện phương
án giải quyết đó.
- Hành động theo quyết định đã lựa chọn.
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
- Kiểm định lại kết quả để rút kinh nghiệm cho những lần ra quyết định
và giải quyết vấn đề sau.
- Ví dụ: Khi dạy hoạt động 1 – Bài 11: Vận chuyển các chất qua màng
sinh chất, GV thiết kế câu hỏi đặt vấn đề và yêu cầu HS giải quyết vấn đề như
sau:
Hoạt động của GV
Hoạt động 1:
Hoạt động của HS
1. Vận chuyển thụ động
a. Khái niệm
b. Các kiểu vận chuyển qua màng
- GV yêu cầu HS quan sát hình 11.1, - HS quan sát hình 11.1 và nghiên
trả lời câu hỏi
cứu thông SGK, trả lời câu hỏi
Các chất được vận chuyển qua - Đại diện nêu được 3 cách vận
màng bằng cách nào?
chuyển:
Điều kiện xảy ra sự vận chuyển - HS trả lời câu hỏi (Giải quyết vấn
thụ động là gì?
đề):
+ Kích thước của chất vận chuyển
nhỏ hơn đường kính lỗ màng
+ Có sự chênh lệch về nồng độ
+ Nếu vận chuyển có chọn lọc (Ví dụ:
vận chuyển các ion) thì cần protein
đặc hiệu
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khoa: Sinh - KTNN
3- Kĩ năng quản lí thời gian
Kĩ năng quản lí thời gian là khả năng con người biết sắp xếp các công
việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng điểm
trong một thời gian nhất định.
Kĩ năng này rất cần thiết cho việc giải quyết vấn đề, lập kế hoạch, đặt
mục tiêu và đạt được mục tiêu đó; đồng thời giúp con người tránh được căng
thăng do áp lực công việc.
- Ví dụ: Khi dạy hoạt động 2 - Bài 1: Các cấp tổ chức của thế giới
sống, GV thiết kế hoạt động nhóm yêu cầu HS quản lí thời gian như sau:
Hoạt động của GV
Hoạt động 2:
Hoạt động của HS
II. Đặc điểm chung của các cấp tổ
chức sống:
1. Tổ chức theo nguyên tắc thứ bậc:
- GV yêu cầu các nhóm thảo luận - HS thảo luận (3 phút - quản lí thời
theo câu hỏi (3 phút)
gian), cử đại diện trình bày.
Cho ví dụ về tổ chức thứ bậc và - Các nhóm còn lại bổ sung.
đặc tính nổi trội của các cấp tổ chức
sống.
Nguyên tắc thứ bậc: Tổ chức sống
- GV nhận xét, kết luận.
cấp dưới làm nền tảng xây dựng
nên tổ chức sống cấp trên.
Ví dụ: SGK
Ngoài đặc điểm của tổ sống cấp
thấp, tổ chức cấp cao còn có những
đặc tính riêng gọi là đặc tính nổi
trội.
Ví dụ: SGK
GVHD.Thạc sỹ - An Biên Thùy
SV. Hồ Thị Hồng Gấm