Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Ứng dụng công nghệ thông tin thiết kế công cụ hỗ trợ sinh viên tự học môn sinh lý học thực vật theo học chế tín chỉ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.99 MB, 42 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
tới thầy La Việt Hồng đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em.
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong
khoa Sinh-KTNN; thầy cô trong Tổ Sinh lý thực vật - Hóa sinh, ĐHSP Hà
Nội 2; bạn Trần Quang Khải - sinh viên khoa Sinh - KTNN, ĐHSP Hà Nội 2.
Trong quá trình thực hiện do thời gian có hạn và bước đầu làm quen
với những phương pháp nghiên cứu khoa học nên không tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các
bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn !
Xuân Hòa, ngày 14 tháng 05 năm 2011
Sinh viên thực hiện

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin khẳng định kết quả nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp này.
- Là kết quả của tôi được thực hiện tại trường ĐHSP Hà Nội 2
- Hoàn toàn không trùng lặp hoặc sao chép kết quả của người khác.
Xuân Hòa, ngày 14 tháng 05 năm 2011

ii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

SV:

Sinh viên



HCTC:

Học chế tín chỉ

CNTT:

Công nghệ thông tin

TC:

Tín chỉ

GDĐH:

Giáo dục đại học

ĐH:

Đại học

HP:

Học phần

HC:

Học chế

iii



DANH MỤC HÌNH VÀ BẢNG
STT

TÊN BẢNG

TRANG

1

Bảng 1: Kết quả một số kênh sách liên quan đến học phần sinh
lý học thực vật
Bảng 2: Kết quả các kênh phim minh họa cho học phần sinh lý

19

2

STT

học thực vật
TÊN HÌNH

22

TRANG

1


Hình 1: Giao diện file SINH LY TV

26

2

Hình 2: Cách thiết kế trang chủ

26

3

Hình 3: Cách chèn hình ảnh

27

4

Hình 4: Giao diện thư mục video minh họa chương 1

28

5

Hình 5: Giao diện trang con

29

6


Hình 6: Giao diện trang chủ

30

7

Hình 7: Giao diện trang con với kiến thức cơ bản

31

8

Hình 8: Giao diện video minh họa

32

iv


Một số từ khóa tìm kiếm tài liệu
Chương 1 : Sinh lý tế bào thực vật

Tiếng việt

Tiếng anh

Hiện tượng thẩm thấu

Osmosis phenomenon


Hiện tượng khuếch tán

Phenomenon diffusion

Quá trình nguyên phân

The process of mitosis

Quá trình giảm phân

The process of miosis

Vận chuyển chủ động

Active transport

Vận chuyển thụ động

Passive transport

Xuất bào

Exocytosis

Nhập bào

Endocytosis

Chương 2: Trao đổi nước ở thực vật
Tiếng việt


Tiếng anh

Vận chuyển nước ở thực vật

Transport water in plant

Hấp thụ nước ở rễ

Absorption root

Áp lực của rễ

Root pressure

Thoát hơi nước ở lá

Transpiration

Chương 3: Nitơ và dinh dưỡng khoáng
Tiếng việt

Tiếng anh

Chu trình Nitơ

Nitrogen cycle

v



Chương 4: Quang hợp ở thực vật
Tiếng việt

Tiếng anh

Quá trình quang hợp

Photosynthesis process

Quá trình tổng hợp ATP

Synthesis ATP

Chương 5: Hô hấp ở thực vật
Tiếng việt

Tiếng anh

Hô hấp ở thực vật

Plant Respiration

Chương 6: Sinh trưởng và phát triển ở thực vật
Tiếng việt

Tiếng anh

Sinh trưởng ở thực vật


Growth in plants

vi


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................. 2
4. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn ....................................................................... 2
NỘI DUNG ................................................................................................. 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN................................................................ 3
1.1 Tự học và các giai đoạn của tự học...................................................... 3
1.2 Đổi mới giáo dục và đào tạo theo tín chỉ ............................................. 6
1.3 Vai trò của các phương tiện trực quan đối với vấn đề tự học ............ 10
1.4 Giới thiệu về Internet và công nghệ thông tin..................................... 11
1.5 Môn Sinh lý thực vật theo học chế tín chỉ dành cho sinh viên chuyên
ngành sinh học............................................................................................ 15
CHƯƠNG 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............ 17
2.1 Vật liệu nghiên cứu............................................................................... 17
2.2 Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 17
CHƯƠNG 3: HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ CÔNG CỤ HỖ TRỢ TỰ HỌC
CHO SINH VIÊN VÀ KẾT QUẢ.............................................................. 18
3.1 Hướng dẫn tìm kiếm tài liệu trên Internet.......................................... 18
3.1.1 Cách tìm kiếm tài liệu trên Internet................................................. 18
3.1.2 Một số kết quả tìm kiếm tài liệu trên Internet ................................. 19
3.2 Thiết kế công cụ hỗ trợ tự học bằng phần mềm Dreamweaver ......... 24
3.3 Kết quả thiết kế công cụ hỗ trợ tự học ................................................ 30
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.................................................................... 33

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 34

vii


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Sinh lý học thực vật (plant physiology) là ngành khoa học nghiên cứu
về các hoạt động sinh lý trong thực vật và ảnh hưởng của các điều kiện sinh
thái tới các quá trình này, từ đó đưa ra biện pháp nhằm khai thác cây trồng
theo hướng có lợi cho con người. Các hoạt động sinh lý cơ bản như: quang
hợp, hô hấp, dinh dưỡng, các chức năng của hoocmon, quá trình vận chuyển
các chất hữu cơ và quan hệ với chế độ nước của cây trồng …[5], [10].
Các quá trình sinh lý trong thực vật, mang bản chất lý sinh, hóa sinh…
diễn ra trong thời gian dài. Hơn nữa, việc bố trí thí nghiệm để chứng minh,
minh họa hay tìm hiểu cơ chế các quá trình sinh lý thì phức tạp, đòi hỏi các
phương tiện thiết bị hiện đại và mất nhiều thời gian… Do đó các kiến thức
của môn học vừa mang tính tư duy vừa mang tính cụ thể và đối với sinh viên
học theo chế độ tín chỉ lại càng gặp phải nhiều khó khăn hơn nữa. Khi mà
thầy, cô đóng vai trò là người hướng dẫn còn chính bản thân sinh viên phải tự
tìm tòi, khám phá và lĩnh hội tri thức. Hay nói cách khác là đòi hỏi tối đa tính
tích cực chủ động sáng tạo của người học. Hơn nữa, hình thức đánh giá kiểm
tra phải theo yêu cầu của từng học phần và khối lượng tài liệu quy định,
không chỉ dựa vào những điều mà giảng viên vẫn trình bày như lâu nay.
Ngày nay, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ đang dần trở thành
công cụ đắc lực cho tất cả các lĩnh vực trong xã hội. Trong đó có lĩnh vực dạy
và học. Nhờ vào Internet, các phần mềm đồ họa, tạo video, website… các nhà
sinh học, giáo viên có thể tạo cho mình những phim, ảnh, web để chia sẻ và
phục vụ cho việc dạy và học một cách hiệu quả hơn.
Xuất phát từ những lý do trên nên chúng tôi đã lựa chọn và tiến hành đề

tài: “Ứng dụng công nghệ thông tin thiết kế công cụ hỗ trợ sinh viên tự
học môn Sinh lý học thực vật theo học chế tín chỉ”.

1


2. Mục đích nghiên cứu
Khai thác, ứng dụng Internet và phần mềm Dreamweaver để thiết kế
công cụ nhằm hỗ trợ sinh viên tự học môn sinh lý học thực vật.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa kiến thức của một số quá trình sinh lý cơ bản trong học
phần sinh lý học thực vật.
- Khai thác tìm kiếm nguồn tài liệu sách, video trên Internet về các quá
trình sinh lý trong thực vật.
- Sử dụng phần mềm Dreamweaver để thiết kế công cụ hỗ trợ việc tự
học của sinh viên dưới giao diện website.
4. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: cung cấp thêm tài liệu tham khảo nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động tự học của sinh viên đại học chuyên ngành sinh học.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Nâng cao kĩ năng khai thác Internet và sử dụng phần mềm thiết kế
website Dreamweaver.
+ Cung cấp cho sinh viên chuyên ngành sinh học CD hỗ trợ tự học sinh
lý thực vật.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1 Tự học và các giai đoạn của tự học
Tự học, trước tiên xuất phát từ chính nhu cầu muốn học hỏi, muốn gia
tăng sự hiểu biết để làm việc và để sống tốt hơn của con người. Dù bị động
hay chủ động thì bản thân mỗi con người khi đứng trước vấn đề khó khăn đều
mong muốn hoàn thành nó hoặc giải quyết nó theo các chiều hướng khác
nhau, tích cực hoặc tiêu cực.
Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Cốt lõi của sự học ở người
học là tự học”. Hễ có học là có tự học. Khi nói học là hàm ý có xét đến mối
quan hệ của người học với ngoại lực, tức là dạy. Còn khi nói tự học là chỉ xét
riêng nội lực ở người. Ngoại lực tác động đến nội lực như thế nào là thước đo
chất lượng dạy học và cần tạo nên sự cộng hưởng của nội lực để đạt kết quả
cao trong dạy học. Còn nội lực của tự học chính là các yếu tố tâm lí của mỗi
người như: ý thức, động cơ, thái độ, hứng thú, nhu cầu, tình cảm,… Hay nói
cách khác, muốn có thể tiến hành tự học được và tự học có kết quả thì trước tiên
phải có sự tham gia tích cực của các yếu tố tâm lý trên - đó là nội lực [2], [9].
Như vậy có thể hiểu: Tự học là hình thức tổ chức hoạt động nhận thức
có tính chất cá nhân, là quá trình người học tổ chức hoạt động nhận thức và
được tiến hành ở trên lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo
khoa đã được in ấn. Nó diễn ra khi còn ngồi trên ghế nhà trường và khi đã ra
trường.
Tự học còn là quá trình người học tự giác bằng hành động của chính
mình nhằm chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo tương ứng và các
phẩm chất cá nhân. Khi người học tự giác phát huy hết phẩm chất và năng lực
của mình để chiếm lĩnh tri thức có nghĩa là tự học.

3


* Vai trò của tự học
- Tự học giúp sinh viên tự nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo về nghề

nghiệp tương lai. Ở đây, sinh viên đã thể hiện ở mức độ cao vai trò chủ thể
nhận thức của mình, kết hợp và thống nhất một cách hài hòa vai trò chủ thể
nhận thức với vai trò đối tượng điều khiển trong hoạt động dạy học.
- Tự học không những giúp sinh viên không ngừng năng cao chất lượng
học tập khi ngồi trên ghế trường đại học mà trong tương lai còn trở thành
người cán bộ khoa học kỹ thuật có năng lực, hứng thú, thói quen, có phương
pháp tự học thường xuyên, suốt đời.
- Tự học còn giúp sinh viên hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện ý
chí phấn đấu, đức kiên trì, óc phê phán, bồi dưỡng hứng thú học tập, lòng say
mê nghiên cứu khoa học… [2].
* Hoạt động tự học có thể chia làm 4 giai đoạn sau
Thu thập thông tin: hiện nay lượng thông tin rất đa dạng và phong phú
cả về thể loại và chủng loại, được thể hiện dưới nhiều loại văn bản, hình ảnh,
âm thanh,… Để tự học có hiệu quả, người học cần phải rèn luyện cho mình kỹ
năng lựa chọn các tài liệu sao cho đúng, đủ, hợp lý, để nâng cao chất lượng tự
học, tự nghiên cứu của bản thân [4].
Xử lí thông tin: để kiến thức tự học có được một cách bền vững và có
thể vận dụng được vào trong thực tiễn, người học cần phải sắp xếp chúng một
cách có hệ thống. Muốn vậy, người học phải thực hiện một loạt các thao tác
khác nhau như tóm tắt, phân loại, xác lập các mối liên hệ, biểu diễn bằng sơ
đồ logic,… kiến thức được sắp xếp trong vỏ não một cách có hệ thống. Có
cấu trúc sẽ giúp người học dễ nhớ, dễ sử dụng khi cần thiết. Do vậy, kỹ năng
hệ thống hóa tri thức có vị trí quan trọng trong việc lưu giữ thông tin. Đây là
giai đoạn quan trọng quyết định đến khối lượng kiến thức tiếp thu được [4].

4


Vận dụng: việc vận dụng tri thức vào thực tiễn vừa là mục đích tự thân
của việc học, vừa là quá trình bổ sung, mở rộng, đào sâu, làm giàu tri thức cá

nhân. Vận dụng tri thức vào thực tiễn bao gồm cả việc vận dụng kiến thức đã
có để giải quyết các vấn đề thuộc về nhận thức và việc vận dụng kiến thức
vào thực tiễn sản xuất đời sống, sinh hoạt hằng ngày như làm bài tập, bài thực
hành, làm thí nghiệm,… [4].
Tự kiểm tra đánh giá: tự kiểm tra, đánh giá là một kỹ năng quan trọng
trong tự học bởi vì chỉ khi qua tự kiểm tra, đánh giá thì người học mới biết
được trình độ tự học của mình đạt đến mức độ nào và có biện pháp điều chỉnh
phương pháp tự học để đạt hiệu quả cao hơn. Việc kiểm tra phải được tiến
hành thường xuyên trong quá trình tự học bằng nhiều hình thức khác nhau
qua hệ thống các câu hỏi và bài tập nhận thức cụ thể [4].
Bản chất của quá trình tự học là không có sự hướng dẫn của giáo viên
nên đòi hỏi nỗ lực, tích cực hóa hoạt động nhận thức của SV. Sự tự kiềm chế
đối với những ảnh hưởng ngoại cảnh hay ước muốn không hợp lẽ trong tư
tưởng là điều kiện cần thiết đối với quá trình tự học. Đây cũng là điều kiện
giúp SV nâng cao chất lượng học tập của bản thân và các trường đại học cũng
sẽ nâng cao được chất lượng đào tạo, hoàn thành mục tiêu giáo dục.
* Thực trạng tự học hiện nay của sinh viên
Tự học là yếu tố quyết định đến kết quả học tập của SV trong đào tạo
theo học chế tín chỉ (HCTC). Để nắm bắt một cách toàn diện những kiến thức
chuyên môn ở bậc đại học đòi hỏi SV phải có nhiều nỗ lực trong hoạt động
học tập đặc biệt phải dành nhiều thời gian cho tự học và tự nghiên cứu dưới
sự hướng dẫn của giảng viên [11].
Trên thực tế hiện nay, hoạt động tự học của SV ở mỗi trường là khác
nhau. Nhưng nói chung còn nhiều hạn chế, trong đó SV chưa dành nhiều thời
gian cho việc tự học, chưa xây dựng và rèn luyện kỹ năng tự học cho bản
thân, hình thức tự học chưa hợp lý... Ngoài ra thì nhà trường vẫn chưa đáp

5



ứng được nhu cầu về cơ sở vật chất cho quá trình tự học như là phòng học,
thư viện, phòng thí nghiệm. Đặc biệt là thiếu nguồn tư liệu học tập như giáo
trình, tài liệu tham khảo. Chính vì vậy cần nghiên cứu vấn đề tự học của SV
hiện nay để đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tự học của SV
góp phần năng cao chất lượng học tập và kết quả đào tạo.
Trong HCTC, SV tự nghiên cứu, tự tìm hiểu tài liệu để có kiến thức.
Giảng viên chỉ là người cung cấp những nguồn tài liệu phù hợp và định
hướng để cách tiếp cận của SV dễ dàng và đúng đắn hơn. Để có được khối
lượng kiến thức đáp ứng yêu cầu cũng như hình thành các kỹ năng khác thì
mỗi SV cần bỏ ra rất nhiều thời gian tự học. Nếu SV không tự học mà chỉ học
máy móc câu chữ của giảng viên thì những gì tiếp thu được chỉ là định hướng
rất chung chung và không có hiểu biết sâu sắc vấn đề. Từ đó dẫn đến kết quả
học tập không như mong muốn và không đạt yêu cầu đề ra đối với môn học.
Có thể nói, đa số SV hiện nay nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng
của tự học đối với bản thân. Tuy nhiên, trên thực tế chỉ mới dừng lại ở mặt
nhận thức. Do đó, muốn thúc đẩy tự học SV cần đầu tư về cơ sở vật chất còn
giảng viên phải là người hướng dẫn SV tự học.
1.2 Đổi mới giáo dục và đào tạo theo tín chỉ
Trong thời đại bùng nổ thông tin và kinh tế tri thức, đòi hỏi sản phẩm
đào tạo cần có trình độ học vấn và chuyên môn cao, có năng lực sáng tạo,
dùng tri thức để tạo ra sản phẩm trí tuệ, có khả năng cập nhật tri thức mới và
tự học suốt đời. Vì vậy, cơ sở đào tạo không chỉ cung cấp kiến thức mà còn
giúp người học có phương tiện và kỹ năng tự đào tạo [7]. Nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo là yêu cầu sống còn của các trường đại học trong
giai đoạn mở rộng giáo dục hiện nay. Công cuộc đổi mới và cải cách giáo dục
có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của đất nước. Đảng và nhà nước ta

6



luôn có những chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy cho sự phát triển của nền
giáo dục.
Trên thế giới học chế tín chỉ đã được áp dụng rộng rãi trong tất cả các
trường đại học. Vào đầu thế kỷ XX, HCTC được áp dụng ở hầu hết các
trường đại học ở Hoa Kỳ. Tiếp đó nó được lan tỏa ra nhiều nước như Canada,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippin, Malaixia, Indônêxia, Ấn Độ, … tại Trung
Quốc từ cuối thập niên 80 (thế kỷ XX) đến nay, HCTC cũng lần lượt được áp
dụng ở nhiều trường đại học.
Ở Việt Nam, trước năm 1975 một số trường đại học ở Miền nam đã áp
dụng HCTC như Viện Đại học Cần Thơ (nay là Đại học Cần Thơ), Viện Đại
học Thủ Đức,… Vào năm 1987, Bộ giáo dục và Đào tạo chủ trương triển khai
trong các trường đại học theo quy trình đào tạo 2 giai đoạn và mô đun hóa
kiến thức. Theo đó học chế học phần được ra đời và chính thức được triển
khai trong toàn bộ hệ thống các trường đại học và cao đẳng nước ta từ năm
1988 đến nay. Việc chuyển đổi sang HCTC nhằm tạo một HC mềm dẻo
hướng về người học. Song song với quá trình đó có những quyết định và nghị
định của chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã được ban hành như sau:
- Quyết định của bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thí điểm tổ
chức đào tạo, kiểm tra, thi và công nhận tốt nghiệp đại học, cao đẳng chính
qui theo học chế tín chỉ [20].
- Căn cứ nghị định số 15/CP ngày 02/3/1993 của chính phủ về nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ
[20].
- Căn cứ nghị định số 29/CP ngày 30/31994 của chính phủ về nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ giáo dục và Đào tạo [20].
- Căn cứ Quyết định số 04/1999/QĐ-BGD&ĐT ngày 11/02/1999 của
Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo về việc ban hành qui chế tổ chức đào tạo,

7



đánh giá kết quả học tập, xét và công nhận tốt nghiệp đại học và cao đẳng
chính qui (hay còn gọi là qui chế 04) [20].
- Chỉ thị số 55/CT-BGD&ĐT ngày 30/09/2008 về tăng cường giảng
dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn
2008-2012 [20].
- Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/04/2007 của chính phủ về ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan Nhà nước [20].
- Công văn số 10/TB-VPCP ngày 21/01/2008 về kết luận của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp về đào tạo theo nhu cầu xã hội và thực
hiện cho vay để học đại học, cao đẳng và dạy nghề [20].
- Công văn số 9772/BGD&ĐT- CNTT ngày 23/10/2008 về việc hướng
dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học 2008 – 2009 [20].
- Quy định đào tạo hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (Ban hành kèm
theo quyết định số 376/QĐ-ĐHSPHN 2 ngày 06/09/2010 của Hiệu trưởng
Trường ĐHSP Hà Nội 2) [16].
a. Vài nét về học chế tín chỉ
Hiện nay có khá nhiều định nghĩa về tín chỉ, ở đây tôi xin nêu cách
hiểu trong “ Qui chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính qui theo hệ thống
tín chỉ” (thường gọi là Qui chế 43). Nghị quyết 14/2005/NQ-CP của chính
phủ ban hành ngày 2/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại
học (GDĐH) Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020: xây dựng và thực hiện lộ trình
chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ (TC) tạo điều kiện thuận lợi
để người học tích lũy kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển
tiếp tới các cấp học tiếp theo ở trong nước và ở nước ngoài [12].
b. Đặc điểm của học chế tín chỉ
Tín chỉ là khối lượng học tập gồm một tiết học lý thuyết (50 phút) trong
một tuần và kéo dài một học kỳ (15 tuần – 18 tuần). Thông thường, các tiết

8



học loại khác nhau: thực tập thí nghiệm, vẽ, nhạc, đi thực địa, thực hành nghệ
thuật, thể dục,… cứ 3 tiết một (kéo dài một học kỳ) được tính một TC. Ngoài
ra, còn có quy định: để chuẩn bị cho một tiết lên lớp, SV phải bỏ ra ít nhất 2
tiết làm việc ở ngoài lớp. Như vậy lao động học tập của SV có một phần “nổi”
tính theo tiết học ở lớp và một phần “chìm” là thời gian tự học.
Để đạt được bằng cử nhân mỗi SV phải tích lũy 120-136 TC (Hoa Kỳ),
120-135 TC (Nhật Bản), 120-150 TC (Thái Lan)… đối với bằng thạc sĩ, học
viên phải tích lũy 30-36 TC (Hoa Kỳ), 30 TC (Nhật Bản), 36 TC (Thái Lan).
Theo quy ước của hệ thống tín chỉ Châu Âu, khối lượng lao động của một SV
chính quy trung bình được tính bằng 60 TC/ một năm học. Khi tổ chức giảng
dạy theo TC, đầu mỗi học kỳ SV được đăng ký các môn học thích hợp với
năng lực và hoàn cảnh của họ, đồng thời phù hợp với quy định chung nhằm
đạt được kiến thức theo một ngành đào tạo nào đó. Sự lựa chọn các môn học
rất rộng rãi, SV có thể ghi tên các môn học liên ngành nếu họ thích. SV không
chỉ giới hạn học các môn chuyên môn mà còn cần học các môn học khác lĩnh
vực. Ví dụ: SV ngành khoa học tự nhiên và kỹ thuật cần phải học một số môn
khoa học xã hội, nhân văn và ngược lại. Về kết quả ĐH, hệ thống TC dùng
cách đánh giá thường xuyên và đối với các chương trình đào tạo sau ĐH còn
có thêm các kỳ thi tổng hợp và các luận văn.
c. Các ưu điểm của học chế tín chỉ
- Có hiệu quả đào tạo cao: học chế TC cho phép ghi nhận tiến trình
tích lũy kiến thức và kỹ năng của SV để kịp thời nhận được văn bằng. SV
được chủ động lên kế hoạch học tập cho mình và được quyền lựa chọn tiến độ
học tập phù hợp với khả năng, sở trường và hoàn cảnh của riêng mình. Điều
đó đảm bảo cho việc đào tạo ở các trường đại học trở nên mềm dẻo hơn đồng
thời cũng tạo khả năng cho việc thiết kế chương trình liên thông giữa các cấp
đào tạo đại học và giữa các ngành đào tạo khác nhau.


9


- Có tính mềm dẻo và khả năng thích ứng cao: với học chế TC, SV có
thể chủ động ghi tên các học phần (HP) khác nhau dựa trên những quy định
chung về cơ cấu và khối lượng của từng lĩnh vực kiến thức. Nó cho phép SV
dễ dàng thay đổi chuyên ngành trong tiến trình học tập khi cần thiết mà không
phải học lại từ đầu. Cũng do vậy, với học chế TC, các trường đại học có thể
mở thêm ngành học mới một cách dễ dàng khi nhận được tín hiệu về nhu cầu
của thị trường lao động và tình hình lựa chọn ngành nghề của SV.
- Đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo: với học
chế TC, kết quả học tập của sinh viên được tính theo từng học phần chứ
không phải năm học do đó, việc hỏng một học phần nào đó không cản trở quá
trình học tiếp tục, SV không bị quay lại học từ đầu. Chính vì vậy, giá thành
đào tạo theo học chế TC thấp hơn so với đào tạo theo niên chế.
d. Nhược điểm và cách khắc phục
Học chế tín chỉ cắt vụn kiến thức: phần lớn các mô đun trong học chế
tín chỉ được quy định tương đối nhỏ, 3 hoặc 4 TC. Do vậy sẽ không đủ thời
gian để trình bày kiến thức thực sự có đầu đuôi theo một trình tự diễn biến
liên tục. Người ta khắc phục nhược điểm này bằng cách không cắt vụn kiến
thức quá nhỏ dưới 3 TC và trong những năm cuối thường thiết kế các môn
học, tổ chức các kỳ thi có tính tổng hợp để SV có cơ hội liên kết tổng hợp các
kiến thức.
1.3 Vai trò của các phương tiện trực quan đối với vấn đề tự học
Phương tiện trực quan có ý nghĩa quan trọng đối với nhu cầu tự học của
SV. Đặc biệt là môn Sinh học nói chung và môn Sinh lý thực vật nói riêng.
Các kênh phim, kênh hình,… có vai trò quan trọng, cho phép giới thiệu các cơ
chế sinh lí, sinh hóa, các quá trình sinh học, các quy trình công nghệ, kỹ
thuật,… Với sự xâm nhập kỹ thuật của các phương tiện nghe nhìn và qua
Internet thì mọi người có thể trao đổi những tài liệu học tập. Giúp cho quá

trình nhận thức được tốt hơn và luôn luôn thực hiện được trong các điều kiện

10


khác nhau. Có thể nói phương tiện trực quan được sử dụng để minh họa, bổ
sung lời giảng của thầy trong các phương pháp dùng lời làm nguồn phát thông
tin dạy học, nó còn được sử dụng là phương tiện thông tin chủ yếu để qua đó
SV tự lĩnh hội tri thức mới. Không những thế các bạn SV có thể dễ dàng trao
đổi và chia sẻ những tài liệu học tập với nhau. Đẩy mạnh và nâng cao việc sử
dụng các phương tiện vào quá trình dạy và học. Góp phần tích cực vào sự
phát triển của nền giáo dục, thường những phương tiện trực quan có nội dung
phản ánh những yếu tố rồi phân tích, so sánh có thể rút ra sự giống nhau, khác
nhau, những kết luận khái quát, qua đó giúp người học tìm ra các đặc điểm
cấu tạo phù hợp với chức năng sinh lý của chúng [3].
1.4 Giới thiệu về Internet và công nghệ thông tin
Ngày nay, Internet trở nên rất thông dụng và gắn với cuộc sống của con
người. Nhưng không phải người dùng Internet nào cũng biết nguồn gốc và sự
phát triển của nó. Tiền thân của mạng Internet hiện nay là mạng ARPANET.
Cơ quan quản lý dự án nghiên cứu phát triển ARPA thuộc bộ quốc phòng Mỹ
liên kết 4 địa điểm đầu tiên vào tháng 7 năm 1968 bao gồm: Viện nghiên cứu
Stanford, Đại học California, Los Angeles, Đại học tổng hợp Utah và Đại học
California, Santa Barbara. Đó chính là mạng liên khu vực (Wide Area
Network-WAN) đầu tiên được xây dựng [15], [23].
Thuật ngữ Internet xuất hiện lần đầu vào khoảng năm 1974. Lúc đó
mạng vẫn được gọi là ARPANET. Năm 1983, giao thức TCP/IP chính thức
được coi như một chuẩn đối với ngành quân sự Mỹ và tất cả các máy tính nối
với ARPANET phải sử dụng chuẩn mới này. Giao thức TCP/IP ngày càng thể
hiện rõ các điểm mạnh của nó, quan trọng nhất là khả năng liên kết các mạng
khác với nhau một cách dễ dàng. Chính điều này cùng với các chính sách mở

cửa đã cho phép các mạng dùng cho nghiên cứu và thương mại kết nối với
ARPANET, thúc đẩy việc tạo ra một siêu mạng. Năm 1980, ARPANET được
đánh giá là mạng trụ cột của Internet.

11


Mốc lịch sử quan trọng của Internet được xác lập vào giữa thập kỷ
1980 khi tổ chức khoa học quốc gia Mỹ NSF thành lập mạng liên kết các
trung tâm máy tính lớn với nhau gọi là NSFNET. Nhiều doanh nghiệp đã
chuyển từ ARPANET sang NSFNET và do đó sau gần 20 năm hoạt động,
ARPANET không còn hiệu quả đã ngừng hoạt động vào khoảng năm 1990.
Sự hình thành mạng xương sống của NSFNET và những mạng vùng khác đã
tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của Internet. Tới năm 1995,
NSFNET thu lại thành một mạng nghiên cứu còn Internet thì vẫn tiếp tục phát
triển. Với khả năng kết nối mở như vậy, Internet đã trở thành mạng lớn nhất
trên thế giới xuất hiện trong mọi lĩnh vực như thương mại, chính trị, quân sự,
giáo dục, văn hóa,… [22].
Công nghệ thông tin – CNTT (tiếng Anh: Information Technology - IT)
là ngành ứng dụng công nghệ và xử lý thông tin. CNTT là ngành sử dụng máy
tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền và
thu thập thông tin.
Ở Việt Nam: khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị
quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: Công nghệ thông tin là tập hợp
các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử
dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng
trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.
Trong Hệ thống giáo dục nước ngoài, CNTT đã được chính thức tích
hợp vào chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng
nội dung về CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác. Với sự ra đời của

Internet mà các kết nối băng tần rộng tới tất cả các trường học, áp dụng kiến
thức, kỹ năng và hiểu biết về CNTT trong các môn học đã trở thành hiện thực.
Có thể nói CNTT và Internet đang dần dần trở thành một cánh cửa góp phần

12


nhanh chóng rút ngắn khoảng cách trong giáo dục. Khi mà đổi mới phương
pháp dạy và học đang được áp dụng trong tất cả các trường đại học. Lấy
người học làm trung tâm, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người
học, có sự trao đổi tích cực giữa thầy và trò, biến quá trình đào tạo thành tự
đào tạo, giúp cho người học có thể tự học tập suốt đời để cập nhật kiến thức
và kỹ năng mới.
Có thể liệt kê một số công dụng của Internet trong giảng dạy và học tập
đại học như sau:
1. Giảng viên có thể giao tiếp với tất cả các đối tượng: đồng nghiệp,
sinh viên, cấp trên và các đối tượng với nhau bằng email;
2. Việc giảng dạy không những có thể diễn ra trên lớp mà có thể diễn
ra ở bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu;
3. Việc học của sinh viên có thể được cá nhân hóa với sự giúp đỡ của
giảng viên bằng cách trao đổi trực tiếp với giảng viên mà không
ngại bị đánh giá;
4. Việc truy cập Internet thường xuyên có thể trang bị thêm cho sinh
viên các kỹ năng khác như tiếp cận và xử lý thông tin, giải quyết
vấn đề, hợp tác, sáng tạo, các kỹ năng về công nghệ và ngoại ngữ
nói chung;
5. Việc truy cập Internet cũng tạo cho giảng viên và sinh viên niềm
say mê, hứng thú trong học tập và giảng dạy, giúp cho họ có thêm
động cơ học tập;
6. Sinh viên có thể chủ động trong việc xây dựng lộ trình học tập của

mình và có thể mở rộng hoặc giới hạn mối quan tâm của mình;
7. Internet là công cụ tuyệt vời trong việc giúp sinh viên thực hành
khả năng làm việc và nghiên cứu độc lập;

13


8. Giảng viên có thể liên kết nhiều ngành, kiến thức, kỹ năng và thái
độ trong một bài giảng có sử dụng Internet;
9. Sinh viên có thể làm việc theo nhóm, độc lập hay kết hợp với nhiều
thành viên bên ngoài lớp học, thành phố thậm chí quốc gia để có
thể thực hiện việc học tập của mình;
Như vậy, không thể phủ nhận được vai trò và tầm quan trọng của việc
sử dụng công nghệ thông tin trong giáo dục đại học. Tuy nhiên, để sử dụng có
hiệu quả, cần tận dụng các thế mạnh và ưu điểm nổi bật của CNTT và tránh
những hiệu ứng ngược của nó.
* Sử dụng website hỗ trợ quá trình tự học
Tự học là một vấn đề rất quan trọng đối với bản thân mỗi SV trong giai
đoạn hiện nay, kiến thức mà các thầy cô giáo trang bị cho SV trong nhà
trường không đủ để các SV bước vào nghề và các lĩnh vực khác nhau của đời
sống kinh tế xã hội mà nó chỉ có vai trò là nền tảng, động lực để khám phá
các lĩnh vực đó. Để đạt được hiệu quả trong quá trình tự học cần phải có
những phương tiện hữu hiệu, website dạy học là một trong những phương tiện
đó, nó vừa giúp cho SV biết cách nghiên cứu đối tượng, vừa rèn luyện khả
năng tự học [4].
Website là một tập hợp các trang web có liên quan với nhau, trên mỗi
website có một trang web xuất phát gọi là trang chủ và các trang web khác
gọi là trang con. Nơi trình diễn các trang web gọi là Site. Tùy theo số lượng
thông tin trình bày mà trong một website có thể có một hoặc nhiều site.
Website dạy học là một website được tạo ra bởi các siêu văn bản (đó là các

tài liệu điện tử), trên đó bao gồm một tập hợp các công cụ tiện ích và các siêu
giao diện (trình diễn các thông tin đa phương tiện như văn bản, hình ảnh, âm
thanh,…) để hỗ trợ cho việc dạy và học, cung cấp cho nhiều đối tượng sử

14


dụng khác nhau trên mạng máy tính. Các siêu văn bản chứa đựng các tài liệu
học tập của sinh viên và tài liệu tham khảo của giáo viên [4].
- Sử dụng website hỗ trợ thu thập thông tin: để nghiên cứu một quá
trình sinh học nào đó bao giờ cũng xuất phát từ việc thu thập các thông tin có
liên quan như: hình ảnh, thí nghiệm, thực nghiệm. Các thông tin này sinh
viên có thể tìm thấy trong phần kiến thức trọng tâm, thông tin bổ sung, bài
giảng điện tử, các đoạn video minh họa được đưa vào website là các quá trình
sinh học và thí nghiệm mà chúng ta không thể trực tiếp quan sát được. Vì vậy
trong thời gian rất ngắn sinh viên có thể hiểu được một vấn đề mới hoặc củng
cố phần lý thuyết đã học. Từ những thông tin trên sẽ giúp sinh viên khắc sâu
được kiến thức và hiểu được bản chất vấn đề.
- Sử dụng website hỗ trợ xử lý thông tin: các thông tin được người học
thu thập phải sắp xếp một cách logic nhưng các thông tin này thực sự có hiệu
quả khi nó được xử lí theo đúng ý đồ của người học. Khi xử lí chính xác các
thông tin sẽ giúp cho người học nâng cao sự hiểu biết về thông tin đó và có
thể tìm ra những lời giải cho yêu cầu đặt ra ban đầu. Quá trình xử lí thông tin
đòi hỏi phải vận dụng những kỹ năng nhất định ở người học như phân tích,
tổng hợp, suy luận, khái quát hóa… Tuy nhiên đối với những thông tin phức
tạp SV sẽ gặp những khó khăn trong quá trình xử lí, đối với những thông tin
này trong website luôn có những câu hỏi định hướng, gợi mở để hướng dẫn
giúp cho quá trình xử lí thông tin của SV diễn ra nhanh và thuận lợi.
- Sử dụng website hỗ trợ vận dụng tri thức vào thực tiễn: tri thức mà
con người thu nhận được thực sự có ý nghĩa khi nó được vận dụng vào để

nghiên cứu thực tiễn. Đặc biệt là môn Sinh lý thực vật có nhiều ứng dụng
trong ngành nông nghiệp phục vụ trực tiếp cho đời sống hằng ngày. Đây là
những cơ sở cho việc tưới tiêu hợp lí nhằm nâng cao năng suất cây trồng. Có
những quá trình có thể vận dụng ngay được vào trong sản xuất. Tuy nhiên

15


còn một số ứng dụng vẫn gặp nhiều khó khăn vì vậy bản thân mỗi sinh viên
phải tự mình tìm tòi khám phá.
1.5 Môn Sinh lý thực vật theo học chế tín chỉ dành cho sinh viên chuyên
ngành sinh học
- Lí thuyết: 32 tiết
- Xêmina: 3 tiết
- Thực hành: 10 tiết
- Tự học: 90 tiết
(theo Chương trình khung các ngành đào tạo trình độ đại học theo hệ thống tín chỉ (K36) Trường ĐHSP Hà Nội 2, ) [16].

So với chương trình trước đây (học theo niên chế), số giờ lý thuyết là 5
đơn vị học trình (=75 tiết), và số giờ thực hành 1 đơn vị học trình (=15 tiết),
không có xêmina. Như vậy, có thể thấy được vai trò định hướng của người
thầy và sự chủ động của người học trong việc nắm bắt được toàn bộ kiến thức
sinh lý học thực vật.

16


CHƯƠNG 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Vật liệu nghiên cứu
Máy tính, Internet, phần mềm Dreamweaver 8.0 được tải từ địa chỉ

www.macromedia.com , một số phần mềm hỗ trợ chương trình (photoshop,
flash player…).
2.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập tài liệu tham khảo từ các nguồn khác nhau: thư
viện, Internet …
- Hướng dẫn sử dụng phần mềm Dreamweaver 8.0 theo hướng dẫn của
nhà sản xuất tại trang />en/dreamweaver/ và từ nhiều nguồn trên Internet.
- Sơ đồ nghiên cứu:
Thu thập tài liệu về
Dreamweaver, Internet, tự học…

Thực hành tìm kiếm tài liệu trên
Internet

Tìm kiếm Code phù hợp cho
trang web, chương trình chạy tự
động cho đĩa CD, code chương
trình chạy media trên web, thiết
kế logo, banner…

Tổ chức lại tài liệu tìm kiếm
được (chia từng thư mục vào
chương, phần cụ thể…)
Thực hành thiết kế website bằng
phần mềm Dreamweaver 8.0

Thiết kế sản phẩm

17



CHƯƠNG 3: HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ CÔNG CỤ HỖ TRỢ
TỰ HỌC CHO SINH VIÊN VÀ KẾT QUẢ
3.1 Hướng dẫn tìm kiếm tài liệu trên internet
3.1.1 Cách tìm kiếm tài liệu trên Internet
Để tìm kiếm thông tin trên mạng Internet, chúng ta có thể sử dụng
nhiều công cụ tìm kiếm khác nhau. Việc tiếp cận các thông tin thường được
thực hiện bằng cách xác định nội dung chính cần tìm kiếm, xác định phạm vi
thực hiện tìm kiếm và chọn lọc thông tin (loại bỏ những thông tin không cần
thiết). Công việc tìm kiếm thông tin sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn khi nắm vững
một số nguyên tắc giới hạn tìm kiếm và lọc thông tin [6], [8].
 Sơ đồ nguyên tắc tìm kiếm thường sử dụng là:
Thông tin
cần tìm

Xác định
từ khóa

Chọn
cách tìm

Lọc
thông tin

Kết quả

 Công cụ và cách sử dụng:
Để tìm kiếm những thông tin này, thông thường chúng ta phải xác định
một từ hay một nhóm từ khóa (keyword) mang nội dung chủ yếu hay quan
trọng nhất của vấn đề quan tâm. Sau đó sử dụng các công cụ tìm kiếm trên

mạng để tìm đến các địa chỉ lưu trữ những thông tin cần thiết hoặc những
thông tin liên quan. Sử dụng các chức năng chọn lọc thông tin của các công
cụ để hạn chế việc tiếp nhận những thông tin không liên quan. Ví dụ thông
tin: “PCR for detection of listeria monotogenes in food samples”, trong
trường hợp này có thể xác định các từ khóa là: PCR, monocytogenes [25].
Sau khi xác định được từ khóa, ta thường phải xác định phạm vi tìm
kiếm để lựa chọn những công cụ thích hợp. Nếu chúng ta cần tìm kiếm thông
tin tổng hợp về lĩnh vực này thì có thể bắt đầu tìm kiếm thông tin ở các trang
web. Các công cụ tìm kiếm có thể là các trang tìm kiếm trên mạng
(Google.com.vn, yahoo.com.vn, youtube.com.vn,…) hoặc những phần mềm

18


×