Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Thực trạng vấn đề lãi suất ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.05 KB, 27 trang )

Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Lời mở đầu
Lãi suất là một trong những biến số đợc theo dõi một cách chặt chẽ nhất
trong nền kinh tế. Diễn biến của nó đợc đa tin hầu nh hàng ngày trên báo chí,
vì nó trực tiếp ảnh hởng đến đời sống hàng ngày của mỗi ngời chúng ta và có
những hệ quả quan trọng đối với sức khoẻ của nền kinh tế. Nó tác động đến
những quyết định cá nhân nh: Chi tiêu hay để giành, mua nhà hay mua trái
khoán hay gứi vốn vào một tài khoản tiết kiệm. Lãi suất cũng tác động đến
những quyết định kinh tế của các doanh nghiệp hoặc của các gia đình nh:
Dùng vốn để đầu t mua thiết bị mới cho các nhà máy hay để gửi tiết kiệm
trong một ngân hàng. Bởi vậy, lãi suất vừa là công cụ quản lí vĩ mô của Nhà
nớc, vừa là công cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thơng mại. Một chính
sách lãi suất có hiệu quả là chính sách đợc áp dụng nhất quán trong một lãnh
thổ và đợc NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo từng thời kì cho phù
hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn nhằm thu hút đợc nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân chúng, phục vụ phát triển kinh tế đất nớc, đồng thời đảm
bảo đợc cho hoạt động của các ngân hàng thơng mại thực sự có hiệu quả.
Đối với Việt Nam, trong bớc chuyển mình từ một nền kinh tế tự cung tự
cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng có sự điều tiết quản lí của
Nhà nớc.Đồng thời với chính sách mở của nền kinh tế xu hớng hội nhập và
toàn cầu hoá trở nên cần thiết để chúng ta phát triển kinh tế-xã hội.Trong
điều kiện và bối cảnh đó,vấn đề tự do hoá tài chính nói chung và tự do hoá lãi
suất nói riêng ở Việt Nam la một xu thế tất yếu. Với mong muốn đơc tìm
hiểu về tiến trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam: Bài viết xin đợc đề cập tới
vấn đề : tự do hoá lãi suất ở Việt Nam thông qua 4 phần chính:
Phần I : Tìm hiểu chung về lãi suất
Phần II : Lý luận chung về tự do hoá lãi suất
Phần III: Thực trạng vấn đề lãi suất ở Việt Nam hiện nay
Phần IV : Kiến nghị và các Giải pháp
Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình hớng dẫn, chỉ bảo của thầy giáo
đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề án.



Phần I: Tìm hiểu chung về lãi suất
I. Khái niệm và Vai trò của lãi suất
1.1 Khái niệm
Lãi suất là một công cụ rất nhạy cảm trong điều hành chính sách tiền tệ
của mọi Ngân hàng Trung ơng (NHTW) đặc biệt ở những nớc đang phát triển
.Trớc khi đi vào nghiên cứu nội dung chính của bài viết, chúng ta phải hiểu
chính xác: lãi suất nghĩa là gì? Chúng ta sẽ thấy rằng lãi suất là một vấn đề

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
hết sức đa dạng và phong phú, nó gắn liền với hoạt động kinh tế liên quan
đến quan hệ vay mợn dựa trên nguyên tắc hoàn trả giữa các tổ chức, cá nhân
trong nền kinh tế. Vì vậy, đứng trên nhiều phơng diện khác nhau để xem xét
sẽ có rất nhiều cách hiểu về lãi suất, trong đó chúng ta có thể đa ra một vài
khái niệm cơ bản về lãi suất nh sau:
Theo C.Mác: Lãi suất là một phần của giá trị thặng d của nhà t bản sản
xuất trả cho nhà t bản tiền tệ vì số tiền mình vay và sử dụng.
Lãi suất là chi phí hay giá cả của số tiền vay.
Theo Samuelson: Lãi suất là chi phí cơ hội của việc giữ tiền.
Ngoài ra còn một số quan niệm khác về lãi suất. Tuy nhiên, Lãi suất hiểu
theo nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá của quyền đợc sử
dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, mà ngời sử dụng phải trả
cho ngời cho vay.

1.2 Vai trò của lãi suất.
Vai trò của lãi suất đợc xem xét trên hai giác độ vĩ mô và vi mô.
. Đối với tầm vĩ mô.

Trên tầm vĩ mô, lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô rất hiệu
quả của Chính phủ thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng
thời kỳ nhất định. Chẳng hạn nh, khi lãi suất tăng -> Đầu t giảm -> Cầu giảm
-> sản lợng giảm -> giá cả tăng. Nhờ đó, Chính phủ có thể tác động tới quy
mô và tỉ trọng các loại vốn đầu t, từ đó có thể tác động điều chỉnh cơ cấu
kinh tế, đến tốc độ phát triển của nền kinh tế, đến sản lợng, thất nghiệp và
lạm phát trong nớc. Hơn nữa, trong những điều kiện của nền kinh tế mở,
chính sách lãi suất còn đợc sử dụng nh một công cụ góp phần điều tiết luồng
di chuyển vốn của một đất nớc với nền kinh tế thế giới và tác động đến tỉ giá
và điều tiết sự ổn địnhcủa tỉ giá. Điền này không những tác động đến đầu t
phát triển kinh tế mà còn tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán quốc tế
của một quốc gia với nớc ngoài.
Đối với tầm vi mô.
Trên tầm vi mô, lãi suất là cơ sở quan trọng để cho các cá nhân cũng
nh các doanh nghiệp đa ra các quyết định kinh tế của mình nh chi tiêu hay để
dành gửi tiết kiệm, đầu t số vốn tích luỹ dợc vào các danh mục đầu t khác
nhau, mua sắm thiết bị phát triển sản xuất kinh doanh hay cho vay hoặc gửi
tiền vào ngân hàng.

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Đối với cá nhân: khi lãi suất tăng họ thờng có quyết định tiết kiệm,
bằng cách gửi số vốn tích luỹ đợc vào các ngân hàng hay các tổ chức tín
dụng, và ngợc lại, khi lãi suất giảm họ thờng có quyết định tiêu dùng.
Đối với doanh nghiệp: khi lãi suất tăng sẽ dẫn tới đầu t của các doanh
nghiệp giảm, ngoài ra khi lãi suất tăng họ có thể cho vay những khoản tiền
nhàn rỗi. Khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ tăng cờng đầu t.


1.3 Các cơ chế xác định lãi suất
a)Cơ chế ấn định lãi suất
Trong cơ chế này Nhà nớc quản lý trực tiếp bằng cách công bố tất cả các
loạI lãi suất. Các ngân hàng và các Tổ chức tín dụng đều phảI thực hiện một
cách tuyệt đồi- cơ chế này đã tồn tạI ở Việt Nam trong thời kỳ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung.
b)Cơ chế khống chế lãi suất
Nhà nớc không ấn định các mức lãi suất, mà chỉ qui định các mức lãi
suất tối đa gọi la lãi suất trần, mức lãi suất tối thiểu gọi là lãi suất sàn .Tạo
thành khung giới hạn để trong đó các ngân hàng, các TCTD xác định lãi suất
kinh doanh.
c) Cơ chế tự do hóa lãi suất
Nhà nớc không ấn định mức lãi suất, đồng thời cũng không khống chế
lãi suất, mà để cho lãi suất hình thành theo cơ chế thị trờng, các ngân hàng đợc quyền xác định và công bố lãi suất kinh doanh để đem áp dung trong việc
huy động vốn và cho vay. Tự do lãi suất là để cho lãi suất hình thành trên thị
trờng trên cơ sở: Cung cầu về vốn; Mức tiết kiệm; Thu nhập và chi tiêu của
cá nhân và những nhân tố khác.
Trong cơ chế tự do hoá lãi suất, nếu nhà nớc không can thiệp đến hệ
thống lãi suất thị trờng thì đó là cơ chế tự do hoá hoàn toàn ( thả nổi hoàn
tòan ). Nếu nhà nớc có can thiệp gián tiếp theo một hơng xác định, thì đó là
cơ chế tự do hoá lãi suất có quản lý. Tự do hoá lãi suất
1.4 Những bất lợi của cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp
Trong cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp thì nhà nớc quản lý trực tiếp lãi
suất bằng cách công bố tất cả các loại lãi suất (Cơ chế ấn định lãi suất). Các
ngân hàng và các tổ chức tín dụng phải tuân theo một cách tuyệt đối. Chúng
ta có thể thấy rằng cơ chế kiểm soát trực tiếp lãi suất có những thuận lợi nhất
định nh: dễ thực hiện, phù hợp với những nớc đang phát triển, với thị trờng

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D



Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
tài chính sơ khai và mức độ cạnh tranh kém, cha có công cụ kiểm soát tiền tệ
gián tiếp và hạn chế trong năng lực quản lý điều hành. Tuy nhiên, nó cũng
gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Đó là:
Mặc dù cha có định lợng rõ ràng cho thấy kiểm soát trực tiếp lãi suất nh
hiện nay đang cản trở phát triển kinh tế nhng có dấu hiệu và lý do để tin rằng
việc kiểm soát lãi suất tỏ ra kém hiệu qủa trong việc điều hành chính sách
tiền tệ, phân bổ nguồn tín dụng, và sự không hiệu quả do dễ bị các tổ chức tín
dụng lẩn tránh, khả năng cạnh tranh thấp dẫn đến làm giảm chức năng trung
gian tài chính của hệ thống ngân hàng do sự thiếu linh hoạt và cứng nhắc.
Kiểm soát lãi suất có thể dẫn tới suy giảm chức năng trung gian tài chính
của hệ thống ngân hàng vì nguồn tiết kiệm và tích luỹ sẽ chảy ra thị trơng tài
chính phi chính thức và không bị quản lý. Chúng thờng biểu hiện dới các
dạng: các loại hình ngân hàng kiểu chính sách tăng lên, cho vay qua thị trờng
không chính thức, các doanh nghiệp và hộ gia đình tăng nắm giữ bằng ngoại
tệ hoặc tích luỹ dới dạng kim loại quý và hàng hoá lâu bền.
Kiểm soát lãi suất cũng sẽ kích thích kiểm soát chi tiết các điều kiện tiền
tệ bằng cách áp đặt cơ cấu lãi suất phức tạp nh tồn tại nhiều loại trần lãi suất
cho vay, gây ra kém hiệu quả và biến dạng hơn. Việc kiểm soát lãi suất sẽ
làm giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ, vì sự gia tăng và mở rộng các
thị trờng không đợc kiểm soát.
Kiểm soát lãi suất không có lợi cho cạnh tranh, các tổ chức tín dụng kém
hiệu quả có thể đợc bảo vệ từ sức ép của tự do cạnh tranh khiến cho quá trình
giải quyết khó khăn của họ tồn tại kéo dài. Những khó khăn lớn gắn với việc
kiểm soát lãi suất là vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Cả hai loại
rủi ro này đều có xu hớng nâng lãi suất lên và tăng rủi ro tín dụng.
1.5 Tính tất yếu của tự do hóa lãi suất .
Nh trên đã nêu, chính sách kiểm soát lãi suất có những hạn chế lớn,tác
động không tích cực với sự phát triển của nền kinh tế.Do đó xu thế cải cách

chính sách lãi suất theo hớng tự do hoá la tất yếu.
Thứ nhất; lãi suất đợc tự do hoá, biến động theo cung cầu về vốn, có thể
phân bổ nguồn vốn tín dụng khan hiếm cho những ngời vay một cách có hiệu
quả nhất; đồng thời đảm bảo thu hút tiền gửi với chi phí hợp lý nhất đợc cả
ngân hàng và ngời gửi chấp nhận. Điều này không thể thực hiện đợc trong

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
điều kiện lãi suất bị kiểm soát hành chính, làm cho các hoạt động đầu t bị
biến dạng.
Lãi suất đợc tự do hoá sẽ linh hoạt hơn so với khi bị kiểm soát, có khả
năng điều tiết để thích nghi với điều kiện thay đổi, tự động tạo ra sự kích
thích cho tăng trởng tài chính, cải tiến và thay đổi cơ cấu mà chính phủ hoặc
là không thể quản lý hoặc là chậm thu đợc kết quả.
Thứ hai, việc thực hiện tự do hoá lãi suất cũng xuất phát từ một thực tế là
không một chính phủ hay một ngân hàng trung ơng nào có đủ khả năng để
phân bổ và kiểm soát nguồn vốn một cách có hiệu quả cho hàng ngàn nhu
cầu sử dụng vốn khác nhau, cho dù bộ máy hành chính và thanh tra ngân
hàng có lớn đến đâu đi chăng nữa.
Chúng ta có thể thấy đợc rằng có rất nhiều quan điểm khác nhau về mức
lãi suất của hệ thống ngân hàng:
Các chính trị gia, những ngời đi vay vốn nói chung, các doanh nghiệp mà
chủ yếu là doanh nghiệp nhà nớc nói riêng thì mong muốn làm sao có đợc
những khoản vay với mức lãi suất thấp nhất có thể đợc(ta thấy điều này cũng
khó có thể thoả mãn một cách tuyệt đối), trong khi đó các NHTM thì muốn
duy trì mức lãi suất cao(một điều dễ hiểu vì họ cũng là các nhà kinh doanh,
hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu có lợi nhuận cao nhất).
Từ đây chúng ta có thể thấy đợc mâu thuẫn đã nảy sinh giữa ngời đi vay

và ngời cho vay. Mỗi ngời đứng trên các quan điểm riêng của mình và có
những cách đối xử khác nhau. Nhiều lúc vấn đề này đợc đa ra bàn thảo một
cách gay gắt tuy nhiên không có lời giải cuối cùng, và ngời ta cũng không
thể có bằng chứng có sức thuyết phục nhằm đa ra đợc một mức lãi suất hợp
lý. Để giảm thiểu những tranh luận này, cách tốt nhất là để lãi suất do thị trờng quyết định, tức là tự do hoá.
Thứ ba; chúng ta đang sống trong một môi trờng đang diễn ra toàn cầu
hoá nhanh chóng, mà toàn cầu hoá tài chính là điển hình nhất của quá trình
này.
Trong lĩnh vực tài chính, toàn cầu hoá đặt ra những cơ hội và thách thức
mới, trong đó một thách thức lớn là giảm kiểm soát tiền tệ bằng các công cụ
trực tiếp nh qui định trần lãi suất; thay vào đó, để đảm bảo kiểm soát tiền tệ
đợc hiệu quả, các nớc dần chuyển sang thực hiện các công cụ kiểm soát tiền
tệ gián tiếp nh nghiệp vụ thị trờng mở, tái chiết khấu, hợp đồng mua lại..., tức
là các công cụ định hớng thị trờng. Để đảm bảo hội nhập thành công trong
lĩnh vực tài chính trớc hết lãi suất phải đợc tự do hoá.

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Thứ t: tự do hoá cho phép hệ thống ngân hàng tự chủ hơn, và điều đó sẽ
dẫn đến lãi suất tiền gửi và tiền vay cao hơn.
Những thay đổi nh vậy trong lĩnh vực tài chính sẽ tác động đến các
doanh nghiệp và các hộ gia đình khiến họ thay đổi hành vi tiết kiệm và đầu t
của mình theo hớng có lợi cho tăng trởng kinh tế.
Tăng lãi suất tiền gửi sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiêm nội địa, và do đó sẽ thay
thế cho nguồn đi vay nớc ngoài để tài trợ cho đầu t. Nguồn tiết kiệm nội địa
này đợc truyền tải thông qua hệ thống tài chính ngân hàng chính thức mà
không phải qua thị trờng tiền tệ không chính thức. Tiết kiệm trong nớc tăng
lên và mức lãi suất thực cao hơn dẫn đến mở rộng đầu t và làm tăng hiệu quả

đầu t. Kết quả là làm tăng tốc độ tăng trởng kinh tế.
Hơn nữa việc tăng lãi suất có thể thu hẹp đợc khoảng chênh lệch giữa lãi
suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, từ đó có thể tránh đợc hiện tợng ngoại tệ
hoá(tức là ngời dân trong nớc sẽ không găm giữ ngoai tệ nh trớc đây khi lãi
suất chênh lệch quá lớn giữa hai đồng tiền) nền kinh tế
Những lý do trên đã cho chúng ta thấy việc tiến hành thực hiện tự do hóa
lãi suất là cần thiết cho bất cứ một quốc gia nào mong muốn phát triển nền
kinh tế của nớc mình một cách lành mạnh, tuy nhiên trong quá trình tiến
hành tự do hoá lãi suất cần phải có những bớc đi những cách thức thận trọng,
hợp lý, có cân nhắc, tránh nóng vội để có thể loại bỏ đợc những tác động tiêu
cực của nó có thể gây ra cho nền kinh tế-xã hội.

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Phần II: Lý luận về tự do hoá lãi suất
2.1 Khái quát chung về tự do hoá lãi suất
Tự do hoá lãi suất đợc coi là hạt nhân của tự do hoá tài chính, trong đó
bãi bỏ hoặc làm giảm bớt sự kiểm soát của Nhà nớc về hạn mức tín dụng và
lãi suất, với trọng tâm là t do hoá lãi suất sẽ làm cho các luồng tài chính đối
nội lu thông thông suốt. Tự do hoá lãi suất là để cho lãi suất hình thành trên
thị trờng trên cơ sơ: Cung-cầu về vốn; Mức tiết kiệm; Thu nhập và chi tiêu
của cá nhân và những nhân tố khác. Nó cho phép các ngân hàng tự chủ trong
việc ấn định các mức lãi suất kinh doanh của mình. Trong cơ chế tự do hoá
lãi suất, nếu nhà nớc hoàn toàn không can thiệp đến hệ thống lãi suất thị trờng thì đó là cơ chế tự do hoá hoàn toàn (thả nổi hoàn toàn). Nếu Nhà nớc có
tham gia can thiệp gián tiếp theo một định hớng xác định thì đó là cơ chế tự
do hoá lãi suất có quản lý, và khi đó NHTƯ tác động tới lãi suất chủ yếu dựa
trên các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp nh nghiệp vụ thị trờng mở, tái
chiết khấu, hợp đồng mua lại, và một phần dựa vào áp đặt tỷ lệ dự trữ bắt

buộc. Có thể khái quát sự tác động gián tiếp đó nh sau:
- Nghiệp vụ thị trờng mở (Open Market Operations):
NHTƯ muốn đẩy mạnh tăng trởng, mở rộng tín dụng bằng cách mua
vào các chứng khoán có giá sẽ làm cho cung về tiền tệ tăng lên, dẫn tới giảm
lãi suất. Ngợc lại, khi NHTƯ muốn thu hẹp tín dụng bằng cách bán ra các
chứng khoán có giá, cung tiền tệ giảm xuống dẫn tới tăng lãi suất trên thị trờng tiền tệ.
- Lãi suất tái chiết khấu (Discount Rate):
Khi NHTƯ nâng lãi suất tái chiết khấu, các NHTM buộc phải tăng dự
trữ để tránh phải vay với lãi suất cao khi thiếu hụt khả năng thanh toán. Đồng
thời, NHTM cũng phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp chi phí cho những
khoản tăng thêm dự trữ, do vậy mà lãi suất thị trờng tăng lên. Ngợc lại, việc
giảm lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ cho phép các NHTM giảm dự trữ và
hạ lãi suất cho vay, do đó mà hạ lãi suất thị trờng.
- Hợp đồng mua lại (Repurchase Agreement):
Hợp đồng mua lại là hợp đồng bán những chứng khoán, trong đó ngời
bán cam kết sẽ mua lại chứng khoán này vào một thời điểm trong tơng lai với
mức giá đợc xác định trớc trong hợp đồng. Nh vậy, thực chất hợp đồng mua
lại là cho vay có thế chấp, trong đó chứng khoán đóng vai trò thế chấp. Khi

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
mua thế chấp (tức cho vay), NHTƯ bơm tiền vào thị trờng tài chính và do
vậy làm giảm lãi suất ngắn hạn. Khi bán thế chấp từ tài khoản của mình,
NHTƯ hút tiền ra khỏi thị trờng tiền tệ và do đó tạo ra sức ép làm tăng lãi
suất ngắn hạn.
2.2 Những mặt lợi của việc tự do hoá lãi suất
Tự do hoá tài chính nói chung và tự do hoá lãi suất nói riêng đem lại
những lợi ích sau:

Thứ nhất, cũng tơng tự nh lý do tại sao chúng ta lại chọn cơ chế thị trờng
mà không phải là cơ chế kế hoạch hoá nh trớc đây. ở đây, lãi suất đợc tự do
hoá, biến động theo cung - cầu về vốn, có thể phân bổ nguồn vốn tín dụng
khan hiếm cho hàng ngàn ngời vay cạnh tranh nhau, đáp ứng đúng thị hiếu
của họ và có hiệu quả nhất; đồng thời đảm bảo thu hút tiền gửi giữa hàng
triệu ngời gửi, và chi phí hợp lí nhất đợc cả ngời gửi và ngân hàng chấp nhần.
Có thể nói lập luận phân bổ nguồn vốn có hiệu quả là trung tâm của vấn đề.
Điều này không thực hiện đợc trong điều kiện lãi suất bị kiểm soát hành
chính, làm cho các hoạt động đầu t bị biến dạng. Lãi suất đợc tự do hoá sẽ
linh hoạt hơn so với khi bị kiểm soát và có khả năng linh hoạt điều tiết để
thích nghi với điều kiện thay đổi, tự động tạo ra sự kích thích cho tăng trởng
tài chính, cải tiến và thay đổi cơ cấu mà Chính phủ hoặc là không thể quản lí,
hoặc là chậm thu đợc kết quả.
Thứ hai, thực hiện tự do hoá lãi suất xuất phát từ thực tế là không một
Chính phủ hay NHTƯ nào có thể đủ khả năng để phân bổ và kiểm soát việc
phân bổ nguồn vốn một cách có hiệu quả cho hàng ngàn nhu cầu sử dụng vốn
khác nhau, cho dù bộ máy hành chính và thanh tra ngân hàng có phình ra đến
đâu chăng nữa. Hiện nay có rất nhiều các quan điểm khác nhau về mức lãi
suất của hệ thống ngân hàng hiện tại. Các chính trị gia, các doanh nghiệp mà
chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nớc thì đòi hỏi hạ lãi suất. Các NHTM thì
muốn duy trì mức lãi suất hiện tại...Mỗi ngời đứng trên các quan điểm riêng
của mình để xử lí bài toán lãi suất. Để giảm thiểu những tranh luận này, cách
tốt nhất là để lãi suất do thị trờng quyết định, tức là tự do hoá. Tự do hoá lãi
suất cũng buộc NHTƯ phải thay đổi cách làm việc, t duy và đặc biệt là thay
đổi các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, chủ yếu dựa vào các công cụ
gián tiếp để khống chế lãi suất cơ bản.
Thứ ba, chúng ta đang sống trong một môi trờng đang diễn ra toàn cầu
hoá nhanh chóng, mà toàn cầu hoá tài chính là điển hình nhất của quá trình
này; trong khi đất nớc ta không còn cách nào khác là phải hội nhập sâu vào


Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
nền kinh tế thế giới và ngày càng tiến sâu vào nền kinh tế thị trờng. Trong
lĩnh vực kinh tế, theo nhiều nhà kinh tế thì kẻ thù lớn nhất của chúng ta chính
là quá trình toàn cầu hoá. Trong quá trình này, nhờ những phát triển vợt bậc
của công nghệ và những nỗ lực của các nớc đang phát triển cạch tranh nhanh
thu hút các nguồn vốn quốc tế, các luồng vốn quốc tế đã chảy từ nớc này qua
nớc khác tự do nhiều hơn. Nói chung , lợi ích của toàn cầu hoá là rất to lớn
mà mỗi quốc gia phải nắm lấy, không thể bỏ qua. Trong lĩnh vực tài chính,
toàn cầu hoá đặt ra những cơ hội và thách thức mới, trong đó một thách thức
lớn là làm xói mòn và giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ bằng công cụ
trực tiếp, nh quy định trần lãi suất; thay vào đó, để đảm bảo kiểm soát tiền tệ
đợc hiệu quả, các nớc dần chuyển sang thực hiện các công cụ kiểm soát tiền
tệ gián tiếp nh nghiệp vụ thị trờng mở, tái chiết khấu, hợp đồng mua lại..., tức
là các công cụ định hớng thị trờng. Để đảm bảo hội nhập thành công trong
lĩnh vực tài chính, trớc hết lãi suất phải đợc tự do hoá.
Thứ t, tự do hoá lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính.
Tự do hoá cho phép hệ thống ngân hàng tự chủ hơn, điều đó sẽ dẫn đến lãi
suất tiền gửi và tiền vay cao hơn. Những thay đổi nh vậy trong lĩnh vực tài
chính sẽ tác động đến các doanh nghiệp và các hộ gia đình, khiến họ thay đổi
hành vi tiết kiệm và đầu t của mình theo hớng có lợi cho tăng trởng kinh tế.
Tăng lãi suất tiền gửi sẽ làm tăng tỉ lệ tiết kiệm nội địa, và do đó sẽ thay thế
cho nguồn đi vay nớc ngoài để tài trợ cho đầu t. Nguồn tiết kiệm nội địa này
đợc chuyển tải thông qua hệ thống tài chính ngân hàng chính thức, mà không
phải qua thị trờng tiền tệ không chính thức. Tiết kiệm trong nớc tăng lên và
mức lãi suất thực cao hơn dẫn đến mở rộng đầu t và làm tăng hiệu quả đầu t.
Kết quả là làm tăng tốc độ tăng trởng kinh tế.
Có 2 tác động của việc tăng lãi suất đối với đầu t thực: một mặt, lãi suất

cao sẽ làm tăng nguồn vốn đầu t thông qua việc tăng tiết kiệm trong nền kinh
tế và do đó loại bỏ tình trạng nhu cầu vốn quá mức; mặt khác, lãi suất cao sẽ
làm tăng hiệu quả của vốn đầu t thông qua việc đảm bảo rằng các dự án đầu
t chỉ đợc thực hiện nếu lợi nhuận của nó là cao. Nếu lãi suất đợc nâng lên
mức cân bằng thị trờng(đã đợc tự do hoá), thì những ngời sẵn sàng vay không
bao giờ bị thiếu vốn, họ chỉ phải cân nhắc mỗi một điều là làm thế nào để
dung hoà giữa lợi tức của việc sử dụng vốn với lãi suất cao. Trong khi vai trò
của tự do hóa lãi suất đối với việc kích thích tiết kiệm nội địa còn rất nhiều ý
kiến khác nhau, thì quan điểm cho rằng lãi suất cao do tự do hoá mang lại sẽ
cải thiện việc phân bổ tín dụng và cải thiện hiệu quả đầu t lại đợc thống nhất
cao.

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Qua những phân tích trên, chúng ta có thể đi đến một điểm chung là tự
do hoá lãi suất làm tăng lãi suất thực, qua đó làm tăng hiệu quả đầu t, hơn là
làm tăng tỉ lệ đầu t và tiết kiệm so với GDP. Điều này là rất cơ bản để đảm
bảo cho nền kinh tế tăng trởng vững chắc.

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
2.3 Những hạn chế của việc tự do hoá lãi suất
Cách lựa chọn tốt nhất là tự do hoá hoàn toàn lãi suất và cho phép thị trờng quyết định cơ cấu và lãi suất. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam, việc
tự do hoá hoàn toàn lãi suất có những bất lợi sau:
Thứ nhất: Những thuận lợi do tự do hoá lãi suất mang lại là rất cơ
bản, nhng cũng tồn tại những trờng hợp mà ở đó tự do hoá lãi suất không

thực hiện tốt vai trò của mình nh:
- Các nớc đang phát triển luôn phải đối mặt với thực trạng hệ thống tài
chính kém phát triển và thiếu thông tin về thị trờng tài chính, các sản phẩm
tài chính, đặc biệt là tại khu vực miền núi và nông thôn. Các hoạt động ngân
hàng thờng đợc định hớng thành thị, sử dụng các dịch vụ tiêu chuẩn và theo
phơng pháp ngân hàng của phơng Tây, do đó đã loại trừ hầu hết dân số khu
vực nông thôn và phần lớn ngời nghèo thành thị. Do đó, để tự do hoá lãi suất,
làm tròn chức năng của mình thì thị trờng tài chính cần đợc củng cố và phát
triển. Hơn nữa, trong nền kinh tế, thị trờng tín dụng không phải lúc nào cũng
điều chỉnh đủ nhanh để cân bằng giữa cung- cầu khi điều kiện thay đổi, tình
trạng mất cân bằng là đặc trng của bất kì nền kinh tế đang phát triển nào.
- Tự do hoá lãi suất sẽ kém hiệu quả nếu xã hội áp đặt vào hệ thống tài
chính quá nhiều các mục tiêu quốc gia, mà điều đó ngay cả nơi có cơ chế thị
trờng phát triển cũng không thể làm đợc, nh chính sách lãi suất u đãi các đối
tợng chính sách, phát triển kinh tế khu vực, kinh tế nông nghiệp, nông thôn,
miền núi...
Nói chung, vì hệ thống tài chính là không hoàn hảo, và Chính phủ có
những mục tiêu chính trị cần đợc phục vụ nên can thiệp là điều khó tránh
khỏi. Nhng thông thờng, can thiệp phải phát huy hiệu quả nhất và tránh đợc
những tác động phụ không mong muốn, nếu việc can thiệp hớng tới cải thiện
vận hành của cơ chế thị trờng và tác động gián tiếp qua lãi suất để thay đổi
cung cầu về vốn trên thị trờng, hơn là hoạt động trực tiếp qua kiểm soát. Vấn
đề cơ bản ở đây là phải cân nhắc các hành động can thiệp sao cho đạt đợc
mục tiêu với chi phí thấp nhất.
Thứ hai: Các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp nh nghiệp vụ thị trờng mở, tái chiết khấu còn cha có thể thay thế cho vai trò của lãi suất trong
việc điều hành chính sách tiền tệ. Do đó, công cụ kiểm soát lãi suất vẫn đợc
coi là một công cụ duy nhất và khả thi để thực hiện chính sách tiền tệ.

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D



Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Thứ ba: Tình hình tài chính của các ngân hàng thơng mại đang xấu đi,
do vốn tự có thấp và tồn tại một số lợng lớn các tài sản không hoạt động(các
khoản nợ khó đòi). Trong điều kiện nh vậy, tự do hoá lãi suất có thể khuyến
khích các NHTM, đặc biệt là các NHTM cổ phần chấp nhận những ngời vay
mang tính rủi ro, do đó làm cho khả năng sinh lời và sự lành mạnh của các
ngân hàng này giảm hơn nữa, làm khó khăn thêm tình trạng nợ quá hạn đang
còn ở mức cao hiện nay. Đồng thời, có thể khuyến khích các ngân hàng đang
gặp khó khăn nâng lãi suất tiền gửi lên cao để thu hút tiền gửi, nhằm bù đắp
những khó khăn của họ. Vấn đề này là rất nghiêm trọng trong điều kiện khả
năng thanh tra và kiểm soát của NHTƯ còn đang hạn chế nh hiện nay.
Thứ t: Huỷ bỏ kiểm soát lãi suất có thể sẽ làm tăng quá mức lãi suất,
kết hợp với cơ cấu nợ không vững chắc của các doanh nghiệp, vay vốn và dự
đoán vào khả năng phá giá trong tơng lai có thể sẽ làm giảm mạnh việc đi
vay.
Thứ năm: ổn định kinh tế vĩ mô cha thực sự vững chắc đủ để chịu
đựng những áp lực của việc tự do hoá lãi suất hoàn toàn: chúng có thể làm
mất ổn định vĩ mô, qua việc tăng lạm phát, nợ nớc ngoài và làm suy giảm
tăng trởng kinh tế.
2.4 Điều kiện để tự do hoá lãi suất thành công ở Việt Nam
Qua đúc kết kinh nghiệm ở nhiều nớc trên thế giới, bao gồm: các nớc
có nền kinh tế tiên tiến, các nớc đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế
và các nớc trong khu vực. Theo em, để tự do hoá lãi suất thành công ở Việt
Nam thì cần có đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất: Môi trờng kinh tế vĩ mô đã ổn định và khá chắc chắn để
chịu đựng đợc các tác động, các cú sốc từ bên ngoài đối với nền kinh tế có
thể xảy ra khi tự do hóa hoàn toàn lãi suất.
Thứ hai: Thị trờng tài chính (bao gồm thị trờng tiền tệ và thị trờng
chứng khoán) hình thành và vận hành có hiệu quả.

Thị trờng tiền tệ, trong đó thị trờng nội tệ liên ngân hàng hoạt động có
hiệu quả. Qua đó, NHNN là ngời cho vay cuối cùng.
Thị trờng đấu giá tín phiếu kho bạc và các giấy tờ có giá khác hoạt động
nhạy cảm, NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trờng mở trên các thị trờng này.
Thứ ba: Hành lang pháp lý và thể chế đã tơng đối đồng bộ và hoàn
chỉnh, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ quốc tế. Có quy chế phòng ngừa,

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
bù đắp rủi ro hoàn thiện, hữu hiệu đảm bảo hạn chế và bù đắp đợc những rủi
ro có thể xảy ra trong hoạt động của các trung gian tài chính.
Thứ t: Hệ thống ngân hàng ổn định, hoạt động

hữu hiệu.

NHNN thực hiện một cách bình thờng nghiệp vụ tái chiết khấu thơng
phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo thông lệ quốc tế.
NHNN tăng cờng sự thanh tra, giám sát chặt chẽ đối với các TCTD trong
hoạt động kinh doanh nói chung và thực thi chính sách tiền tệ nói riêng, để
đảm bảo các TCTD hoạt động đúng mục đích chung mà NHNN đề ra.
Thứ năm: Các tổ chức kinh tế đều đảm bảo khả năng sử dụng vốn
triệt để, có hiệu quả.
Thứ sáu: Chọn thời điểm bắt đầu, tốc độ và lộ trình (tức trật tự sử
dụng các công cụ ) tự do hóa lãi suất phù hợp điều kiện và bối cảnh của nền
kinh tế. Kinh nghiệm về tự do hoá lãi suất ở một số nớc trong những năm 80
cho thấy tự do hoá lãi suất không đúng thời điểm có thể làm tăng tính bất ổn
định của nền kinh tế vĩ mô thông qua việc làm tăng lạm phát và nợ nớc
ngoài, giảm sức sản xuất trong nớc...


Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Phần III: Thực trạng lãi suất ở việt nam
hiện nay
3.1 Quá trình đổi mới cơ chế lãi suất thời gian qua.
Cùng với đổi mới cơ chế điều hành chính sách tiền tệ,tín dụng và hoạt
động ngân hàng, cơ chế điều hành lãi suất đã đợc NHNN cải cách từng bớc
theo hớng lãi suất thị trờng và thu đợc những thành quả cơ bản, xử lý dần các
bất hợp lý trong cơ chế lãi suất tín dụng,chế độ kiểm soát lãi suất cứng nhắc
dần dần đợc nới lỏng theo hớng tự do hóa với nhng bớc di thận trọng,cụ thể
nh sau:
1.Trớc tháng 3- 1989: Là thời kỳ điều hành theo cơ chế lãi suất âm.
Trớc những năm 1988-1989, vào thời kỳ quan liêu bao cấp, nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung. Nhà nớc trực tiếp quản lý lãi suất bằng cách công bố tất
cả các loại lãi suất, có thể nói đây là chính sách lãi suất cứng nhắc bị áp đặt
theo kiểu hành chính. Tuy theo thời gian trôi đi lãi suất có đợc điều chỉnh,
nhng do lạm phát phi mã lãi suất luôn trong tình trạng âm. Điều này có nghĩa
là:
- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.
Hệ thống lãi suất có nhiều tiêu cực.
+ Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lu thông, giải toả áp
lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều.
+ Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho
doanh nghiệp.
+ Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có
cho ngân hàng. Ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ một cách bình thờng.

2.Từ tháng 3-1989-1/10/1993: chuyển từ cơ chế lãi suất âm sang cơ
chế lãi suất dơng.
Sau năm 1988 hệ thống ngân hàng hai cấp hình thành. Chính phủ giao
cho NHNN điều hành lãi suất, điều chỉnh lãi suất theo yếu tố biến động của
thị trờng mà quan trọng nhất là lạm phát. Thực hiện cuộc cải cách, để thu hút
tiền thừa trong lu thông về, kìm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất,với
quyết định 29/NH ngày 16/3/1989 lãi suất huy động đợc nâng lên một mức

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
cao theo tỉ lệ lạm phát (lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 9%/tháng-tức là
109%/năm, lãi suất tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng-144 %/năm). Nhờ vậy đã:
Thu hút một khối lợng tiền lớn trong lu thông, tăng nguồn vốn tín dụng,
giảm áp lực lạm phát.
Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang
kinh doanh thực sự.
Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dơng, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn tỉ lệ
lạm phát, lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động, xử lí hài hoà lợi ích giữa
ngời gửi tiền, ngời vay vốn và tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức
lãi suất tiền gửi và cho vay.
+ Đối với từng ngành kinh tế có mức lãi suất riêng.
+ Đối với các thành phần kinh tế còn có phân biệt lãi suất.
Ngày 1-6-1992 thống đốc NHNN đã quyết định điều chỉnh chính sách lãi
suất theo hớng:
Đảm bảo lãi suất thực tế dơng, lãi suất tín dụng ngân hàng không thấp
hơn lãi suất tiền gửi.
Ngân hàng nhà nớc chỉ quy định mức cho vay tối đa và mức tiền gửi tối

thiểu cụ thể với từng đối tợng vay vốn, còn mức lãi suất cụ thể sẽ do các
NHTM tự quyết định trên cơ sở cung cầu về vốn tín dụng.
Thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng đối với tất cả các thành phần
kinh tế.
Chính sách lãi suất phù hợp trên đã góp phần tập trung đợc nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong dân c cho đầu t phát triển, kiểm soát lạm phát ở mức
hợp lý, ổn định và kích thích tăng trởng. Năm 1992, lạm phát giảm mạnh từ
67,6% (1991) xuống 14,5% , tăng trởng kinh tế từ 6% (1991) lên 8,6%. Năm
1993 lạm phát đạt mức thấp 5,2% và tăng trởng kinh tế 8,1%.
Mức lãi suất mới đã khắc phục đợc tình trạng lợi dụng vốn của ngân hàng
để khách hàng ăn chênh lệch giá, buộc các doanh nghiệp phải tính toán thu
hồi vốn và tăng nhanh quay vòng vốn.
3. Từ ngày 1/10/1993-1/1/1996: NHNN vừa áp dụng lãi suất
trần( cho vay) vừa áp dụng lãi suất thoả thuận.

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Theo quyết định 184/QĐNH1 ngày 28-9-1993, NHNN quy định các
mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho phép các tổ chức tín dụng
cho vay theo lãi suất thoả thuận vợt mức lãi suất cho vay cụ thể:
a)Trần lãi suất: Đối với doanh nghiệp nhà nớc 1,8% / tháng, kinh tế ngoài
quốc doanh 2,1 % / tháng.
b)Thoả thuận: Trờng hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay
theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì đợc áp
dụng lãi suất thoả thuận. Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm
cùng kì hạn là 0,2 %/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng.
Trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng d nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho
vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc

doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5 % tháng. Các ngân
hàng đạt mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động khoảng từ
0,7% - 1%/tháng làm cho các ngân hàng thơng mại có lợi nhuận quá cao,
trong khi doanh nghiệp và nông dân gặp nhiều khó khăn. Từ thực tế này,
quốc hội khoá IX trong kì họp thứ 8 tháng 8/1995 cùng với nghị quyết bỏ
thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng nhân hàng, đã yêu cầu ngân hàng
tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động
và cho vay bình quân là 0,35%/ tháng. Đây là lý do để ra đời chế độ lãi suất
trần hoàn toàn và bỏ lãi suất cho vay thoả thuận 1/1/1996
4 .Từ ngày 1/1/1996-21/1/1998: Thực hiện chính sách trần lãi suất và
khống chế chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình
quân là 0,35%/tháng
Quốc hội ra quyết định số 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995 quy định
chính sách trần lãi suất có phân biệt theo từng khu vực nh sau:
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn: Là mức lãi suất thấp nhất áp dụng cho
khu vực thành thị.
Trần lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn. cao hơn lãi suất cho vay ngắn
hạn một chút do thời gian dài dễ gặp rủi ro.
Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn: Cao hơn trần lãi suất ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn do điều kiện hoạt động và địa bàn nông thôn khó
khăn hơn thành thị.
Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối với các thành viên: Là trần lãi
suất cho vay cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm quy mô nhỏ bé, chi
phí hoạt động cao. Cụ thể : từ mức trần 1,75%/tháng dành cho khu vực thành

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
thị và 2%/tháng dành cho khu vực nông thôn, lãi suất trần đã áp dụng thống

nhất cho cả hai khu vực là 1,2%/tháng đối với vay ngắn hạn và 1,25%/tháng
đối với vay trung và dài hạn.
Ngoài ra, quyết định còn quy định mức chênh lệch giữa lãi suất cho
vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng
Với việc quy định trần lãi suất và khống chế mức chênh lệch 0,35%
chúng ta có thể thấy đây là một vấn đề đáng ghi nhận trong quá trình tìm
kiếm các phơng thức quản lý Nhà nớc đối với các hoạt động của các ngân
hàng thơng mại trong cơ chế thị trờng (trớc đây (từ năm 1992 đến cuối năm
1995), Nhà nớc thực hiện kiểm soát hoạt động tín dụng của các ngân hàng
thơng mại thông qua công cụ lãi suất bằng chỉ tiêu mức lãi suất sàn đối với
vốn huy động, mức lãi suất trần đối với vốn cho vay). Từ đó đã hình thành
một hành lang vận động hợp pháp của vốn tín dụng về phơng diện giá cả
của nó-đó là một hành lang mà đờng biên cứng là mức lãi suất trần cho vay,
còn đờng biên còn lại thì không cố định mà đợc thay thế bằng mức chênh
lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động của một chu kỳ
kinh doanh tín dụng ở mỗi ngân hàng không đợc qúa 0,35%/tháng. Nó đã
thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào cạnh tranh trong kinh doanh tiền tệ, qua
đó các tổ chức tín dụng đợc tự chủ trong việc ấn định mức lãi suất huy động
cụ thể. Chính sách lãi suất này đã kích thích hoạt động tín dụng phát triển,
tăng trởng kinh tế, tạo việc làm; góp phần thực hiện công nghiệp, hoá hiện
đại hoá đất nớc. Tuy nhiên, bên cạnh thành công là cơ bản, vẫn có một số
điểm trong chính sách này đợc bình luận khá sôi nổi. Các ý kiến phản đối
cho rằng chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình
quân cuả TCTD đợc quy định với mức 0,35%/tháng là không có cơ sở, quá
thấp, không đáp ứng đợc yêu cầu của hạch toán kinh doanh của TCTD.
5.Từ ngày 21/1/1998-5/8/2000: Xoá bỏ mức khống chế chênh lệch lãi
suất 0,35%/tháng.
Ngày 17/1/1998, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số
39/1998/QĐ-NH1, quy định lãi suất cho vay bằng đồng Việt nam của các
tổ chức kinh tế, dân c và mức lãi suất tiền gửi bằng đồng đô la Mỹ của tổ

chức kinh tế, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/1/1998. Nội dung chủ yếu
của quy định lãi suất lúc này là:
Đa ra mức trần lãi suất cho vay của các TCTD bằng VND:
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2 % tháng

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
- Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn 1,25 % tháng.
Mức lãi suất trần cho vay nói trên đợc áp dụng chung đối với cho vay
trên địa bàn thành thị và cả trên địa bàn nông thôn.
Quy định trần lãi suất cho vay USD, quy định các mức lãi suất tiền gửi
bằng USD của các tổ chức kinh tế.
Quy định lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN đối với các TCTD.
Ngoài ra trong quyết định 39 còn đa ra một số mức lãi suất cho vay cụ
thể đối với một số đối tợng đặc biệt nh:
-Cho vay sinh viên, học sinh.
-Hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cho vay thành viên.
Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5 % tháng.
-Cho vay các tổ chức kinh tế và dân c thuộc khu vực núi cao, hải đảo,
vùng đồng bào Khơ me tập trung.
Nội dung của Quyết định 39 đã thể hiện đợc sự đổi mới trong việc
quản lý và điều hành công cụ lãi suất của NHNN Việt nam trên thị trờng vốn.
Có thể nêu ra một vài nét nh sau:
Việc xoá bỏ mức khống chế chênh lệch giã lãi suất cho vay bình quân và
lãi suất tiền gửi bình quân là một quyết định đúng đắn, nó đã tạo ra một động
lực mới khuyến khích sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng.
Quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD đối với các tổ chức kinh
tế, góp phần hạn chế tình trạng giam giữ ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi tại

các TCTD. Trên cơ sở đó, các TCTD số ngoại tệ một cách triệt để hơn, hữu
ích hơn.
Xoá bỏ sự phân biệt về lãi suất cho vay trên địa bàn thành thị và nông
thôn, tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế-xã hội ở các địa bàn nông
nghiệp nông thôn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt đợc vẫn còn tồn tại một số
bất cập phát sinh từ chính quá trình vận hành chính sách lãi suất mới, đó là:
Mặc dù việc quy định thống nhất mức trần lãi suất cho vay khu vự nông
thôn và thành thị tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp và nông thôn phát
triển. Song cũng lại chính nó là lực cản ngăn chặn các luồng vốn chảy về khu
vực này vì mức sinh lợi tháap đã làm giảm động lực khuyến khích các TCTD.

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Mặc dù với chính sách lãi suất này, nó không còn gò bó, cứng nhắc mà
nó đã tạo điều kiện cho các TCTD chủ động hơn trong việc xác định mặt
bằng lãi suất phù hợp với điều kiện riêng của mình mà vẫn không lạc dòng so
với cơ chế chung. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trờng, thị trờng vốn ngân hàng
không còn là thị trờngduy nhất, do vậy lãi suất của ngân hàng cũng không
phải là cái giá duy nhất của các khoản vốn tiền tệ, tồn tại song song với nó
còn có kho bạc, bu điện...Để có thể tồn tại các TCTD phải luôn chịu sự cạnh
tranh, thạm chí có lúc rất quyết liệt với các định chế khác, đặc biệt là thị trờng trái phiếu kho bạc làm cho các TCTD nhiều lúc lao đao.
Do cạnh tranh buộc các TCTD phải nâng lãi suất tiền gửi, nên khoảng
cách còn lại giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi chỉ còn không đáng kể
0,15%/tháng, nơi nào cao lắm thì khoảng 2%/tháng. Mức chênh lệch này là
thấp, khó có thể đảm bảo cho các TCTD bù đắp chi phí và có lãi.
Lãi suất cho vay trung và dài hạn đợc nâng cao hơn lãi suất cho vay ngắn
hạn (tháng 7/1996) đánh dấu bớc chuyển đổi đáng kể về chính sách lãi suất

của NHNN Việt nam, phù hợp với tính chất của nguồn hình thành các khoản
vay, phù hợp với các rủi ro dự kiến. Tuy nhiên, cũng kể từ đó lãi suất cho vay
trung, dài hạn chỉ cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,05%/tháng. Mức
chênh lệch này là thấp, nó không đủ để bù đắp những rủi ro cho vay trung,
dài hạn và vì thế nó không tạo đợc động lực khuyến khích các TCTD mở
rộng cho vay trung, dài hạn.
6. Từ ngày 5/8/2000 - 1/6/2002 Chuyển đổi lãi suất trần sang lãi suất
cơ bản.
- Qua những năm đổi mới, cơ chế điều hành lãi suất đã ngày càng trở nên
linh hoạt hơn, nới lỏng từng bớc theo hớng tự do hoá, bám sát cung cầu vốn
trên thị trờng, quyền chủ động ấn định lãi suất kinh doanh của các TCTD đợc
mở rộng, nên làm tăng khả năng canh tranh nhng vẫn kiểm soát đợc lãi suất
trên thị trờng tiền tệ, góp phát triển thị trờng tài chính trong nớc, thúc đẩy
tăng trởng kinh tế, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam.
Để thúc đẩy phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, NHNN phải tiếp tục
đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, từng bớc áp dụng lãi suất cơ bản thay dần
cho việc ấn định trần lãi suất đi đôi với sử dụng công cụ điều tiết lu thông
tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trờng.
* Nội dung chủ yếu của cơ chê điều hành lãi suât cơ bản.
Theo luật NHNN Việt Nam, lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố
làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh.Lãi suất cơ

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
bản đợc hình thành trên nguyên tắc thị trờng nhng với bớc đi thích hợp, thận
trọng, phù hợp với điều kiện thực tế của thị trờng tiền tệ, từng bớc tiến tới tự
do hoá lãi suất, quốc tế hoá hoạt động tài chính trong nớc; đồng thời với các
biện pháp phát triển thị trờng tiền tệ và nâng cao năng lực tài chính và năng

lực điều hành của các TCTD; xử lý lãi suất VND trong mối quan hệ với lãi
suất ngoại tệ và chính sách tỷ giá , quản lý ngoại hối . Cụ thể là:
a) Đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam:
NHNN bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của TCTD đối với khách
hàng, chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản và tỷ lệ % biên độ trên
dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thờng của các
NHTM áp dụng đối với khách hàng vay có uy tín trong việc sử dụng vốn vay,
trả nợ , có rủi ro thấp. Lãi suất cho vay và huy động của TCTD gắn với lãi
suất cơ bản. Theo đó:
Lãi suất cho vay của TCTD cao nhất = lscb + tỷ lệ % .
Công bố định kỳ hàng tháng, trờng hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều
chỉnh kịp thời, tại thời điểm hiện nay là:
Lãi suất cơ bản 0,75% tháng;
Biên độ trên đối với lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,3% tháng;
Biên độ trên đối với cho vay trung và dài hạn là 0,5% tháng.
Lãi suất cơ bản và biên độ nh trên là phù hợp với mặt bằng lãi suất đã và
đang đợc hình thành trên thị trờng nông thôn và thành thị hiện nay, không tác
động làm thay đổi lãi suất thị trờng và không tạo ra tâm lý về NHNN tăng
trần lãi suất.
b) Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ
Cho vay bằng đô la Mỹ : bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của
NHTM đó với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh hoạt, phù hợp với
thị trờng quốc tế nhng vẫn có sự kiểm soát của Nhà nớc, cụ thể là lãi suất cho
vay ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống) không vợt quá mức SIBOR (lãi suất thị trờng tiền tệ liên ngân hàng Singapore) kỳ hạn 3 tháng +1%năm; lãi suất cho
vay trung dài hạn (từ 1 năm trở lên) không vợt quá mức SIBOR kỳ hạn 6
tháng + 2,5% năm
Cho vay bằng các loại ngoại tệ khác: do chiếm tỷ lệ nhỏ trong hoạt động
tiền gửi và tín dụng trên thị trờng, nên cho phép các NHTM tự xem xét quyết

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D



Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các loại ngoại tệ này trên cơ sở lãi
suất thị trờng quốc tế và cung cầu vốn tín dụng của từng ngoại tệ trong nớc.
c) Các NHTM cung cấp thông tin tham khảo cho NHNN về lãi suất
bao gồm:
Ngân hàng ngoại thơng Việt Nam; Ngân hàng Công thơng Việt Nam;
Ngân hàng Đầu t và phát triển Việt Nam; Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thơng mại cổ phần á Châu; Ngân hàng
thơng mại cổ phần Quân đội; Ngân hangg ANZ; Ngân hàng HSBC và ngân
hàng VID PUBLIC.

7. Từ 1/6/2002-Các ngân hàng đợc toàn quyền quyết định lãi suất
cho vay

Nội dung của chính sách lãi suất thoả thuận.
Quyt nh 546/2002/QD-NHNN ngy 30/5/2002 ca Thng c NHNN
VN vit: "TCTD xỏc nh lói sut cho vay bng VND trờn c s cung cu
vn th trng v mc tớn nhim ca khỏch hng vay l phỏp nhõn v cỏ
nhõn VN; phỏp nhõn v cỏ nhõn nc ngoi hot ng ti VN". Nh vy, t
ngy 1/6/2002, lói sut cho vay bng VND ca cỏc TCTD ch da vo hai
yu t: mt l cung cu vn tớn dng ngõn hng v s tớn nhim ca bờn vay
i vi TCTD.
3.2 Thực trạng thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận
T khi thc hin lói sut tha thun cho vay bng VND, cỏc TCTD cnh
tranh vi nhau bng lói sut huy ng vn rt quyt lit. Huy ng vn bng
VND, k hn t 12 thỏng tr lờn ca cỏc Ngõn hng ngoi thng VN
(VCB) 8,4%/nm; ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
(NHNo&PTNT) 8,64%/nm.

Vi lói sut huy ng vn bng VND quỏ cao ca NHTM quc doanh,
cỏc NHTM c phn nh chu thua m phi i sõu vo tin gi di 6 thỏng:

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


§Ò ¸n Lý thuyÕt tµi chÝnh tiÒn tÖ
từ 1 tuần lễ đến 5 tháng với lãi suất tăng vài phần mười nghìn trong một
tháng so với lãi suất huy động vốn bằng VND của NHTM quốc doanh.
Hiệu ứng của việc cạnh tranh huy động vốn bằng VND với lãi suất cao
đã phát sinh việc di chuyển tiền tệ từ NHTM này sang NHTM khác, thậm
chí từ vùng này đến vùng khác. Giá cả của nguồn vốn huy động bằng VND
của các TCTD tăng lên, khiến lãi suất cho vay bằng VND của các TCTD
cũng tăng lên. Hiện nay, không có một TCTD nào cho vay VND với lãi suất
bằng lãi suất cơ bản do NHNN VN công bố là 0,62%/tháng. Lãi suất cơ bản
cho vay của các TCTD bằng VND do NHNN VN đưa ra, dựa vào lãi suất
cho vay bằng VND của 5 NHTM đối với khách hàng có tín nhiệm nhất. Hiện
nay, lãi suất cho vay của các TCTD bằng VND ở đô thị phổ biến là
0,75%/tháng. Quỹ tín dụng nhân dân ở nông thôn cho vay với lãi suất cao
nhất là 1,2%/tháng; các chi nhánh NHNo&PTNT cho hộ nông dân vay ngắn
hạn bằng VND với lãi suất 0,95%/tháng. Các chi nhánh NHTM cạnh tranh
với nhau về lãi suất cho vay, khiến độ sinh lời của các NHTM giảm thấp.
Chênh lệch giữa lãi suất huy động bằng VND của một số TCTD thấp hơn
0,1%/tháng! Không những thế, một số NHTM quèc doanh còn đầu tư vào tín
phiếu kho bạc (TPKB), với lãi suất cao nhất 5,95%/năm, thấp hơn lãi suất
cao nhất huy động vốn bằng VND của VCB là 2,45%/năm (8,4%-5,95% =
2,45%). Biết lỗ nhưng các NHTM quốc doanh vẫn phải đầu tư vào TPKB, vì
nó là tài sản động của NHTM quốc doanh. Khi NHTM quèc doanh thiếu vốn
khả dụng, bán TPKB cho NHNN ở "thị trường mở" với lãi suất 5,8%/năm.
Như vậy, các NHTM quốc doanh lại bị lỗ lần thứ hai là 0,15%/năm (5,95% 5,8% = 0,15%).


Th¸i L¬ng Hßa-Tµi ChÝnh42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Phần VI: Kiến nghị và các giải pháp
Để tự do hoá thực sự phát huy tính tích cực của nó thiết chúng ta phải
không ngừng củng cố và hoàn thiện các điều kiện của tự do hoá lãi suất có
nh thế tự do hoá lãi suất mới thể hiện vai trò to lớn trong việc thúc đẩy sự
phát triển kinh tế của đất nớc trong sự hội nhập nền kinh tế khu vực và trên
thế giới. Cụ thể nh sau
4.1 Hoàn thiện hệ thống ngân hàng, hoàn thiện hệ thống chính sách
Phối hợp với Bộ tài chính tăng cờng phát hành những tín phiếu, trái phiếu
kho bạc để đủ số lợng công cụ cho thị trờng liên ngân hàng. Các ngân hàng
vay hay cho vay rất dễ dàng bằng cách bán(vay) khi thiếu vốn, hay mua(cho
vay) khi thừa vốn. NHTW cũng bán khi muốn thu hồi tiền từ lu thông và mua
khi muốn tung tiền ra lu thông. Cách làm này nhanh và nhẹ nhàng hơn tái
cấp vốn nặng nề hiện nay vì đòi hỏi phải có bộ hồ sơ cho vay, có tài sản thế
chấp đợc công chứng và sự thẩm định lại của NHNN địa phơng. Còn dùng
cửa sổ tái chiết khấu thì ta cha có thơng phiếu do những điều luật về thơng
phiếu còn quá sơ sài(chỉ có 4 điều trong mơi dòng ở Luật Thơng mại và cha
đợc hớng dẫn thi hành). Với cách làm nặng nề hiện nay, thị trờng liên ngân
hàng sẽ không hoạt động thờng xuyên hàng ngày đợc.
NHNN phải thực sự là ngân hàng của các ngân hàng, nghĩa là nơi các
NHTM thừa tiền có thể gửi NHNN để hởng lãi suất qua đêm.
Cải tiến và tăng cờng tác động của NHNN bằng các công cụ của chính
sách tiền tệ hiện có, đặc biệt là điều chỉnh linh hoạt khả năng tạo tiền của các
NHTM bằng giới hạn sử dụng vốn và hạn mức tái cấp vốn trong tái chiết
khấu khế ớc nợ và tín dụng thế chấp đối với giấy tờ có giá đảm bảo chất lợng.
Cần có một sự điều tra cơ bản của NHTW về mức chi phí quản lí bình

quân của các ngân hàng ở các vùng khác nhau để lãi suất có thể bù đắp chi
phí trung bình của các NHTM thành phố. Chính sách lãi suất có đảm bảo
cho các NHTM kiếm đợc tỉ suất lợi nhuận bình quân của các ngành, các ngân
hàng mới đủ sức đối phó đợc ảnh hởng của khủng hoảng tiền tệ và có đủ sức
cạnh tranh khi hội nhập với ASEAN.
Các tiền gửi dự trữ bắt buộc phải thật sự là khoản dự trữ an toàn của
ngành Ngân hàng. Không thể hiểu lầm phải đóng băng nó lại, nghĩa là không
cho vay ra tức thời cho các NHTM khi họ thiếu khả năng chi trả tạm thời có

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
thể dẫn tới phải khất chi tiền gửi cho khách hàng. Dùng loại tín dụng điều
chỉnh với điều kiện NHTM không đợc tăng d nợ khi đang vay loại này sẽ
hoàn toàn khống chế việc dùng khoản vay này để kinh doanh(tăng d nợ). Đợc
vay ngay khi tạm thời thiếu khả năng chi trả, các NHTM có thể giảm bớt dự
trữ an toàn sơ cấp rất cao hiện nay làm tăng chi phí và kéo theo tăng chênh
lệch lãi suất.
Phân định rõ chức năng kinh doanh và chức năng xã hội trong hoạt động
của các NHTM và các TCTD theo hớng xoá bỏ dần cơ chế bao cấp qua lãi
suất tín dụng. Với hớng này các NHTM và các TCTD chỉ làm chức năng kinh
doanh tiền tệ theo Luật Ngân hàng. Chuyển chức năng xã hội cho các tổ chức
tài chính khác nh Kho bạc, Ngân hàng đầu t và phát triển, Ngân hàng phục
vụ ngời nghèo. Muốn vậy, cần phải hạn chế và tiến tới xoá bỏ dần cơ chế bao
cấp qua tín dụng. Chừng nào còn tồn tại sự bao cấp của Nhà nớc qua tín dụng
thì các NHTM cha thể thực hiện đợc chức năng kinh doanh tiền tệ đúng luật
Ngân hàng. tính chủ động trong kinh doanh của các chủ nhà băng vẫn bị hạn
chế, hiệu quả của hoạt động ngân hàng không thể hạch toán rõ ràng cả về
kinh tế cũng nh xã hội. Yêu cầu tạo sân chơi bình đẳng giữa các NHTMQD

với NHTMCP và NHTM liên doanh với nớc ngoài.
Tạo lập môi trờng pháp lí lành mạnh để khuyến khích sự cạnh tranh giữa
các NHTM và các TCTD phù hợp với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần của Đảng và Nhà nớc.

ổn định kinh tế vĩ mô về các mặt: tốc độ tăng GDP, kiểm soát lạm phát,
cân đối ngân sách nhà nớc.
Nâng cao năng lực quản lý kinh tế của các cơ quan vĩ mô đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của quá trình kinh tế.
Đẩy mạnh phát triển hơn nữa các công cụ tài chính để thực hiện có hiệu
quả các công cụ tiền tệ gián tiếp thay cho vai trò của lãi suất trong việc điều
hành chính sách tiền tệ.

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ

kết luận
Lãi suất là một loại giá đặc biệt, đợc sử dụng làm đòn bẩy cho những
mục tiêu khác nhau. Lãi suất còn tác động vào cả chính các yếu tố xác định
nó nh: khối lợng tiền tệ, quan hệ cung cầu vốn, tỉ suất lợi nhuận bình quân
của các doanh nghiệp... Do vậy, việc điều chỉnh và đa ra những chính sách lãi
suất hợp lý trong từng thời kỳ một cách phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh
của đất nớc sao cho chính sách lãi suất thực sự phát huy hiệu quả của nó một
cách tích cực đối với sự phát triển nền kinh tế là vấn đề không đơn giản, đòi
hỏi phải xử lý nhiều mối quan hệ khác nhau. Do vậy sự thực hiện thành công
tự do hoá ở Việt Nam đợc các giới bình luận coi sự đổi mới này là bớc ngoặt
lịch sử của NHNN trong việc điều hành chính sách lãi suất,từ sự can thiệp
bằng các biện pháp hành chính sang cơ chế thị trờng. Sự đổi mới này đã tạo

ra không khí hồ hởi và môi trờng pháp lý thông thoáng đối với cả ngời cho
vay và ngời đi vay.Tuy nhiên chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất nhng
không có nghĩa là thả nổi lãi suất mà thông qua các công cụ tài chính giá vẫn
có sự điều tiết gián tiếp của NHNN Việt Nam để đảm bảo giữ vững định hớng cho hoạt động của hệ thống ngân hàng. Hơn nữa chung ta phải không
ngừng hoàn thiện các cải cách về hệ thống ngân hàng, hệ thống chính sách ,
môi truờng vĩ mô và vi mô có nh vậy tự do hoá lãi suất mới thực sự phát huy
vai trò tạo động lực trong sự phát triển kinh tế của đất nớc.

Tài liệu tham khảo
Sách:
Mishkin - Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trờng tài chính
David Begg - Kinh tế học

Thái Lơng Hòa-Tài Chính42D


×