Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận tình huống chuyên viên chuyên viên chính xử lý buộc thôi việc do sinh con thứ 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.46 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Người phụ nữ Việt Nam hiện nay vừa là con người của lao động, con
người của nội trợ, con người của chiến sỹ. Trong đó con người lao động và con
người nội trợ ở trong mỗi người phụ nữ Việt Nam mới chính là hình ảnh thường
hằng về họ. Con người chiến sĩ lúc nổi lên thật rạng rỡ, nhưng nhiều lúc vẫn lẩn
vào trong con người lao động và nội trợ và mang cốt cách của hai con người
này. Phong thái bao trùm cốt cách và tâm hồn cơ bản của người phụ nữ Việt
Nam, đấy là sự bình dị, là lòng nhân ái, là ân tình và yêu thương đằm thắm.
Chính những điều đó đã làm cho con người phụ nữ Việt Nam cần cù, tỉ mỉ, nhẫn
nại dẻo dai, tằn tiện, chịu khó, chịu khổ mà lao động đảm đang. Bản thân người
phụ nữ dường như không còn thấy đặt ra nhu cầu hưởng thụ gì to tát, nhưng
chính là vì chồng con, họ hàng rồi làng xóm, vì đất nước - dân tộc. Vì thương
yêu tất cả mà họ lao động cũng chính với tấm lòng trung hậu, và luôn phát huy
bản chất của người phụ nữ Việt Nam " Trung hậu đảm đang Trong công tác xã
hội người phụ nữ đã phát huy được hết khả năng của mình, đảm nhận nhiều
cương vị cao trong xã hội và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Nền tảng của sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam là dựa ừên nguồn
nhân lực của chính mình, chính vì vậy vấn đề dân số có quan hệ mật thiết, chặt
chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, hệ thống các chính sách
dân số là một bộ phận của chiến lược phát triển xã hội, chiến lược phát triển
kinh tế xã hội phải gắn liền một cách hữu cơ với các chính sách phát triển kinh
tế, văn hoá, dân số, bảo vệ môi trường.
Qua học tập lớp Bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà nước tổ chức, tôi đã
được trang bị những kiến thức cơ bản về quản lý Nhà nước trên tất cả các mặt
của xã hội nói chưng và Quản lý Nhà nước về Dân số - Kế hoạch hoá gia đình
nói riêng. Quản lý Nhà nước về công tác Dân số - Kế hoạch hoá gia đình nhằm
mục tiêu ổn định Dân số để phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cuộc
sống của từng người, từng gia đình và toàn thể xã hội đưa đất nước ngày càng
phồn vinh giàu đẹp. Bản thân là một người phụ nữ vì vậy để đảm bảo quyền lợi



và nghĩa vụ của phụ nữ tôi chọn đề tài: "Xử lý một cán bộ Hội phụ nữ của
Huyện H làm đơn kiện Tỉnh Hội phụ nữ, Liên đoàn lao động Tỉnh A vì chị
sinh con thứ ba, nên buôc thôi vỉêc năm 2014"


CHƯƠNG I MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1.1.

Tên tình huống

Xử lý một cán bộ Hội phụ nữ của Huyện H làm đơn kiện Tỉnh Hội phụ
nữ, Liên đoàn lao động Tỉnh A vì chị sinh con thứ ba, nên buộc thôi việc năm
2014
Địa điểm xảy ra tình huống: tại Huyện H năm 2014.
1.2.

Diễn biến của tình huống

Chị Nguyễn Thị K là một cán bộ của Hội phụ nữ Huyện H, Tỉnh A. Chị
K là một cán bộ hội còn trẻ, được đào tạo cơ bản, có hệ thống, trong công tác
năng nổ, nhiệt tình và tỏ ra là người có năng lực làm công tác Hội. Chị K đã có
hai con gái, cả hai đều khoẻ mạnh, xinh xắn và học giỏi, chồng chị K là công
nhân của một công ty sản xuất bao bì, anh là người chồng hiền lành biết thương
vợ con do vậy chị K có điều kiện thuận lợi để tham gia công tác xã hội.
Tưởng như công việc sẽ suôn xẻ nếu chị K chỉ dừng lại ở việc nuôi dạy
hai cháu. Nhưng vi sống ở vừng quê còn nhiều hủ tục lạc hậu nhất là tư tưởng
trọng nam, khinh nữ và vì sức ép của gia đình nhà chồng là muốn có một đứa
cháu trai để có người nối dõi và lại sợ chồng không vững vàng trước tập tục lạc
hậu của địa phương nên chị K đã đồng ý với gia đình nhà chồng tiếp tục sinh
cháu thứ ba với hy vọng có người nối dõi để thoả mãn ý nguyện của gia đình

nhà chồng. Khi cơ quan phát hiện việc chị K có thai cháu thứ ba thì đã quá
muộn và không thể can thiệp bằng biện pháp y học được vì sức khoẻ của chị K
rất yếu.
Sau khi chị K sinh con, Hội phụ nữ huyện yêu càu chị K phải nghỉ việc
với lý do: Chị K là một cán bộ làm công tác phong trào nhưng bản thân lại vi
phạm cuộc vận động về Dân số - Kế hoạch hoá gia đình. Do vậy, việc để chị K
tiếp tục ở lại Hội phụ nữ công tác là không thể được và vì chị K đã không
gương mẫu thực hiện, lại không thuyết phục được gia đình trong việc thực hiện
công tác Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và xoá bỏ tư tưởng lạc hậu trọng nam


khinh nữ.
Nhận được quyết định buộc thôi việc, chị K đã làm đơn kiện gửi lên Hội
phụ nữ tỉnh và Liên đoàn lao động tỉnh yêu cầu các cơ quan chức năng can thiệp
để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Chị K cho rằng mình bị buộc phải thôi
việc là rất vô lý vì Hội phụ nữ huyện, UBND huyện chỉ căn cứ vào vào Nghị
quyết của Hội đồng nhân dân huyện buộc chị K phải thôi việc trong khi luật
pháp không có điều khoản nào quy định nếu đẻ dầy, đẻ nhiều quá quy định thi
sẽ bị luật pháp xử phạt.
Sau khi nhận được đơn khiếu kiện của chị K. UBND tinh A đã cử một tổ
công tác xuống làm việc tại huyện H, nơi chị K công tác để xem xét làm rõ
nguyên nhân vì sao chị K buộc phải thôi việc và quyết định buộc thôi việc ấy
dựa vào căn cứ nào.
Tổ công tác đã về huyện H để gặp chị K và gia đình chị để tìm hiểu
nguyên nhân vi sao chị K lại sinh con thứ ba trong khi mình lại là một cán bộ
Hội đi tuyên truyền vận động người khác thực hiện chính sách Dân số - Kế
hoạch hoá gia đình. Qua nghiên cứu các văn bản, các Nghị quyết của Hội đồng
dân nhân huyện H có đề cập đến công tác Dân số - Kế hoạch hoá gia đình tại địa
phương, xem xét việc tổ chức triển khai thực hiện của UBND huyện đối với các
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Sau khi đã thu thập đầy đủ các chứng cứ, tổ

công tác thấy lý do chị K bị buộc thôi việc đúng như tinh thần chị K đã nêu
trong đơn. Đối chiếu với chế độ, chính sách và quy định của pháp luật, tổ công
tác thấy rằng việc Hội phụ nữ và UBND huyện H buộc chị K phải thôi việc vì lý
do sinh con thứ ba là không có căn cứ.
Từ tình huống nêu trên đặt ra cho chúng ta mục tiêu cần phải giải quyết là
đảm bảo tính nghiêm minh trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đồng thời phải bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân.


CHƯƠNG II PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1.

Mục tiêu phân tích tình huống

Qua xem xét sự việc trên đã nảy sinh ra những vấn đề cần phải giải quyết
đó là:
* Việc sinh con thứ ba của chị Nguyễn Thị K là đúng hay sai?
* Hội phụ nữ huyện H yêu cầu chị K nghỉ việc đã đúng với các quy định
của Nhà nước hay chưa?
* Hướng giải quyết như thế nào là hợp lý ?
2.2.

Phân tích diễn biến tình huống dựa trên Ctf sở nhũng quy định

hiện hành của Nhà nước có liên quan.
* Đối với việc ra quyết định của các cơ quan có thẩm quyền (Hội đồng
nhân dân, UBND huyện)
Trong việc thực hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, Hội
đồng nhân dân huyện H đã có Nghị quyết số 32/NQ-HĐ, Nghị quyết quy định
hình thức xử lý đối với trường hợp vi phạm chính sách Dân số - Kế hoạch hoá

gia đình ( sinh con thứ ba) sẽ bị thôi việc.
Khi nhận được văn bản của Hội phụ nữ huyện H đề nghị xử lý kỷ luật đối
với chị K. UBND huyện H đã xem xét và căn cứ vào Nghị quyết số 32/NQ-HĐ
của Hội đồng nhân dân huyện H đã ra quyết định buộc thôi việc đối với chị K.
Quyết định buộc thôi việc đối với chị K làm cho nhiều người không đồng tình.


về mặt lý luận chúng ta thấy: Quyết định hành chính là kết quả của sự thể
hiện ý chí, quyền lực đơn phương của cơ quan hành chính Nhà nước, những
viên chức Nhà nước được trao thẩm quyền và của các tổ chức khác khi Nhà
nước uỷ quyền, được ban hành trên cơ sở luật và nhằm thực hiện luật theo trình
tự và hình thức văn bản hoặc văn nói theo quy định của pháp luật. Mục tiêu của
quyết định hành chính là nhằm định ra chính sách, đặt ra, sửa đổi các quy phạm
pháp luật hành chính hoặc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp
luật hành chính cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của quyền hành
pháp của Nhà nước. Quyết định hành chính phải đảm bảo được những tính chất
cụ thể như sau:
- Có tính ý chí quyền lực Nhà nước là kết quả của sự thể hiện ý chí của
các cơ quan hành chính có thẩm quyền thực hiện nhân danh quyền lực Nhà
nước.
- Có tính pháp lý, thể hiện ở hiệu quả pháp lý của nó. Quyết định hành
chính tác động vào đời sống xã hội bằng việc định ra chính sách, đặt ra, sửa đổi,
bãi bỏ các quy phạm pháp luật hành chính, làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quan hệ pháp luật hành chính cụ thể.
- Có tính dưới luật, nghĩa là nội dung của quyết định hành chính phải phù
họp với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, được ban
hành theo trinh tự và hình thức do pháp luật quy định.
Như vậy, Quyết định hành chính Nhà nước là tín hiệu điều khiển, là thông
tin quy phạm của các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước tác động vào khách
thể để thực hiện mục đích của mình đề ra theo quỹ đạo và ý chí của mình. Bên

cạnh những tính chất cơ bản trên thì quyết định còn phải có được tính hợp pháp
và hợp lý.
Nguyên tắc Quản lý Nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi mọi hoạt động của
các cơ quan hành chính Nhà nước, trong đó có hoạt động ra quyết định hành
chính, phải phù họp với pháp luật về nội dung và trình tự ban hành; Nghĩa là
mọi quyết định hành chính được ban hành trên cơ sở, Hiến pháp, pháp luật. Mặt


khác các quyết định hành chính phải đảm bảo tính hợp lý phải đảm bảo tính họp
lý, nghĩa là phải phù hợp với đường lối chính trị, nhu cầu, nguyện vọng của
nhân dân và thực tiễn, khả năng Quản lý Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.
Tính họp pháp và hợp lý của quyết định hành chính có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau. Khi ban hành các quyết đinh hành chính các cơ quan hành chính
Nhà nước bảo đảm tính họp pháp và tính hợp lý, từ đó đưa ra các văn bản mới
có khả năng thực thi, được xã hội chấp nhận. Nhưng cũng có những trường hợp
tính hợp pháp và họp lý không đồng nhất với nhau. Lý do chính là do cơ quan
ban hành chưa kịp sửa chữa những văn bản đã lỗi thời không còn phù hợp nữa,
hoặc là do cơ quan ban hành không tính toán hết được những đặc điểm của từng
địa phương và sơ sở nên có thể quyết định phù họp với nơi này mà không thích
hợp với nơi khác. Trong trường hợp này cơ quan có thẩm quyền áp dụng vẫn
phải thi hành nghiêm chỉnh quyết định của cấp trên, đồng thời kiến nghị cơ quan
cấp trên bãi bỏ hoặc sửa đổi cho phù họp với tình hình cụ thể của địa phương,
cơ sở. Trong mọi trường hợp tính họp pháp đều có ưu thế hơn so với tính hợp
lý, không thể vì lý do họp lý mà coi thường quyết định của cấp trên, tự ban hành
những quy định trái với quyết định đó.
* Tính hợp pháp của quyết định hành chính được thể hiện như sau:
- Các quyết định hành chính phải phù họp với nội dung và mục đích của
luật. Có nghĩa là các quyết định hành chính không được trái với Hiến pháp, luật
và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Hay nói cách khác là các quyết định
hành chính không được vi phạm luật.

- Các quyết định hành chính phải được ban hành trong phạm vi thẩm
quyền cơ quan hoặc chức vụ. Yêu cầu này đòi hỏi mỗi cơ quan chỉ có quyền hạn
ban hành quyết định giải quyết các vấn đề nhất định do pháp luật giao cho,
không lạm quyền và lẩn tránh trách nhiệm. Việc phân định rõ thẩm quyền của
mỗi cơ quan Nhà nước đảm bảo cho cơ quan thực hiện trách nhiệm một cách
chủ động.
Quyết định hành chính hợp lý, thì mới có khả năng thực thi cao. Nhưng
7
-

-


phải nhấn mạnh rằng chỉ xem xét quyết định hành chính có họp lý hay không
khi nó họp pháp; nghĩa là trước hết nó phải họp pháp. Không thể vì lý do hợp lý,
phù hợp với nhu càu của địa phương, cơ sở mà coi thường tính hợp pháp của
quyết định.
Từ những căn cứ lý luận nêu trên cho thấy Hội đồng nhân dân huyện H ra
Nghị quyết buộc thôi việc nếu vi phạm chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia
đình là sai với luật vi không có điều khoản nào ừong các bộ luật của Nhà nước
ta ban hành quy định như vậy. Và tương tự như vậy thì UBND huyện H ra quyết
định kỷ luật căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân là trái luật pháp.
Qua sự việc trên cho thấy Hội đồng nhân dân Tỉnh A và các cơ quan Nhà
nước cấp tỉnh chưa chủ động và chưa tiến hành một cách thường xuyên trong
công tác thanh tra, kiểm tra.
Phải coi công tác thanh tra, kiểm tra không chỉ là việc của riêng người
quản lý chuyên nghiệp mà là sự nghiệp của quần chứng. Quần chứng là tai mắt
của lãnh đạo. Việc dựa vào quần chúng, dựa vào nhân dân lắng nghe và phân
tích dư luận xã hội có ý nghĩa thiết thực trong việc tổ chức, kiểm tra thực hiện
quyết định quản lý Nhà nước và phát hiện những sai sót trong công tác quản lý.

Do không làm tốt những việc trên nên đã dẫn đến việc ra quyết định sai trái của
cấp dưới nhưng không được phát hiện và xử lý kịp thời.
Từ việc ra quyết định sai trái làm ảnh hưỏng đến quyền lợi hợp pháp của
công dân dẫn đến khiếu kiện của chị K làm cho uy tín, tín nhiệm của Hội đồng
nhân dân, UBND trước quàn chứng bị giảm sút vì là đại diện cho chính quyền
Nhà nước ở địa phương mà lại không nắm vững pháp luật. Chỉ từ một việc làm
mất tín nhiệm trên nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc chỉ đạo, điều hành, tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ khác của địa phương.
Đối với bản thân chị K là một cán bộ được học hành, đào tạo cơ bản,
công tác tại cơ quan Hội phụ nữ thường xuyên đi tuyên truyền vận động, thuyết
phục hội viên thực hiện công tác kế hoạch hoá gia đình tránh hiện tượng đẻ dày,
đẻ nhiều con để có điều kiện chăm lo sức khoẻ bản thân và cho các cháu học


hành thành đạt góp phàn thực hiện mục tiêu của chính sách Dân số - Kế hoạch
hoá gia đình. Với trách nhiệm là một cán bộ Hội lẽ ra chị K phải gương mẫu
trong việc thực hiện mục tiêu của chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình
của Đảng và Nhà nước nhưng chị K đã không gương mẫu, không vận động
thuyết phục được gia đình thấy rõ được tác hại của việc sinh nhiều con, dẫn đến
chính bản thân mình vi phạm làm ảnh hưởng đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo của
Huyện uỷ, UBND huyện thực hiện chỉ tiêu về Dân số - Kế hoạch hoá gia đình
tại địa phương, làm giảm uy tín của cơ quan Hội đối với hội viên.

-

9

-



-

10

-


CHƯƠNG III XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1.

Mục tiêu xử lý tình huống
Thông qua phân tích diễn biến tình huống và những quy định hiện hành

của Nhà nước có liên quan, mục tiêu xử lý tình huống được đưa ra đó là: Xử lý
dứt điểm, hợp tình họp lý vụ việc, không để kéo dài thời gian khiếu nại của chị
Nguyễn Thị K.
3.2.

Xây dựng và lưa chọn phương án xử lý
Để xử lý tình huống trên có lý, có tình phải lựa chọn các phương án giải

quyết sau:
- Một là: Chấp nhận quyết định của UBND huyện H buộc thôi việc đối
với chị K.
- Hai là: Đình chỉ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, để chị K trở
lại tiếp tục công tác và xắp xếp cho chị K công việc phù hợp.
Nếu chấp nhận phương án thứ nhất thì coi như chúng ta đã chấp nhận việc
ra nghị quyết, quyết định sai trái của Hội đồng nhân dân, UBND huyện H và
nếu như vậy thì sẽ bảo vệ được cơ quan cấp dưới. Nhưng sẽ không có lợi vì Hội
đồng nhân dân và UBND huyện H không thấy được sự non kém của mình về

kiến thức pháp luật để phấn đấu vươn lên thực hiện chức năng Quản lý Nhà
nước ở địa phương. Đồng thời dư luận quần chúng cho rằng cơ quan cấp trên
bảo vệ, bao che cho việc làm sai của cơ quan cấp dưới dẫn đến việc thiếu lòng
tin vào chính quyền, vào pháp luật.
Nếu chấp nhận phương án giải quyết thứ hai là đình chỉ Nghị quyết của
Hội đồng nhân dân huyện, cho chị K tiếp tục làm việc thì sẽ bảo đảm được tính
nghiêm minh, có nghĩa là sau khi kiểm tra phát hiện thấy sai trái của cấp dưới
cơ quan cấp trên đã yêu cầu sửa chữa kịp thời không bao che, dung túng. Đồng
thời bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của công dân. Từ việc phân tích cái được
và chưa được của hai phương án giải quyết trên, chúng ta sẽ chọn phương án
thứ hai vì nó đảm bảo đúng luật pháp.
11
-

-


3.3.

Biện pháp thực hiện.
* UBND tỉnh A phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định buộc thôi việc đối

với chị K của UBND huyện H.
* Tổ chức cuộc họp với UBND huyện H và mời lãnh đạo của Hội phụ nữ
huyện H tham dự để thông báo quyết định xử lý của UBND tinh A và phân tích
vì sao UBND tỉnh lại quyết định như vậy, đồng thời cũng nêu nên việc thiếu
kiểm tra đôn đốc của UBND tỉnh và các cơ quan chức năng của tỉnh trong lĩnh
vực ban hành vãn bản. Đồng thời phân tích rõ những thiếu sót, khuyết điểm và
việc thiếu gương mẫu của chị K trong việc thực hiện chính sách Dân số - Kế
hoạch hoá gia đình để Hội đồng nhân dân, UBND huyện và các ngành chức

năng của huyện rút kinh nghiệm trong việc chuẩn bị ban hành văn bản và lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình có hiệu quả
góp phần thực hiện chiến lược Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, càn lưu ý trong
quá trình thực hiện phải áp dụng đồng bộ hệ thống các chính sách và biện pháp
như: Những chính sách và biện pháp tổ chức giáo dục, kinh tế, tài chính, y tế và
biện pháp hành chính, pháp luật. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện các chính
sách và biện pháp tổ chức giáo dục, kinh tế, tài chính, y tế và biện pháp hành
chính, pháp luật. Trong quá tình chỉ đạo thực hiện các chính sách và biện pháp
Dân số- Kế hoạch hoá gia đình cần chú trọng quán triệt nguyên tắc tự nguyện,
không thô bạo, ép buộc, có nghĩa là phải quan tâm hàng đầu đến những chính
sách và biện pháp giáo dục, tổ chức.
3.4. Kiến nghị

Xuất phát từ sự việc xảy ra tinh huống như đã trình bày ở phàn trẽn. Với
góc độ quản lý hành chính Nhà nước, để việc ra các văn bản quy phạm của các
cấp có thẩm quyền không trái với Hiến pháp và luật, việc tổ chức thực hiện của
các cấp có tính khả thi cao:
- Đề nghị UBND Tỉnh cho tiến hành rà soát các văn bản đã được ban
hành nếu văn bản nào không đúng quy định thì phải kiên quyết và kịp thời sửa
đổi, bổ xung, hoặc bãi bỏ, đình chỉ thi hành. Văn bản nào đúng thì tiếp tục thực
12
-

-


hiện.
- Tăng cường công tác tuyên truyền vận động quần chúng làm cho quàn
chúng hiểu và nhận thức đầy đủ, sâu sắc chiến lược Dân số - Kế hoạch hoá gia
đình của Đảng và Nhà nước ta, qua đó thấy được lợi ích của việc thực hiện Kế

hoạch hoá gia đình mà gương mẫu thực hiện.
- Chăm lo các phương tiện vật chất kỹ thuật, tài chính và cơ sở hạ tầng
phục vụ cho việc thực hiện Dân số - Kế hoạch hoá gia đình.
- Đề nghị mở lớp đào tạo bồi dưỡng về pháp luật cho cán bộ chủ chốt cấp
xã và các ban, ngành trong huyện để nâng cao kiến thức về pháp luật.
- Đối với công chức, viên chức phải chấp hành nghiêm túc các quyết
định, luật pháp của Nhà nước nếu không sẽ phải đưa ra khỏi bộ máy công chức
Nhà nước.
Như vậy chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình cần có sự quan tâm
quản lý, phối hợp chặt chẽ giữa các nhà vạch chính sách kinh tế, đảm bảo cho
các hoạt động của các tổ chức, cá nhân vận hành một cách thống nhất.

-

13

-


KẾT LUẬN
Qua sự việc xảy ra ở Hội phụ nữ huyện H, ta thấy nổi lên vấn đề xử lý kỷ
luật cán bộ, công chức vi phạm việc sinh con thứ ba. Việc thực hiện đúng
nguyên tắc, quy trình trong công tác kỷ luật - khen thưởng cán bộ công chức của
Hội sẽ phát huy được trình ddooj, năng lực, nâng cao được năng suất, hiệu quả
làm việc của cán bộ, công chức.
Vụ việc trẽn cũng là bài học kinh nghiệm cho các cấp ủy, ban lãnh đạo
của Hội phụ nữ H. Ban lãnh đạo cần phải có sự bình tĩnh, tỉnh táo cũng như
công bằng hơn nữa để đảm bảo tính chính trực của một tổ chức.
Trong khuôn khổ bài viết này tôi đã trình bày một tình huống phát sinh
trong thực tế xảy ra tại hội phụ nữ huyện H. Tuy nhiên do trình độ và năng lực

có hạn nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự
quan tâm giúp đỡ của các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp./.
Tôi xin trân trọng cảm ơn./.

-

14

-


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 được Quốc hội nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 13 tháng 11 năm 2008.

-

15

-



×