Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tóm tắt LATS Nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh của các công ty tài chính ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.55 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG

NGUYỄN THỊ HƯƠNG LAN

NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 62 34 04 10

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - NĂM 2015


Công trình được hoàn thành tại:
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tếTrung ương

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Xuân Bá

Phản biện 1: ………………………………………………………….
………………………………………………………………………..
Phản biện 2 …………………………………………………………...
…………………………………………………………………………
Phản biện 3: ……………………………………………………………
………………………………………………………………………..



Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện họp tại Viện
Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương vào hồi …..giờ … ngày … tháng…
năm 2015

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
- Thư viện Quốc Gia, Hà Nội


3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Công ty Tài chính (CTTC) đã và đang tồn tại ở các nước phát
triển và đang phát triển trên thế giới. Tuy có một số điểm chung nhưng mô
hình CTTC cũng có những điểm khác biệt giữa các nước và các thời kỳ
khác nhau. Khuôn khổ pháp lý và sự hoạt động thực tiễn của các CTTC
tạo nên những mô hình CTTC khác nhau giữa các nước.
Nhìn lại cả chặng đường 17 năm ra đời và tồn tại các CTTC ở Việt
Nam, có thể nói đóng góp hay ưu điểm lớn nhất của các CTTC là góp
phần nhất định vào việc tạo lập thị trường tài chính cạnh tranh sôi động
hơn, đa dạng hơn. Tuy nhiên, những hạn chế, yếu kém thì cũng không ít.
Xét về mặt mô hình tổ chức, do nhiều CTTC vừa là đơn vị thành
viên của tập đoàn/tổng công ty, vừa chịu sự quản lý chuyên ngành của
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nên việc kiểm tra, giám sát đối với hoạt
động của các CTTC chưa thật chặt chẽ xét ở góc độ CTTC là một TCTD.
Bên cạnh đó, tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi” còn tồn tại do các
thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) hoặc Hội đồng thành viên (HĐTV)
vừa là lãnh đạo tập đoàn/tổng công ty vừa tham gia HĐQT hoặc HĐTV
CTTC. Các CTTC, đặc biệt là CTTC do tập đoàn/tổng công ty sở hữu

100% vốn đã bộc lộ những yếu kém toàn diện. Với lĩnh vực nhiều nhạy
cảm và đặc thù về kinh doanh vốn như các CTTC thì mức độ ảnh hưởng
còn nghiêm trọng hơn vì còn liên quan đến vốn huy động, vốn nhận ủy
thác từ các tổ chức và cá nhân.
Xét về tình hình kinh doanh, rất nhiều CTTC không có khả năng
tồn tại hoặc rất khó phục hồi. Các CTTC chưa thực hiện tốt vai trò dẫn
vốn trong nội bộ các tập đoàn/tổng công ty như mục tiêu đề ra lúc thành
lập, thậm chí có nhiều CTTC còn tạo thêm gánh nặng cho các tập
đoàn/tổng công ty. Có thể lấy dẫn chứng một vài số liệu năm 2014 theo
tính toán và tham khảo được của tác giả luận án này đối với 10 CTTC có


4
vốn góp của các tập đoàn/tổng công ty như sau: (1) Tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu không được đảm bảo; (2) Vốn chủ sở hữu thâm hụt; (3) Nợ xấu và
trích lập dự phòng của các CTTC rất lớn; (4) Giá trị sổ sách/cổ phần
(BVPS) thấp hơn mệnh giá (dưới 10.000 đồng/cổ phần)... Bên cạnh đó,
còn nhiều vấn đề phức tạp khác khó xử lý đang tồn tại dai dẳng những
năm gần đây.
Ngoài những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua,
nguyên nhân chính thuộc về vấn đề quản trị rủi ro, năng lực điều hành và
những bất cập về chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của các
CTTC ở Việt Nam... Ngoài ra, các CTTC ra đời cùng quá trình hình thành
các tập đoàn từ các tổng công ty 90, 91 có thể nói là mô hình “mang tính
lịch sử” nhằm mục đích tăng cường sức mạnh cho các tập đoàn/tổng công
ty. Thực tế, các tập đoàn/tổng công ty cũng đang trong quá trình tái cấu
trúc mạnh mẽ vì rất nhiều vấn đề yếu kém/tồn tại.
Với những lý do chủ yếu nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài
“Nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh của các công ty tài
chính ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận án.

2. Mục tiêu của đề tài luận án
2.1 Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu đề tài luận án là làm rõ cơ sở
khoa học của việc đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức
và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của các CTTC thuộc các tập đoàn/tổng
công ty ở Việt Nam.
2.2 Mục tiêu cụ thể
Để thực hiện được mục tiêu tổng quát nêu trên, luận án sẽ thực
hiện những mục tiêu cụ thể sau đây:
(i) Hệ thống hóa và luận giải rõ khung lý thuyết phân tích, đánh
giá mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh của các CTTC.
(ii) Xác định rõ bản chất, đặc điểm kinh doanh và vị trí của CTTC
thuộc các tập đoàn/tổng công ty.


5
(iii) Tổng quan và làm rõ kinh nghiệm về mô hình tổ chức và hoạt
động kinh doanh của các CTTC ở các nước trên thế giới và rút ra bài học
kinh nghiệm đối với Việt Nam.
(iv) Phân tích, đánh giá đúng thực trạng mô hình tổ chức và hoạt
động kinh doanh của các CTTC thuộc các tập đoàn/tổng công ty ở Việt Nam.
(v) Xác định những quan điểm/phương hướng để hoàn thiện mô
hình tổ chức và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của các CTTC thuộc các
tập đoàn/tổng công ty ở Việt Nam.
(vi) Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện mô
hình tổ chức và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đối với các CTTC thuộc
các tập đoàn/tổng công ty ở Việt Nam thời kỳ tới.
3. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài luận
án
3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là mô hình tổ chức và hoạt
động kinh doanh của các CTTC ở Việt Nam.
3.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:
+ Đề tài luận án tập trung nghiên cứu chủ yếu loại hình CTTC với
chức năng là loại hình TCTD phi ngân hàng (hoạt động theo Luật các tổ
chức tín dụng) và do các tập đoàn/tổng công ty lớn làm chủ sở hữu một
phần hoặc toàn bộ vốn. Đây là nhóm CTTC có số lượng nhiều nhất, có
quy mô lớn nhất và cũng có nhiều vấn đề nhất hiện nay ở Việt Nam.
+ Luận án tập trung giải quyết hai nội dung chính liên quan đến
“mô hình tổ chức” và “hoạt động kinh doanh” của các CTTC có vốn góp của
các tập đoàn/tổng công ty (còn gọi tắt là các CTTC trực thuộc tập đoàn/tổng
công ty).
- Về thời gian: Xem xét diễn biến chung về mô hình tổ chức và
tình hình kinh doanh của các CTTC với số liệu phân tích được sử dụng
chủ yếu là giai đoạn 4 năm gần đây từ 2011-2014.


6

4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu cụ thể
4.1 Cách tiếp cận nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở cách tiếp cận lịch sử và hệ thống.
4.2 Những phương pháp nghiên cứu cụ thể
* Đối với nguồn tài liệu thứ cấp
Luận án sử dụng những phương pháp thường được sử dụng trong
nghiên cứu từ những nguồn dữ liệu thứ cấp.
* Đối với nguồn tài liệu sơ cấp
- Tham khảo ý kiến chuyên gia:
Tham khảo các ý kiến của 5 chuyên gia làm căn cứ đề xuất những

giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức và đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh của các CTTC ở Việt Nam.
- Sử dụng bảng câu hỏi khảo sát:
+ Bảng câu hỏi khảo sát dành cho các khách hàng cá nhân đã sử
dụng dịch vụ của các CTTC. Quy mô mẫu là 100 khách hàng. Thời gian
khảo sát từ ngày 5-28/07/2015.
+ Bảng câu hỏi khảo sát dành cho các khách hàng doanh nghiệp
đã sử dụng dịch vụ của các CTTC. Quy mô mẫu là 50 tổ chức. Thời gian
khảo sát từ ngày 5-28/07/2015.
Toàn bộ kết quả thu được từ 2 mẫu phiếu khảo sát đã được xử lý
bằng công cụ khảo sát SurveyMonkey và được trình bày chi tiết trong các
phụ lục của luận án.
5. Kết cấu chính của luận án
Nội dung luận án được kết cấu thành 3 chương chính, gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận về mô hình tổ chức và hoạt động kinh
doanh của công ty tài chính.
Chương 2: Thực trạng mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh
của các công ty tài chính ở Việt Nam.


7
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và đẩy mạnh
hoạt động kinh doanh của các công ty tài chính ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1 Công ty tài chính và vai trò của công ty tài chính trong nền kinh tế
thị trường
1.1.1 Các tổ chức tài chính trung gian
Theo cách hiểu thông thường nhất, các tổ chức tài chính trung
gian là các tổ chức tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn

tới người cần vốn. Tuy nhiên, không như dạng tài chính trực tiếp người
cần vốn và người có vốn trao đổi trực tiếp với nhau ở thị trường tài chính,
các trung gian tài chính thực hiện sự dẫn vốn thông qua một cầu nối nghĩa
là người người cần vốn muốn có được vốn phải thông qua người thứ ba,
đó chính là các tổ chức tài gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung gian.
Các tổ chức tài chính trung gian có thể là các ngân hàng, các hiệp hội cho
vay, các liên hiệp tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính...
Các chức năng cơ bản gồm: Chức năng tạo vốn, Chức năng cung
ứng vốn, Chức năng kiểm soát.
Có nhiều cách phân loại các tổ chức tài chính trung gian khác
nhau, cách cấu trúc hệ thống này cũng có thể khác nhau giữa các nước
hoặc các thời kỳ khác nhau. Trong thực tế, các tổ chức này rất đa dạng và
có thể gồm:
- Ngân hàng thương mại (commercial bank)
- Các hiệp hội tiết kiệm và cho vay (savings and loans association)
- Ngân hàng tiết kiệm (savings bank)
- Quỹ tín dụng (credit fund)
- Công ty tài chính (financial company)
- Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng (công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí)


8
- Các trung gian đầu tư (ngân hàng đầu tư, công ty đầu tư mạo
hiểm, quỹ đầu tư, quỹ tương hỗ, công ty quản lý tài sản)...
- Công ty chứng khoán
1.1.2 Công ty tài chính
Theo cách hiểu thông thường nhất: “CTTC là một tổ chức trung
gian đóng vai trò quan trọng thúc đẩy lưu thông loại hàng hóa đặc biệt là
vốn. Một sự dịch chuyển vốn từ người cung cấp sang người có nhu cầu
vốn được thực hiện bởi CTTC bằng hình thức phát hành trái phiếu, tín

phiếu cùng những dịch vụ tiện ích kèm theo cho các đối tượng liên quan”.
Các cách phân loại chính gồm: 1) Căn cứ vào hoạt động nghiệp
vụ: CTTC bán hàng, CTTC người tiêu dùng, CTTC kinh doanh; 2) Căn cứ
vào quan hệ sở hữu của các CTTC:CTTC Nhà nước, CTTC cổ phần,
CTTC trực thuộc tổ chức tín dụng (TCTD), CTTC liên doanh, CTTC
100% vốn nước ngoài.
Về chức năng, trước hết CTTC là một TCTD phi ngân hàng, do
đó: CTTC có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ; CTTC là doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu và thường xuyên và mang
tính chất nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng (trừ việc nhận tiền gửi ngắn
hạn và dịch vụ thanh toán; CTTC là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản
lý về nghiệp vụ của NHNN/NHTW. Ngoài ra, CTTC là một DN đặc biệt
thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ: Đây là loại hình doanh nghiệp có
rủi ro cao, do vậy, điều kiện cấp phép và hoạt động chặt chẽ hơn.
Trong nền kinh tế thị trường, CTTC có vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế, với chủ thể có vốn và cần vốn trong nền kinh tế cũng như
những ý nghĩa riêng đối với các tập đoàn kinh tế.
Do những đặc thù mà trong hoạt động các CTTC phải thực hiện
nhiều chức năng và nhiệm vụ liên quan đến tình trạng tài chính của các tập
đoàn kinh tế. Nhiệm vụ chính của các CTTC ngoài việc đầu tư kinh doanh
sinh lợi còn giúp tập đoàn duy trì nguồn lực tài chính tốt nhất để tăng
cường khả năng cạnh tranh của tập đoàn. CTTC còn giúp tập đoàn kinh tế


9
khai thác một cách tốt nhất các cơ hội kinh doanh có hiệu quả trên thị
trường. Bên cạnh những ưu thế mà CTTC có được thì việc là thành viên
của tập đoàn cũng tiềm ẩn những vướng mắc, rủi ro.
1.2 Mô hình tổ chức của CTTC
1.2.1 Bản chất và cấu trúc mô hình tổ chức của CTTC

CTTC là một loại hình doanh nghiệp hoạt động trên thị trường tài
chính, mang các thuộc tính đặc thù của TCTD phi ngân hàng. Vì thế, mô
hình tổ chức CTTC vừa mang bản chất chung của mô hình tổ chức doanh
nghiệp vừa mang bản chất đặc thù của TCTD. Trong thực tế, các bộ phận
có thể được hình thành theo những tiêu chí khác nhau và do vậy cũng xuất
hiện các mô hình tổ chức khác nhau. CTTC với chức năng là một TCTD
phi ngân hàng, với đặc thù là tổ chức kinh doanh vốn và tiền tệ do các tập
đoàn sở hữu vốn, CTTC không thể tổ chức theo mô hình quá giản đơn.
Tuy nhiên, tùy theo phạm vi hoạt động, tùy theo mức độ sở hữu của các
tập đoàn, tùy theo các sản phẩm dịch vụ mà CTTC cung cấp... các CTTC
sẽ lựa chọn mô hình tổ chức khác nhau.
1.2.2 Các loại mô hình tổ chức CTTC
- Mô hình tổ chức theo các bộ phận chức năng độc lập
- Mô hình tổ chức theo sản phẩm, khách hàng và địa bàn
- Mô hình tổ chức theo mạng lưới
1.2.3 Các tiêu chí và chỉ tiêu xác định, đánh giá mô hình tổ chức CTTC
- Tiêu chí chức năng tổ chức của mô hình tổ chức CTTC
- Tiêu chí nguyên tắc tổ chức của mô hình tổ chức CTTC
- Tiêu chí nguyên tắc thiết kế mô hình tổ chức CTTC
Mô hình tổ chức CTTC phải được thiết kế theo những nguyên tắc
nhất định. Việc xem xét, đánh giá mỗi mô hình tổ chức CTTC cần đối
chiếu xem có theo các nguyên tắc thiết kế tổ chức cơ bản hay không.
1.2.4 Những yêu cầu đặt ra đối với mô hình tổ chức của CTTC
Nhìn chung, để thành công trong kinh doanh trong bối cảnh mới,
mô hình tổ chức CTTC cần thỏa mãn các yêu cầu sau đây:


10
- Tính chất quy mô chuyển sang tính chất gọn nhẹ, phản ứng linh hoạt
- Chức năng được phân chia rõ ràng sang vai trò đa chức năng

- Chuyên môn hóa sang đa chức năng và hợp tác hiệu quả
- Thể hiện được đặc thù và vai trò của một TCTD với chức năng
kinh doanh vốn và tiền tệ.
- Đảm bảo mô hình tổ chức vừa linh hoạt, phản ứng nhanh nhạy
với thị trường nhưng phải đảm bảo thuận lợi trong kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
1.3 Hoạt động kinh doanh của CTTC
1.3.1 Hoạt động kinh doanh chủ yếu của CTTC
- Hoạt động ngân hàng của công ty tài chính
- Nghiệp vụ mở tài khoản của công ty tài chính
- Hoạt động góp vốn, mua cổ phần của công ty tài chính
- Các hoạt động kinh doanh khác của công ty tài chính
1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của CTTC
Xét về mặt lý thuyết, có nhiều cách xem xét khác nhau nhưng
thông thường người ta phân loại các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp thành các nhân tố chủ quan và các nhân tố
khách quan như các loại hình doanh nghiệp khác.
1.3.3 Các tiêu chí đánh giá hoạt động kinh doanh của CTTC
Tác giả kết hợp việc xem xét về kết quả kinh doanh của các CTTC
với một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của các CTTC thông qua
một số chỉ tiêu tài chính tổng hợp nhất và quan trọng nhất từ báo cáo tài
chính của các CTTC. Đây là những chỉ tiêu cơ bản nhất và đặc thù nhất
đối với hoạt động kinh doanh của TCTD nói chung và CTTC nói riêng:
* Nhóm chỉ tiêu từ bảng báo cáo kết quả kinh doanh:
(1) Thu nhập lãi thuần
(2) Chi phí hoạt động
(3) Tổng thu nhập trước thuế
(4) Tổng lợi nhuận sau thuế.
* Nhóm chỉ tiêu từ bảng cân đối kế toán:



11
(5) Tổng tài sản, trong đó xem xét 2 chỉ tiêu chính:
+ Tiền, vàng gửi và cho vay TCTD
+ Cho vay khách hàng
(6) Nợ phải trả, trong đó xem xét 2 thông tin chính:
+ Tiền gửi và vay các TCTD
+ Tiền gửi của khách hàng
(7) Vốn và các quỹ, trong đó xem xét 2 thông tin chính:
+ Vốn của TCTD
+ Lợi nhuận chưa phân phối
* Nhóm các chỉ tiêu tài chính tổng hợp phản ánh hiệu quả sử dụng
vốn:
(8) EPS của 4 quý gần nhất (9) BVPS (10) ROEE (11) ROAE
* Nhóm các chỉ tiêu phản ánh giới hạn an toàn đối với TCTD:
(12) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR)
(13) Tỷ lệ nợ xấu
(14) Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn.
1.4 Kinh nghiệm thế giới về mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh
của CTTC và bài học cho Việt Nam
1.4.1 Khái quát về mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh của các
CTTC ở một số nước
Trong khả năng tham khảo được, tác giả trình bày về tình hình này
ở một số quốc gia phát triển hơn Việt Nam gồm: Hàn Quốc, Indonesia,
Malaisia, Trung Quốc, Cộng hòa Liên bang Đức, Hoa Kỳ. Thông tin chi
tiết được trình bày tại Phụ lục 10 của Luận án.
1.4.2 Mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh của các CTTC trực
thuộc Tập đoàn ở một số nước
Tác giả đã tham khảo về 9 CTTC trực thuộc các tập đoàn:
Samsung, GM, Sony, GE, Siemens, Hitachi, Volvo, LG, IBM.
1.4.3 Một số nhận xét



12
Tác giả đã rút ra 10 nhận xét có liên quan đến mô hình tổ chức và
hoạt động kinh doanh của các CTTC. Trong đó đáng lưu ý CTTC cũng là
loại hình doanh nghiệp dễ gặp rủi ro trong hoạt động, thường bị ảnh hưởng
nặng nề vào những giai đoạn khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế.
1.4.4 Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
(1) CTTC tuy không có quy mô lớn như các NHTM nhưng vẫn có
thể tồn tại và phát triển được nhờ sự linh hoạt và biết cách khai thác tốt
mảng thị trường ngách, thị trường tiềm năng trong và ngoài tập đoàn/tổng
công ty.
(2) Các tập đoàn/tổng công ty góp vốn ở mức giữ vai trò chi phối
đối với CTTC nhưng không nhất thiết sở hữu 100% vốn nhằm tăng cường
sự năng động, tính độc lập và khả năng thích ứng trong kinh doanh.
(3) Trên thế giới đã có những cuộc cải cách, cơ cấu lại hệ thống
các TCTD. Để tồn tại trong nền kinh tế thị trường, các CTTC phải có đội
ngũ nhân sự cấp cao am hiểu về lĩnh vực vốn đòi hỏi cả tính kỷ luật và
tính linh hoạt trong kinh doanh.
(4) Nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các CTTC
nhưng cần tạo hành lang đủ rộng để các CTTC có khả năng lựa chọn
chuyên sâu hoặc đa dạng hóa về linh vực kinh doanh.
(5) Sự có mặt của CTTC trong các tập đoàn/tổng công ty cần phát
huy tốt vai trò là cầu nối, là kênh dẫn vốn trong nội bộ và hơn thế là sự
đóng góp của một trung gian tài chính trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ.
(6) Khi thị trường tài chính gặp khó khăn, các CTTC cũng rất dễ
bị “lâm nguy” do quy mô nhỏ, do hạn chế nhất định trong cạnh tranh.
(7) Việc hợp nhất, sáp nhập với các NHTM thường là giải pháp
mà nhiều CTTC đã áp dụng khi gặp khó khăn.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

KINH DOANH CỦA CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM


13
2.1 Khái quát về các CTTC ở Việt Nam
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển các CTTC ở Việt Nam
Giai đoạn đầu tiên, Việt Nam đã có 2 CTTC cổ phần được thành lập
trên cơ sở Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính
ngày 23/5/1990 là: CTTC Cổ phần Sài Gòn (SFC) và CTTC Cổ phần
Seaprodex nhưng sau đã đều giải thể.
Giai đoạn hai, ra đời các CTTC trong các Tổng công ty nhà nước.
Từ năm 1995, triển khai Luật Doanh nghiệp Nhà nước, theo quyết định 90
và 91, Chính phủ đã thí điểm thành lập một số Tổng công ty Nhà nước
trong một số ngành then chốt nhằm tích tụ vốn, tập trung chuyên môn hóa
để nâng cao sức cạnh tranh, tạo động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trải qua quá trình phát triển, đến Nghị định 79/2002/NĐ-CP ngày
04/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về Tổ chức và hoạt động của CTTC,
Điều 2, quy định: Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân
hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn
khác để cho vay, đầu tư, cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và
thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không
được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới một năm.
Tính đến 31/12/2014, Việt Nam có tổng số 17 CTTC tồn tại dưới 2
hình thức chủ yếu: CTTC cổ phần, CTTC TNHH một thành viên (do nhà
nước sở hữu 100% vốn hoặc 100% vốn của một tổ chức nước ngoài). Trong
số đó, có 10 CTTC có phần vốn góp của các tập đoàn/tổng công ty tổ chức
theo hình thức CTTC tổng hợp (nhiều hoạt động kinh doanh), 7 CTTC còn
lại tổ chức theo hình thức CTTC chuyên ngành (tín dụng tiêu dùng).
2.1.2 Khái quát về tình hình hoạt động của các CTTC ở Việt Nam

Đối với nhóm các CTTC tiêu dùng: Một cách tổng quan, khối
CTTC này phần lớn tổ chức dưới dạng công ty TNHH MTV, phần lớn do
nước ngoài nắm giữ 100% vốn. Tuy cũng gặp phải những khó khăn xuất


14
phát từ bối cảnh thị trường nhưng nhờ có kinh nghiệm triển khai và chủ
yếu tập trung vào mảng tín dụng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu lớn của các cá
nhân nên kết quả kinh doanh khá khả quan, thậm chí một số CTTC kết quả
kinh doanh rất tốt. Thông tin chi tiết tại Phụ lục 12 của Luận án.
Đối với nhóm các CTTC có vốn góp của các tập đoàn/tổng công
ty: Nhóm này cũng có thể chia thành: CTTC cổ phần do các tập đoàn/tổng
công ty nắm giữ khoảng 25% vốn trở lên; CTTC TNHH MTV do tập
đoàn/tổng công ty nắm giữ 100% vốn. Trong 2 nhóm này thì các CTTC cổ
phần hoạt động tốt hơn so với nhóm TNHH MTV. Đa số các CTTC
TNHH MTV đều bị lỗ lũy kế hoặc đã rơi vào tình trạng thâm hụt vốn chủ
sở hữu từ nhiều năm nay.
Do không thể có được số liệu đồng nhất của toàn bộ 17 CTTC ở
Việt Nam nên trong Bảng 2.1 của Luận án tác giả đã mô tả một cách ngắn
gọn và cô đọng nhất bức tranh về tình hình hoạt động của toàn bộ các
CTTC.
2.2 Phân tích, đánh giá thực trạng mô hình tổ chức của các CTTC ở
Việt Nam
2.2.1 Thực trạng mô hình pháp lý của các CTTC ở Việt Nam
Liên quan đến hình thức thành lập (hình thức pháp lý), tại Điều 3,
Nghị định 81/2008/NĐ-CP ngày 29/7/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính phủ về tổ
chức và hoạt động của công ty tài chính quy định CTTC được phép thành
lập và hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức sau:
- Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên.

- Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
- Công ty Tài chính cổ phần.
Đến 31/12/2014 ở Việt Nam chưa có CTTC nào thành lập theo mô
hình CTTC trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên mà chỉ có 2 loại hình
là CTTC cổ phần, CTTC TNHH MTV. Với sự góp vốn đầu tư chiến lược từ
Tập đoàn tài chính Credit Saison (Nhật Bản), ngày 22/4/2015, Công ty Tài


15
chính TNHH MTV Ngân hàng TMCP Phát triển TP.HCM chính thức đổi
tên thành Công ty Tài chính TNHH HD SAISON hay gọi tắt là HD
SAISON (là CTTC TNHH 2 thành viên trở lên duy nhất ở Việt Nam đến
nay). Cuối năm 2014, trong số 10 CTTC trực thuộc tập đoàn/tổng công ty,
có 6 CTTC theo mô hình công ty cổ phần, 4 công ty còn lại do nhà nước sở
hữu vốn 100% tổ chức theo mô hình công ty TNHH MTV.
Cơ cấu tổ chức các CTTC nói chung và các CTTC thuộc tập đoàn
kinh tế được quy định ở Mục 3 thuộc Chương IV, Luật các TCTD 2010.
Các CTTC thuộc các tập đoàn kinh tế nhưng đều hạch toán độc lập và có
bộ máy quản lý riêng. Các CTTC này có thể là công ty cổ phần cũng có
thể là công ty TNHH MTV nhưng nói chung cơ cấu tổ chức tương đối
giống nhau.
Gần đây nhất, ngày 07/05/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 39/2014/NĐ-CP về hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê
tài chính. Theo đó, CTTC được thực hiện nhiều hoạt động của NHTM hơn
và gồm 2 loại CTTC: Công ty tài chính tổng hợp và Công ty tài chính
chuyên ngành gồm CTTC bao thanh toán, CTTC tín dụng tiêu dùng, công
ty cho thuê tài chính.
Để thấy rõ hơn về cơ cấu tổ chức đối với CTTC, trong luận án tác
giả đã minh họa sơ đồ cơ cấu tổ chức của một vài CTTC thuộc: Mô hình
CTTC cổ phần và Mô hình CTTC TNHH MTV.

2.2.2 Thực trạng mô hình tổ chức hoạt động của CTTC ở Việt Nam
CTTC là một TCTD có những hoạt động mang đặc điểm của
ngành ngân hàng, cũng là một loại hình DN cung cấp các dịch vụ: dịch vụ
tiền gửi, đầu tư, tư vấn và các dịch vụ tài chính khác. Về cơ bản đặc điểm
hoạt động của CTTC mang đặc điểm của ngành ngân hàng nhưng so với
NHTM, CTTC có những khác biệt về: Bản chất; Phạm vi hoạt động; Mức
vốn pháp định; Thời gian hoạt động; Mức độ rủi ro và tính cạnh tranh; Đặc
điểm hoạt động.
2.3 Thực trạng hoạt động kinh doanh của các CTTC ở Việt Nam


16
Các bảng số liệu về tình hình kinh doanh của từng CTTC được trình
bày trong Phụ lục 11 của Luận án.
2.3.1 Thực trạng hoạt động kinh doanh của các CTTC cổ phần
Trong luận án, ở phần sơ lược về tình hình cơ cấu cổ đông cho thấy
các CTTC đều có cổ đông sáng lập và cổ đông lớn giữ vai trò chi phối là
các tập đoàn/tổng công ty. Ngoài ra còn có các cổ đông sáng lập khác là
NHTM, các doanh nghiệp lớn khác trên thị trường.
Trong số 6 CTTC cổ phần, do không thể thu thập số liệu của
CTTC cổ phần Dệt may Việt Nam đầy đủ và tương đồng như 5 CTTC còn
lại nên sau đây tác giả trình bày 2 bảng số liệu (Bảng 2.2 và Bảng 2.3).
Số liệu bình quân của 5 CTTC cổ phần mà tác giả thu thập được
đầy đủ số liệu cho thấy rất nhiều dấu hiệu bất ổn và đáng lo ngại của các
CTTC. Tổng tài sản giảm dần qua các năm và giảm 27,3% trong vòng 4
năm. Chi phí hoạt động tuy giảm nhưng không đáng kể nhưng do thu nhập
lãi thuần giảm mạnh qua các năm đã khiến cho thu nhập trước thuế và lợi
nhuận sau thuế của các CTTC liên tục sụt giảm mạnh và đã giảm đến 78,6%
trong 4 năm.
Không ngạc nhiên khi các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời

cũng vì thế ngày càng trở nên kém hiệu quả. EPS bình quân của 5 CTTC
cổ phần giảm từ 1.026 đồng/cổ phần vào năm 2011 xuống còn 23 đồng/cổ
phần vào năm 2014 (tương ứng giảm 98% trong 4 năm). Tỷ suất sinh
lời/vốn chủ sở hữu chỉ còn 2,04% năm 2014 (thấp hơn nhiều lần so với lãi
suất tiền gửi NHTM). Trong đó, các chỉ số EPS, ROA, ROE của VVF đã âm
khá lớn...
CTTC cổ phần Dệt may Việt Nam (TFC) lại được coi là một trong
số đơn vị có hoạt động lành mạnh thể hiện qua tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ nợ
xấu trong nhiều năm luôn đảm bảo mức quy định của NHNN. Nợ xấu của
TFC từ 2011-2014 dao động trong khoảng 2%-2.54%, đây là mức tốt so
với hệ thống các TCTD nói chung. Tuy nhiên, sau khi tăng vốn lên 500 tỷ
đồng và từ đó đến nay doanh thu có xu hướng biến động thất thường.


17
LNST giảm bình quân mỗi năm 11,4%. Lợi nhuận giảm sút đã khiến cho
vốn chủ sở hữu giảm. LNST/VĐL bình quân từ 14,48% năm 2011 còn
4,1% vào năm 2014. Tỷ suất LNST/vốn chủ sở hữu năm 2014 chỉ bằng
khoảng 1/3 so với 2011.
Bảng 2.2: Số liệu bình quân về tình hình kinh doanh của 5 CTTC cổ phần

Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014


Thu nhập lãi thuần

218,380

171,403

146,302

137,803

Chi phí hoạt động

45,797

40,088

38,655

36,320

Tổng TNTT

165,522

80,867

62,913

35,428


Tổng LNST

124,630

60,644

48,214

29,258

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

6.476,001

5.695,415

5.297,133

4.705,456

vay các TCTD

1.542,882


1.417,077

1.034,361

963,894

- Cho vay khách hàng

1.155,717

1.063,425

1.540,663

1.739,425

Nợ phải trả

5.223,006

4.470,427

4.073,172

3.496,332

- Tiền gửi và vay các TCTD

2.693,604


1.754,414

1.188,912

996,894

445,629

715,630

973,403

689,122

Vốn và các quỹ

1.252,994

1.224,987

1.224,021

1.217,453

- Vốn của TCTD

1.087,331

1.087,797


1.087,797

967,917

107,690

63,546

50,729

41,015

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

1.026

310

252

23

11.641


11.420

11.483

11.337

ROEA (%)

10,33

5,01

4,32

2,04

ROAA (%)

2,23

1,31

1,26

0,38

KẾT QUẢ KINH DOANH

CÂN ĐỐI KẾ TOÁN
Tổng tài sản

- Tiền, vàng gửi và cho

- Tiền gửi của khách hàng

- Lợi nhuận chưa phân
phối
CHỈ SỐ TÀI CHÍNH
EPS của 4 quý gần nhất
(đồng/cổ phần)
BVPS cơ bản (đồng/cổ phần)


18
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ BCTC của 5 CTTC cổ phần.
Ghi chú:

- EPS (thu nhập/cổ phần); BVPS (giá trị sổ sách/cổ phần); ROEA (lợi nhuận ròng/vốn chủ sở hữu bình

quân); ROAA (lợi nhuận ròng/tổng tài sản bình quân).
- 5 CTTC cổ phần gồm: VVF (CTTC cổ phần Vinaconex-Viettel); SDF (CTTC cổ phần Sông Đà);
CTTC cổ phần Xi măng (CMF); EVNFC (CTTC cổ phần Điện lực); VCFC (CTTC cổ phần Hóa chất Việt Nam).

2.3.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh của các CTTC TNHH MTV
Nhìn chung, so với khối CTTC cổ phần thì khối CTTC TNHH
MTV (do các tập đoàn/tổng công ty sở hữu 100% vốn) phần lớn hoạt động
cực kỳ yếu kém, gây mất vốn nhà nước trầm trọng và tồn tại rất nhiều vấn
đề khó xử lý khác nhau giữa các công ty. Hai CTTC TNHH MTV có tình
trạng trầm trọng nhất là:
- Công ty Tài chính TNHH MTV Cao su Việt Nam (RFC): Có thể
nói trong số các CTTC thì đây là CTTC có số tiền thua lỗ lớn nhất cũng

như nhiều sự việc sai phạm nhất. Với số lỗ lũy kế chồng chất như bảng 2.4
đã khiến cho RFC - CTTC có số vốn điều lệ cao thứ 2 trong số các CTTC
có vốn góp của các tập đoàn/tổng công ty không chỉ mất toàn bộ vốn của
nhà nước mà còn thâm hụt thêm đến 762 tỷ đồng.
Bảng 2.4. Tổng hợp tình hình tài chính của RFC giai đoạn 2011-2014

Đơn vị tính: Tỷ đồng
CHỈ TIÊU

Tổng tài sản (ước tính)
LNST (ước tính)
Lỗ lũy kế (ước tính)
Vốn điều lệ
Vốn chủ sở hữu (ước tính)

Năm 2011

2.000
-200
-670
1.000
800

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

2.000

-900
-870
1.088
-188

1.800
-80
-1.770
1.088
-682

1.630
-250
- 1.850
1.088
-762

Nguồn: Tổng hợp và tính toán của tác giả.

- Công ty Tài chính TNHH MTV Công nghiệp Tàu thủy (VFC): Là
CTTC trực thuộc Tập đoàn Vinashin với những sai phạm nghiêm trọng
gây hậu quả nặng nề cho nền kinh tế đất nước, VFC cũng có liên quan và


19
liên đới rất nhiều những vấn đề nghiêm trọng do sai phạm trong cho vay,
bảo lãnh hay vấn đề khác. VFC huy động vốn và cho các công ty thuộc
Vinashin vay, nhưng đã “chết chìm” theo các công ty này. Rất nhiều vụ
kiện tụng ầm ĩ dư luận đã xảy ra và bên thua kiện là VFC. Từ 2010-2013
VFC lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và nằm trong diện kiểm

soát đặc biệt của NHNN. Đây cũng là CTTC nằm trong nhóm có tình
trạng khó khăn nhất trong số tất cả các CTTC. Cuối 2014, lỗ trong kinh
doanh và trích lập dự phòng tín dụng và đầu tư của VFC lên đến khoảng
1.300 tỷ đồng, thâm hụt vốn chủ sở hữu 277 tỷ. Không chỉ là vấn đề hiệu
quả kinh doanh mà những sai phạm của VFC còn có tính chất rất phức tạp.
2.4 Đánh giá chung về mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh của
các công ty tài chính ở Việt Nam
2.4.1 Đánh giá chung về mô hình tổ chức của các công ty tài chính
* Ưu điểm:
Thứ nhất, Tạo nên sự khác biệt và lợi thế riêng trong đàm phán
kinh doanh cho các CTTC trực thuộc tập đoàn/tổng công ty.
Thứ hai, Thuận lợi trong khai thác thị trường tiềm năng sẵn có.
Thứ ba, Có thể linh hoạt trong tổ chức và kinh doanh từ việc tận
dụng lợi thế quy mô nhỏ.
Thứ tư, CTTC có thể giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh
doanh.
Thứ năm, Thường có sự hỗ trợ từ công ty mẹ hoặc các cổ đông
sáng lập là các tập đoàn/tổng công ty.
* Hạn chế:
Một là, CTTC vừa phải hoạt động theo những quy định của
NHNN vừa phải làm theo những chỉ đạo của tập đoàn/tổng công ty.
Hai là, Với phạm vi kinh doanh hạn chế, các CTTC gần như
không có lợi thế trong điều kiện thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Ba là, các CTTC 100% vốn nhà nước nhìn chung hoạt động kém
hiệu quả hơn các CTTC cổ phần.


20
Bốn là, tồn tại tình trạng thiếu khách quan trong các quyết định quản lý.
Năm là, mô hình CTTC TNHH MTV do tập đoàn/tổng công ty sở

hữu 100% vốn đã bộc lộ rõ những yếu kém giống nhiều DNNN khác.
Sáu là, hoạt động của CTTC dễ bị ảnh hưởng theo tình hình chung
của các tập đoàn/tổng công ty.
* Nguyên nhân của những hạn chế:
Thứ nhất, Tư duy và nhận thức về mục đích thành lập CTTC trong
tập đoàn/tổng công ty trong điều kiện Việt Nam là chưa hợp lý.
Thứ hai, CTTC chịu giới hạn về phạm vi kinh doanh.
Thứ ba, Quy mô vốn của các CTTC còn thấp.
Thứ tư, Mô hình tổ chức CTTC TNHH MTV do nhà nước sở hữu
100% vốn chịu áp lực thấp trong quản lý và điều hành.
Thứ năm, Công tác kiểm tra, giám sát đối với CTTC chưa chặt chẽ.
Thứ sáu, Tình trạng thiếu khách quan còn tồn tại.
2.4.2 Đánh giá chung về tình hình kinh doanh của các CTTC
* Những kết quả đạt được
Một là, Đã có những đóng góp nhất định vào việc tạo lập thị trường
tài chính cạnh tranh sôi động hơn.
Hai là, Có những CTTC tuy hiệu quả sử dụng vốn còn thấp nhưng
đã bảo toàn được vốn, đã mang lại những lợi ích kinh tế nhất định.
* Hạn chế:
Thứ nhất, Năng lực cung cấp các dịch vụ hạn chế.
Thứ hai, Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu không được đảm bảo.
Thứ ba, Vốn chủ sở hữu thâm hụt:
Thứ tư, Nợ xấu và trích lập dự phòng của các CTTC rất lớn.
Thứ năm, Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn vượt quy định.
Thứ sáu, Giá trị sổ sách/cổ phần (BVPS) thấp.
Thứ bảy, Tính minh bạch thông tin thấp.
* Nguyên nhân của những hạn chế:
- Từ bối cảnh của nền kinh tế Việt Nam:



21
Thứ nhất, mô hình CTTC ra đời và phát triển trong giai đoạn nền
kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến, thay đổi.
Thứ hai, chịu ảnh hưởng từ tình hình khó khăn chung của toàn nền
kinh tế nhiều năm gần đây.
- Từ phía các cơ quan quản lý nhà nước:
Một là, Việc cấp phép ồ ạt và chưa định ra được hướng đi rõ ràng
cho loại mô hình này ở Việt Nam.
Hai là, Chưa có những chiến lược tổng thể và cảnh báo từ phía các
cơ quan quản lý nhà nước về số lượng, quy mô của các TCTD nói chung
và CTTC nói riêng phù hợp với quy mô thị trường Việt Nam.
Ba là, Sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước chưa chặt chẽ.
Bốn là, Hệ thống quy định về công bố thông tin và minh bạch
thông tin về hoạt động của các CTTC còn hạn chế.
Năm là, Việc triển khai các văn bản pháp lý và hướng dẫn thực
hiện đối với các CTTC còn chậm, gây lúng túng cho CTTC về kinh doanh.
- Từ phía Tập đoàn/tổng công ty:
Thứ nhất, Còn lúng túng và thiếu nhất quán đối với vai trò và tầm
quan trọng của CTTC.
Thứ hai, Thiếu hỗ trợ hoặc khó có thể hỗ trợ về vốn và thị trường.
Thứ ba, Sa đà vào các hoạt động đầu tư và nhận đầu tư ủy thác,
thậm chí chỉ định cho các CTTC đầu tư vào các dự án không thật hiệu quả.
- Từ phía các CTTC:
Thứ nhất, Hạn chế về chức năng, phạm vi kinh doanh của mô hình
CTTC so với các NHTM trong khi CTTC phải cạnh tranh với NHTM, phải
đảm bảo các quy định về hoạt động đối với một TCTD nghĩa là như NHTM.
Thứ hai, CTTC thường phải chịu chi phí vốn cao.
Thứ ba, Là định chế tài chính mới nên chưa có những kinh
nghiệm cần thiết trong việc thành lập CTTC ở Việt Nam.
Thứ tư, Việc tăng vốn của các CTTC theo Nghị định 141/2006

vào đúng giai đoạn giá chứng khoán đạt mức cao nhất.


22
Thứ năm, Việc ban hành hệ thống các quy định nội bộ còn hạn chế.
Thứ sáu, Thiếu chiến lược rõ ràng trong kinh doanh và sử dụng vốn.
Thứ bảy, Hạn chế về nguồn lực, khả năng tiếp nhận và xử lý thông
tin, khả năng thích ứng.
Thứ tám, Vai trò giám sát của chủ sở hữu và công chúng chưa tốt.
Thứ chín, Hoạt động của hội đồng tín dụng, hội đồng đầu tư chưa
hiệu quả.
2.4.3 Tổng hợp đánh giá thực trạng mô hình tổ chức và hoạt động kinh
doanh của các CTTC ở Việt Nam
Qua nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, qua xem xét và phân
tích thực trạng, nguyên nhân về mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh
của các CTTC trực thuộc tập đoàn/tổng công ty ở nước ta, tác giả đúc rút
được một số nhận xét, tổng kết như sau:
(1) Trên thế giới, mô hình CTTC đang tồn tại ở nhiều nước phát
triển và đang phát triển. Giai đoạn hình thành và phát triển sôi động nhất
là đầu những năm 1990. Tuy nhiên, đây là mô hình đặc thù. CTTC được
gọi là tổ chức tài chính phi ngân hàng (tức là không được thực hiện đầy đủ
các nghiệp vụ của NHTM) nên việc quản lý và định hướng cho CTTC
phát triển như thế nào cũng khác nhau tại nhiều nước.
(2) Sự ra đời và tồn tại của các CTTC ở Việt Nam là hoàn toàn có
ý nghĩa. Điều đó không chỉ làm đa dạng hóa các chủ thể của thị trường tài
chính, tăng sức cạnh tranh cho các TCTD trung gian mà còn góp phần
khai thác những mảng thị trường khác nhau, những nơi mà các NHTM
chưa thực sự hướng tới.
(3) CTTC do tập đoàn/tổng công ty sở hữu 100% vốn mang tính
lịch sử và không phù hợp với điều kiện, bối cảnh cụ thể ở Việt Nam vì

nhiều lý do trong đó quan trọng nhất là: Làm mất đi tính độc lập của một
trung gian tài chính từ đó ảnh hưởng đến tính an toàn của TCTD; Việc ra
quyết định cho vay và đầu tư không thể tránh khỏi sự chủ quan (không


23
trên cơ sở phương án cho vay và đầu tư thực sự khả thi), nể nang, theo
mệnh lệnh, thậm chí là lợi ích nhóm...
(4) Chỉ khi có chủ trương đúng đắn và phát huy tốt, CTTC với vai
trò là một dạng TCTD phi ngân hàng mới thực sự làm tăng sức mạnh cho
các tập đoàn/tổng công ty đang sở hữu vốn tại các CTTC ở Việt Nam.
(5) Thời gian qua đã chứng minh rất rõ ràng rằng nếu xét trên bình
diện chung của thị trường, nếu để cạnh tranh bình đẳng với các NHTM thì
thực sự hoặc có thể nói là CTTC không thể cạnh tranh được.
(6) Mô hình tổ chức của CTTC trực thuộctập đoàn/tổng công ty đã
bộc lộ nhiều nhược điểm.
(7) Trong thực tế, rất nhiều chuyên gia nghi ngờ về sự tồn tại của
mô hình này. Lãnh đạo của nhiều tập đoàn/tổng công ty không đủ niềm tin
và vận hành trơn tru theo chủ trương và mục đích thành lập CTTC ban đầu.
Lãnh đạo của nhiều CTTC đã tỏ ra mất niềm tin, “đuối sức” và mất phương
hướng vào tương lai của các CTTC.
(8) Hệ thống quy định pháp lý cho riêng loại hình CTTC chưa đầy
đủ và chưa mang tính khuyến khích, chưa tạo thuận lợi cho mô hình này
có lợi thế để cạnh tranh với các trung gian tài chính khác, đặc biệt là NHTM.
(9) Hiệu quả kinh doanh không như kỳ vọng: Biểu hiện là rất
nhiều các CTTC hoạt động yếu kém, thậm chí nhiều công ty thua lỗ, mất
vốn. Nhiều tập đoàn/tổng công ty bị ảnh hưởng trầm trọng.
(10) Việc kiểm soát và quản trị rủi ro ở các CTTC nhìn chung còn
yếu. Chất lượng cán bộ nhìn chung chưa phải lợi thế của CTTC khi tham
gia cạnh tranh trên thị trường.

(11) Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan quản lý
nhà nước đối với các CTTC với vai trò là TCTD còn chưa chặt chẽ, kịp thời.
(12) Cơ quan quản lý nhà nước cũng đã nhìn nhận thấy thực trạng
về mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh yếu kém của các CTTC tổng
hợp trực thuộc các tập đoàn/tổng công ty nên đã có những giải pháp trong
tái cơ cấu bằng cách ban hành một văn bản pháp lý làm cơ sở mở đường


24
cho sự chuyển đổi hoặc chấm dứt của mô hình này. Đó là Nghị định
39/2014/NĐ-CP về hoạt động của CTTC và công ty cho thuê tài chính.
(13) Xu hướng số lượng các CTTC sẽ tăng thêm đáng kể trong
năm 2015-2016. Điều này có vẻ mâu thuẫn, tuy nhiên, đó là sự thay đổi sở
hữu, sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ kinh doanh khá toàn diện của các
CTTC ở Việt Nam thời gian tới. Những vấn đề nêu trên đã lý giải vì sao
thời gian qua đã chứng kiến nhiều thương vụ M&A giữa NHTM và CTTC.
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN MÔ HÌNH
TỔ CHỨC VÀ ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
3.1 Cơ hội, thách thức đối với các CTTC ở Việt Nam
3.1.1 Cơ hội đối với các CTTC
- Nhu cầu về nguồn vốn và các dịch vụ tài chính của xã hội rất lớn
- Tỷ trọng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam lớn
- Thị trường tín dụng tiêu dùng của Việt Nam đang rộng mở
3.1.2 Thách thức đối với các CTTC
- Mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt
- Rủi ro có thể rất cao nếu đẩy mạnh tín dụng tiêu dùng
- CTTC phải chuẩn bị và thiết lập hệ thống phân phối mới và rất rộng
- Áp lực về việc phải tạo ra và duy trì được hệ thống hồ sơ gọn
nhẹ và đáp ứng khoản vay nhanh chóng.

3.2 Chủ trương của Đảng, Nhà nước và quan điểm của tác giả về hoàn
thiện mô hình tổ chức và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh các CTTC
ở Việt Nam
3.2.1 Một số chủ trương chung của Đảng và Nhà nước
- Tái cơ cấu các công ty tài chính
- Các tập đoàn/tổng công ty cần chú trọng phát triển theo chiều
sâu và thực hiện thoái vốn tại các CTTC trực thuộc.


25
3.2.2 Quan điểm của tác giả
- CTTC trực thuộc tập đoàn/tổng công ty nhà nước là mô hình
không phù hợp với điều kiện Việt Nam
- Cần thực hiện tái cơ cấu các CTTC mạnh mẽ và nhanh chóng hơn
nhằm hạn chế việc thất thoát vốn của nhà nước
- Về lâu dài, việc thành lập CTTC trực thuộc nên xuất phát từ nhu
cầu và đặc thù riêng của chính các tập đoàn/tổng công ty
- Củng cố tổ chức và hoạt động kinh doanh của nhóm CTTC cổ phần
3.3 Giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và đẩy mạnh hoạt động
kinh doanh của các CTTC ở Việt Nam
3.3.1 Nhóm các giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức
- Hợp nhất hoặc sáp nhập CTTC với các NHTM là giải pháp phù
hợp với bối cảnh hiện nay
- Chuyển đổi mô hình hoạt động tùy theo thế mạnh của từng CTTC
- Hoàn thiện hệ thống quy định nội bộ của các CTTC
- Nâng cao vai trò của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ
- Đầu tư đổi mới hệ thống công nghệ thông tin
3.3.2 Nhóm giải pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh những dịch vụ
hiện tại của các CTTC
- Phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới

- Đẩy mạnh việc hợp tác với các NHTM và giữa các CTTC
- Cần chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cao hiệu quả
quản trị rủi ro để từ đó thu hút khách hàng
- Phát triển hoạt động huy động vốn và kinh doanh tiền tệ
- Phát triển hoạt động tín dụng
- Phát triển hoạt động đầu tư tài chính và kinh doanh chứng khoán
- Phát triển hoạt động dịch vụ tài chính tiền tệ
3.3.3 Giải pháp đối với các CTTC đã hoặc sẽ sáp nhập, hợp nhất với
ngân hàng thương mại
- Tận dụng tối đa tiềm lực của NHTM nhận sáp nhập, hợp nhất.


×