Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Nguyên nhân mất nước của triều nguyễn và bài học với vấn đề bảo vệ tổ quốc việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.7 KB, 96 trang )

`
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
…………………………………

NGUYỄN LƢU KHÁNH

NGUYÊN NHÂN MẤT NƢỚC CỦA TRIỀU
NGUYỄN VÀ BÀI HỌC VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ
TỔ QUỐC VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
…………………………………

NGUYỄN LƢU KHÁNH

NGUYÊN NHÂN MẤT NƢỚC CỦA TRIỀU
NGUYỄN VÀ BÀI HỌC VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ
TỔ QUỐC VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60 30 02 01


Người hướng dẫn : TS Trần Thị Thu Hoài

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong luận văn này là kết quả
thu thập tài liệu và nghiên cứu của cá nhân tôi và chưa được công bố trên các
công trình khác. Tôi cũng xin khẳng định luận văn đã được trích dẫn đầy đủ, cụ
thể, chính xác kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Và tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về những thông tin, dữ liệu đã công bố trong luận này./.

Hà Nội, ngày tháng
Tác giả luận văn

Nguyễn Lưu Khánh

năm


LỜI CẢM ƠN

Em xin trân trọng cảm ơn TS. Trần Thị Thu Hoài, người đã trực tiếp tận
tình hướng dẫn và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này.
Em xin chân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Khoa học Chính trị
trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã
nhiệt tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện cho em trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn, tri ân tới những người thân trong gia đình và

bạn bè thân thiết đã quan tâm, giúp đỡ, chia sẻ với em trong quá trình học tập và
nghiên cứu. Dù đã có nhiều cố gắng, nhưng luận văn của em không thể tránh
khỏi những khuyết điểm, hạn chế về nội dung. Rất mong sự đóng góp, chỉ bảo
tận tình của các thầy cô để luận văn của em được sửa chữa, bổ sung và hoàn
chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng
Tác giả luận văn

Nguyễn Lưu Khánh

năm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI CỦA NHÀ NGUYỄN TRƢỚC SỰ
XÂM LƢỢC CỦA THỰC DÂN PHÁP.......................................................................6

1.1. Nguyên nhân khách quan............................................................................ 6
1.1.1 Cuộc cạnh tranh quyền lực quốc tế và âm mưu xâm lược Việt Nam
của Thực dân Pháp ......................................................................................... 6
1.1.2 Đất nước khủng hoảng suy yếu về mọi mặt ........................................ 10
1.2. Nguyên nhân chủ quan ............................................................................. 20
1.2.1. Chính sách ngoại giao sai lầm của nhà Nguyễn ................................. 20
1.2.2. Việt Nam không có một phong trào canh tân theo hướng Tư bản chủ
nghĩa nhằm đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ bị thôn tính........................... 36
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 44
CHƢƠNG 2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ GIỮ VỮNG ĐỘC LẬP, BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN ĐẤT NƢỚC ........................................................................................45


2.1. Tăng cường sức đề kháng của dân tộc, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi
mới trên lĩnh vực kinh tế, chính trị .................................................................. 45
2.1.1 Thực trạng đất nước trong thời gian gần đây ...................................... 45
2.1.2. Sự “trỗi dậy” của Trung Quốc trong những thập niên qua đã đe dọa
trực tiếp đến tình hình an ninh – quốc phòng của Việt Nam ....................... 52
2.1.3. Những vấn đề mang tính chiến lược cho các nhà lãnh đạo Việt Nam
để đưa đất nước vươn lên trở thành một nước giàu mạnh thực sự .............. 55
2.2. Xây dựng đường lối đối ngoại chủ động, linh hoạt, vươn lên trở thành
chủ thể trong “ Bàn cờ” quan hệ quốc tế ....................................................... 65
2.2.1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian gần
đây ................................................................................................................ 65


2.2.2 Những đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước và quốc tế về chính
sách ngoại giao ............................................................................................. 68
2.2.3. Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong
thời gian tới .................................................................................................. 73
2.2.4 Một số bài học bước đầu về chính sách đối ngoại. ............................. 77
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................................86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................87


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Chọn đề tài “ Nguyên nhân mất nước của triều Nguyễn và bài học với vấn
đề bảo vệ cổ quốc Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn
thạc sĩ khoa học chính trị, tác giả xuất phát từ những căn cứ sau đây:
Thứ nhất, chính trị là một lĩnh vực hoạt động của con người. Chính trị

phản ánh một khía cạnh quan trọng của đời sống xã hội. Chính trị được coi là
yếu tố tác động trực tiếp đến sự phát triển của mỗi dân tộc và quyết định vận
mệnh chung của các quốc gia. Chính trị xuất hiện trong những điều kiện xã hội
nhất định khi xã hội phân chia thành giai cấp và biến đổi cùng với sự chuyển
biến của những điều kiện đó.
Ngành chính trị học đã xuất hiện khá lâu trên thế giới. Ở nước ta chính trị
học tuy là một ngành khá mới nhưng nó dần chiếm một vị trí quan trọng trong đời
sống xã hội. Tại Việt Nam, chính trị học chỉ thực sự được coi là một ngành khoa
học độc lập và nghiên cứu chính trị học ngày càng trở thành một nhu cầu cấp thiết
từ vài thập niên trở lại đây. Chính trị học được xác định là một môn khoa học
nghiên cứu về lĩnh vực chính trị “Chính trị nghiên cứu lĩnh vực chính trị của đời
sống xã hội như là một chỉnh thể nhằm làm sáng tỏ những quy luật và tính quy
luật chung nhất trong các mối quan hệ qua lại giữa các tổ chức liên quan tới việc
hình thành, phát triển của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước”.
Là một ngành khoa học mới nên chính trị học nói chung và lịch sử chính
trị nói riêng là một lĩnh vực nghiên cứu còn khá mới mẻ do đó là nguồn cảm
hứng sáng tạo cho những nghiên cứu khoa học về lịch sử chính trị, đặc biệt là
lịch sử chính trị cận hiện đại.
Thứ hai, trong bức tranh về lịch sử triều Nguyễn chúng ta thấy sự hiện
diện rất rõ những nét đậm nhạt, những gam màu tối sáng khác nhau, thậm chí
tồn tại những mảng đen trắng không rõ ràng. Sự đan xen giữa công và tội, giữa
những cái tiến bộ và hạn chế của một vương triều vừa được xem như triều đại có
công thống nhất đất nước sau nhiều thập kỷ bị chia cắt và cũng bị coi là một “tội
1


đồ” của lịch sử dân tộc, triều Nguyễn đã thu hút sự quan tâm không ít những học
giả, những nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
Lịch sử được coi là những gì đã qua, thuộc về quá khứ, nhưng những điều
được coi là quá khứ đó lại có một vị trí quan trọng và không thể phủ nhận ý

nghĩa to lớn đối với sự phát triển của ngày hôm nay. Tuy nhiên tiếp cận lịch sử
từ nhiều giác độ khác nhau để có thể khai thác nhiều hơn từ những sự kiện, biến
cố lịch sử trong một thời kỳ nhất định là vấn đề mà giới khoa học đang quan tâm
và nghiên cứu.
Lựa chọn đề tài “Nguyên nhân mất nước của triều Nguyễn và bài học về
vấn đề bảo vệ tổ quốc Việt Nam hiện nay”, tác giả nhằm góp một cách nhìn
mới, đánh giá xác thực hơn về một giai đoạn lịch sử mang tính “ chuyển mình”
của lịch sử chính trị Việt Nam. Nghiên cứu đề tài này tác giả không có tham
vọng làm thay đổi định hướng chung cho cách nhìn nhận, đánh giá lịch sử, suy
ngẫm về một vấn đề mang tính thời đại. Tác giả chỉ hy vọng với kết quả nghiên
cứu của luận văn sẽ góp thêm một tiếng nói khách quan, trung thực và công
bằng trong nhận định về vương triều Nguyễn.
Thứ ba, nhìn về cội nguồn để hướng tới tương lai, tìm về quá khứ để tìm
câu trả lời cho hiện tại luôn là niềm trăn trở đối với con người đặc biệt là các nhà
nghiên khoa học xã hội. Do đó, nghiên cứu đề tài này tác giả mong muốn góp
một phần nhỏ bé từ nghiên cứu lịch sử rút ra những bài học kinh nghiệm trên cơ
sở đó góp phần hoạch định đường lối chính sách cho tương lai của Việt Nam.
Thứ tư, xuất phát từ nhu cầu bản thân tác giả là một người Việt Nam, làm
việc trong lĩnh vực xã hội, có một niềm đam mê đặc biệt với lĩnh vực chính trị
và lịch sử cùng với nhu cầu để không ngừng nâng cao kiến thức của bản thân,
tác giả đã chọn một vấn đề lịch sử tiếp cận từ góc nhìn chính trị học cho đề tài
nghiên cứu của mình.
Thứ năm, xuất phát từ nhu cầu vừa mang tính lâu dài vừa có ý nghĩa cấp
bách về một vấn đề mang tính chiến lược về xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam hiện nay. Giữ vững chủ quyền quốc gia luôn là một vấn đề quan trọng của
đất nước, đặc biệt trước những biến động trong giai đoạn gần đây, thì nguy cơ
mất an ninh xung đột vũ trang trở thành mối hiểm họa trước mắt.
2



Từ những lý do trên tác giả đã lựa chọn đề tài “Nguyên nhân mất nước
của triều Nguyễn, và bài học về vấn đề bảo vệ tổ quốc Việt Nam hiện nay” làm
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do luận văn đề cập đến lịch sử chính trị, nên những tài liệu sử học và
những tài liệu chính trị học là nguyên liệu quan trọng được sử dụng trong quá
trình hoàn thành luận văn. Do vây, từ những nguồn sử liệu hay những tác phẩm
chính trị học, tác giả đã sắp xếp thành các nhóm tư liệu chính sau:
Thứ nhất, việc nghiên cứu về triều Nguyễn ở Việt Nam khá phong phú,
đặc biệt là trong một vài thập niên trở lại đây, thu hút rất nhiều độc giả và giới
nghiên cứu sử học trong và ngoài nước tham gia. Đây là một thuận lợi cho tác giả.
Tuy nhiên vấn đề mà luận văn đặt ra là khá phức tạp bởi nguồn tài liệu về triều
Nguyễn khá nhiều nhưng lại rất ít những tài liệu liên quan trực tiếp đến vấn đề
nghiên cứu của luận văn. Tác giả luận văn đã cố gắng khai thác tối đa nguồn tư
liệu từ các bộ chính sử Việt Nam, trong đó đặc biệt là nguồn tư liệu của Quốc Sử
Quán triều Nguyễn, nhóm tài liệu sử học liên quan trực tiếp đến lịch sử Việt Nam
thế kỷ XIX như Đại cương lịch sử Việt Nam tập II của Đinh Xuân Lâm, Nguyễn
Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ của NXB Giáo dục; Lịch sử Việt Nam 1858 -1896
của Vũ Huy Phúc, Nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc của Văn Tạo, Ngoại giao
Việt Nam với các nước phương tây dưới triều Nguyễn của Trần Nam Tiến…Các
tác phẩm này chủ yếu đề cập đến nội dung như sự xác lập quyền lực chính trị của
nhà Nguyễn đầu thế kỷ XIX, hay tình hình kinh tế văn hóa xã hội, chính sách
ngoại giao dưới triều Nguyễn. Từ những nguồn tư liệu sử học trên đã phản ánh
một khía cạnh của chính trị nhà Nguyễn đầu thế kỷ XIX là cơ sở làm sang tỏ
nguyên nhân để mất nước của vương triều Nguyễn vào tay thực dân Pháp.
Vương triều Nguyễn là một trong những triều đại phong kiến Việt Nam
có sức hấp dẫn lớn với các học giả, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
Nhìn chung trong những công trình nghiên cứu liên quan đến giai đoạn
chính trị nhà Nguyễn dưới giác độ khoa học chính trị thì chưa thực sự nhiều
công trình khoa học được công bố. Mà chủ yếu chỉ là những công trình sử học

3


mang tính sự kiện đánh giá vai trò trách nhiệm của triều Nguyễn khi đất nước bị
xâm lăng. Do đó nhìn tổng thể những nội dung đã được nghiên cứu liên quan
đến đề tài tác giả lựa chọn có thể khái quát thành một số nội dung sau:
Ngoài các công trình nghiên cứu đã được công bố, các cuộc hội thảo về
thời kỳ cầm quyền của nhà Nguyễn và hội thảo quốc gia gần đây nhất là vào
tháng 10/2008 tại Thanh Hóa. Điều này phản ánh một thực tế: xung quanh lịch
sử triều Nguyễn còn rất nhiều vấn đề cần phải bàn luận. Giáo sư Văn Tạo trong
tài liệu "Nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc" đã phác họa tổng quan về quá trình
phát sinh, phát triển trong đó có đề cập đến những mặt mạnh, yếu của nhà
Nguyễn. Cũng tổng quan về nhà Nguyễn còn có tác phẩm "Triều đại nhà
Nguyễn" của Tôn Thất Bình, "Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn" của tạp chí
Xưa và Nay. Nhưng nhìn chung thì các nghiên cứu này mang nặng tính sử học.
Thứ 2, còn là nhóm tài liệu chính trị học liên quan đến đề tài luận văn của
tác giả như: Nhìn lại quan hệ Pháp – Việt Nam – Trung Quốc qua các bản hiệp
ước cuối thế kỷ XIX của tác giả Vũ Dương Ninh, tập bài giảng chính trị học của
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh…
Dựa trên cơ sở nguồn tư liệu thư tịch, kết hợp với các bài nghiên cứu
cùng đánh giá với các chuyên gia nghiên cứu đi trước, tác giả đã chọn lọc, sắp
xếp các nguồn tư liệu để nghiên cứu cho đề tài luận văn của mình.
Có thể nói, luận văn của tác giả đề cập tới một vấn đề không mới nhưng
được nhìn nhận trên góc độ nghiên cứu của khoa học chính trị . Từ giác độ
nghiên cứu của khoa học chính trị giúp người đọc có thể hình dung một cách rõ
nét, có căn cứ khoa học về một giai đoạn đầy “biến động” dân tộc Việt Nam
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Bằng lý luận chính trị học luận văn chỉ ra nguyên nhân mất nước của triều
Nguyễn vào tay thực dân Pháp nửa sau thế kỷ 19, từ đó rút ra những bài học vận
dụng vào thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay.

4. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nhà Nguyễn với tư cách là lực lượng
nắm giữ quyền lực nhà nước ở Việt Nam nửa sau thế kỷ 19 đã không sử dụng
4


được quyền lực chính trị của mình một cách tối ưu để bảo vệ nền độc lập của
dân tộc trước sự xâm lăng của lực lượng ngoại bang.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các phương pháp nghiên cứu của khoa học chính trị. Với ý
nghĩa là một luận văn lịch sử chính trị tác giả vận dụng khá triệt để phương pháp
lịch sử, phương pháp logic cùng các phương pháp nghiên cứu khác như phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê…
6. Đóng góp của luận văn
- Từ góc nhìn của khoa học Chính trị, luận văn chỉ ra những nguyên nhân
mất nước của nhà Nguyễn nửa sau thế kỷ 19.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm với vấn đề bảo vệ tổ quốc Việt Nam
hiện nay.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mục lục, phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 2 chương, 6 tiết.

5


CHƢƠNG 1
NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI CỦA NHÀ NGUYỄN TRƢỚC
SỰ XÂM LƢỢC CỦA THỰC DÂN PHÁP
Nước Đại Nam cuối thế kỉ XIX phải đối mặt với nguy cơ bị chủ nghĩa đế

quốc xâm lược. Triều đình nhà Nguyễn, với tư cách là đại biểu giai cấp phong
kiến bấy giờ, lãnh trách nhiệm lịch sử, chèo lái con thuyền dân tộc. Mỗi quyết
định và sự ứng xử của triều đình Huế quyết định vận mệnh của toàn thể quốc gia
dân tộc Việt Nam. Thực tế, cuối thế kỉ XIX, Đại Nam trở thành thuộc địa của
Pháp, bắt buộc phải chấp nhận làm thân phận nô lệ cho ngoại bang. Điều ấy đã
khẳng định: nhà Nguyễn đã không làm tròn được trọng trách mà lịch sử trao cho
họ, hay phải chăng đó là kết quả của quá trình từng bước lún sâu vào khủng
hoảng nhưng lại bế tắc, không thể tháo gỡ của Đại Nam. Do đó, nhìn nhận
nguyên nhân mất nước của triều Nguyễn thực chất là luận giải các nguyên do
trực tiếp và sâu xa dẫn đến sự thất bại của vương triều Nguyễn khi để nước ta
rơi vào tay thực dân Pháp.
1.1. Nguyên nhân khách quan
1.1.1 Cuộc cạnh tranh quyền lực quốc tế và âm mưu xâm lược Việt Nam của
Thực dân Pháp
Âm mưu xâm lược của tư bản Pháp đối với Việt Nam lâu dài và liên tục,
bắt nguồn từ những năm đầu thế kỉ XVII được cắm mốc với việc kí kết hiệp ước
Vecxai năm 1787, sau đó ngày càng được xúc tiến một cách mạnh mẽ, đặc biệt
từ giữa thế kỉ XIX.
Ở châu Âu, chủ nghĩa tư bản ra đời từ thế kỷ XV, XVI, XVII và ngày càng
phát triển. Các thương nhân Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Hà Lan...
được sự giúp đỡ của nhà nước, đã tổ chức nhiều đoàn thám hiểm. Sau đó, họ
thành lập nhiều công ty thương mại, đổ xô sang các châu Mỹ, Á, Phi hòng vơ vét
vàng bạc, hương liệu (đinh hương, hồ tiêu, chè...) và nhiều loại nguyên liệu khác
với giá rẻ, đồng thời bán hàng công nghệ phẩm. Chủ trương thôn tính, xâm lược
các nước ở ba châu lục này thường được nêu ra với các chính quyền nhà nước vì
6


giai cấp tư sản châu Âu đang lên rất cần vốn, nguyên liệu rẻ mạt để phát triển kỹ
nghệ chính quốc và cần thị trường tiêu thụ hàng hóa làm ra. Ngoài ra, khi chủ

nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì một trong những đặc
điểm quan trọng nhất của chính sách đối ngoại là các cuộc chiến tranh xâm lược.
Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp
tư sản xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở
khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi” [22, 601].
Trong quá trình đó, hầu hết các nước thuộc châu Á, châu Phi, châu Mỹ La
tinh trong hoàn cảnh nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển đều trở thành miếng
mồi ngon béo bở của các nước đế quốc phương tây. Trước khi chủ nghĩa thực
dân phương Tây xâm lược và thống trị, nền văn hóa xã hội của các nước này
phát triển khá cao. Nơi đây đã xuất hiện sớm những nền văn minh lớn như Ấn
Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đông Nam Á… thậm chí sớm hơn cả Phương Tây
hàng thiên niên kỉ. Tuy nhiên, sự phát triển của những quốc gia ở châu Á không
giống nhau. Chế độ phong kiến đạt đến trình độ phát triển cao và dần dần
chuyển sang giai đoạn suy yếu. So với các nước ở Phi và Mỹ Latinh thì ở các
nước châu Á trình độ phát triển kinh tế cũng tương đối cao hơn. Ở thời Trung
đại, chế độ phong kiến đạt tới đỉnh cao cực thịnh, rực rỡ cũng không thua kém gì
phương Tây, quan hệ sản xuất kinh tế chủ nghĩa cũng đã manh nha nhưng đã bị
chế độ phong kiến kìm hãm, mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa không có điều
kiện phát triển như ở phương Tây. Trong khi ở phương Tây chuyển sang giai
đoạn hiện đại hóa, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn phát triển nhanh
chóng thì ở châu Á còn chìm đắm trong chế độ phong kiến lạc hậu. Trên đà
bành trướng sang phương Đông, đến giữa thế kỷ XIX, các nước đế quốc phương
Tây đã thâm nhập sâu vào các nước châu Á, đặc biệt các nước nghèo nàn, lạc
hậu, kém phát triển.
Thất thế tại châu Mĩ, thua Anh tại Ấn Độ và châu Phi, người Pháp rơi vào
nguy cơ đánh mất vị thế của mình trên trường quốc tế; trong khi nhu cầu tìm
kiếm thị trường trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Nửa đầu thế kỷ XIX, Pháp thực
ra không có nhu cầu phát triển kinh tế ở Viễn Đông, động lực thôi thúc không
7



mạnh mẽ: thực dân Pháp đang kiếm tìm những thị trường béo bở hơn như Trung
Quốc. Nhưng với tình hình bị đánh mất ảnh hưởng của từng mảng trên bản đồ
thế giới, chính phủ Pháp không thế kén chọn chần chừ được nữa. Chính quyền
Pháp có thể tranh thủ vùng Viễn Đông giàu có. Tiền đề thấu hiểu văn hóa đã
được các giáo sĩ thừa sai làm tốt, cơ hội làm sáng danh Đức chúa trời được hỗ
trợ bởi sự thôi thúc kinh tế sau khi Pháp bị mất các tỉnh Đông Nam giàu có vào
tay Đức, lại phải bồi thường chiến phí nặng nề. Hơn nữa, Pháp lại muốn cạnh
tranh quyền lực với Anh. Mục đích kinh tế rồi chính trị dồn dập đưa Pháp tới
Đông Dương. Vậy là tình thế của kẻ đói thức ăn không cho phép sự chậm trễ.
Đông Dương được nhắc đến nhiều hơn và An Nam lấp lánh như viên ngọc qua
những bản báo cáo của các giáo sĩ đang có mặt ở An Nam. Trong bối cảnh
chung đó, Việt Nam cũng đứng trước nguy cơ bị xâm lược.
Trong số các nước tư bản phương Tây đang nhòm ngó và lăm le xâm
lược nước ta lúc bấy giờ, Pháp là nước có nhiều “dây mơ rễ má” lâu đời với
nhà Nguyễn. Năm 1802, sau khi đánh bại Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng
đế thiết lập triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Sau khi lên
cầm quyền, Gia Long đã “trả ơn” cho những người Pháp có công giúp ông ta về
nhiều mặt trong cuộc chiến tranh giành quyền lực với Tây Sơn bằng cách giữ lại
một vài người làm quan trong triều như Jean Baptiste Chaigneua, Philippe
Vannier…Gia Long đãi ngộ họ rất hậu, phong cho họ các chức võ quan cao
cấp… Để tỏ lòng đặc biệt ưu ái, nhà vua ra lệnh miễn cho họ lệ mỗi khi vào
chầu không phải sụp lạy năm lần như các quan lại người Việt mà chỉ cần khấu
đầu năm vái. Nhà vua còn cấp cho họ mỗi người một đội lính hầu 50
người…hoàn toàn thuộc quyền sai bảo của họ. Tuy nhiên, những người Pháp
này tuy ăn bổng lộc của vua Nguyễn, nhưng họ vẫn không quên “Nước Mẹ” mà
họ rắp tâm tìm cơ hội phục vụ quyền lợi. Nhưng trong giai đoạn này, do cuộc
chiến tranh cách mạng chống lại liên minh phong kiến châu Âu can thiệp và bọn
lưu vong kéo dài trong suốt 20 năm (1792-1815) đã không cho phép nước Pháp
hành động trực tiếp, tuy vậy Pháp vẫn không ngừng nhòm ngó Việt Nam.

Bonaparte sau khi dựa vào giai cấp tư sản và quân đội để làm cuộc đảo chính
8


thắng lợi và thiết lập nền chuyên chính quân sự của giai cấp tư sản, mặc dù còn
rất bận chiến trang với các nước châu Âu; Bonapart cũng đã để ý tới Việt Nam.
Năm 1857, nước Anh đang dính líu đến cuộc nổi loạn ở Ấn Độ và do đó
sẽ không đủ sức mạnh để ngăn cản Pháp giành một bàn đạp tại Đông Nam
Á. Đây là một thời điểm đặc biệt thuận lợi. Và Pháp đã cho tàu chiến tới
Đà Nẵng kiếm cớ gây sự với Việt Nam. Khi được tin báo từ một giáo sĩ về
tình hình Việt Nam năm 1857: “Những người Anh đang dòm ngó Đà
Nẵng, họ sẽ đi trước chúng ta nếu họ biết đề án đánh chiếm của chúng ta”
[13, 208], Napôlêông III đã cho thành lập Uỷ ban nghiên cứu vấn đề Nam
Kỳ để “xét lại hiệp ước Vécxây” nhằm đẩy nhanh tiến trình thực hiện mục tiêu
xâm lược Việt Nam.
Trước sức ép đòi hỏi mở cửa giao thương ngày càng lớn của thực dân Pháp
thì các vua đầu thời nhà Nguyễn đều có thái độ thận trọng mang tính thăm dò
trước thái độ và hành động của giới thương nhân và chính quyền Pháp. Vị vua kế
tục Gia Long là Minh Mạng không có cảm tình với người Pháp như thái độ chung
của người Á Đông lúc đó, coi người châu Âu là bọn man di, là quân xâm
lược. Ngoài ra ông cũng không thích cả Công giáo của Châu Âu. Sau này khi Tự
Đức lên cầm quyền, triều đình vẫn cai trị theo phong cách nho giáo. Chính quyền
trung ương không có một chính sách gì đối phó với âm mưu và hành động của
phương Tây, thậm chí cấm đạo và buôn bán ngày càng ngặt nghèo.
Mặt khác, lúc này trong nội bộ nước Pháp còn xuất hiện trào lưu biện minh
cho hành động xâm lược bành trướng của giới cầm quyền Pháp tại Đông Dương.
Việc chinh phục thuộc địa là một vấn đề sinh tồn của nước Pháp, vì nước Pháp
chẳng là gì bên cạnh những quốc gia khổng lồ như Nga, Đức, Anh, Hoa Kỳ và cả
Trung Hoa nữa…. Sự bành trướng hải ngoại như một phương diện cho phép nước
Pháp chiếm lại địa vị của nó trên chính trường quốc tế…Chính sách thực dân là

con đẻ của chính sách kỹ nghệ, và phải làm xuất hiện nhiều lớp người tiêu thụ
mới, nếu không xã hội tân thời sẽ thất bại; chính sách thực dân cũng cho phép
nước Pháp tham dự vào việc phân chia thế giới và tạo cơ hội truyền bá văn minh
Pháp cho các dân tộc da vàng, da đen. Tư tưởng này càng củng cố quyết tâm của
9


thực dân pháp vốn đang khao khát thị trường và thúc đẩy hành động xâm chiếm
bằng được nước ta.
1.1.2 Đất nước khủng hoảng suy yếu về mọi mặt
Tư bản Pháp đã chọn đúng lúc để nổ súng xâm lược Việt Nam khi chế độ
phong kiến Việt Nam đang đi sâu vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Chế độ
phong kiến Việt Nam đã khủng hoảng nặng từ cuối thế kỉ XVIII. Nhưng mầm
mống đầu tiên của chủ nghĩa tư bản trong nước đã xuất hiện và ngày càng mâu
thuẫn đối kháng với quan hệ kinh tế phong kiến bảo thủ lạc hậu bao đời thống trị
xã hội Việt Nam. Nền kinh tế tiểu nông đang cần được phát triển, nhưng bị chế
độ chiếm hữu và bóc lột phong kiến uy hiếp nghiêm trọng. Đây cũng là thời kì
bùng nổ các cuộc khởi nghĩa nông dân trên một quy mô rộng lớn trong phạm vi
cả nước, đòi hỏi đất nước phải sớm thống nhất. Cuộc khởi nghĩa của nông dân
Tây Sơn thắng lợi đã mở ra nhiều triển vọng cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Nhưng dựa vào thế lực tư bản Pháp, Nguyễn
Ánh đã đánh thắng Tây Sơn. Có thể khẳng định rằng triều Nguyễn thành lập là
sự thắng thế của tập đoàn phong kiến tối phản động trong nước có tư bản nước
ngoài ủng hộ đối với triều đại Tây Sơn tương đối tiến bộ hơn về nhiều mặt.
Bộ máy chính trị triều Nguyễn ngay từ đầu đã mang nặng tính chất quan
liêu, độc đoán . Đó là một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung
cao độ với một chế độ chính trị lạc hậu, bảo thủ. Mọi quyền hành đều tập trung
trong tay nhà vua. Vua được coi là "con trời", “thay trời" trị dân; quyền hành
nhà vua được coi là “thần khí” thiêng liêng, vô hạn. Nhà vua trong thực tế là đại
địa chủ lớn nhất trong nước, có toàn quyền phung phí tài sản quốc gia trên

xương máu của nhân dân. Còn quan lại trong triều và ở các địa phương hầu hết
là bất tài; chính trị thì bảo thủ, cầu an, kinh tế thì trì trệ. Từ vua đến quan đều rất
tự cao tự đại với mớ học thuyết Khổng, Mạnh lỗi thời, xem trật tự phong kiến là
bất di bất dịch, mãi đến lúc súng giặc nổ ầm bên tai mới bàng hoàng tỉnh
giấc.Trong bối cảnh các nước tư bản phương Tây đang chuyển sang nền kinh tế
sản xuất tư bản chủ nghĩa theo hướng hiện đại thì nhà Nguyễn lại xây dựng chế
độ của mình trên một nền tảng cũ kỹ, lạc hậu . Điều này là đi ngược với sự phát
10


triển chung của nhân loại và kết quả tất yếu đó là sự thất bại của cái cũ lạc hậu
và thắng thế của cái mới tiến bộ.
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trải qua nhiều triều đại khác nhau thì
triều Nguyễn bị đánh giá là triều đại không được lòng dân. Nhà nước quân chủ
trung ương tập quyền Nguyễn từ nguồn gốc xuất hiện của nó đã không có được
sự ủng hộ của nhiều bộ phận dân cư ở các miền Trung, Nam, Bắc. Ngay từ đầu
nhà nước đó đã phải đối phó, trừng trị một bộ phận không nhỏ dưới con mắt của
các vua Nguyễn là “ dân nghịch”, “đất nghịch”. Mọi hoạt động của giai cấp
phong kiến trong giai đoạn lịch sử đau thương này được quy định bởi bản chất
bảo thủ lâu đời của chế độ phong kiến. Từ cơ sở đó, hàng loạt những chính sách
sai lầm ra đời làm cho đất nước bị suy yếu về mọi mặt.
Do trải qua hàng thế kỷ đất nước bị chia cắt lâu dài, chiến tranh nổ ra liên
miên làm cho nền kinh tế trở nên tiêu điều, kiệt quệ.
Đối với đất nước lấy gạo làm nền sống như Việt Nam, sản xuất nông
nghiệp bị ảnh hưởng đồng nghĩa với mâu thuẫn xã hội lên cao, xã hội bất ổn :
điềm báo của chiến tranh và đổ vỡ. Trên cương vị những người cai quản quốc
gia, chắc chắn triều đình nhà Nguyễn cũng thấu hiểu điều này. Có lẽ chính sự
thấu hiểu này đã thôi thúc các vua Nguyễn tìm cách phát triển nông nghiệp,
không chỉ nhằm giải quyết lương thực, mà cao hơn thế, giải quyết bất ổn xã hội.
Nam Kì cho đến thế kỉ XIX thực sự là vựa lúa của Việt Nam: người nông

dân “làm chơi” nhưng “ăn thật”- vùng đồng bằng Nam bộ quả thức là món quà
thiên nhiên ban tặng cho một xứ sở nông nghiệp. Tiếc rằng điều đó không có
nghĩa rằng vấn đề lương thực được giải quyết.
Nếu trong giai đoạn đó, có vùng nào không bị thiếu đói hay xiêu tán, có lẽ
vùng đó không ở Bắc hà lẫn miền Trung. Lương thực thiếu trở thành yếu tố kích
thích xã hội rối loạn: nông dân đói bỏ, đi xiêu tán, một bộ phận trở thành giặc
cướp. Giặc cướp và khởi nghĩa không chỉ “giúp” triều đình và nhân dân tăng
cường đối đầu, mà còn khiến nông dân không thể yên ổn làm ăn. Hậu quả rõ
nhất là một chuỗi luẩn quẩn: nông nghiệp sút kém, dẫn đến nổi loạn, nổi loạn bắt
triêu đình đàn áp, chi phí cho quân sự vì thế đè nặng lên chính lưng người nông
11


dân và thuế mà họ phải đóng- thuế cao sẽ lại quay trở lại làm tổn thương nền
nông nghiệp.
Từ việc lập sổ địa bạ đến những chính sách khai hoang, doanh điền, quân
điền…, kì vọng của thượng tầng xã hội được đáp trả lịch thiệp bằng những nạn
đói kế tiếp nhau, đi kèm với khởi nghĩa và nổi loạn. Tự Đức nhận thức được
món quà nặng nề ấy, nhưng ngài cũng bất lực, vận mệnh dân tộc thì phó mặc
cho ngài.
Nông nghiệp sa sút không cho phép tiểu thủ công nghiệp phát triển. Nền
sản xuất bất an thì thương nghiệp càng tồi tệ hơn. Tài chính đổ cho những chính
sách khai hoang và lập điền tuy có đạt được những thành tựu nhất định nhưng
vẫn chẳng thấm vào đâu.
Vậy là nông nghiệp Việt Nam thế kỉ XIX không có sự phát triển và không
tạo được động lực phát triển cho toàn thể nền kinh tế, cũng là nguyên nhân của
nhiều bất ổn xã hội: triều đình loay hoay đàn áp khởi nghĩa và phát triển nông
nghiệp, còn nông dân thì tiếp tục quẫn chí xiêu tán, bỏ ruộng, nổi dậy.
Tất cả cho phép ta nhận định rằng: nông nghiệp trở thành sợi dây trói chặt
toàn bộ nền kinh tế, không cho và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế , đồng

thời hạn chế khả năng cải cách . Dĩ nhiên nông nghiệp phát triển đâu phải là tiền
đề duy nhất cho cải cách! Nhưng sự yếu kém của nó trong một nước dùng nó để
tồn tại hơn nghìn năm nay, lại không tạo điều kiện để cải cách có thể tiến hành:
không có tài chính, không có lương thực ( mầm mống tư bản chủ nghĩa chớm
xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỉ 17, 18 cũng xuất phát từ sự phát triển của sản
xuất nông nghiệp, đòi hỏi nhu cầu hàng hóa ngoài nông nghiệp được đưa vào
thị trường). Vấn đề nông nghiệp nhức nhối, bằng cách đó nó làm lu mờ những
giải pháp khắc phục nằm ngoài nông nghiệp. Thương nghiệp nằm trong tay
người Hoa, thuốc phiện được đưa vào ào ạt và gạo bị đưa đi góp phần đẩy nông
nghiệp vào đường hẻm.
Khác với quan điểm coi chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã đến lúc suy
tàn, tác giả lại coi đó là chưa phát triển đến độ chín muồi của nó, để đi đến suy
tàn. Bởi vì một chế độ phong kiến khi phát triển đến cực điểm thì trong lòng nó
12


đã xuất hiện những mầm mống hình thái kinh tế xã hội có khả năng phá vỡ nó là
mầm mống của chủ nghĩa tư bản. Nhưng ở Việt Nam chưa bao giờ có hình thái
kinh tế xã hội phong kiến điển hình như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
nói về phong kiến ở phương tây mà đó là sự bảo trì lâu dài tàn dư của phương
thức sản xuất châu Á lại làm cho nó tồn tại lâu dài ở mức trì trệ không phát triển,
dưới hình thức một nền chuyên chính phương Đông, không hẳn là phong kiến,
cũng chưa lên được tư bản chủ nghĩa.
Trước tình hình bi thảm đó, để xoa dịu và ngăn ngừa dân chúng nổi dậy
chống lại, phong kiến triều Nguyễn đã có một số biện pháp. Minh Mạng ra
lệnh cho Nguyễn Công Trứ chiêu dân tiến hành khai hoang miền ven biển lập
ra hai huyện Tiền Hải (Thái Bình), Kim Sơn (Ninh Bình) trong hai năm 1828 1829; Tự Đức giao cho Nguyễn Tri Phương lo liệu việc mộ dân lập ấp ở Nam
Kì từ năm 1853. Nhiều dân bị tù tội đã được đưa vào đây khai khẩn. Nhưng tất
cả các biện pháp trên đều không mang lại kết quả đáng kể vì đều xuất phát từ
lợi ích của giai cấp thống trị. Người nông dân sau một thời gian đổ mồ hôi sôi

nước mắt lại thấy ruộng đất do tay mình làm ra bị bọn phong kiến cướp đoạt.
Vì vậy, nạn nông dân lưu tán, nhất là đến đời Tự Đức khi tư bản Pháp sắp nổ
súng khởi hấn, lại càng trở nên phổ biến khắp cả nước và ngày càng trầm trọng
hơn lên. Đó là một trong những nét tiêu biểu của thời kì khủng hoảng suy vong
của chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn.
Trong khi nông nghiệp đang lâm vào tình trạng tiêu điều xơ xác như vậy
thì công nghiệp nằm trong tay bọn phong kiến triều Nguyễn cũng ngày một bế
tắc. Chính sách của triều Nguyễn về mặt công nghiệp vô cùng phản động. Phong
kiến nhà Nguyễn nắm trong tay những ngành kinh doanh lớn. Các công xưởng
lớn đúc súng, đóng tàu, đúc tiền; các xưởng nhỏ chuyên chế tạo đồ dùng riêng
cho nhà vua, vàng bạc, gấm vóc; các công trường xây dựng cung điện, thành
quách, lăng tẩm đều do bộ Công của triều đình quản lí. Chế độ làm việc trong
các công xưởng này là chế độ "công tượng" mang nặng tính chất cưỡng bức lao
động. Những người thợ giỏi ở các địa phương bị bắt về đây được biên chế thành
đội ngũ, làm việc tập trung với một số lương rất thấp, lại chịu sự kiểm soát
nghiêm ngặt của quan lại nên rất bất mãn, không phấn khởi với công việc.
13


Triều đình phong kiến còn giữ độc quyền ngành khai mỏ . Số mỏ được
khai thác từ 1802 đến 1858 là 139 mỏ, bao gồm đủ các loại. Nhưng phần lớn các
mỏ đều do bọn quan lại triều đình đứng ra khai thác, chỉ một số ít là do chủ mỏ
Hoa kiều hay Việt Nam chủ trì. Phương thức sản xuất trong cả ba loại mỏ căn
bản vẫn là lối sản xuất thủ công cá thể với những hình thức bóc lột phong kiến
mang nặng tính chất nô dịch. Năng suất trong các công trường mỏ vì vậy thường
thấp. Đã thế, triều Nguyễn còn đánh thuế sản vật rất nặng vào các mỏ do Hoa
kiều hay người Việt đứng ra khai thác. Nhiều phép tắc vô lí làm hạn chế sự phát
triển của ngành khai mỏ, như quy định những khu vực cấm khai mỏ, giữ độc
quyền thu mua các kim loại khai thác được theo giá quy định.
Các nghề thủ công trong nhân dân không có điều kiện phát triển. Tại các

công xưởng thủ công, mặc dù không có một chế độ phường hội chặt chẽ theo
kiểu các nước phong kiến châu Âu, nhưng các mối quan hệ phức tạp giữa chủ và
thợ, giữa thợ cả và thợ bạn, giữa các làng chuyên nghiệp với nhau và rất nhiều
luật lệ cấm đoán của triều đình đã làm cho sáng kiến, tài năng của người thợ
ngày càng bị bóp nghẹt. Các nghề thủ công nhỏ và nghề phụ gia đình ở nông
thôn còn bị đình đốn vì nông dân đói khổ, li tán. Thủ công nghiệp hầu như bị tê
liệt. Sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp khiến ta phải suy ngẫm. Sách “Lịch
sử Việt Nam đại cương” cuốn I nhận định: Mặc dù thủ công nghiệp nói chung
phát triển nhưng phương thức sản xuất hầu như không phát triển…”. Trong khi
vào thế kỉ XVIII, thủ công nghiệp phát triển bởi nông nghiệp đảm bảo nhu cầu
các mặt hàng tăng lên, thì hiện tượng nông nghiệp đi xuống kèm theo sự phát
triển tiểu thủ công nghiệp thật đáng ngờ. Theo các nhà sử học, nỗ lực tìm giải
pháp ngoài nông nghiệp tuy có thể đã xuất hiện trong nhân dân nhưng nó không
được tạo cơ hội phát huy. Thực tế đơn giản rằng: nhà nước chắc chắn không để
tình trạng nông nghiệp sa sút còn những ngành kinh tế khác phát triển- quyết
định như thế liều lĩnh và đầy nguy cơ. Nhà nước đã nắm ngoại thương, còn
trong nước không có nhu cầu, tiểu thủ công nghiệp tuy đã nhích lên trong giai
đoạn nào đó hẳn tiếp tục yếu kém lập tức sau đó: sự tồn tại đảm bảo tính lâu bền
khi và chỉ khi cơ sở của nó vững chắc- cơ sở thị trường không yêu cầu chắc chắn
không có lí do thúc đây tiểu thủ công nghiệp.
14


Thương nghiệp dưới triều Nguyễn sút kém một cách rõ rệt. Chính sách
"trọng nông ức thương" của triều đình đã kìm hãm thương nghiệp. Về nội
thương, một mặt chúng nắm độc quyền buôn bán nguyên liệu công nghiệp (như
đồng, thiếc, chì, kẽm, nhất là lưu hoàng, diêm tiêu), vì sợ nhân dân chế vũ khí
chống lại. Mặt khác, chúng đặt ra nhiều luật lệ chặt chẽ để kiềm chế, như nắm
độc quyền buôn bán cả đối với một số lâm sản quý giá cướp đoạt của đồng bào
miền núi (quế, gạc hươu, sáp ong, ngà voi, gỗ quý); đánh thuế nặng vào các mặt

hàng quan trọng đến đời sống nhân dân như lúa gạo để hạn chế việc chuyên chở
trao đổi giữa các vùng trong nước; cấm nhân dân họp chợ. Việc giao lưu giữa
các địa phương vì vậy gặp rất nhiều trở ngại, thị trường trong nước không tập
trung và thống nhất. Tóm lại với cơ sở hàng hóa nghèo nàn, không thể trông chờ
ở thương nghiệp bất kì một lối thoát nào cho nền kinh tế. Bằng một nỗ lực
gượng gạo, nhà Nguyễn tìm cách kiểm soát phần nào thương nghiệp, nhưng chỉ
còn có thể làm chủ sự buôn bán riêng những ngành sản xuất mà nó độc quyền
hay chủ động khống chế. Trót để người Hoa thao túng buôn bán, triều đình đành
gỡ gạc bằng cách đóng cửa không cho thương nhân ngoại quốc vào buôn bán
(ngoại trừ người Hoa- triều đình nhà Nguyễn dẫu sao cũng tôn sùng nhà
Thanh!). Một phần lí do chính vì muốn làm chủ và khẳng định vị thế của mình
trong kinh tế, mặt khác e ngại kịch bản tái diễn như với người Hoa (khi người ta
yếu, người ta không chỉ ích kỉ mà còn hay sợ sệt). Thương nghiệp, như vậy, từ
chỗ kém phát triển đến chỗ bị kiềm chế, dẫn đến ảnh hưởng không tốt lành
không chỉ đối với nền kinh tế Đại Việt, mà còn cho tương lai của dân tộc.
Ngoại thương cũng bị triều đình nắm độc quyền. Thực hiện chính sách bế
quan tỏa cảng, triều đình chỉ mở nhỏ giọt một số cửa biển cho tàu nước ngoài lui
tới buôn bán. Chỉ được nhập vào những hàng hóa triều đình cần (như sắt, chì,
gang, lưu hoàng để làm súng đạn); còn xuất cảng thì cấm tàu thuyền nước ngoài
không được mua tơ lụa, thóc gạo trong nhân dân. Tàu buôn nước ngoài tới buôn
bán còn bị khám xét rất kĩ để đánh thuế và định giá hàng, lại còn có thể bị trưng
dụng đi phục vụ cho các đợt công tác đột xuất của triều đình (như chở gạo cho
quân lính, hay chuyên chở nguyên vật liệu xây dựng lăng tẩm, cung điện) .
15


Chính sách bế quan tỏa cảng của triều đình đã làm cho việc buôn bán với nước
ngoài sa sút rõ rệt. Thuế cửa quan, trước có 60 sở, đến năm 1851 chỉ còn 21 sở;
một số cảng trước kia buôn bán rất phồn thịnh, nay cũng trở nên tiêu điều vắng
vẻ. Quan hệ thương nghiệp ở Việt Nam trong thế kỉ XIX chủ yếu là quan hệ

giữa Trung Hoa và Đại Việt. Đây không đơn giản là kết quả do chính sách của
nhà Nguyễn. Tình hình này thực ra bị chi phối bởi cơ sở lịch sử trước đó- người
Hoa có vị trí đặc biệt đối với người Việt : họ không khác gì người Việt về bề
ngoài lắm (đặc biệt người Hoa ở vùng Lưỡng Quảng hoặc đã sinh sống ở Việt
Nam lâu đời), lại có kinh nghiệm buôn bán trong cộng đồng người Việt. Nhận
xét cay đắng của Rheinart (khi các cửa cảng đã được mở để người Pháp
vào,1881) rất đúng với tình hình lúc ấy : “Người Hoa có vị trí đặc biệt: trong
nước họ được coi như người An Nam…”[23, 5]
Triều đình Huế cấm xuất khẩu gạo, vàng bạc, tơ lụa..., còn triều đình Mãn
Thanh cấm xuất khẩu sắt, thép, chì lưu huỳnh... Nhưng Trung Quốc cần gạo còn
Việt Nam cần sắt, than, chì... Từ nhu cầu đó, triều đình Huế cho phép một cách
dè dặt những tàu buôn Trung Hoa mang hàng đến và mua hàng. Song, thực tế,
sự cho phép một cách hạn hẹp như thế không đáp ứng được đòi hỏi lớn: tiền đề
này mở đường cho nạn buôn lậu- gần như chính quyển thúc thủ bó tay trước
việc thanh toán nạn buôn lậu. Thuyền buôn Trung Hoa cứ thế đến mua gạo, đưa
gạo ra khỏi xứ sở đang sắp chết đói. Nạn buôn lậu gạo dẫn đến thiếu hụt gạo cần
thiết để lưu thông trong thị trường, làm giá gạo tăng, góp phần tạo nên bất ổn xã
hội.Hậu quả khác của buôn lậu cũng nguy hại không kém : nha phiến từ Hoa
Kiều lan ra xã hội. Những lệnh cấm nha phiến suốt những năm 1817, 1820,
1824, 1832, 1840, cho thấy sự bất lực của chính quyền, đồng thời là minh hoạ rõ
nét cho hiện trạng xã hội-tệ nạn nha phiến không ngừng lan tràn.
Thương nghiệp tự nó đã kém phát triển, sau khi bị kiềm chế, lại càng hợp
sức với nông nghiệp kéo lùi xã hội Việt Nam.
Các nhà sử học và giới nghiên cứu cho rằng nếu nhà Nguyễn chịu mở
cửa cho phương Tây vào buôn bán, thì những mầm mống tư bản đã nảy sinh,
tạo tiền đề cho cải cách về sau. Luận điểm này dĩ nhiên có lí ở chừng mực sự
16


thông thương ấy dựa trên cơ sở một nền thương nghiệp tương đối phát triển với

nền sản xuất đảm bảo. Nếu không, sự mở cửa thông thương sẽ hóa thành mở
cửa cho ngoại quốc thao túng thị trường, nguy cơ đất nước mất chủ quyền càng
tăng hơn lên. Sự yếu kém của nền thương nghiệp Việt Nam được thể hiện rõ
ràng sau khi Pháp buộc Việt Nam phải mở các cảng và cửa khẩu (Hải Phòng,
Quy Nhơn…). Thương nghiệp không tiến triển nhiều, trao đổi buôn bán không
được đẩy mạnh. Tình trạng này xuất phát từ nguyên nhân cơ bản: người Hoa
làm chủ thương nghiệp, mọi sự cạnh tranh về thương nghiệp của thương nhân
các nước khác đều không hiệu quả. Hơn nữa, mặt hàng mà Pháp cần là hồ tiêu
và đường thì lục địa châu Mỹ đã đáp ứng đủ nhu cầu rồi. Riêng về gạo, người
Hoa biết cách liên hệ trực tiếp với người sản xuất để mua gạo, đem bán ở
Hương Cảng - không còn cơ hội cho người Âu Tây chen vào đó.
Vậy là, sau khi mở cửa thông thương, thương nghiệp vẫn ì ạch tại chỗ,
giai tầng mới không có điều kiện nảy sinh: cơ sở xã hội không bị tổn thương và
biến đổi, quan hệ sản xuất mới không xuất hiện, đồng nghĩa rằng nếu cải cách
cũng không thể dựa vào thương nghiệp.
Nhìn một cách tổng thể, thương nghiệp, bởi sự yếu kém của nó, cùng với
sự trì trệ của nông nghiệp, nằm trọn trong tay người Hoa, buộc chính quyền lựa
chọn giải pháp đóng cửa, ngày càng yếu kém và không còn sinh khí để đứng lên
khi có điều kiện thông thương. Thương nghiệp,với tình trạng như thế, rốt cuộc
trở thành nhân tố ngăn cản khả năng cải cách, nó chẳng giúp gì cho duy tân về
mặt cơ sở.
Kinh tế khó khăn lại là nguyên nhân dẫn đến những rối loạn về xã hội.
Dưới triều Nguyễn, tổ chức xã thôn đã hoàn toàn trở thành một công cụ của bọn
cường hào địa chủ nông thôn. Nó trói buộc người nông dân trong những quan hệ
địa phương hẹp hòi có lợi cho sự bóc lột của nhà nước phong kiến và cản trở sự
phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế tư hữu của nông dân bị xâm
phạm nghiêm trọng. Ruộng đất phần nhiều tập trung vào tay bọn quan lại, địa
chủ. Công điền, công thổ chỗ nào mầu mỡ béo tốt đều bị bọn cường hào lũng
đoạn, còn lại thì bọn hương lí lại bao chiếm, dân nghèo chỉ được những chỗ
17



xương xẩu mà thôi. Cho nên, nói chung nông dân không có ruộng cày, đời sống
vô cùng cực khổ. Hiện tượng nông dân không có ruộng đất cày cấy làm ăn phải
bỏ làng đi tha phương cầu thực là nét phổ biến dưới triều Nguyễn. Chỉ từ năm
1802 đến năm 1806, nông dân trên 870 thôn thuộc mấy trấn lớn ngoài Bắc xiêu
tán đi nơi khác. Đến năm 1826, lại đến 108 xã thôn thuộc mười ba huyện của
trấn Hải Dương xiêu tán, cộng thêm vào đó là tô thuế rất nặng nề. Đó là chưa kể
tới tình trạng vỡ đê lụt lội, mất mùa đói kém thường xảy ra, hầu như không năm
nào không có. Đê Văn Giang Ở Hưng Yên vỡ 18 năm liền, biến cả một vùng
đồng bằng phì nhiêu ở Khoái Châu thành bãi đất hoang, nhân dân vùng này phải
từng đoàn lang thang kéo nhau đi các nơi xin ăn. Tại các vùng ở Bắc Ninh, Sơn
Tây lại có nạn châu chấu phá hoại mùa màng. Vì vậy, nạn đói xảy ra thường
xuyên. Ngay trước khi tư bản Pháp sắp nổ súng đánh vào Đà Nẵng (1858), một
trận đói ghê gớm đã xảy ra làm cho hàng chục vạn nhân dân các tỉnh Trung Bắc
Kì bị chết. Đồng thời, cũng do sự bất lực của bọn phong kiến thống trị hồi đó,
nạn dịch đã hoành hành dữ dội, giết hại hàng chục vạn người.
Trước tình hình bi thảm đó, để xoa dịu và ngăn ngừa dân chúng nổi dậy
chống lại, phong kiến triều Nguyễn đã có một số biện pháp. Minh Mạng ra lệnh
cho Nguyễn Công Trứ chiêu dân tiến hành khai hoang miền ven biển lập ra hai
huyện Tiền Hải (Thái Bình), Kim Sơn (Ninh Bình) trong hai năm 1828 - 1829;
Tự Đức giao cho Nguyễn Tri Phương lo liệu việc mộ dân lập ấp ở Nam Kì từ
năm 1853. Nhiều dân bị tù tội đã được đưa vào đây khai khẩn. Nhưng tất cả các
biện pháp trên đều không mang lại kết quả đáng kể vì đều xuất phát từ lợi ích
của giai cấp thống trị. Người nông dân sau một thời gian đổ mồ hôi sôi nước mắt
lại thấy ruộng đất do tay mình làm ra bị bọn phong kiến cướp đoạt. Vì vậy, nạn
nông dân lưu tán, nhất là đến đời Tự Đức khi tư bản Pháp sắp nổ súng khởi hấn,
lại càng trở nên phổ biến khắp cả nước và ngày càng trầm trọng hơn lên.
Triều đình nhà Nguyễn lại sợ dân hơn sợ giặc, coi nhân dân là kẻ thù ảnh
hưởng đến ngai vàng của dòng họ mình. Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nhân

dân khắp 3 miền bắc, trung, nam càng làm cho triều đình Huế trở nên nhạy cảm
đặc biệt với nông dân. Trước sự phản kháng nhân dân, triều đình ra sức đàn áp
18


khủng bố các phong trào của quần chúng, huy động những lực lượng quân sự to
lớn vào việc dập tắt các cuộc khởi nghĩa nông dân trong biển máu. Các cuộc
hành quân liên miên một mặt đã làm cho chính lực lượng quân sự của triều đình
bị suy yếu dần, mặt khác cũng làm hủy hoại khả năng kháng chiến lớn lao của
dân tộc, càng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho tư bản Pháp thôn tính nước ta. Để
biện minh cho thủ đoạn tàn bạo trên, vua Gia Long đã ban hành bộ luật Gia
Long năm 1815. Bộ luật này được soạn ra phỏng theo bộ luật phản động của
phong kiến Mãn Thanh (Trung Quốc), dưới ý niệm trấn áp nhân dân và giữ
vững trật tự phong kiến tuyệt đối. Chính quyền còn lợi dụng cả văn học để tuyên
truyền cho chế độ thống trị đẫm máu của chúng, như Minh Mạng ra 10 điều
Huấn dụ, Tự Đức diễn âm Thập điều diễn ca để truyền bá rộng rãi học thuyết
Nho giáo trên cơ sở đó củng cố ý thức hệ phong kiến đã bị rạn nứt. Đó là một
trong những nét tiêu biểu của thời kì khủng hoảng suy vong của chế độ phong
kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn.
Tuy vậy, khác với quan điểm coi chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã đến
lúc suy tàn, tác giả lại coi đó là chưa phát triển đến độ chín muồi của nó, để đi
đến suy tàn. Bởi vì một chế độ phong kiến khi phát triển đến cực điểm thì trong
lòng nó đã xuất hiện những mầm mống hình thái kinh tế xã hội có khả năng phá
vỡ nó là mầm mống của chủ nghĩa tư bản. Nhưng ở Việt Nam chưa bao giờ có
hình thái kinh tế xã hội phong kiến điển hình như các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác nói về phong kiến ở phương tây mà đó là sự bảo trì lâu dài tàn dư của
phương thức sản xuất châu Á lại làm cho nó tồn tại lâu dài ở mức trì trệ không
phát triển, dưới hình thức một nền chuyên chính phương Đông, không hẳn là
phong kiến, cũng chưa lên được tư bản chủ nghĩa.
Nhìn chung, sau khi giành được chính quyền nhà Nguyễn đã không đưa

đất nước tiến theo dòng mạch cải cách của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, mà lại duy
trì một hình thái kinh tế xã hội phong kiến chưa phát triển đến độ chín muồi, kết
hợp với những tàn dư của Phương thức sản xuất châu Á đã quá lạc hậu so với
thời đại.
Rõ ràng là với những chính sách sai lầm của giới cầm quyền với tầm nhìn
19


×