Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Bài dự thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 17 trang )

1. TÊN TÌNH HUỐNG
"Dù ai đi ngược về xuôi.
Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3"
Khu di tích Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích - xã Hy Cương - huyện Lâm
Thao - tỉnh Phú Thọ, là nơi thờ cúng các vua Hùng đã có công dựng nước, tổ tiên
của dân tộc Việt Nam. Đền Hùng cách trung tâm thành phố Việt Trì 7 km về phía
Bắc, cách thủ đô Hà Nội 90 km. Từ Hà Nội, du khách có thể đến Đền Hùng bằng
đường bộ theo quốc lộ 2 hoặc tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai.
Đền Hùng là di tích lịch sử văn hoá đặc biệt quan trọng của quốc gia, được
xây dựng trên núi Hùng - thuộc đất Phong Châu - vốn là đất kế đô của Nhà nước
Văn Lang 4.000 năm trước đây. Toàn bộ Khu di tích có 4 đền, 1 chùa và 1 lăng
hài hoà trong cảnh thiên nhiên, có địa thế cao rất ngoạn mục, hùng vĩ, đất đầy khí
thiêng của sơn thuỷ hội tụ.
Đền Hùng được xây dựng trên núi Hùng (còn gọi là núi Cả theo tiếng địa
phương hay còn có nhiều tên gọi khác nhau: Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy
Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn,…), có độ cao 175 m so với
mặt nước biển. Tục truyền rằng, núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam ,
mình rồng uốn khúc thành núi Vặn, núi Trọc, núi Pheo,…. Núi Vặn cao 170m,
xấp xỉ núi Hùng. Núi Trọc nằm giữa núi Hùng và núi Vặn, cao 145 m. Ba đỉnh
núi: núi Hùng, núi Vặn, núi Trọc theo truyền thuyết là ba đỉnh “Tam sơn cấm
địa” được dân gian thờ từ rất lâu đời.
Toàn khu di tích Đền Hùng xưa kia là rừng già nhiệt đới, đến nay chỉ còn
núi Hùng là rậm rạp xanh tươi với 150 loài thảo mộc thuộc 35 họ, trong đó còn
sót lại một số cây đại thụ như chò, thông, lụ,…và một vài giống cây cổ sơ như
kim giao, thiên tuế,..Xin được giới thiệu với mọi người những cảnh đẹp chỉ có ở
đền Hùng.
2. MỤC TIÊU GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
- Giúp các bạn học sinh thành hiểu biết sâu rộng hơn về quê hương đất tổ nơi cội nguồn của dân tộc - nơi khí thiêng của sông núi.
- Nhằm nâng cao lòng tự hào dân tộc tình yêu với quê hương đất tổ.



- Khơi gợi ý thức trách nhiệm trong việc xây dựng, giữ gìn và phát huy
những thành quả của cha ông.
3. TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Để giải quyêt vấn đề chúng em đã vận dụng kiến thức các môn học sau:
- Môn Địa lý: Địa hình và khí hậu tỉnh Phú Thọ…
- Môn Lịch sử: Sự kiện Bác Hồ về thăm Đền Hùng, di tích cây đa lịch sử
Thị xã Phú Thọ.
- Môn Ngữ văn: Văn thuyết minh, chương trình địa phương Ngữ văn, các
bài văn thơ đã học…
- Về văn hóa: Di sản văn hóa phi vật thể.
- Sưu tầm tài liệu từ các trang web mạng uy tín.
- Tài liệu về địa phương Phú Thọ.
4.GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Để giải quyết tình huống, em đã vận dụng kiến thức liên môn đã được học
tập trong nhà trường kết hợp với những hiểu biết của bản thân về mảnh đất chôn
rau cắt rốn giới thiệu với các thầy, cô giáo và các bạn học sinh
5.THUYẾT MINH TIẾN TRÌNH GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Kính thưa các thầy, cô giáo và các bạn học sinh!
Phú Thọ là tỉnh có lịch sử xây dựng và phát triển từ lâu đời. Vùng đất Tổ
Vua Hùng có thế " Sơn chầu, thủy tụ”, dồi dào "khí thiêng, sông núi”, đất của
thế dựng nước và giữ nước, đất của các di tích lịch sử, của các danh thắng; đất
của nền văn hóa dân gian đặc sắc. Từ bao đời nay, nhân dân Phú Thọ luôn giữ
gìn và phát huy truyền thống quý báu của cha ông: "Giàu sáng tạo trong lao động
sản xuất, giàu khí phách trong đấu tranh cách mạng, giàu nhân ái, nghĩa tình
trong cuộc sống".
Phú Thọ còn có vị trí chiến lược quan trọng, là cửa ngõ nối liền vùng Tây
Bắc của Tổ quốc với Thủ đô Hà Nội và vùng châu thổ sông Hồng, có các đường
giao thông thủy, bộ hết sức thuận tiện: giao thông đường sắt Hà Nội-Lào CaiCôn Minh; đường quốc lộ 2, đường cao tốc xuyên Á là cầu nối quan trọng trong
giao lưu kinh tế giữa Trung Quốc với Việt Nam và các nước ASEAN.



Địa hình vùng đất Tổ rất đa dạng: núi, đồi, bãi, ruộng đầm hồ sông ngòi.
Theo điểu tra, đồng bằng châu thổ rộng 146000 ha; ruộng mùa có 64700 ha; đầm
hồ 9000 ha và 35000 ha đồng chiêm cho nguồn thủy sản. Ba con sông lớn: Sông
Hồng - Sông Lô -Sông Đà và các sông nhỏ chảy trong địa bàn có chiều dài tổng
cộng 400 ki-lô-mét . Ngoài ra có hàng trăm con ngòi, lạch và đầm hồ. Tất cả tạo
nên 1 vùng đồi núi, non nước bao la " Sơn thủy hữu tình ".
Khí hậu loại nhiệt đới gió mùa, mỗi năm có 1500 giờ nắng, 142 ngày mưa
với cột nước 1500 li -nhiệt độ trung bình 23 độ.


Là vùng đất Tổ, nơi “Thiên thời, địa lợi nhân hòa" nên Phú Thọ đã trở
thành trung tâm của Quốc gia Văn Lang thời các vua Hùng dựng nước - Nhà
nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Nơi đây còn là địa bàn lưu giữ nhiều phong
tục tập quán và lễ hội văn hóa truyền thống với những sắc thái đa dạng, phong
phú và mang đậm dấu ấn vùng đất Tổ.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cùng với sự phát triển của đất nước, các thế
hệ người dân Phú Thọ kế tiếp nhau phát huy truyền thống cần cù, sáng tạo trong
lao động; đoàn kết, dũng cảm, kiên cường trong đấu tranh chống thiên tai và giặc
ngoại xâm; tình nghĩa thủy chung trong cuộc sống. Truyền thống ấy càng được
nhân lên gấp bội lần mỗi khi quê hương, đất nước bị kẻ thù ngoại bang xâm lược.
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, phong
trào đấu tranh chống thực dân, phong kiến của nhân dân Phú Thọ đã phát triển
mạnh mẽ. Tháng 3 năm 1940, đảng bộ Phú Thọ được thành lập trở thành lực
lượng lãnh đạo, tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.


Ngày Quốc tế lao động 01/05/1940 Lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện tại
cây đa lịch sử của Thị xã Phú Thọ

Sau ngày Cách mạng Tháng tám năm 1945 thành công, chính quyền dân
chủ nhân dân vừa mới thành lập đã phải đương đầu với nhiều khó khăn thử
thách, Đảng bộ Phú Thọ vẫn vững vàng tập trung lãnh đạo nhân dân tỉnh giữ
vững thành quả cách mạng, ra sức tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh tăng gia sản
xuất.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Đảng bộ và nhân
dân Phú Thọ đã vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và làm việc tại
tỉnh nhà. Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, trên đường người từ Hà Nội
đến Việt Bắc cùng trung ương Đảng và chính phủ lãnh đạo toàn dân kháng chiến


người đã dừng chân và làm việc tại 3 địa điểm: Xã Cổ Tiết (Tam Nông), Xã Chu
Hóa (Lâm Thao), Xã Yên Kiện (Đoan Hùng). Sau khi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, chủ tịch
Hồ Chí Minh đã về Đền Hùng viếng mộ tổ và gặp gỡ cán bộ chiến sỹ Đại đoàn
quân tiên phong. Ngày 19 tháng 9 năm 1954 tại Đền Giếng Bác nói chuyện với
Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản thủ đô. Người căn dặn: "Các
vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước" .

Hơn nửa thế kỉ qua, thực hiện lời dạy của Bác, Đảng bộ và nhân dân Phú
Thọ đã nỗ lực, gia sức thi đua phát triển kinh tế, xã hội. Dần dần đưa tỉnh nhà đi
vào phát triển ổn định. Các khu công nghiệp, khu đô thị trên địa bàn tỉnh ngày
càng sầm uất. Thành phố Việt Trì - đô thị loại II, đang từng bước trở thành trung
tâm kinh tế chính trị xã hội của tỉnh và của vùng Tây Bắc Tổ quốc trong tương
lai.


Thành phố Việt Trì (đô thị loại II)
Khác với các tỉnh bạn về thăm Phú Thọ các thầy cô và các bạn sẽ đươc trở
về với vùng đất Tổ - nơi cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Đó chính là khu du

lịch văn hóa lịch sử Đền Hùng. Đền Hùng - gồm cả một quần thể di tích - nằm
từ chân núi đến đỉnh ngọn núi Nghĩa Lĩnh cao 175 mét thuộc địa phận xã Hy
Cương, thành phố Việt Trì (đó chính là kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn
Lang cổ xưa). Đến thăm đền Hùng vào ngày 10/3 âm lịch (tức ngày quốc giỗ)
du khách sẽ được tận mắt chứng kiến nhiều phong tục tập quán đẹp của dân tộc
Việt Nam: lễ rước kiệu, lễ dâng hương ….


Ảnh: Lễ rước kiệu, lễ. dâng hương Đền Hùng
Đoàn rước kiệu với màu sắc rực rỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu. Trang
phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền
Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đứng từ xa mà ngóng vọng lên, lễ rước kiệu
như một con rồng dũng mãnh uốn lượn quanh ngọn núi Nghĩa Lĩnh ẩn hiện sau
những lớp cây ngàn năm tuổi như từng bước lạc vào cõi bồng lai tiên cảnh. Đến
đền Hùng ngày hội mọi người trong tay ai ai cũng cầm vài nén nhang làm lễ
dâng hương để rồi qua làn khói thơm sẽ nói hộ họ những điều tâm niệm của mình
với tổ tiên. Chính vì nét đẹp truyền thống đó, vào lúc 12 giờ 09 phút (giờ Paris)
tức 18 giờ 9 phút ngày 6/12/2012 (giờ Hà Nội) UNESCO đã chính thức công
nhận tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương của người Việt là di sản văn hoá phi vật
thể của nhân loại. Đây là tin vui, vinh dự lớn đối với nhân dân Việt Nam nói
chung và nhân dân tỉnh Phú Thọ nói riêng.
Về Kim Đức của thành phố Việt Trì du khách sẽ được chứng kiến làn điệu
hát xoan mượt mà sâu lắng trong dân gian. Làn điệu hát xoan được truyền từ đời
này sang đời khác. Ông bà truyền cho bố mẹ - bố mẹ truyền cho con, cho cháu…
Nét văn hoá đẹp đã được lưu giữ từ bao đời nay. Cũng vì vậy vào lúc 11 giờ 30
phút giờ Việt Nam ngày 24/11/2011 hát xoan Phú Thọ được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới.


Ảnh: Hát xoan – Xã Kim Đức – Việt Trì (trong lễ hội Đền Hùng)

Từ Việt Trì du khách theo quốc lộ 2 ngược lên Đoan Hùng – ghé thăm các
vườn bưởi đặc sản Chí Đám - bưởi mới chạm môi mà vị ngọt đã lan toả khắp cơ
thể - Vị ngọt bưởi Đoan Hùng ai đã từng ăn khó có thể quên được. Ngày nay
bưởi Đoan Hùng đã trở thành thương hiệu nổi tiếng trong nước.


Ảnh: Bưởi Đoan Hùng
Về huyện Thanh Thuỷ du khách sẽ được chứng kiến một tiềm năng mà
thiên nhiên ban tặng cho Phú Thọ - suối nước nóng. Đó là những tầng nước nóng
ngầm gần mặt đất quanh năm nước nóng. Được tắm trong dòng nước nóng thiên
tạo du khách sẽ thấy sảng khoái hơn, thanh thản hơn sau những ngày làm việc
vất vả.

Ảnh: Suối nước nóng – Thanh Thủy


"Phú Thọ quê mình đẹp như gấm hoa" câu hát đó cứ ngân nga trong lòng
mỗi người dân Phú Thọ khi nghĩ về quê hương. Câu hát sẽ theo chân du khách
khi đến với từng miền đất đẹp, đất thơ của Phú Thọ.
Dãy núi Hùng Lĩnh trùng điệp, vườn quốc gia Xuân Sơn Đầm Ao Châu,
rồi vùng đất trung du với “ Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt.”

Đồi chè vùng trung du

“Không có nơi nào đẹp như Sông Thao quê tôi ,rừng cọ trập trùng”


Khu du lịch sinh thái : Vườn quốc gia Xuân Sơn



Đầm Ao Châu – vịnh Hạ Long - của Phú Thọ
Các điểm cần biết ở đền Hùng:
Cổng đền
Được xây dựng vào năm Khải Định thứ 2 (1917). Cổng xây kiểu vòm cuốn cao
8,5m, hai tầng 8 mái, lợp giả ngói ống. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu
cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, 4 góc tầng mái trang trí Rồng, đắp
nổi hai con Nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sỹ, một người
cầm giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hổ phù. Giữa
tầng một có đề bức đại tự: “Cao sơn cảnh hành” (lên núi cao nhìn xa rộng). Còn
có người dịch là “Cao sơn cảnh hạnh” (Đức lớn như núi cao). Mặt sau cổng đắp
hai con hổ là hiện thân vật canh giữ thần.
Đền Hạ
Tương truyền nơi đây, Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người
con trai, nguồn gốc “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây. Dấu tích
giếng “Mắt Rồng” là nơi mẹ Âu Cơ ấp trứng nay vẫn còn ở phía sau đền.
Đền Hạ được xây dựng lại trên nền đất cũ vào thế kỷ XVII - XVIII. Kiến trúc
kiểu chữ “nhị” gồm hai toà tiền bái và hậu cung, mỗi toà ba gian, cách nhau
1,5m. Kiến trúc đơn sơ kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài
hơn mái trước. Đốc xây liền tường với đốc Hậu cung, hai bên đắp phù điêu, một


bên voi, một bên ngựa. Bờ nóc phẳng, không trang trí mỹ thuật. Mái lợp ngói
mũi, địa phương gọi là ngói mũi lợn.
Ngay chân Đền Hạ là Nhà bia với kiến trúc hình lục giác, có 6 mái. Trên đỉnh có
đắp hình nậm rượu, 6 mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi
măng, có 6 cột bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà bia trước
đây đặt tấm bia ghi lại việc tu sửa đường lên núi Hùng, hiện nay đặt bia đá, nội
dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày
19/9/1945:
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước

Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Gần Đền Hạ có một ngôi chùa, xưa có tên là Sơn cảnh thừa long tự, sau đổi là
Thiên quang thiền tự. Chùa được xây theo kiểu nội công ngoại quốc, gồm các
nhà: tiền đường (5 gian), thiêu hương (2 gian), tam bảo (3 gian) ở phía trước, dãy
hành lang, nhà Tổ ở phía sau. Các toà được làm theo kiểu cột trụ, quá giang gối
đầu vào cột xây, kèo suốt. Mái chùa được lập ngói mũi, đầu đao cong. Bờ nóc
tiền đường đắp lưỡng long chầu nguyệt. Chùa thờ Phật theo phái Đại thừa.
Trước cửa chùa có cây thiên tuế là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với
cán bộ và chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản thủ đô Hà
Nội. Trước sân chùa có 2 tháp sư hình trụ 4 tầng. Trên nóc đắp hình hoa sen.
Lòng tháp xây rỗng, cửa vòm nhỏ. Trong tháp có bát nhang và tấm bia đá khắc
tên các vị hoà thượng đã tu hành và viên tịch tại chùa.
Chùa còn có một gác chuông được xây dựng vào thế kỷ XVII, gồm 3 gian, 2 tầng
mái, 4 vì kèo cột kiểu chồng giường kết hợp với bẩy lẻ. Các bẩy lẻ hầu như để
trơn không chạm trổ gì. Trên gác chuông có treo quả chuông, không ghi niên đại
đúc chuông mà chỉ ghi: “Đại Việt quốc, Sơn Tây dạo Lâm Thao phủ, Sơn Vi
huyện, Hy Cương xã, Cổ Tích thôn cư phụng”. Qua đó có thể đoán quả chuông
được đúc thời Hậu Lê.
Đền Trung (Hùng Vương Tổ miếu)


Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm
cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi
cho Lang Liêu - người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh dày.
Đền được xây theo kiểu hình chữ nhất, có 3 gian quay về hướng nam, dài 7,2m,
rộng 3,7m. Mái hiên cao 1,8m, không có cột kèo, cầu quá giang gối vào tường,
bít đốc tường hậu, phía trước mở 3 cửa.
Đền Thượng và Lăng Hùng Vương
Đền Thượng được đặt trên đỉnh núi Hùng. Tương truyền rằng thời Hùng Vương,
Vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để tiến hành nghi lễ tín ngưỡng của

cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa
màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh. Tục truyền đây còn là nơi vua Hùng thứ 6
lập đàn cầu trời ban cho người tài ra giúp nước đánh giặc Ân. Sau khi Thánh
Gióng đánh tan giặc và bay về trời, vua Hùng cho lập đền thờ vọng trên đỉnh núi,
về sau, nhân dân đặt thêm bài vị vua Hùng vào thờ cúng. Đền Thượng có tên chữ
là “Kính thiên lĩnh điện” (Điện cầu trời) còn có tên là “Cửu trùng tiên điện”
(Điện giữa chín tầng mây). Trong Đền Thượng có bức đại tự đề “Nam Việt triệu
tổ” (Tổ khai sáng nước Việt Nam). Đền được làm kiểu chữ Vương, kiến trúc đơn
giản, kèo cầu, không có chạm trổ, được xây dựng qua bốn cấp khác nhau gồm:
nhà chuông trống (cấp I), đại bái (cấp II), tiền tế (cấp III) và hậu cung (cấp IV).
Bên phía tay trái Đền có một cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi
được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước mà
Hùng Vương trao lại và đời đời hương khói trông nom miếu vũ họ Vương. Cột
đá cao 1,3m, rộng 0,3m, hình vuông. Đến năm 1968, Ty Văn hoá Vĩnh Phú tôn
tạo lên bệ như hiện nay.
Lăng Hùng Vương tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ nằm ở phía
đông Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng
Đông Nam. Xưa là mộ đất, thời Tự Đức năm thứ 27 (1870) cho xây mộ dựng
lăng. Thời Khải Định tháng 7 (1922) trùng tu lại. Lăng hình vuông, cột liền
tường, có đao cong 8 góc, tạo thành 2 tầng mái. Tầng dưới 4 góc đắp 4 con rồng
tư thế bò, tầng trên đắp rồng uốn ngược, đỉnh lăng đắp hình “quả ngọc” theo tích


“cửu long tranh châu”. Mái đắpngói ống, cổ diêm, 3 phía đều đắp mặt hổ phù. Ba
mặt Tây, Đông, Nam đều có cửa vòm, 2 bên cửa đều đắp kỳ lân, xung quanh có
tường bao quanh, trang trí hoa, chất liệu bằng đá. Trong lăng có mộ Vua Hùng.
Mộ xây hình hộp chữnhật dài 1,3m, rộng 1,8m, cao 1,0m. Mộ có mái mui luyện.
Phía trong lăng có bia đá ghi: Biểu chính (lăng chính). Phía trên ba mặt lăng đều
có đề: Hùng Vương lăng (Lăng Hùng Vương).
Đền Giếng (tên chữ là Ngọc Tỉnh)

Tương truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa (con gái của Vua
Hùng thứ 18) thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này.
Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên được nhân dân lập đền thờ
phụng muôn đời. Đền được xây dựng vào thế kỷ XVIII, theo hướng Đông Nam,
kiến trúc kiểu chữ công, gồm nhà tiền bái (3 gian), hậu cung (3 gian), 1 chuôi vồ
và 2 nhà oản (4 gian), có phương đình nối tiền bái với hậu cung.
Cổng Đền Giếng được xây vào thế kỷ XVIII, kiểu dáng gần giống cổng chính
nhưng nhỏ và thấp hơn. Cổng xây theo kiểu kiến trúc 2 tầng 8 mái. Tầng dưới,
giữa có một cửa xây kiểu vòm, hai bên có hai cột trụ trên lắp nghê chầu. Tầng
trên giữa cổng có bức đại tự đề: “Trung sơn tiểu thất” (ngôi miếu nhỏ trong núi).
Hai bên có đề câu đối và tượng hai võ sỹ. Mặt sau cổng đắp hổ, mỗi con một
bên.
Đền Tổ mẫu Âu Cơ
Được bắt đầu xây dựng vào năm 2001 và khánh thành tháng 12/2004. Đền được
xây dựng trên núi ốc Sơn (núi Vặn) theo kiến trúc truyền thống với cột, xà,
hoành, dui bằng gỗ lim, mái được lợp bằng ngói mũi hài, tường bằng gạch bát.
Đền chính có diện tích 137m2, làm theo kiểu chữ Đinh. Bên cạnh đền chính có
nhà Tả vũ, nhà Hữu vũ, nhà Bia, Trụ biểu, Tứ trụ, cổng Tam quan, nhà tiếp
khách và hoa viên.
Trong đền có tượng thờ Mẹ Âu Cơ và hai Lạc hầu, Lạc tướng. Đường đi lên đền
được xây bằng 553 bậc đá Hải Lựu.
Bảo tàng Hùng Vương


Bảo tàng Hùng Vương được khởi công xây dựng vào năm 1996 và được khánh
thành đúng ngày khai hội Đền Hùng năm Quý Mùi (2003) do Tổng Bí thư Đỗ
Mười cắt băng khánh thành. Với gần 700 hiện vật gốc trên tổng số hơn 4.000
hiện vật có trong Bảo tàng, 162 bức ảnh, 4 bức tranh gốm, 5 bức tranh sơn mài, 9
bức gò đồng, 5 hộp hình, một nhóm tượng lớn và nhiều hiện vật khác được trưng
bày đã khắc hoạ chủ đề tổng quát: “Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên

mảnh đất Phong Châu lịch sử”.
Phần trưng bày của Bảo tàng Hùng Vương được tập trung vào 3 chủ đề chính:
- Giới thiệu giai đoạn văn hoá Hùng Vương bằng các hiện vật liên quan đến thời
đại Hùng Vương tìm được trên đất Phú Thọ và Vĩnh Phúc.
- Giới thiệu việc hình thành khu di tích Đền Hùng và ý thức xây dựng khu di tích
Đền Hùng của nhân dân cả nước.
- Tình cảm của nhân dân, sự quan tâm của người đứng đầu Nhà nước phong kiến
trước đây, của Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo Đảng ngày nay đối với Đền
Hùng.
Đền Hùng vừa là thắng cảnh đẹp, vừa là một di tích lịch sử - văn hóa đặc biệt
quan trọng đối với người Việt Nam. Về với Đền Hùng là về với cội nguồn dân
tộc, để tự hào về dòng giống tiên rồng đang chảy trong huyết mạch của mỗi
người dân Việt Nam!
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã chú ý lắng nghe!
6. Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Bài giới thiệu của em đã giúp các bạn học sinh thêm hiểu biết sâu sắc, yêu
mến tự hào về quê hương Phú Thọ, ý thức rõ hơn về vai trò, trách nhiệm của
mình trong việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa và tiềm năng
sẵn có của quê hương từ đó tạo sự gắn kết giữa 2 vùng đất giàu truyền thống văn
hóa. Bài giới thiệu giúp em tự tin, vững vàng hơn với những kiến thức được học
về các bộ môn Địa lí, Lịch sử, Ngữ văn...nhận thức đầy đủ hơn về ý nghĩa việc
“học đi đôi với hành”.



×