Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Biểu tượng nghệ thuật trong truyện ngắn nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.37 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
--------------

ĐỖ THỊ TỐT

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TIÊU BIỂU TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Người hướng dẫn khoa học

ThS, GV. HOÀNG THỊ DUYÊN

Hà Nội – 2013


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô khoa Ngữ văn, trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2 đã đào tạo tôi trong suốt 4 năm học. Đặc biệt, tôi xin gửi
lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới ThS, GV. Hoàng Thị Duyên, người đã
nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ trong suốt quá trình tôi làm khóa luận.
Qua đây, tôi cũng gửi lời cảm ơn tới các cán bộ Thư viện trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp tôi trong quá trình thu thập tư liệu. Tôi cũng
xin cảm ơn sự quan tâm của gia đình và bạn bè đã giúp đỡ tôi hoàn thành


khóa luận này.
Do hạn chế về thời gian và khả năng của bản thân, khóa luận không
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
thầy cô và các bạn để khóa luận hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2013
Tác giả khóa luận

Đỗ Thị Tốt

Đỗ Thị Tốt

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận Biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới
sự hướng dẫn của ThS, GV. Hoàng Thị Duyên, những kết quả nghiên cứu của
khóa luận này chưa từng được công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu
nào, đó là những kết quả đúng, nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2013
Tác giả khóa luận

Đỗ Thị Tốt


Đỗ Thị Tốt

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 6
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 7
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ 10
4. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 10
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 11
6. Đóng góp của khóa luận ....................................................................... 11
7. Cấu trúc của khóa luận ........................................................................ 11
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỂU TƯỢNG VÀ BIỂU
TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC
1.1. Biểu tượng dưới nhiều góc nhìn.......................................................... 12
1.2. Biểu tượng trong văn học .................................................................... 15
1.2.1. Quan niệm về biểu tượng trong văn học ....................................... 15
1.2.2. Đặc điểm, tính chất của biểu tượng ............................................... 17
1.2.3. Ý nghĩa của biểu tượng văn học .................................................... 21
CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC NĂM 1975
2.1. Biểu tượng dòng suối trong Nguồn suối ............................................ 25

2.1.1. Dòng suối – dòng chảy bền bỉ, mạnh mẽ của cách mạng................ 25
2.1.2. Dòng suối – tấm lòng trong trẻo của con người .............................. 27
2.2. Biểu tượng Nhành mai ....................................................................... 28
2.2.1. Nhành mai – cái đẹp, tình yêu bừng nở ........................................... 28
2.2.2. Nhành mai – nhân chứng bất diệt trong chiến tranh ..................... 30
2.3. Biểu tượng Mảnh trăng trong Mảnh trăng cuối rừng ....................... 31
2.3.1. Mảnh trăng – vẻ đẹp khuất lấp khiêm nhường mà hiện hữu ......... 31

Đỗ Thị Tốt

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

2.3.2. Mảnh trăng – sự gợi cảm đầy chất thơ ............................................ 34
2.3.3. Mảnh trăng – vẻ đẹp lung linh trong tâm hồn con người thời
chống Mỹ ................................................................................................... 35
2.4. Biểu tượng cái giếng trong Bên đường chiến tranh ........................... 37
2.4.1. Cái giếng – không gian linh thiêng trong cuộc sống con người ..... 37
2.4.2. Cái giếng – chứng nhân lịch sử ........................................................ 39
2.4.3. Cái giếng – chứng nhân của tình yêu trong sáng, thủy chung ....... 40
CHƯƠNG 3: NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU NĂM 1975
3.1. Biểu tượng Cơn giông ......................................................................... 44
3.1.1. Cơn giông – điềm báo sự bất thường trong cuộc sống.................... 44
3.1.2. Cơn giông – thay đổi mạnh mẽ của số phận con người .................. 45
3.2. Biểu tượng Chiếc thuyền ngoài xa ...................................................... 46

3.2.1. Con thuyền – cuộc đời lênh đênh ..................................................... 47
3.2.2. Chiếc thuyền ngoài xa và nhãn quan nghệ thuật ............................ 48
3.3. Biểu tượng Bến quê ............................................................................ 51
3.3.1. Bến quê – nơi bình yên, bến đỗ tâm hồn ......................................... 51
3.3.2. Bến quê – nơi gột rửa tâm hồn con người ...................................... 53
3.4. Biểu tượng Cỏ lau ................................................................................ 55
3.4.1. Cỏ lau – sức sống mãnh liệt .............................................................. 55
3.4.2. Cỏ lau – sự bội bạc, lãng quên ........................................................ 57
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Đỗ Thị Tốt

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong văn hóa, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi thời đại đều tìm
đến những biểu tượng để khẳng định hình ảnh, nét riêng và thông điệp muốn
gửi gắm của mình. Đã từ lâu, nhân loại biết đến hoa anh đào là biểu tượng của
đất nước Nhật Bản, cây thánh giá là biểu tượng của Thiên chúa giáo, hoa sen
là biểu tượng của đạo Phật. Và trong sáng tạo văn học, biểu tượng là hình
thức tư duy nghệ thuật của nhà văn. Tài năng của người nghệ sĩ thể hiện khá
rõ trong việc sáng tạo những hình ảnh biểu tượng. Nghiên cứu, khám phá

những biểu tượng nghệ thuật được nhà văn thể hiện sẽ giúp chúng ta có cái
nhìn sâu sắc hơn về bản chất của hoạt động sáng tạo nghệ thuật.
1.2. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn suốt đời khao khát, khám phá
cái đẹp và sự phức tạp chứa đựng trong tâm hồn con người và cuộc sống. Với
sự cống hiến hết mình cho nghệ thuật, ông được đánh giá là tiền trạm đổi mới
cho văn học Việt Nam hiện đại. Trước năm 1975, các sáng tác của ông chủ
yếu theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cách mạng, ông mê mải
tìm kiếm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người. Sau năm 1975, bắt nhịp
với công cuộc đổi mới và cuộc sống thời bình đầy những vấn đề phức tạp, các
sáng tác của ông - đặc biệt là truyện ngắn - chủ yếu đề cập đến những vấn đề
thế sự mang chiều sâu nhân bản.
Có chiều sâu về nội dung phản ánh, hấp dẫn bởi bút pháp thể hiện độc
đáo, các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thu hút sự quan tâm của đông đảo
giới nghiên cứu và phê bình văn học. Tuy nhiên, với số lượng sáng tác rất đồ
sộ của ông, chúng tôi nhận thấy nhiều vấn đề trong các sáng tác ấy vẫn còn có
thể là những gợi ý để chúng ta nghiên cứu và tìm tòi một cách chuyên sâu. Và
đến nay, qua khảo sát, chúng tôi chưa thấy một công trình nào nghiên cứu

Đỗ Thị Tốt

6

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

chuyên sâu về biểu tượng nghệ thuật trong các sáng tác của ông. Công trình

này xin được nghiên cứu một cách có hệ thống về Biểu tượng nghệ thuật tiêu
biểu trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
Với sự trân trọng tài năng nghệ thuật của ông và nhận thấy tính chất
mới mẻ hấp dẫn của đề tài, sự cần thiết trong việc tiếp cận tác phẩm văn học
từ góc độ biểu tượng, chúng tôi muốn vận dụng lý luận về biểu tượng và biểu
tượng nghệ thuật vào khám phá những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong
một số truyện ngắn đặc sắc của ông, để từ đó góp thêm cái nhìn về tài năng
sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Đồng thời, chúng tôi cũng hi
vọng vấn đề này sẽ góp phần thiết thực vào việc dạy và học các sáng tác của
ông trong trường phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
Ba mươi năm miệt mài đóng góp cho nền văn học dân tộc, Nguyễn
Minh Châu đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác đồ sộ với những tác
phẩm có nội dung nhân văn cao cả và độc đáo về bút pháp. Dường như cả
cuộc đời người nghệ sĩ cách mạng này là cuộc kiếm tìm mê mải với hiện thực
cuộc sống và tâm hồn con người. Ông vừa là cây bút văn xuôi có những đóng
góp xuất sắc cho văn học thời kì kháng chiến chống Mỹ lại vừa là một trong
những người “mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc
đổi mới văn học Việt Nam từ sau năm 1975. Từ phong cách sáng tác mang
đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn cách mạng sang cảm hứng thế sự, đời
tư với những đề tài độc đáo và và giàu tính triết lý, Nguyễn Minh Châu là một
trong số nhà văn mà sự nghiệp sáng tác phản ánh tương đối trung thành quá
trình vận động phát triển của văn xuôi Việt Nam đương đại. Các tác phẩm của
ông được lựa chọn giảng dạy trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở,
Trung học phổ thông và Đại học.

Đỗ Thị Tốt

7


Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

Ông cũng là một tác giả được giới nghiên cứu hết sức chú ý, cũng như
mọi nhà văn lớn, lịch sử sáng tác của Nguyễn Minh Châu còn ngắn hơn nhiều
lịch sử quá trình nghiên cứu về ông. Nhà văn Nguyên Ngọc đã từng dự đoán
và mong mỏi: “Nhất định rồi sẽ cần có cả một khoa nghiên cứu về nhà văn
hết sức đặc sắc này của một giai đoạn đặc sắc như giai đoạn mấy mươi năm
nay của văn học ta” [10; 10]. Và đúng như Nguyên Ngọc dự đoán, trong
khoảng mấy thập kỉ gần đây, Nguyễn Minh Châu cùng những sáng tác của
ông được sự quan tâm rất nhiều của giới phê bình và nghiên cứu văn học.
Trong lĩnh vực nghiên cứu các sáng tác của Nguyễn Minh Châu, chúng tôi
có thể kể đến các công trình nghiên cứu có tầm vóc như công trình nghiên
cứu của Trần Đình Sử. Trong bài viết Bến quê một phong cách trần thuật
giàu tính triết lí, ông cho rằng bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh rồi tập Người
đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và nay là tập Bến quê, truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu xuất hiện như một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần
thuật mới. Bài viết này đã chú ý khẳng định sự độc đáo trong phong cách của
Nguyễn Minh Châu nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ sơ lược chủ yếu đi sâu
khám phá phong cách nhà văn từ điểm nhìn trần thuật.
Bên cạnh đó, Những đổi mới về thi pháp trong sáng tác của Nguyễn
Minh Châu sau năm 1975 của tác giả Nguyễn Tri Nguyên cũng là một trong
những công trình đáng chú ý. Tác giả khẳng định: “Trong sáng tác Nguyễn
Minh Châu, đặc biệt là trong tryện ngắn, thường xuất hiện những ẩn dụ, biểu
tượng đa nghĩa, dường như thủ pháp này ổn định trong phong cách truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu trước và sau năm 1975. Nó tạo nên lời ngầm trong

truyện của ông” [4; 220].
Đặc biệt, công trình nghiên cứu của Tôn Phương Lan với nhan đề
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu. Đây như một hệ thống nghệ thuật
riêng biệt, “cuốn sách như một sự khẳng định có sức nặng về tài năng và tấm

Đỗ Thị Tốt

8

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

lòng của nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, là người góp
phần quan trọng chuẩn bị kết thúc nền văn học hiện đại Việt Nam thế kỉ XX
đầy sôi động và thành tựu” (Phong Lê). Khi nhắc đến thể loại truyện ngắn –
sở trường và điểm mạnh của ông – Tôn Phương Lan nhận xét: “Nguyễn Minh
Châu đã kết hợp nhuần nhuyễn sức khái quát với phong cách trữ tình không
thể nhầm lẫn, nên những vấn đề đời thường qua cảm quan văn học của ông
vừa đầy ắp chất thơ và vẫn giữ được tính sâu sắc của một trí tuệ mẫn cán”. Và
Tôn Phương Lan cũng đã đưa ra một tổng kết hết sức quan trọng về phong
cách Nguyễn Minh Châu: “Trên lộ trình mấy chục năm của mình, Nguyễn
Minh Châu đã không ngừng suy ngẫm kiếm tìm và thể nghiệm. Sự mở rộng
bản sắc của chính mình đã đem lại kết quả mà không nhiều nhà văn đạt tới:
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu” [8; 193]. Như vậy, Tôn Phương
Lan đã đưa ra những đóng góp cơ bản của Nguyễn Minh Châu đối với tư
tưởng nghệ thuật, nhân vật, tình huống, điểm nhìn trần thuật và giọng điệu

ngôn ngữ.
Ngoài ra, công trình nghiên cứu của Nguyễn văn Long và Trịnh Thu
Tuyết với nhan đề Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học Việt
Nam sau 1975. Đây là công trình đặt vấn đề nghiên cứu sự nghiệp sáng tác
của Nguyễn Minh Châu trong sự vận động của văn xuôi đương đại chủ yếu từ
năm 1975 trở đi. Cuốn sách này đã tập trung nghiên cứu vào các bình diện cơ
bản như quá trình vận động và đổi mới ý thức nghệ thuật, thế giới nhân vật,
kết cấu và nghệ thuật trần thuật.
Qua khảo sát, chúng tôi thấy các công trình nghiên cứu về Nguyễn
Minh Châu ngày càng được làm dày thêm bởi nhiều luận văn tốt nghiệp, luận
án Thạc sĩ và Tiến sĩ. Gần đây nhất là luận án Tiến sĩ của Phạm Thị Thanh
Nga với đề tài: Lời văn nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã
nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết việc sử dụng ngôn ngữ, lời văn trong sáng

Đỗ Thị Tốt

9

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

tác của ông. Công trình này đã cũng đã góp thêm tiếng nói khẳng định tài
năng nghệ thuật của nhà văn.
Như vậy, qua khảo sát và tìm hiểu tài liệu, chúng tôi nhận thấy trong
lĩnh vực nghiên cứu, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu được tìm hiểu ở
một số bình diện cụ thể như: Tư duy nghệ thuật, ngôn từ nghệ thuật, thế giới

nhân vật… Hoặc trở thành những đề tài, chương mục, một vấn đề trong
chuyên mục nghiên cứu mang tính khái quát. Có thể khẳng định với số lượng
sáng tác phong phú của mình, Nguyễn Minh Châu và các sáng tác của ông
vẫn còn là những mảnh đất màu mỡ để chúng ta nghiên cứu. Do đó, việc tìm
hiểu Biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu là
một đề tài khá mới mẻ. Chúng tôi hi vọng khoá luận này sẽ góp thêm một cái
nhìn khá độc đáo hấp dẫn về truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
3. Mục đích nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu đề tài Biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu, chúng tôi muốn đưa ra một nhận thức mang tính cá
nhân về biểu tượng, biểu tượng trong văn học, đồng thời từ đó đi sâu tìm hiểu
về ý nghĩa các biểu tượng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
Qua đó thấy được những giá trị về nội dung cũng như tư tưởng nghệ thuật mà
nhà văn muốn gửi gắm thông qua các biểu tượng nghệ thuật của mình. Từ đó,
chúng tôi thêm một lần khẳng định vai trò, vị trí và những đổi mới của nhà
văn trong sự vận động của tiến trình văn học dân tộc.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nguyễn Minh Châu để lại một sự nghiêp vô cùng đồ sộ nên trong
khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp chúng tôi không tham vọng tìm hiểu vấn
đề biểu tượng nghệ thuật trong toàn bộ sáng tác của ông mà chỉ tập trung vào
một số truyện ngắn tiêu biểu như:

Đỗ Thị Tốt

10

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp


Khoa Ngữ văn

Nguồn suối, Nhành mai, Mảnh trăng cuối rừng, Bên đường chiến
tranh, Cơn giông, Chiếc thuyền ngoài xa, Bến quê, Cỏ lau… trong Tuyển tập
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu của Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội in năm
2009.
5. Phương pháp nghiên cứu
Triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp so sánh hệ thống
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
6. Đóng góp của khóa luận
Với khóa luận này, chúng tôi mong muốn đóng góp một cách nhìn
(mang tính cá nhân) về biểu tượng và biểu tượng trong văn học. Và từ đó,
chúng tôi góp phần làm sáng tỏ những nét đặc sắc trong phong cách nghệ
thuật của Nguyễn Minh Châu trên phương diện tạo dựng hệ thống biểu tượng
nghệ thuật sinh động.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung chính
của khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về biểu tượng và biểu tượng nghệ thuật
trong văn học
Chương 2: Những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu trước năm 1975
Chương 3: Những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu sau năm 1975

Đỗ Thị Tốt


11

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỂU TƯỢNG
VÀ BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC

1.1.

Biểu tượng dưới nhiều góc nhìn
Từ xa xưa, khi con người bắt đầu thoát thai khỏi loài vượn nguyên

thủy, thì biểu tượng nghệ thuật đã tồn tại như bộ phận cấu thành trong đời
sống tinh thần của họ. Và biểu tượng dường như ngày càng phát triển phong
phú. Ch. Baudelaire – chủ soái của thi ca tượng trưng Pháp từng khẳng định
con người sống giữa một “rừng biểu tượng”. Nhưng thực tế lại chứng minh
một “rừng biểu tượng” sống trong đời sống con người.
Sự tạo thành biểu tượng trong đời sống con người thực chất là quá trình
vô thức, nhưng tự bản thân chúng lại thể hiện quá trình nỗ lực của con người
muốn xuyên qua bức màn của hiện thực, vượt lên những kinh nghiệm cảm
tính của cá nhân để nhận thức một thực tại ưu việt vốn bị che lấp.
Thực chất khái niệm biểu tượng chỉ xuất hiện khi tri thức nhân loại đạt

đến một trình độ nhất định. Thuật ngữ “biểu tượng” vốn có xuất xứ từ thuật
ngữ “symbol” trong tiếng Anh. Còn tiếng Pháp là “symbole”. Hai thuật ngữ
đó dịch sang tiếng Việt thành biểu tượng hoặc biểu trưng. Cách dịch thành
biểu tượng được chấp nhận rộng rãi hơn. Khởi nguyên, biểu tượng vốn là một
vật bị cắt đôi như mảnh gỗ, mảnh sứ hay kim loại. Hai người mỗi bên giữ một
phần sau này khi ráp hai mảnh với nhau họ sẽ nhận ra mối dây thâm tình xưa.
Theo nghĩa rộng nhất, khái niệm biểu tượng là một loại kí hiệu mà mối
quan hệ giữa mặt hình thức cảm tính (tồn tại trong hiện thực khách quan hoặc
trong tưởng tượng của con người đó là cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa (cái
được biểu trưng) mang tính có lí do, tất yếu.

Đỗ Thị Tốt

12

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

Trong quá trình phát triển, biểu tượng còn được nhìn nhận dưới nhiều
góc độ. Ở mỗi một góc độ, chúng ta lại thấy một phương diện thú vị riêng.
Dưới góc nhìn triết học, biểu tượng là “hình ảnh cảm tính, cụ thể về
những hiện tượng của thế giới bên ngoài”. Biểu tượng cùng với cảm giác và
tri giác và tri giác tạo nên nhận thức cảm tính, hay theo thuật ngữ của Paplop,
tạo nên hệ thống tín hiệu thứ nhất của hiện thực. Trong cuốn Giáo trình triết
học Mác – Lênin, biểu tượng cũng được coi là giai đoạn cao nhất của nhận
thức cảm tính: “Đó là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại

trong bộ óc người về sự vật khi sự vật đó không còn trực tiếp tác động vào
các giác quan”. Như vậy, hiểu theo nghĩa triết học, thì tất cả các sự vật trong
thế giới khách quan khi được con người tiếp nhận đều sẽ trở thành biểu tượng.
Thế giới khách quan có bao nhiêu sự vật, hiện tượng thì có bấy nhiêu biểu
tượng được hình thành trong nhận thức con người. Ở đây, biểu tượng không
chỉ ra một nghĩa nào khác ở bên ngoài nó. Nó không có một hệ thống ý nghĩa
được dồn chứa bên trong như cách nhìn văn học.
Dưới góc nhìn tâm lí học, biểu tượng là hình thức cao nhất của giai
đoạn nhận thức cảm tính trực quan. Trên cơ sở cảm giác, tri giác, trong đầu óc
con người xuất hiện một hình thức cao hơn, đó là biểu tượng, bởi bộ não của
con người có khả năng tái sinh ra trong ý thức hình ảnh của con người được
tri giác, phản ánh trước đây. Biểu tượng là hình ảnh được tái hiện, được hình
dung lại với những thuộc tính nổi bật của sự vật. Nhưng biểu tượng trong
nhận thức mới là biểu tượng ở cấp độ thấp, giản đơn, do tư duy trực quan hình
ảnh đem lại. Còn một loại biểu tượng cao hơn hẳn, đó là biểu tượng của biểu
tượng. Biểu tượng trực quan cảm tính và biểu tượng của tưởng tượng mới chỉ
là biểu tượng của nhận thức, chưa thể trở thành biểu tượng nghệ thuật. Biểu
tượng nghệ thuật, biểu tượng thơ ca là sự chuyển hóa, sáng tạo lại biểu tượng

Đỗ Thị Tốt

13

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn


trong nhận thức trong đời sống tâm lí thành biểu tượng biểu đạt trong phạm vi
nghệ thuật.
Dưới góc độ văn hóa, người ta thấy, biểu tượng là những thực thể vật
chất hoặc tinh thần có khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng hơn chính hình
thức cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp, một hệ thống đặc trưng cho
những nền văn hóa nhất định: Nghi lễ, hành vi kiêng kỵ, thần linh, trang
phục… Biểu tượng văn hóa là sự tồn tại ở bình diện xã hội, mang tính phổ
quát của các biểu tượng phi trực quan. Nó có các biến thể loại hình như: Tín
ngưỡng, phong tục, lễ hội, nghệ thuật… Biểu tượng văn hóa và biểu tượng
văn học có mối quan hệ rất chặt chẽ. Rất nhiều biểu tượng văn học được xây
dựng trên kho vốn biểu tượng văn hóa nhân loại của dân tộc. Để nhận thấy
các dòng chảy sâu kín của biểu tượng và sự phân nhánh của chúng trong vỉa
tầng ý thức, chúng ta phải hiểu được sự chuyển hóa từ mẫu gốc đến biểu
tượng và biểu tượng nghệ thuật. Đó chính là sự chuyển hóa từ phạm vi tâm
thức cộng đồng, từ bình diện văn hóa chung của cộng đồng đến bình diện
riêng của chủ thể, cá thể.
Dưới góc độ ngôn ngữ, các biểu tượng tâm lí, biểu tượng văn hóa đều
được chuyển thành các từ - biểu tượng. Về mặt chất liệu, biểu tượng ngôn từ
là tín hiệu hóa các hình thức vật chất cụ thể và các ý niệm trừu tượng trong
đời sống tinh thần của con người qua hệ thống âm thanh ngôn ngữ. Và nếu
coi cấu trúc ngôn từ của tác phẩm là một tổng thể các kí hiệu thẩm mỹ thì
trong đó vai trò quan trọng thuộc về các từ - biểu tượng với tư cách là điểm
nhấn trong tổng thể đó. Thực ra, phạm vi đối tượng trở thành biểu tượng đa
dạng và phong phú hơn nhiều. Jean Chevalier cho rằng: “Lịch sử của biểu
tượng xác nhận rằng mọi vật đều có thể mang giá trị biểu tượng, dù là vật tự
nhiên (đá, kim loại, cây cối, hoa quả, thú vật, suối, sông và đại dương, núi và

Đỗ Thị Tốt

14


Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

thung lũng, hành tinh, lửa, sấm sét…) hay là trừu tượng (hình hình học, con
số, nhịp điệu, ý tưởng…) [7; XXIV].
1.2.

Biểu tượng trong văn học

1.2.1. Quan niệm về biểu tượng trong văn học
Biểu tượng không chỉ tồn tại trong tâm linh mỗi con người, trong nền
văn hóa mỗi dân tộc mà còn là hạt giống chắc mẩy được các nhà văn, nhà thơ
gieo trên địa hạt văn chương màu mỡ. Sau khi đã tổng hợp thành tựu của các
chuyên ngành mỹ học, lý luận văn học Macxit, các tác giả Từ điển thuật ngữ
văn học đã có những kiến giải xác đáng về biểu tượng dưới góc độ văn học.
Biểu tượng có thể được hiểu theo cả hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng: “Biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng
hình tượng của văn học nghệ thuật” [18; 24].
Theo nghĩa hẹp: “Biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời
nói hoặc một loại hình nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa
khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện được một
quan niệm, một tư tưởng hay triết lý sâu xa về con người và cuộc đời” [18;
24].
Các tác giả cũng dành hơn một trang viết cho thấy những điểm khác
nhau giữa ẩn dụ và hoán dụ. Những khái niệm này đều “được hình thành trên

cơ sở đối chiếu, so sánh các hiện tượng, đối tượng có những phương diện,
khía cạnh, những đặc điểm gần gũi trong mối quan hệ tượng đồng nhằm làm
nổi bật bản chất, tạo ra một ý niệm cụ thể, sáng tỏ về hiện tượng hay đối
tượng đó” [18; 24].
Tuy nhiên, xét một cách toàn diện thì ẩn dụ và hoán dụ khác biểu tượng
về ba điểm:
Thứ nhất, ẩn dụ và hoán dụ đều mang ít nhiều ý nghĩa biểu tượng
nhưng biểu tượng không phải bao giờ cũng là hoán dụ, ẩn dụ… [18; 25]

Đỗ Thị Tốt

15

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

Thứ hai, biểu tượng không loại bỏ ý nghĩa cụ thể, cảm tính của vật
tượng trưng hoặc hình tượng nghệ thuật. Trong khi đó, ẩn dụ và hoán dụ
nhiều khi làm mờ đi ý nghĩa biểu vật, trực quan của lời nói… [18,25]
Thứ ba, do một ẩn dụ có thể làm nhiều đối tượng khác nhau và một đối
tượng cũng có thể diễn đạt bằng nhiều ẩn dụ, hoán dụ khác nhau nên người
đọc phải tìm hiểu ý nghĩa của chúng trong ngữ cảnh cụ thể của từng văn bản.
Khác với ẩn dụ, ý nghĩa biểu tượng tồn tại ở ngoài văn bản mà chúng ta đang
tiếp xúc [18; 25].
Bên cạnh đó, các tác giả cũng đề cập đến một phương diện khác nhau
của biểu tượng như “ý nghĩa biểu tượng không ngừng được bổ sung” [18; 26]

trong lịch sử tồn tại lâu dài. Đặc biệt, các tác giả còn nhấn mạnh đến phương
diện khác của biểu tượng đó là: “Bên cạnh những biểu tượng thể hiện ý thức
chung của xã hội, trong văn học nghệ thuật có rất nhiều biểu tượng in đậm
dấu ấn cá tính sáng tạo của nhà văn, nhà thơ” [18; 26].
PGS, TS. Lê Lưu Oanh trong Thơ trữ tình Việt Nam 1975-1990 khi bàn
về những đặc trưng của biểu tượng, nhà nghiên cứu này cho rằng: Biểu tượng
có khả năng tái sinh liên hồi từ cái biểu đạt đến cái được biểu đạt. Biểu tượng
nghệ thuật là tín hiệu thẩm mĩ mới mẻ, đa chức năng. Biểu tượng vừa mang
tính kế thừa vừa mang tính sáng tạo. Giải mã biểu tượng là con đường tư duy
nghệ thuật…
Tổng hợp những quan điểm trên chúng tôi cho rằng: Biểu tượng thường
là những hình ảnh cụ thể cảm tính, giàu cảm xúc, chứa đựng những tầng ý
nghĩa sâu sắc. Biểu tượng không phải là hiện tượng khép kín mà là một cấu
trúc mở có khả năng gợi liên tưởng lớn và khả năng tái sinh đến vô tận. Nhìn
một cách khái quát dưới góc độ văn hóa, biểu tượng được xem là những hình
ảnh cảm tính về hiện thực khách quan bộc lộ quan điểm thẩm mĩ của một tác
giả một thời đại, một dân tộc, một nền văn hóa và thường biểu hiện bằng các

Đỗ Thị Tốt

16

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng. Từ lâu, biểu tượng đã được xem như một

phương thức tư duy nghệ thuật của các nhà văn, nhà thơ, mang đến những
hình tượng cụ thể, cảm tính, đa nghĩa, được lặp đi, lặp lại và giàu giá trị nghệ
thuật. Biểu tượng được các nhà văn, nhà thơ sáng tạo và tham gia vào việc
biểu hiện cấu trúc, ý nghĩa tác phẩm. Bởi thế, nó có một vai trò quan trọng
trong việc lập mã và giải mã ý nghĩa tác phẩm. Với công việc tiếp nhận văn
học, việc nghiên cứu và giải mã biểu tượng chính là chìa khóa để đi sâu vào
hành trình khám phá thế giới nghệ thuật. Không những thế, việc tìm hiểu về
biểu tượng còn giúp ta giải thích thấu triệt những hiện tượng văn học phức tạp
từ ngọn nguồn văn hóa, đồng thời thấy được tài năng, bản lĩnh, phong cách
nghệ thuật của mỗi nhà văn cũng như mỗi trào lưu, giai đoạn văn học nhất
định. Với việc điểm qua một số quan niệm về biểu tượng cùng những lí giải
sự thể hiện của nó dưới góc độ văn học, chúng tôi đã tổng kết và đưa ra cách
hiểu về biểu tượng văn học. Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi không tránh
khỏi sự sơ lược so với thực tế đầy phức tạp, song những luận giải trên giúp
ích rất nhiều cho chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này.
1.2.2. Đặc điểm, tính chất của biểu tượng văn học
Các nhà nghiên cứu đều thống nhất khi cho rằng, biểu tượng dù đa
dạng đến đâu vẫn mang tính ổn định tương đối, nghĩa là trong mối quan hệ
giữa cái biểu trưng và cái được biểu trưng vẫn có những quan hệ gần gũi ở
mức độ nhất định. Ý nghĩa của biểu tượng hiển nhiên không phải là một cấu
trúc khép kín mà là một khả năng gợi ra nhiều chiều liên tưởng trong thực tại
tinh thần của con người, những chiều hướng này rất khác nhau thậm chí trái
ngược nhau. Mỗi con người đều có thể tìm thấy trong biểu tượng những ý
nghĩa khác nhau những trải nghiệm tinh thần mang tính cá nhân nhưng vẫn
không tách rời bản chất xã hội, cái trung tâm tinh thần chi phối toàn bộ sự vận
động của chúng. Đó là một mối quan hệ thuộc bản chất, chứ không phải là sự

Đỗ Thị Tốt

17


Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

tưởng tượng hỗn loạn, vô hướng. Các biểu tượng đã tỏ rõ một tính ổn định
nào đó trong lịch sử các tôn giáo, các xã hội và lịch sử tâm thức mỗi cá nhân.
Cũng chính vì tính ổn định nên có những biểu tượng được khắp nơi trên thế
giới dùng và cùng có nét nghĩa chung thống nhất. Chẳng hạn, khi nhắc đến
chim bồ câu, người ta thường nhắc đến biểu tượng hòa bình vì đây là loài
chim có đặc tính hiền lành, không hay đánh chọi nhau. Hay con rùa là biểu
tượng cho người nông dân chăm chỉ, nhẫn nhịn… Bắt nguồn từ ý nghĩa đó,
biểu tượng nghệ thuật thường có những hạt nhân bảo lưu cho đời sau và được
các thi sĩ đời sau tiếp nối nhau bên cạnh việc bồi đắp thêm ý nghĩa mới. Vì
thế, khi nhắc đến cây cầu trong văn học dân gian Việt Nam thì người ta nghĩ
đến khát khao nối kết, khát khao gặp mặt và mong ước cả hai bên đều vượt
qua những cản trở, khó khăn trong tình yêu… Cũng với ý nghĩa đó, khi nhắc
đến cây tùng trong văn học trung đại thì chúng luôn khởi nguồn cho bạn đọc
những cảm xúc về bản lĩnh cứng cỏi và hiên ngang của những đấng nam nhi
những bậc quân tử. Hay khi nhắc đến thuyền và bến trong văn học Việt Nam
thì dù giai đoạn văn học nào, dù mang nhiều tầng ý nghĩa khác nhau nhưng
bao giờ cũng bảo lưu một ý nghĩa hạt nhân cốt lõi là biểu tượng cho sự hẹn
hò, chờ đợi thủy chung… Tính ổn định của biểu tượng nghệ thuật thường bắt
nguồn từ việc bảo lưu nét nghĩa của biểu tượng mẫu gốc đã ăn sâu vào “vô
thức tập thể” và “chảy tràn” trong kí ức nhân loại để lưu truyền cho những đời
sau. Việc dừng lại ở đời sau không có nghĩa là sự sao chép máy móc mà đòi
hỏi nghệ sĩ vẫn phải có những tìm tòi, những khám phá mới mẻ để nhận thức

về cuộc sống. Việc liên tục bồi đắp và tái sinh các ý nghĩa mới là tiền đề tạo
ra tính đa nghĩa cho biểu tượng văn học.
Bên cạnh tính ổn định tương đối, biểu tượng nổi bật nhất ở bản chất
sống động khó nắm bắt, khó xác định. Khác với dấu hiệu, người ta dễ dàng có
thể nhận ra ý nghĩa biểu hiện bên trong, biểu tượng thì khác, nó ẩn tàng những

Đỗ Thị Tốt

18

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

vỉa tầng ý nghĩa mơ hồ, khó nắm bắt bên cạnh những cái hiển nhiên lộ diện.
Nó vừa bộc lộ vừa che giấu, vừa định hình, vừa biến ảo khôn lường. S. Freud
nhận định: “Biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió và ít nhiều khó
nhận ra niềm ham muốn hay xung đột. Biểu tượng là mối dây liên kết thống
nhất nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, một lời nói với ý nghĩa
tiềm ẩn của chúng…” [7; XXIV]. Cũng đồng ý với ý kiến này, C. Jung cho
rằng: “Biểu tượng là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cái bản chất
mơ hồ, nghi hoặc của Tâm linh”, “biểu tượng không bó chặt gì hết, nó không
cắt nghĩa nó đưa ra bên ngoài chính nó đến một ý nghĩa tận phía ngoài kia
không thể nắm bắt, không thể được dự cảm một cách mơ hồ, và không có từ
nào trong ngôn ngữ của chúng ta có thể diễn đạt một cách thỏa đáng” [7;
XXIV]. Mỗi một biểu tượng không chỉ mang trong mình một hình tượng đời
sống cụ thể mà còn khái quát những kinh nghiệm nghệ thuật trong mạch

nguồn truyền thống, và đồng thời kết hợp với sự cách tân làm mới theo năng
lực tư duy và tưởng tượng của từng chủ thể khiến cho biểu tượng ngày càng
được làm đầy hơn những giá trị và ý nghĩa mới. Việc bồi đắp thêm những nét
mới cho biểu tượng sẽ tạo cơ sở cho việc lưu lại dấu ấn nhà văn. Biểu tượng
luôn chứa đựng trong mình những giá trị đã được vĩnh hằng hóa, song không
phải vì thế mà nó trở thành nơi tồn đọng những giá trị cũ mòn, nơi giam giữ
các tầng ý nghĩa trong sự xơ cứng. Biểu tượng thực chất là một thực thể vô
cùng sống động, luôn có sự luân chuyển và đắp đổi ý nghĩa. Sinh thể ấy được
nuôi dưỡng bằng những lối tư duy, những tượng trưng phong phú của con
người.
Khi xem xét biểu tượng, không thể bỏ qua một đặc tính nổi bật của nó
là tính đa nghĩa. Không ai phủ nhận tính ổn định, hạt nhân cốt lõi là tâm điểm
của mọi chu vi trong biểu tượng, song ổn định ở đây không đồng nhất với cố
định. Bởi thế nên không thể gói gọn làm đông cứng ý nghĩa của biểu tượng

Đỗ Thị Tốt

19

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

trong một khuôn khổ chật hẹp mà biểu tượng luôn sản sinh những ý nghĩa
mới trên vỉa tầng ý nghĩa là cái đã ăn sâu vào vô thức của con người. Tính
chất sống động của biểu tượng cũng là tiền đề để tạo ra tính đa trị của nó.
Tính đa trị ở đây có thể hiểu là biểu tượng không tồn tại với một vài nét nghĩa

thuần túy, cố định mà nó luôn bao chứa trong mình những thái cực khác nhau.
Nó luôn luôn đa chiều.
Thuyết Phản ánh luận của triết học Mácxít đã từng chứng minh văn
học nghệ thuật với tư cách là một hình thái thẩm mĩ nên hiển nhiên nó phải
phản ánh tồn tại xã hội. Bởi thế, mỗi thời đại, bộ mặt xã hội lại đi vào văn học
với một hệ thống biểu tượng khác nhau. Chính sự khác nhau này đã tạo nên
tính lịch sử của biểu tượng văn học. Tính lịch sử của biểu tượng văn học được
thể hiện trước hết ở chỗ: Mỗi thời đại văn học đề cập đến một hệ thống những
biểu tượng khác nhau. Chẳng hạn, trong văn học Việt Nam, ta thấy sự đổi
thay của hệ thống biểu tượng qua từng thời kì lịch sử. Chẳng hạn, trong thơ ca
dân gian, ta thường thấy xuất hiện những biểu tượng nguyên sơ, khởi phát bắt
nguồn từ thế giới tự nhiên của bao quanh con người như: Mặt trăng, mặt trời,
cái cò, cái bống, quả cau, gừng… Đến văn học Trung đại với tính quy phạm
chặt chẽ tư tưởng Nho giáo chi phối nên hệ thống biểu tượng nghệ thuật
thường xoay quanh những biểu tượng cao quý như tùng, cúc, trúc, mai, long,
ly, quy, phượng... Đến Thơ mới với sự bùng phát của cái tôi cá nhân và sự
giải phóng về tư tưởng, người ta thường thấy xuất hiện biểu tượng lạc thú và
tình yêu nam nữ, sự cô đơn… Trong thơ ca cách mạng, ta lại bắt gặp nhiều
biểu tượng hào hùng như Đảng, lãnh tụ, chiến sĩ, con người mới, màu đỏ, lá
cờ Tổ quốc… Trong thơ đương đại, ta thường bắt gặp nhiều biểu tượng mới
như tòa cao ốc, computer… Như thế, hệ thống biểu tượng nghệ thuật còn lưu
dấu ấn của mỗi thời kì lịch sử. Tuy nhiên, tính lịch sử của biểu tượng văn học
còn thể hiện ở một khía cạnh khác. Có những biểu tượng nghệ thuật tồn tại

Đỗ Thị Tốt

20

Lớp: K35A



Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

xuyên suốt nhiều thời kì văn học nhưng tùy theo thời kì mà nó mang những
nét nghĩa khác nhau. Biểu tượng văn học không phải là một cấu trúc khép kín
mà nó là một hiện tượng mở bởi vậy nó thường xuyên mất đi những nét nghĩa
lỗi thời và được đắp đổi những nét nghĩa mới.
1.2.3. Ý nghĩa của biểu tượng văn học
Trong đời sống, mỗi dân tộc, mỗi tổ chức xã hội đều tìm đến những
biểu tượng để thể hiện những nét đặc thù được coi là “khuôn mặt riêng” định
hình trong thế giới mênh mông. Chẳng hạn, hình ảnh sư tử trở thành biểu
tượng cho quốc đảo Singapo, hoa anh đào là biểu tượng cho đất nước Nhật
Bản. Hay Đảng Cộng sản được biểu trưng bằng hình ảnh búa liềm giao nhau
với hàm nghĩa là sự kết hợp sức mạnh của giai cấp công nông… Từ đặc trưng
riêng của mỗi nền văn hóa mà mỗi đất nước lại tìm đến những biểu tượng
riêng để thể hiện đặc thù của nước mình. Trong văn học, biểu tượng là
phương tiện tất yếu để các nhà văn, nhà thơ lập mã và kí mã. Đặc trưng của
văn học đòi hỏi không phải điều gì nhà văn cũng trình bày sẵn sàng, công
khai, phơi bày lộ diện tất cả ra mà phải thể hiện một cách kín đáo, nhuần nhị
và nhất là súc tích bởi nói như Ăng ghen: “Khuynh hướng của tác phẩm càng
kín đáo bao nhiêu càng tốt cho tác phẩm bấy nhiêu”. Để đạt được điều đó
không gì tối ưu là sáng tạo ra một hệ thống biểu tượng nghệ thuật. Vì thế, từ
xa xưa đến nay, từ phương Đông đến phương Tây, các nhà văn luôn lấy biểu
tượng là một phương tiện để lập mã và kí mã. Hay nói cách khác, biểu tượng
dùng để mã hóa tư tưởng, cảm xúc.
Biểu tượng còn thực hiện một chức năng quan trọng khác là biểu hiện.
Khi đứng trước mỗi biểu tượng nghệ thuật, ta cũng đều tò mò muốn khám phá
ý nghĩa tiềm ẩn dồn nén trong đó. Bởi mỗi biểu tượng luôn “ứ tràn ý nghĩa”.

Chẳng hạn, bánh xe là biểu tượng cho sự tuần hoàn, chu kì luân chuyển vô
thường của sự vật, con người. Hình ảnh cây thánh giá trong đạo Thiên chúa là

Đỗ Thị Tốt

21

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

biểu tượng về sự hành xác để thể hiện sự thanh thản trong tâm hồn con người.
Biểu tượng hoa sen gợi lên sự trong sáng, thanh khiết cao quý bất chấp nó
mọc lên từ chốn bùn nhơ… Trong văn học, biểu tượng dùng để kí mã thường
có sức truyền tải khá lớn. Tất nhiên, khả năng phản ánh biểu hiện của biểu
tượng văn học phải được đặt trong bối cảnh của nền văn hóa đã sản sinh ra nó
như trong chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm, thời đại… Nó chỉ thực sự phát
lộ ý nghĩa tiềm ẩn khi xem xét nó trong hàng loạt các mối quan hệ của cấu
trúc tác phẩm. Bởi lẽ, trong phạm vi này, đối tượng biểu hiện không phải là
những sự vật, hiện tượng, trạng thái đơn nhất mang tính độc lập như các biểu
tượng trong cuộc sống hàng ngày. Quá trình sáng tạo và cảm thụ tác phẩm
nghệ thuật dựa trên hệ thống các biểu tượng không đồng nhất với quá trình
sáng tạo và cảm thụ các biểu tượng đơn lẻ. Biểu tượng nghệ thuật luôn chứa
đựng những hiện thực khách quan và cả những tư tưởng, những ấn tượng chủ
quan được nghệ sĩ kí thác trong nó.
Trong một khía cạnh khác, biểu tượng còn thực hiện chức năng xã hội
hóa. Nó tạo ra sự lưu thông sâu sắc với môi trường xã hội, nó kéo con người

lại gần nhau hơn. Biểu tượng là phương tiện là công cụ để mỗi cá nhân, mỗi
dân tộc thấu hiểu nhau hơn. Bởi lẽ các biểu tượng nghệ thuật được phát sinh
từ toàn bộ đời sống tinh thần của con người. Nếu ta có thể thừa nhận có một
kho vốn chung của vô thức tập thể có thể tiếp nhận và phát đi những thông
điệp, thì không được quên rằng, cái kho vốn chung đó tự làm giàu thêm và tự
đa dạng hóa bằng tất cả các đóng góp của một tộc người hoặc một cá nhân.
Hơn nữa, biểu tượng còn có khả năng dựng lại mô hình văn hóa của dân tộc,
thời đại. Vẫn trên cơ sở hạt nhân chung nảy sinh từ những mẫu gốc, nhưng
khi được liên tục tái sinh và sáng tạo, biểu tượng mang những ý nghĩa sắc thái
đa dạng khác nhau trong các tộc khác nhau.

Đỗ Thị Tốt

22

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

Mỗi thời đại, mỗi khuynh hướng, mỗi tác gia văn học do những đặc
điểm về văn hóa cũng như nhu cầu, thị hiếu thẩm mĩ khác nhau mà tìm những
hệ thống biểu tượng khác nhau. Hệ thống biểu tượng đó làm nên sắc thái
riêng mỗi thời kì đồng thời cũng được dùng như những dấu hiệu nổi bật để
nhận ra mỗi khuynh hướng văn học. Và nhất là với tác giả có bản lĩnh và
phong cách thì biểu tượng chính là yếu tố giúp ta nhận ra nét đặc trưng của
phong cách đó. Và cũng dễ thấy hơn cả là biểu tượng ghi dấu ấn phong cách
nghệ thuật của mỗi nghệ sĩ. Vì thế, nhắc đến thơ Nguyễn Bính, người ta

thường thấy xuất hiện hình ảnh của thôn quê giản dị như cánh bướm, con đò,
cánh diều… Nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử ta lại thấy xuất hiện dày đặc
những biểu tượng trăng, hồn, máu…

Đỗ Thị Tốt

23

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn
CHƯƠNG 2:

NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU TRƯỚC NĂM 1975

Nguyễn Minh Châu là nhà văn có nhiều đóng góp quan trọng và có vị
trí đặc biệt trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ông được đánh giá là một
trong những cây bút sắc sảo của nền văn học giai đoạn kháng chiến chống
Mỹ. Với nhiệt tình chân thành của người cầm bút cùng sức mãnh liệt của
dòng chảy lịch sử, những sáng tác của ông luôn mang đậm tính sử thi và cảm
hứng anh hùng, cảm hứng ngợi ca. Và điều này đã đáp ứng kịp thời nhiệm vụ
của văn học khi đất nước có chiến tranh. Có được thành công đó, chúng ta
không thể không kể đến vai trò của những biểu tượng nghệ thuật. Các hình
ảnh biểu tượng xuất hiện trong văn ông khá nhiều. Nó vừa là một phương
diện tạo hình vừa biểu đạt mang tính tượng trưng và đa nghĩa. Hình ảnh biểu
tượng như một mã nghệ thuật thể hiện phong cách, cũng như đặc điểm văn

phong cá tính sáng tạo của nhà văn. Nó như một tín hiệu thẩm mĩ, dồn nén tư
tưởng tình cảm của nhà văn, khiến cho thiên truyện của ông không chỉ sâu sắc
mà còn đậm chất trữ tình và biến ảo khi thể hiện cuộc sống và “khám phá con
người bên trong con người”. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy những hình
ảnh biểu tượng ấy thường có những đặc điểm như chúng đều là những hình
ảnh thiên nhiên rất trong sáng và đẹp đẽ. Đó là sự mát lành của dòng suối với
ý nghĩa biểu tượng là dòng chảy bền bỉ, mạnh mẽ của cách mạng, tấm lòng
trong trẻo của con người. Vẻ đẹp đầy sức sống của Nhành mai biểu tượng của
cái đẹp, tình yêu bừng nở, nhân chứng bất diệt trong chiến tranh. Hay vẻ đẹp
khuất lấp, khiêm nhường mà hiện hữu, sự gợi cảm đầy chất thơ và vẻ đẹp
lung linh trong tâm hồn con người thời chống Mỹ của Mảnh trăng. Đó còn là

Đỗ Thị Tốt

24

Lớp: K35A


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Ngữ văn

biểu tượng giếng nước – không gian linh thiêng trong cuộc sống con người,
chứng nhân lịch sử, chứng nhân của tình yêu trong sáng thủy chung.
2.1.

Biểu tượng dòng suối trong Nguồn suối

2.1.1. Dòng suối – dòng chảy bền bỉ, mạnh mẽ của cách mạng

Nguồn suối là một trong những truyện ngắn đầu tiên của nhà văn
Nguyễn Minh Châu được các nhà biên soạn sách đưa vào Tuyển tập truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu vì nó tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn của nhà
văn trước năm 1975. Nội dung chính của truyện kể về người cán bộ cách
mạng tên là Ngạn lên vận động kháng chiến ở các tỉnh vùng cao nơi giáp ranh
với biên giới mà địa điểm cụ thể trong truyện là vùng bản Pa-khen. Thiên
nhiên vùng Tây Bắc của Tổ quốc được miêu tả hết sức khắc nghiệt “chúng tôi
chưa tới Pa-khen mà núi đã cao lắm. Mới qua trưa mà sương sa trắng rừng
núi. Ban ngày, nhiệt độ xuống dưới không. Ban đêm càng buốt” [2; 5]. Thiên
nhiên, thời tiết khắc nghiệt “nhiệt độ xuống rất thấp nhưng con suối bên
đường vẫn cứ chảy rì rầm” [2; 5], nước suối ở đó nếu chỉ cần múc lên khỏi
mặt nước thì vài tiếng sau đã đóng băng nhưng “nước dưới suối vẫn không
đóng băng” [2; 5]. Như vậy, đứng trước sự khắc nghiệt của thời tiết vùng cao,
dòng suối vẫn gan góc, kiên cường, bất chấp mọi gian nan thử thách để chứng
minh sức mạnh nội sinh của mình. Và những ý nghĩa thực này khi chúng tôi
đặt chúng trong hệ thống quan điểm và phong cách sáng tác của Nguyễn
Minh Châu thì nó góp phần thể hiện những ý nghĩa hàm chứa sâu xa trong
ngòi bút mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của ông
thông qua những hình ảnh biểu tượng để gửi gắm tư tưởng. Dòng suối ấy
không chỉ mang nghĩa thực là sức mạnh nội sinh của thiên nhiên mà nó còn là
biểu tượng cho sự bất tử, sự trẻ lại không ngừng. “Trong các nền văn hóa
truyền thống, dòng suối tượng trưng cho nguồn gốc của sự sống, và một cách
tổng quát hơn, cho mọi dạng nguồn gốc, nguồn gốc của thiên tài, của sức

Đỗ Thị Tốt

25

Lớp: K35A



×