Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Dạy học bài từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân trong SGK ngữ văn11 theo quan điểm tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.15 KB, 61 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

LƯƠNG THỊ PHƯỢNG

DẠY HỌC BÀI TỪ NGÔN NGỮ CHUNG
ĐẾN LỜI NÓI CÁ NHÂN TRONG SÁCH
GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11 THEO
QUAN ĐIỂM TÍCH CỰC

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

Người hướng dẫn khoa học:
ThS. Phạm Kiều Anh

HÀ NỘI, 2013


2

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài Dạy học bài Từ ngôn
ngữ chung đến lời nói cá nhân trong SGK Ngữ văn 11 theo quan điểm
tích cực, tác giả khóa luận đã thường xuyên nhận được sự giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi và chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn,
đặc biệt là các thầy cô giáo trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn và Thạc
sĩ Phạm Kiều Anh - người hướng dẫn trực tiếp.
Tác giả xin được bày tỏ sự biết ơn và lời cám ơn trân trọng nhất tới các


thầy cô !

Hà Nội, ngày 01 tháng 5 năm 2013
Tác giả khóa luận

Lương Thị Phượng


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khoá luận tốt nghiệp Dạy học bài Từ ngôn ngữ
chung đến lời nói cá nhân trong SGK Ngữ văn 11 theo quan điểm tích
cực là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong khóa
luận là trung thực và chưa từng công bố trong bất cứ công trình nào.

Hà Nội, ngày 01 tháng 5 năm 2013
Tác giả khóa luận

Lương Thị Phượng


4

QUY ƯỚC VIẾT TẮT
GV:

Giáo viên

HS:


Học sinh

SGK:

Sách giáo khoa

SGV:

Sách giáo viên

THPT:

Trung học phổ thông

PPDH:

Phương pháp dạy học

ĐHSP:

Đại học sư phạm

NXB:

Nhà xuất bản

ThS:

Thạc sĩ



5

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của khoá luận
7. Bố cục của khoá luận
NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn dạy học bài Từ ngôn ngữ
chung đến lời nói cá nhân theo quan điểm tích cực
1.1. Quan điểm tích cực trong giờ học
1.1.1. Tính tích cực và tính tích cực trong học tập
1.1.2. Đặc điểm của phương pháp dạy học tích cực
1.1.3. Các mức độ tích cực và các yếu tố ảnh hưởng tới tính tích cực
1.1.4. Ý nghĩa của quan điểm tích cực trong dạy học tiếng Việt
1.2. Ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân
1.2.1. Ngôn ngữ chung
1.2.2. Lời nói cá nhân
1.2.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Nội dung chương trình bài dạy
1.3.2. Điều tra giáo viên và học sinh
1.3.3. Nhận xét chung

Chương 2. Dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân
trong SGK Ngữ văn 11 theo quan điểm tích cực
2.1. Mục đích của việc dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông
2.2. Những yêu cầu khi vận dụng quan điểm tích cực vào dạy học
tiếng Việt

Trang
1
1
2
4
4
5
5
5
6
6
6
6
7
8
10
10
10
12
14
14
14
17
21

22
22
22


6

2.3. Vận dụng quan điểm tích cực khi dạy học bài Từ ngôn ngữ chung
đến lời nói cá nhân trong SGK
2.3.1. Mục đích của việc dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói
cá nhân
2.3.2. Những cơ sở định hướng vận dụng quan điểm tích cực vào
dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân
2.4. Những hoạt động dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá

24
24
24

nhân thể hiện quan điểm tích cực
2.4.1. Lời mở bài

26
26

2.4.2. Tiếp cận kiến thức
2.4.3. Luyện tập thực hành
2.4.4. Kiểm tra đánh giá
2.5. Quy trình bài học
2.6. Phương pháp dạy học

Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
3.1. Mục đích thực nghiệm
3.2. Đối tượng thực nghiệm
3.3. Chủ thể thực nghiệm
3.4. Thời gian thực nghiệm
3.5. Nội dung thực nghiệm
3.5.1. Cách thức tiến hành thực nghiệm
3.5.2. Giảng dạy bằng giáo án thực nghiệm
3.5.3. Kiểm tra đánh giá hiệu quả các biện pháp đề xuất cuối đợt
thực nghiệm
3.6. Kết quả thực nghiệm

26
27
27
27
29
36
36
36
37
37
37
37
37

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2


47
48
51


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tích cực là một quan điểm giáo dục hiện đại mang tính thời sự
Luật Giáo dục công bố năm 2005, Điều 28.2 có ghi “Phương pháp dạy
học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, bồi dưỡng phương pháp tự
học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”. Đổi mới giáo dục đòi hỏi nhà trường không chỉ trang bị cho học sinh
những kiến thức đã có mà còn phải hình thành, bồi dưỡng cho học sinh tính
năng động, óc tư duy sáng tạo và kỹ năng thực hành.
Bởi vậy, dạy học theo quan điểm tích cực là nhằm đổi mới giáo dục,
đáp ứng yêu cầu xã hội. Nhờ có quan điểm dạy học này, nền giáo dục sẽ có sự
chuyển đổi từ dạy theo lối thuộc lòng những tri thức “uyên thâm”, “thông kim
bác cổ”, hiểu biết “thiên kinh vạn quyển” sang dạy để hình thành năng lực
chuyên môn, năng lực giải quyết vấn đề, đưa ra những quyết định sáng tạo,
mang lại hiệu quả cao, thích ứng với đời sống xã hội.
1.2. Vận dụng quan điểm tích cực vào hoạt động dạy học ở trường
phổ thông còn nhiều hạn chế
Vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh đã được đặt ra từ những
năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX.
Trong những năm gần đây, ngành Giáo dục đã có nhiều đổi mới về

chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học. Tuy nhiên, việc dạy và
học trong nhiều trường phổ thông vẫn còn chịu tác động nặng nề bởi mục tiêu
thi cử, “chạy theo thành tích”, học để thi, dạy để thi. Việc học chủ yếu vẫn là
truyền thụ một chiều, thông báo kiến thức mang tính đồng loạt, thiên về lí


2

thuyết, xa rời thực tiễn, tập trung ôn luyện kiến thức đáp ứng kiểm tra thi cử,
chưa thực sự quan tâm đến việc hình thành thói quen tự học, tự khám phá kiến
thức, phát triển tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề cho người học.
1.3. Dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân là một nội
dung kiến thức mới, đòi hỏi phải tìm nhiều hình thức dạy học nhằm đạt
hiệu quả
Bài học Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân là một nội dung kiến
thức mới đối với học sinh. Qua bài học, hướng tới mục tiêu là giúp các em
nắm được biểu hiện của cái chung trong ngôn ngữ của xã hội và cái riêng
trong lời nói cá nhân, mối tương quan giữa chúng; nâng cao năng lực lĩnh hội
những nét riêng trong ngôn ngữ của cá nhân, đồng thời rèn luyện để hình
thành và nâng cao năng lực sáng tạo của cá nhân; có ý thức tôn trọng những
quy tắc ngôn ngữ chung của xã hội và góp phần vào sự sáng tạo, phát triển
ngôn ngữ của xã hội. Tuy nhiên, với một nội dung kiến thức mới, việc tìm ra
hình thức dạy học là cần thiết. Bởi đó là cơ sở để việc dạy học bài này đạt
hiệu quả cao nhất.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: Dạy học bài
"Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân" trong sách giáo khoa Ngữ văn
11 theo quan điểm tích cực.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu quan điểm tích cực trong dạy học
Cho đến nay, có rất nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu về vấn đề phát

huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học.
Trong bài Bàn về phương pháp giáo dục tích cực, GS. Phạm Viết Vượng
nhấn mạnh “Phải lấy người học làm trung tâm như một quan điểm giáo dục
đào tạo, cốt lõi của nó là vì học sinh, bởi học sinh” [20, 22] (Tạp chí Nghiên
cứu giáo dục số tháng 8/1995).
Trong bài Đổi mới phương pháp tích cực hoá hoạt động của học sinh,
tác giả Lê A cũng nhấn mạnh “Tư tưởng dạy học tích cực lấy người học làm


3

trung tâm cần được hiểu như một quan điểm, một cách tiếp cận quá trình dạy
học. Quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm không có nghĩa là
chúng ta bỏ đi những phương pháp dạy học truyền thống mà chúng ta cần
phát triển nó, vận dụng nó trên quan điểm mới này” [2, tr.37].
Trong cuốn Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình và
sách giáo khoa Ngữ văn 10 trung học phổ thông môn Ngữ văn, sau khi đưa ra
những vấn đề chung về đổi mới giáo dục phổ thông, cuốn sách đã đi vào
những hướng dẫn về đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn theo hướng phát
triển tính tích cực, chủ động của học sinh.
Cũng bàn về quan điểm tích cực, tác giả Đỗ Ngọc Thống trong cuốn
Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa trung học phổ thông đã nhấn mạnh:
“Phương pháp dạy học mới đòi hỏi phải phát huy tính tích cực, chủ động của
học sinh trong khi học tập ở lớp, ở nhà và khi giải các bài tập, làm các bài
văn. Cần học tập các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học cụ thể
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh mà nhiều nước trên thế giới đã vận
dụng có hiệu quả... Phải phát huy tối đa tính tích cực, tính sáng tạo của học
sinh - chủ thể học tập ở tất cả mọi khâu từ chuẩn bị bài, sưu tầm tư liệu, phát
biểu trong tổ, nhóm, tự đánh giá và đánh giá bạn... tính tích cực trong học tập
Ngữ văn dễ thể hiện thành bề nổi của phong trào song cần phải chú ý cả bề

sâu” [134]. Theo đó, tác giả chỉ ra bảy đặc điểm và yêu cầu của việc dạy học
theo hướng tích cực.
Có thể nói, những nhận xét trên đã nêu ra những chỉ dẫn cụ thể về
quan điểm dạy học này. Đó là cơ sở để giáo viên có thể vận dụng vào thực tế
giảng dạy cho tất cả các hợp phần của môn Ngữ văn ở THPT.
2.2. Lịch sử nghiên cứu việc dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời
nói cá nhân theo quan điểm tích cực
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có nhiều công trình nghiên cứu,
nhiều bài viết đề cập đến dạy học theo quan điểm tích cực. Tuy nhiên việc
vận dụng quan điểm ấy vào từng bài học cụ thể dường như chưa được chú


4

trọng. Không là ngoại lệ, dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân
trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 theo quan điểm tích cực, cũng chưa được
quan tâm. Vấn đề này được đề cập tới trong SGK Ngữ văn 11 (tập 1), SGV,
tài liệu bồi dưỡng giáo viên nhưng việc vận dụng như thế nào thì các công
trình trên chưa trình bày cụ thể.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tìm ra một hướng dạy học bài Từ
ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân đạt hiệu quả, từ đó có thể vận dụng vào
các bài dạy Tiếng Việt theo quan điểm này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi xác định đề tài nghiên cứu có những nhiệm vụ sau:
Hệ thống hoá các tài liệu nghiên cứu để xác định cơ sở lí luận và cơ sở
thực tiễn của đề tài.
Áp dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động của
học sinh vào dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân trong sách

giáo khoa Ngữ văn 11.
Tổ chức thực nghiệm và rút ra kết luận khoa học.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tổ chức dạy học theo hướng tích
cực, chủ động của học sinh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này được triển khai trong phạm vi bài Từ ngôn ngữ chung đến
lời nói cá nhân trong sách giáo khoa Ngữ văn 11.
5. Phương pháp nghiên cứu
Triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:


5

5.1. Phương pháp thống kê
Phương pháp này được dùng trong việc phân loại và phân tích kết quả
khảo sát thực trạng của học sinh trước khi tiến hành thực nghiệm, phân tích
kết quả thực nghiệm.
5.2. Phương pháp hệ thống hoá
Phương pháp này dùng để hệ thống hoá các cơ sở lí luận về dạy học
tích cực, các tri thức có liên quan tới ngôn ngữ chung, lời nói cá nhân.
5.3. Phương pháp quan sát
Phương pháp này dùng để quan sát điều tra, đánh giá thái độ, không khí
học tập của học sinh.
5.4. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp này sử dụng để kiểm chứng dưới hình thức thiết kế giáo
án và tổ chức thực nghiệm để kiểm chứng tính khả thi của thiết kế, từ đó rút
ra những kết luận và điều chỉnh thiết kế.
6. Đóng góp của khoá luận

Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm một hình thức dạy học phù hợp với
thực tế dạy học Ngữ văn ở THPT và dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời
nói cá nhân trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 đạt hiệu quả cao nhất.
7. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung được
khai triển thành ba chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn dạy học bài Từ ngôn ngữ chung
đến lời nói cá nhân trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 theo quan điểm tích cực.
Chương 2. Dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân trong
sách giáo khoa Ngữ văn 11 theo quan điểm tích cực.
Chương 3. Thực nghiệm.


6

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN DẠY HỌC
BÀI TỪ NGÔN NGỮ CHUNG ĐẾN LỜI NÓI CÁ NHÂN
TRONG SGK NGỮ VĂN 11 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH CỰC

1.1. Quan điểm tích cực trong dạy học
1.1.1. Tính tích cực và tính tích cực trong học tập
Tính tích cực là một phẩm chất của con người trong đời sống xã hội. Vì
thế, hình thành và phát triển tính tích cực là một trong các nhiệm vụ chủ yếu
của giáo dục, nhằm đào tạo những con người năng động thích ứng và góp
phần phát triển cộng đồng. Tính tích cực là điều kiện, đồng thời là kết quả của
sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.
Tính tích cực học tập được biểu hiện cụ thể ở hoạt động nhận thức, đặc
trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong quá trình

chiếm lĩnh tri thức. Đó là những cơ sở cần thiết nhằm làm chuyển biến vị trí
của người học từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm hiểu tri thức, để
nâng cao hiệu quả học tập.
Tính tích cực học tập liên quan trước hết tới động cơ học tập. Động cơ
đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là
hai yếu tố tâm lí tạo nên tính tích cực. Tính tích cực học tập có quan hệ chặt
chẽ với tư duy độc lập. Suy nghĩ, tư duy độc lập là mầm mống của sáng tạo.
Ngược lại học tập độc lập tích cực, sáng tạo sẽ phát triển tính tự giác hứng thú
và nuôi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu
hiệu như: Tập trung chú ý vào nội dung bài học, ghi chép đầy đủ, có ý thức tự
giác tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài, có sáng tạo trong quá trình học
tập, trao đổi thảo luận về vấn đề giáo viên đưa ra, hiểu bài và biết vận dụng
những tri thức thu được vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn...


7

1.1.2. Đặc điểm của phương pháp dạy học tích cực
Về bản chất phương pháp dạy học tích cực hướng đến việc hoạt động
hoá, tích cực hoá hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào
phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy
tính tích cực của người dạy. Theo đó, nó có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, dạy học tích cực phải thông qua tổ chức hoạt động của học
sinh. Trong dạy học tích cực, học sinh vừa là đối tượng của hoạt động dạy,
vừa là chủ thể của hoạt động học do giáo viên tổ chức và chỉ đạo. Nhờ đó,
học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức chứ không phải là tiếp thu thụ động
những kiến thức một chiều từ phía giáo viên. Học sinh trực tiếp quan sát, thảo
luận nội dung học tập và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống giúp các em hình
thành nên kỹ năng, kỹ xảo.
Hơn nữa, dạy học tích cực đòi hỏi giáo viên phải tăng cường hoạt động

học tập của mỗi cá nhân, phối hợp với học tập hợp tác. Dưới sự hướng dẫn
của giáo viên, học sinh được chủ động lựa chọn vấn đề mà mình quan tâm,
ham thích, tự lực tiến hành nghiên cứu, giải quyết vấn đề và trình bày kết quả.
Đó là đặc trưng “lấy học sinh làm trung tâm”.
Vì thế, dạy và học tích cực chú trọng đến sự quan tâm và hứng thú của
học sinh, nhu cầu và lợi ích của xã hội. Trong quá trình dạy học, giáo viên
phải chú trọng đến sự quan tâm và hứng thú của học sinh, nhu cầu, lợi ích của
xã hội nhằm phát huy cao độ tính tích cực, tự lực, rèn luyện cho học sinh cách
làm việc độc lập, phát triển tư duy sáng tạo, kỹ năng tổ chức công việc, trình
bày kết quả.
Mặt khác, khi dạy học, giáo viên cần quan tâm đến sự phân hoá về trình
độ nhận thức của mỗi học sinh. Trên cơ sở đó xây dựng các nhiệm vụ học tập
để người học có điều kiện bộc lộ, phát triển khả năng của mình. Bên cạnh đó
cần phối hợp với học tập hợp tác, đặt các em vào các mối quan hệ thầy trò, trò


8

trò. Qua đó các em được học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm, đồng thời hình thành
và phát triển năng lực của bản thân.
Khi tổ chức các hoạt động dạy và học, giáo viên cũng phải chú trọng
tới việc hướng dẫn tìm tòi. Qua đó, học sinh phát triển kỹ năng giải quyết vấn
đề và nhấn mạnh rằng học sinh có thể học được phương pháp học thông qua
hoạt động. Căn cứ vào nhận thức của các em, người dạy có thể hướng dẫn
hoặc điều chỉnh những nhận thức chưa đúng để các em tiếp tục phát huy khả
năng tìm tòi của bản thân, nhằm đạt kết quả cao trong học tập.
Dạy học tích cực đòi hỏi kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của
trò. Trong dạy học tích cực, giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát triển kỹ
năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Đây là hoạt động cần thiết cho sự
thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường trang bị cho học sinh. Từ đó, để tạo

được những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội. Ngoài
việc kiểm tra đánh giá kiến thức ở học sinh thì giáo viên cần khuyến khích trí
thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống trong cuộc sống.
1.1.3. Các mức độ tích cực và các yếu tố ảnh hưởng tới tính tích cực
1.1.3.1. Tính tích cực học tập của học sinh được thể hiện ở ba cấp độ
Bắt chước: Nghĩa là học sinh cố gắng thực hiện theo những mẫu hành
động của thầy, của bạn... Đây là cấp độ thấp nhất, là biểu hiện đầu tiên trong
tính tích cực của học sinh. Ở cấp độ này các em mới chỉ biết làm theo những
mẫu, những định đề có sẵn, chưa có biểu hiện của những tìm tòi, sáng tạo mới
trong học tập. Tính tích cực của các em cần được phát huy cao hơn nữa.
Tìm tòi: Nghĩa là học sinh độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm
cách giải quyết khác nhau về một vấn đề... Ở cấp độ này tính tích cực của học
sinh đã phát triển cao hơn cấp độ bắt chước. Học sinh đã chủ động, độc lập
suy nghĩ, tìm cách giải quyết vấn đề dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Sáng tạo: Nghĩa là học sinh tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu
hiệu. Đây là cấp độ cao nhất của tích cực. Học sinh phát huy toàn bộ năng lực


9

trí tuệ, tư duy sáng tạo của mình để giải quyết tình huống đặt ra. Tính tích cực
của học sinh đạt tới mức độ này giờ học sẽ đạt kết quả cao, tạo không khí lớp
học sôi nổi.
1.1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới tính tích cực của học sinh
Yếu tố thứ nhất là bản thân học sinh. Vì học sinh là chủ thể của hoạt
động học tập cho nên các em là yếu tố quan trọng, trực tiếp chi phối tới hoạt
động dạy học tích cực. Nó được thể hiện ở đặc điểm hoạt động của trí tuệ. Tri
giác học sinh lứa tuổi thanh niên có mục đích, có kế hoạch, toàn diện hơn so
với lứa tuổi thiếu niên. Từ đó, tính lựa chọn, ý nghĩa ổn định tăng lên rõ rệt. Trí
nhớ có chủ định, đặc biệt là trí nhớ trừu tượng phát triển mạnh, ghi nhớ ý

nghĩa chiếm vị trí quan trọng. Học sinh xác định được tài liệu phải học thuộc
lòng, tài liệu nào phải diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình.
Trong học tập, chú ý có chủ định chiếm ưu thế. Sự tập trung có chú ý,
sự di chuyển của chú ý, khối lượng chú ý tăng lên rõ rệt. Do vậy cần tổ chức
giờ học sao cho có nội dung thích hợp, phù hợp với nhận thức của học sinh.
Điều đó đòi hỏi tư duy trừu tượng cũng chiếm ưu thế. Đó là loại tư duy hướng
vào giải quyết những nhiệm vụ lí luận bằng cách sử dụng khái niệm, kết cấu
lôgic, thao tác tư duy. Như vậy, trí tuệ của học sinh ổn định hơn do nắm vững
hệ thống các khái niệm của các môn học, học sinh có ý thức và sử dụng các
thao tác trí tuệ để giải quyết nhiệm vụ học tập.
Yếu tố thứ hai là đặc điểm về hoạt động học tập. Hoạt động học tập của
học sinh đòi hỏi tính năng động và tính độc lập ở mức độ cao hơn. Học sinh
học tập nghiêm túc và có trách nhiệm, thái độ đối với môn học trở nên có lựa
chọn. Ở các em hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp.
Yếu tố thứ ba là đặc điểm về ý thức và sự giao tiếp của học sinh. Học
sinh ở lứa tuổi này thường cho rằng bản thân đã trưởng thành.Vì thế, các em
luôn mong được người lớn thừa nhận. Các em mong muốn được người lớn


10

tôn trọng, thừa nhận, tin tưởng vào tính độc lập của mình. Mặt khác, trong
nhà trường, các em được sinh hoạt cùng nhau, cảm thấy mình cần cho nhóm,
có uy tín và có vị trí nhất định trong nhóm nên quan hệ bạn bè rất quan trọng.
Giáo viên cần biết tạo điều kiện cho học sinh phát triển quan hệ giao tiếp, hợp
tác tập thể và biết uốn nắn học sinh theo hướng phục vụ mục tiêu giáo dục, có
phương pháp dạy học phù hợp giúp các em lĩnh hội kiến thức mới hiệu quả
nhất. Như vậy, gia đình và xã hội là yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới tính tích cực
của học sinh. Nếu gia đình là môi trường nhỏ tạo điều kiện, có nền nếp và
truyền thống học tập nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các em, còn xã hội là

môi trường lớn để các em học tập, phát huy năng lực của mình. Từ đó việc
phát huy tính tích cực của học sinh cần phải có kế hoạch lâu dài và toàn diện
khi phối hợp hoạt động của gia đình, nhà trường và xã hội.
1.1.4. Ý nghĩa của quan điểm tích cực trong dạy học tiếng Việt
Vận dụng quan điểm tích cực vào trong quá trình giảng dạy đem lại
hứng thú, niềm vui học tập cho người học. Giờ học sinh động, tiết kiệm thời
gian. Phần lớn học sinh có thể tham gia vào các hoạt động hệ thống hoá kiến
thức mới một cách trực quan, khái quát. Từ đó, các em có thể phát huy khả
năng tư duy lôgic, khoa học, tăng cường khả năng ghi nhớ thông qua quá
trình nhớ lại kiến thức đã học và củng cố kiến thức mới. Còn giáo viên với vai
trò là người tổ chức điều khiển hoạt động lĩnh hội kiến thức của học sinh sẽ
phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo chuyên môn của bản thân. Điều này đòi hỏi
giáo viên có một cách nhìn nhận mới, cách suy nghĩ mới về công việc, về mối
quan hệ của giáo viên với học sinh. Bên cạnh đó cần khai thác động lực học
tập ở người học để phát triển chính họ, coi trọng lợi ích, nhu cầu của cá nhân
để chuẩn bị tốt nhất cho họ thích nghi với đời sống xã hội.
1.2. Ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân
1.2.1. Ngôn ngữ chung
Ngôn ngữ là tài sản chung của một dân tộc, một cộng đồng xã hội (có
thể bao gồm những người cùng một dân tộc, hoặc thuộc các dân tộc khác


11

nhau). Muốn giao tiếp với nhau, xã hội phải có phương tiện chung, trong đó
phương tiện quan trọng nhất là ngôn ngữ. Phương tiện đó vừa giúp cho mỗi
cá nhân trình bày những nội dung mà mình muốn biểu hiện, vừa giúp họ lĩnh
hội được lời nói của người khác. Cho nên, mỗi cá nhân đều phải tích luỹ và
biết sử dụng ngôn ngữ chung của cộng đồng xã hội.
Ngôn ngữ chung là ngôn ngữ được một cộng đồng xã hội sử dụng

thống nhất để giao tiếp. Với người Việt, ngôn ngữ chung là tiếng Việt, “thứ
của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc” (Hồ Chí Minh).
Ngôn ngữ chung được thể hiện cụ thể qua hệ thống các đơn vị, các quy
tắc, các chuẩn mực xác định về ngữ âm, chữ viết, từ vựng và ngữ pháp. Từ
đó, mọi thành viên của dân tộc, của cộng đồng phải có vốn hiểu biết về các
đơn vị chung ấy. Có như vậy, việc sử dụng ngôn ngữ vào giao tiếp mới diễn
ra thuận lợi, thông suốt.
Muốn có vốn hiểu biết về ngôn ngữ chung, nhất thiết phải thường
xuyên học hỏi. Có hai cách học hỏi chủ yếu: một là học qua giao tiếp tự
nhiên, hàng ngày; hai là học qua nhà trường, sách vở, báo chí. Qua giao tiếp
tự nhiên, hàng ngày con người học ngôn ngữ chung theo kênh âm thanh. Đó
là ngôn ngữ chung tồn tại ở một dạng, theo biến thể trong từng địa phương cụ
thể. Tích luỹ vốn ngôn ngữ tự nhiên này thường mang tính chất kinh nghiệm,
được hình thành và phát triển hai kỹ năng quan trọng: nói và nghe. Qua nhà
trường, sách vở, báo chí... con người học tiếp cận ngôn ngữ chung với tư cách
ngôn ngữ văn hoá. Với ngôn ngữ văn hoá, được hình thành và phát triển theo
theo kênh lời giảng ở lớp, lời phát biểu ở các hội nghị, hội thảo, diễn thuyết...
thông qua hệ thống ký tự chữ viết. Theo đó, vốn ngôn ngữ tích luỹ được là
nhờ vào hai kỹ năng quan trọng khác: viết và đọc.
Ngôn ngữ chung là căn cứ để mọi người trong xã hội sử dụng và giao
tiếp với nhau. Con người sẽ mở rộng vốn ngôn ngữ của mình qua thời gian,
qua tích luỹ...


12

Tóm lại phải biết học tập suốt đời để có kiến thức đầy đủ về ngôn ngữ
chung, để hoàn thiện các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ nhất là kỹ năng viết và
nói - hai kỹ năng có vai trò quyết định đối với việc tạo lập lời nói cá nhân.
1.2.2. Lời nói cá nhân

Từ ngôn ngữ chung, mỗi cá nhân vận dụng vào hoạt động giao tiếp và
tạo ra lời nói cá nhân. Khi giao tiếp với nhau, mỗi cá nhân vận dụng những
hiểu biết chung về cách sử dụng ngôn ngữ để tạo ra lời nói đáp ứng nhu cầu
giao tiếp. Như vậy, lời nói của mỗi cá nhân vừa được tạo ra nhờ các yếu tố và
quy tắc, phương thức chung, vừa có sắc thái riêng và phần đóng góp của cá
nhân. Về bản chất, đó là sản phẩm của mỗi người khi sử dụng ngôn ngữ
chung làm công cụ giao tiếp trong tình huống cụ thể.
Trong giao tiếp, lời nói cá nhân được biểu hiện cụ thể qua các đặc trưng
sau:
Thứ nhất, lời nói cá nhân được thể hiện qua giọng điệu riêng của mỗi
người. Khi nói, giọng mỗi người có vẻ riêng không giống người khác, vì thế
mà ta nhận ra người quen khi không nhìn thấy mặt. VD: Trong văn học, ta
thấy Nguyễn Khuyến có giọng điệu nhẹ nhàng thâm thuý, Tú Xương thì ồn ào
cay độc.
Biểu hiện tiếp theo của lời nói cá nhân đó là cách diễn đạt riêng của
mỗi người. Nó góp phần tạo nên phong cách ngôn ngữ của mỗi nhà văn.VD:
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã nhận xét: “Chưa bao giờ người ta
thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như
Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược
Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ vĩ như Chế Lan
Viên, thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”.
(Thi nhân Việt Nam - tr.31)
Từ cách diễn đạt riêng và giọng điệu riêng của mỗi người sẽ tạo ra
những dấu ấn riêng của mỗi cá nhân, không thể trộn lẫn với người khác.


13

Lời nói cá nhân được con người tạo ra trên cơ sở ngôn ngữ chung
nhưng có tính sáng tạo. Từ ngữ là vốn chung, quen thuộc của toàn xã hội,

nhưng ở lời nói cá nhân có sự chuyển đổi sáng tạo trong nghĩa từ, trong kết
hợp từ ngữ, trong việc tách từ, gộp từ, chuyển loại từ hoặc mang sắc thái
phong cách. VD1: Trong câu thơ của Xuân Diệu
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
(Vội vàng)
Từ "buộc" được chuyển nghĩa (chỉ mong muốn không có gió hoặc gió
ngừng thổi) nên kết hợp được với từ gió.
VD2: Các từ: Bướm chán ong chường, dày gió dạn sương, bướm lả ong
lơi... (Nguyễn Du) được Nguyễn Du sáng tạo nhờ sử dụng biện pháp tách từ.
Trong văn chương nghệ thuật, dấu ấn cá nhân được trau chuốt thành lời
nói và phong cách nghệ thuật. Nhà văn Tô Hoài đã nói: “Từ lúc mới cầm bút
viết một câu muốn định cho nó là một việc nghệ thuật, thì trong con người
mình đã phải trải hai lần nghĩ. Một lần nghĩ ra cái ý ấy, một lần nắm lấy cái ý
ấy mà tìm chữ nghĩa để đặt bút xuống. Trong sáng tạo nghệ thuật, ta phải
vượt hai lần sáng tạo. Lúc đầu không mấy ai có ý thức ấy. Nhưng dần dần về
sau, viết càng quen thì cả thói quan lẫn lương tâm ngòi bút mình đã tìm ra cái
lần sáng tạo thứ hai. Từ khi biết như thế thì việc tìm chữ nghĩa đối với tôi trở
thành một cái ham mê kích thích, trở thành những cái khó, cái khổ, cái sợ.
Cầm bút viết không lúc nào không lo. Một chữ phải là một hạt ngọc trên
trang bản thảo, phải là hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách
văn chương mình mà có được. Trang sách này không có ngọc, trong bản thảo
không có chữ thần, không có tinh hoa thì cái hồn tác phẩm, từ tư tưởng đến
nhân vật, tất cả bao nhiêu ước vọng, khát khao ta gửi gắm vào sáng tác biết
lấy gì mà sống được. Không có chữ nuôi nó, nó trống rỗng rồi chết héo đi.
Nghĩ đến sáng tác nghèo nàn còi cọc bao giờ cũng giật mình”.
(Tạp chí Văn học - Số phát hành 07/12/1988, tr.14)


14


Như vậy thông qua lời nói cá nhân, những “hạt ngọc mới nhất” ấy góp
phần làm phong phú thêm ngôn ngữ chung, thúc đẩy ngôn ngữ chung phát triển.
1.2.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân
Có thể nhận thấy, về bản chất mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời
nói cá nhân là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, là mối quan hệ giữa
cái khái quát và cái cụ thể. Ngôn ngữ chung là cơ sở để mỗi cá nhân sản sinh
ra lời nói cụ thể nhằm thực hiện nhiệm vụ giao tiếp. Lời nói như là sự hiện
thực hoá các yếu tố và quy tắc của ngôn ngữ chung. Ngôn ngữ chung luôn
luôn tồn tại trong lời nói cá nhân. Mặt khác, khi cá nhân tiếp nhận lời nói của
người khác thì cũng phải dựa vào ngôn ngữ chung để lí giải và lĩnh hội lời nói.
Lời nói cá nhân là thực tế sinh động, vừa hiện thực hoá ngôn ngữ
chung, vừa tạo ra những khả năng sáng tạo, chuyển đổi và làm cho ngôn ngữ
chung phát triển. VD: Trong câu thơ:
“Có manh áo cộc tre nhường cho con”
(Nguyễn Duy - Tre Việt Nam)
Trong câu thơ trên, tác giả đã dùng ngôn ngữ chung (8 tiếng) đã được
hiện thực hoá theo quy tắc cấu tạo ngữ động từ, ngữ danh từ, quy tắc cấu tạo
câu với hai thành phần chính (chủ ngữ và vị ngữ), và một thành phần trạng
ngữ chỉ tình huống. Tuy nhiên, nét riêng của Nguyễn Duy được thể hiện rõ
khi tác giả đã sáng tạo từ áo (chỉ cái bẹ mo nang) và khi dùng từ con (chỉ cây
măng - tre non mới mọc). Những sáng tạo riêng ấy làm các từ áo và con có
thêm các nghĩa mới, nếu các nghĩa đó được nhiều người sử dụng một cách ổn
định thì sẽ đi vào ngôn ngữ chung.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Nội dung chương trình, bài dạy
1.3.1.1. Nội dung chương trình
Theo phân phối chương trình, bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá
nhân được triển khai trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, và được dạy trong hai tiết.



15

1.3.1.2. Nội dung bài dạy
Nội dung bài học Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân gồm 3 phần chính:
* Ngôn ngữ - tài sản chung của xã hội.
Ngôn ngữ - tài sản chung của một cộng đồng xã hội (một dân tộc hay
một số dân tộc). Nó là phương tiện giao tiếp, là công cụ tư duy chung của cả
cộng đồng xã hội.
Cho học sinh chỉ ra tính chung trong ngôn ngữ của cộng đồng biểu hiện
qua các phương diện nào. Sau đó học sinh trả lời.
Trong thành phần của ngôn ngữ có những yếu tố chung cho tất cả mọi
cá nhân trong cộng đồng. Mỗi cá nhân đều cần tích luỹ những yếu tố chung
đó và biết sử dụng chúng để tạo nên lời nói, đáp ứng nhu cầu biểu hiện nội
dung và giao tiếp với người khác. Những yếu tố chung bao gồm:
Các âm và các thanh (nguyên âm, phụ âm, thanh điệu).
Các tiếng (âm tiết) do sự kết hợp của các âm và thanh theo những quy
tắc nhất định.
Các từ và ngữ cố định.
Tính chung còn thể hiện ở các quy tắc và phương thức chung trong việc
cấu tạo và sử dụng các đơn vị ngôn ngữ. Các quy tắc và phương thức này
được hình thành dần trong lịch sử phát triển của một ngôn ngữ và cần được
mỗi cá nhân tiếp nhận và tuân theo nếu muốn cho sự giao tiếp với cộng đồng
đạt được hiệu quả. Đó là:
Quy tắc cấu tạo các biểu câu.
Phương thức chuyển nghĩa từ: chuyển từ nghĩa gốc sang nghĩa phái sinh.
VD: Chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ đối với các từ chỉ trạng thái
của quả cây (non, già, chín) sang chỉ các mức độ của sự đo lường (non một
cân, già một cân), chỉ các mức độ của nhận thức, trí tuệ (suy nghĩ còn non,
suy nghĩ đã chín, suy nghĩ già dặn).



16

* Lời nói - sản phẩm riêng của cá nhân.
Dựa vào phần I, ngôn ngữ chung là tài sản của toàn xã hội, học sinh chỉ
ra lời nói cá nhân và các phương diện thể hiện câu riêng ấy.
Lời nói (ở dạng nói hoặc viết) được cá nhân tạo ra trên cơ sở những yếu
tố chung và quy tắc chung. Trong lời nói cá nhân, vừa có sự hiện thực hoá của
ngôn ngữ chung, vừa có sự thể hiện của cái riêng. Cái riêng thể hiện ở một số
phương diện chủ yếu sau:
Giọng nói cá nhân, không lẫn lộn với người khác.
Vốn từ ngữ cá nhân.
Sự chuyển đổi sáng tạo khi sử dụng từ ngữ: chuyển nghĩa từ, chuyển
đổi hình thức từ ngữ, chuyển loại từ, chuyển đổi trong sự kết hợp từ... theo
những quy tắc và phương thức chung của ngôn ngữ.
Việc tạo ra các từ mới trên cơ sở nguyên liệu sẵn có và phương thức
vốn có.
Việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quy tắc và phương thức chung
trong cấu tạo ngữ và câu, trong cấu tạo lời nói nói chung.
* Mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân.
Ngôn ngữ chung là cơ sở để mỗi cá nhân sản sinh ra những lời nói cụ
thể của mình, đồng thời lĩnh hội được lời nói của cá nhân khác. Muốn tạo ra
lời nói (khi nói, khi viết) để thoả mãn nhu cầu biểu hiện và giao tiếp trong
những tình huống cụ thể, mỗi cá nhân phải huy động các yếu tố ngôn ngữ
chung và vận dụng các quy tắc và phương thức chung. Mặt khác khi nghe, khi
đọc mỗi cá nhân cần tiếp nhận, tìm hiểu, lĩnh hội nội dung và mục đích giao
tiếp trong lời nói của người khác, lúc đó cá nhân cũng cần dựa trên cơ sở
những yếu tố chung, những quy tắc và phương thức chung thuộc ngôn ngữ
của cộng đồng xã hội.

Lời nói cá nhân là thực tế sinh động hiện thực hoá những yếu tố chung
những quy tắc và phương thức chung của ngôn ngữ.


17

VD: Quy tắc cấu tạo câu đơn gồm ba phần:
Trạng ngữ - Chủ ngữ - Vị ngữ được hiện thực hoá qua câu thơ đầu tiên
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.
Chính những sự biến đổi và chuyển hoá diễn ra trong lời nói cá nhân
dần góp phần hình thành và xác lập những cái mới trong ngôn ngữ, nghĩa là
làm cho ngôn ngữ chung phát triển
1.3.2. Điều tra giáo viên và học sinh
1.3.2.1. Điều tra khảo sát giáo viên
* Phát phiếu thăm dò giáo viên
Để đánh giá thực trạng dạy học, chúng tôi tiến hành điều tra thăm dò ý
kiến giáo viên xoay quanh khi dạy bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân
trong sách giáo khoa Ngữ văn 11.
Phiếu điều tra được phát cho giáo viên tổ Văn, Trường THPT Nguyễn
Huệ, tỉnh Yên Bái. Nội dung phiếu xoay quanh vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học nói chung và dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân nói
riêng, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Nội dung gồm 3
câu hỏi cụ thể sau:
Đồng chí vui lòng cho biết một số ý kiến xung quanh vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học nói chung và dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời
nói cá nhân nói riêng nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
Câu 1: Đồng chí có nhận xét gì về sự khác biệt về phương pháp dạy
học cũ với phương pháp dạy học mới?

Câu 2: Đồng chí có nhận xét gì về ưu điểm và nhược điểm của dạy học
theo quan điểm tích cực khi dạy bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân.
Câu 3: Khi dạy bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân theo hướng
tích cực, đồng chí lựa chọn những phương pháp và thủ pháp nào?


18

Qua điều tra thống kê chúng tôi nhận thấy:
Về câu 1, đa số giáo viên nhận xét:
Phương pháp dạy học cũ: Giáo viên đóng vai trò quan trọng, chủ động,
tích cực trong việc dạy học. Trong giờ học chủ yếu giáo viên làm việc giảng
bài, học sinh thụ động tiếp thu kiến thức và làm theo mẫu một cách thuần
thục, học sinh ít được thực hành và rèn luyện kỹ năng.
Phương pháp dạy học mới: Giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn,
điều khiển hoạt động học tập của học sinh. Học sinh phát huy tính tích cực,
chủ động của mình. Trong giờ học, học sinh được bày tỏ quan điểm, đưa ra
những cách hiểu khác nhau và các em được thực hành giao tiếp nhiều hơn.
Ở câu 2, đa số giáo viên nhận xét:
Ưu điểm: Sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh, thu
hút được học sinh tích cực tham gia vào quá trình tìm hiểu và lĩnh hội tri thức
mới, phát huy cá tính sáng tạo của các em. Không khí lớp học sôi nổi và tạo
nên tinh thần đoàn kết giữa các em.
Nhược điểm: Tốn nhiều thời gian và công sức của giáo viên khi soạn
giáo án, nhiều học sinh có tính ỷ lại, không thực sự nhiệt tình trong những câu
hỏi cho các em thảo luận.
Với câu 3, đa số giáo viên lựa chọn các phương pháp:
Phương pháp phân tích ngôn ngữ.
Phương pháp thảo luận nhóm.
Phương pháp vấn đáp.

Thủ pháp so sánh, đối chiếu.
* Dự giờ giáo viên
Kết hợp với việc phát phiếu thăm dò điều tra, chúng tôi tiến hành dự
giờ giáo viên khi dạy bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân để đánh giá
kết quả về việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực của giáo viên. Qua dự
giờ chúng tôi nhận thấy:


19

Đa số giáo viên đi theo trình tự của SGK: Đưa ra ngữ liệu để học sinh
phân tích, từ đó rút ra kiến thức bài học.
Giáo viên vẫn còn phụ thuộc vào hệ thống ngữ liệu trong SGK, ít cung
cấp ngữ liệu ngoài cho học sinh. Điều này khiến giáo viên gặp hạn chế trong
quá trình giảng dạy và học sinh khó nắm kỹ kiến thức.
Khi dạy học, giáo viên chủ yếu sử dụng các phương pháp dạy học
truyền thống, cung cấp kiến thức cho học sinh một chiều, phụ thuộc vào sách
giáo khoa nên bài dạy chưa thật sự sinh động, không gây được hứng thú đối
với học sinh.Việc tổ chức luyện tập thực hành cho học sinh còn nhiều hạn
chế, do sự chi phối về thời gian dạy.
Như vậy, qua khảo sát và dự giờ giáo viên chúng tôi thấy việc dạy học
tiếng Việt ở trường THPT hiện nay thường rơi vào tình trạng dạy học máy
móc, ít sáng tạo. Mặc dù có nhiều giáo viên phát hiện ra trọng tâm của bài học
và sự lựa chọn những phương pháp dạy học, song hiệu quả giờ học chưa cao
do phương pháp mà giáo viên lựa chọn chưa phù hợp với đối tượng học sinh.
Khi dự giờ chúng tôi nhận thấy có nhiều học sinh chưa chú ý đến bài giảng
của giáo viên, không tham gia xây dựng bài, còn nói chuyện trong giờ học.
Chính điều này ảnh hưởng rất lớn tới việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kỹ
năng giao tiếp cho học sinh.
1.3.2.2. Điều tra, khảo sát đối tượng học sinh

* Điều tra thái độ, không khí học tập của học sinh
Đối tượng điều tra, khảo sát là học sinh lớp 11A3 Trường Trung học
phổ thông Nguyễn Huệ - tỉnh Yên Bái. Chúng tôi tiến hành khảo sát về thái
độ, không khí học tập của học sinh trong quá trình dự giờ giáo viên.
Qua dự giờ chúng tôi nhận thấy, có những tiết học học sinh đã tích cực
làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên có nhiều kinh nghiệm, có trình độ


×