Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Nhân vật trong tiểu thuyết ăn mày dĩ vàng của chu lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.36 KB, 87 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
----------------------------

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu tác giả khóa luận nhận được sự hướng dẫn,
VŨ NGỌC
giúp đỡ, động viên của các thầy,
cô giáoCHINH
và các bạn sinh viên. Sự nhiệt tình

đó giúp tôi hoàn thiện khoá luận tốt nghiệp với đề tài: “Nhân vật trong tiểu
thuyết “Ăn mày dĩ vãng” của Chu Lai”.
Tác giả khóa luận xin bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn sâu sắc tới
các thầy, cô giáo. Đặc biệt là TS.GVC. Nguyễn Thị Kiều Anh – người trực
tiếp hướng dẫn, đã chỉ bảo tận tình, giúp tác giả khóa luận hoàn thành khóa

NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
“ĂN MÀY
DĨkhóa
VÃNG”
CHU
LAI
Tác giả
luận xin chânCỦA
thành cảm
ơn!


luận tốt nghiệp này.

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2011

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐẠI HỌC
Tác giả khóa luận
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Người hướng dẫn khoa học
Vũ Ngọc Chinh

TS.GVC. NGUYỄN THỊ KIỀU ANH

Vũ Ngọc Chinh

HÀ NỘI
3 – 2011

K33C - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung được trình bày trong khóa luận tốt
nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của
TS.GVC. Nguyễn Thị Kiều Anh.
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu này.


Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2011
Tác giả khóa luận

Vũ Ngọc Chinh

Vũ Ngọc Chinh

4

K33C - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................07
2. Lịch sử vấn đề ..............................................................................08
3. Mục đích nghiên cứu .....................................................................04
4.Đối tượng và phạm vi đề tài nghiên cứu .........................................04
5. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................04
6. Bố cục của khóa luận ....................................................................04
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Một số vấn đề lí luận về nhân vật và hành trình sáng tác
của nhà văn Chu Lai
1.1. Nhân vật văn học .......................................................................05
1.1.1. Khái niệm nhân vật .................................................................05
1.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học ..........................08
1.1.3. Các loại nhân vật trong tác phẩm văn học ...............................10

1.2. Vài nét về nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới .12
1.3. Hành trình sáng tác của nhà văn Chu Lai ...................................15
CHƯƠNG 2: Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng” của
Chu Lai
2.1. Nhân vật đa diện ........................................................................18
2.2. Nhân vật tâm linh ......................................................................24
2.3. Nhân vật bi kịch .........................................................................26
2.4. Nhân vật bản năng .....................................................................36
2.5. Nhân vật cơ hội .........................................................................39

Vũ Ngọc Chinh

5

K33C - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết “Ăn mày
dĩ vãng” của Chu Lai
3.1. Nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật ...................................43
3.2. Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật .............................54
3.2.1. Miêu tả tâm trạng qua hình ảnh thiên nhiên cảnh vật .............54
3.2.2. Miêu tả tinh tế diễn biến tâm lí nhân vật .................................57
3.3. Ngôn ngữ nhân vật ....................................................................64
3.3.1. Ngôn ngữ đối thoại .................................................................65
3.3.2. Ngôn ngữ độc thoại ................................................................72
KẾT LUẬN ...............................................................................................81
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….. 83


Vũ Ngọc Chinh

6

K33C - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Chu Lai có tên khai sinh là Chu Ân Lai. Sinh ngày 05/02/1946 tại
xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên. Hiện đang sống ở Hà Nội,
ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội viên hội nhà văn Việt Nam
(từ năm 1980).
1.2. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Chu Lai vốn là anh
lính đặc công, ngót nghét chục năm cầm súng trực tiếp ở vùng ven Sài Gòn.
Ông chỉ thực sự cầm bút khi chiến tranh đã kết thúc. Cái thời gian cầm súng
thực sự quý giá cho những ngày cầm bút sau này của Chu Lai. Sau chiến
tranh ông cầm bút như một lời tri ân với những ngày cầm súng đã qua. Tác
phẩm để lại tiếng vang đầu tiên trong sáng tác của ông là tác phẩm “Nắng
đồng bằng” (1987) và sau đó là một loạt các tác phẩm khác để lại dấu ấn đậm
nét trên văn đàn và trong lòng dân chúng độc giả.
1.3. Hình tượng người lính sau chiến tranh như là một sự tiếp nối tự
nhiên đề tài chiến tranh và người lính cách mạng, tạo nên một mạch chảy nổi
bật xuyên suốt hành trình văn học Việt Nam kể từ sau cách mạng tháng 8.
Chiến tranh đã đi qua, nhưng vẫn còn đó biết bao điều trăn trở, day dứt. Hàn
gắn vết thương về da thịt, vật thể đã là một điều khó khăn, lâu dài nhưng để
hàn gắn vết thương lòng thì điều đó lại càng khó khăn hơn. Tiểu thuyết sau
chiến tranh như một người thư kí trung thành ghi lại những ngày tháng oanh

liệt một thời đã qua mà trước đó các nhà văn chưa thể làm hết. Đồng thời nó
phản ánh cuộc sống, số phận của những con người từng đi qua chiến tranh
nay sống giữa đời thường. Tự hào về quá khứ có, sự day dứt về quá khứ có…
và có cả những cuộc đấu tranh tuy không tiếng súng nhưng không kém phần
khó khăn. Đấy là cuộc đấu tranh ngay trong lòng người lính hôm nay.
Vũ Ngọc Chinh

7

K33C - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp
1.4. Tiểu thuyết là thể loại mà Chu Lai thu lượm được nhiều thành công
nhất. Những tác phẩm của ông được đánh giá cao. Chu Lai có 3 tiểu thuyết
đạt giải cao: Ăn mày dĩ vãng (Giải A về đề tài lực lượng vũ trang, Hội nhà
văn, 1992, Giải B (Bộ quốc phòng, 1994), Ba lần và một lần (Giải B, Bộ quốc
phòng, 1996 - 2000), Phố (Giải B, NXB Hà Nội, 1993). Với hơn chục cuốn
tiểu thuyết, Chu Lai đã khắc họa một cách đậm nét số phận người lính từ thời
chiến vắt qua thời bình. Từ đó ông đặt ra nhiều vấn đề mang ý nghĩa nhân văn
sâu sắc. Theo chúng tôi tuy Chu Lai là nhà văn đương đại nhưng nhà văn đã
có phong cách tương đối ổn định. Nghiên cứu về Chu Lai cho đến nay chưa
thật nhiều nếu đem so sánh với các tác giả thời chiến. Nghiên cứu về ông
đang còn là vấn đề “mở” đang rất cần có những công trình khoa học đánh giá
một cách đầy đủ và toàn diện về đóng góp của Chu Lai cho văn học Việt
Nam đương đại. Cũng như từng mặt tỉ mỉ về các phương diện nội dung và
hình thức trong tác phẩm của ông.
Thực hiện đề tài này chúng tôi mong muốn góp một tiếng nói trong
tiếng nói chung khẳng định tài năng và vị trí văn học sử của Chu Lai trong
nền văn học cách mạng đặc biệt là thời kì sau 1975 đến nay.

1.5. Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất lớn trong việc học tập,
nghiên cứu khoa học về văn chương của sinh viên Ngữ văn. Đây là điều kiện
ứng dụng những kiến thức văn chương đặc biệt là lí luận văn học vào những
tác phẩm cụ thể, tạo tiền đề cho việc tiếp tục học tập và nghiên cứu sau này.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay các bài nghiên cứu phê bình về Chu Lai chưa thật sự
phong phú. Vẫn còn đó những phương diện khác nhau về tác giả cũng như tác
phẩm của ông. Các bài nghiên cứu tập trung ở các vấn đề: sự gắn bó máu thịt
của Chu Lai với đề tài chiến tranh và sự trở về dòng đời bề bộn trăn trở, lo

Vũ Ngọc Chinh

8

K33C - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp
toan của những người lính từ rừng xanh Trường Sơn, từ khói bom chiến trận.
Có thể chia các hướng nghiên cứu về Chu Lai như sau:
Nhóm 1: bao gồm các bài viết, bài phê bình mang tính chất tương đối
quy mô được đăng tải trên các báo, tạp chí như: Báo văn nghệ, tạp chí văn
nghệ Quân đội, các bài công bố trong các cuộc hội thảo lớn…
Nhóm 2: bao gồm các bài nói chuyện, trò chuyện, trả lời phỏng vấn của
nhà văn Chu Lai xuất hiện rất nhiều trên các loại thông tin đại chúng như báo
viết, báo hình, báo điện tử…. Theo chúng tôi, khi các phóng viên, bạn đọc
trên mạng Internet đặt ra những câu hỏi xung quanh nghề nghiệp, tác phẩm
của Chu Lai nghĩa là họ cũng đang nhận xét bình phẩm đánh giá. Ý kiến của
họ cũng phải được xem là một cách hiểu, một cách cảm thụ bổ sung cho việc
phê bình nghiên cứu tiểu thuyết Chu Lai. Và như vậy đây cũng là một dạng

nghiên cứu phê bình.
Nhóm 1 tập trung những bài viết, những ý kiến đánh giá sát thực, bộc lộ
những cảm nhận sâu sắc của các nhà nghiên cứu đối với sáng tác của Chu Lai.
Những bài viết có chất lượng cao, mang tính chuyên nghiệp, làm sáng rõ
được một số vấn đề trong tác phẩm của nhà văn như đề tài, kết cấu, ĐTNT…
chẳng hạn Hội thảo về tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng”… Tuy nhiên, vẫn còn
những vùng còn bỏ ngỏ, rất cần các nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu cụ thể
hơn.
Nhóm 2 tập trung ý kiến của giới trẻ, những người quan tâm đến Chu
Lai và văn của ông nhưng không mang tính chất chuyên nghiệp. Những vấn
đề đặt ra ở nhóm này tương đối phong phú và đa dạng. Người phát ngôn cơ
bản vẫn là Chu Lai. Tuy nhiên, màu sắc phê bình văn học khi đậm, khi nhạt,
không phải là không có.

Vũ Ngọc Chinh

9

K33C - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp
Đến nay vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng” chưa có
công trình nào đề cập đến một cách toàn diện. Vì vậy nghiên cứu về nhân vật
vẫn là một khoảng trống cần nhiều người khám phá.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thế giới nhân vật cũng như nghệ thuật xây dựng nhân vật
trong tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng” của Chu Lai để khẳng định thành công
trong sáng tác cũng như vị trí của Chu Lai trong nền văn học Việt Nam sau
1975.

4. Đối tượng và phạm vi đề tài nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: nhân vật trong tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng”
của Chu Lai
- Phạm vi nghiên cứu: Tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng” của Chu Lai
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp thống kê
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận phần nội dung bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhân vật và hành trình sáng tác của
nhà văn Chu Lai
Chương 2: Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng” của
Chu Lai
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết “Ăn mày dĩ
vãng” của Chu Lai

Vũ Ngọc Chinh
văn

10

K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NHÂN VẬT VÀ HÀNH TRÌNH

SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN CHU LAI

1.1. Nhân vật văn học
1.1.1. Khái niệm nhân vật
Khái niệm đầy đủ nhất về “nhân vật” mới có trong văn học hiện đại do
các nhà nghiên cứu đưa ra. Tuy nhiên, thuật ngữ “nhân vật” thì xuất hiện từ
rất sớm. Theo tiếng latinh từ nhân vật (persona) lúc đầu có nghĩa là cái mặt nạ
(diễn viên thường đeo lên mặt khi biểu diễn). Trải qua hàng nghìn năm phát
triển của lịch sử việc sử dụng thuật ngữ này ngày càng nhiều với hàm ý chỉ
con người trong tác phẩm văn học - tức nhân vật văn học.
Thuật ngữ “nhân vật” có nội hàm phong phú có sức khái quát những
hiện tượng phổ biến của tác phẩm văn học ở mọi bình diện và cấp độ chứ
không hẹp như thuật ngữ "vai" (actor) và "tính cách" (charater). Thuật ngữ
“vai” chủ yếu nhấn mạnh đến tính chất, hành động của cá nhân thích hợp với
loại “nhân vật hành động”. Còn thuật ngữ “tính cách” lại chỉ thiên về những
nhân vật có tính cách trong thực tế sáng tác, không phải nhân vật nào cũng có
hành động, đặc biệt là những nhân vật thiên về “suy tư” và cũng không phải
nhân vật nào cũng có tính cách rõ rệt. Từ đó có thể thấy các thuật ngữ “vai”,
“tính cách” không bao quát được hết những biểu hiện khác nhau của các loại
nhân vật trong sáng tác văn học.
Có thể nói nhân vật là yếu tố trung tâm thuộc cấu trúc của tác phẩm văn
học. Một cách hiểu đúng, chính xác về khái niệm này là cần thiết không chỉ
đối với những người làm công tác nghiên cứu mà cả với người tiếp nhận văn
học để hiểu đúng và thấy được giá trị đích thực của tác phẩm văn học. Có
Vũ Ngọc Chinh
văn

11

K33C - Ngữ



Khóa luận tốt nghiệp
nhiều cách định nghĩa khác nhau của nhiều nhà nghiên cứu ở trong và ngoài
nước về vấn đề này. Dưới đây xin trích dẫn những định nghĩa, quan niệm mà
lâu nay vẫn thường được dùng ở các nhà trường ở Việt Nam.
Định nghĩa về nhân vật trong giáo trình “Lí luận văn học”: Nói đến
nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm
bằng phương tiện văn học. Đó là những nhân vật có tên như: Cám, Tấm,
Thạch Sanh… Đó là những nhân vật không tên như: thằng bán tơ, một mụ
nào đó trong “Truyện Kiều”. Đó là những con vật trong truyện cổ tích, đồng
thoại, thần thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ những con vật
mang nội dung ý nghĩa con người (….) Khái niệm nhân vật có khi chỉ được sử
dụng một cách ẩn dụ không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ một hiện
tượng nổi bật trong tác phẩm. Nhưng chủ yếu là hình tượng con người trong
tác phẩm. Nhân vật văn học là một hiện tượng ước lệ, có những dấu hiệu để
ta nhận ra [7,277].
Trong cuốn “Lí luận văn học” có định nghĩa: nhân vật trong văn học là
một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không phải là sự sao chép
đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện con người
qua những chi tiết điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách. Và cần chú ý
thêm một điều: thực ra khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một
phạm vi rộng lớn hơn nhiều, đó không chỉ là con người, những con người có
tên hoặc không có tên được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua
trong tác phẩm mà còn có thể là sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng
dáng, tính cách con người. Cũng có khi đó không phải là những con người, sự
vật cụ thể mà chỉ là một hiện tượng về con người hoặc có liên quan đến con
người, được thể hiện nổi bật trong tác phẩm [5,102].
Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa: nhân vật văn học
là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học

Vũ Ngọc Chinh
văn

12

K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp
có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha), cũng có thể không có tên
riêng như: thằng bán tơ, một mụ nào trong “Truyện Kiều”. Trong truyện cổ
tích, ngụ ngôn, đồng thoại, thần được đưa ra để nói chuyện con người. Khái
niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con
người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm.
Chẳng hạn có thể nói: nhân dân là nhân vật chính trong “Đất nước đứng
lên” của Nguyên Ngọc, đồng tiền là nhân vật chính trong “Ơ-giê-ni Gơ-răngđê” của Ban-dăc [6,235].
Dù định nghĩa như thế này hay như thế kia thì các nhà lí luận văn học
đều thống nhất ở những nội hàm không thể thiếu của khái niệm này: thứ nhất
đó là đối tượng mà văn học miêu tả, thể hiện bằng những phương tiện văn
học. Thứ hai đó là những con người hoặc những con vật, đồ vật, sự việc hiện
tượng mang linh hồn con người, là hình ảnh ẩn dụ của con người. Thứ ba đó
là đối tượng mang tính ước lệ và có cách điệu so với đời sống hiện thực bởi
nó đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ.
Chúng ta cần chú ý rằng nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy
tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống. Và
trên thực tế nhân vật là khái niệm không chỉ được dùng trong văn chương mà
còn ở nhiều lĩnh vực khác. Theo “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê chủ biên)
thì nhân vật là khái niệm bao hàm hai nghĩa:
 Thứ nhất “đó là đối tượng (thường là con người) được miêu tả
thể hiện trong tác phẩm văn học nghệ thuật”.

 Thứ hai đó là “người có vai trò nhất định trong xã hội”.
Qua đây cho thấy, thuật ngữ nhân vật được dùng phổ biến ở nhiều lĩnh
vực của đời sống như: nghệ thuật, xã hội – chính trị và trong sinh hoạt hàng
ngày... Ở khóa luận này chỉ đề cập đến khái niệm nhân vật theo nghĩa thứ

Vũ Ngọc Chinh
văn

13

K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp
nhất mà cuốn “Từ điển tiếng Việt” đã định nghĩa – tức là xem xét nhân vật
trong tác phẩm văn chương.
1.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học
Nhân vật là yếu tố vừa thuộc về nội dung vừa thuộc về hình thức, nhân
vật văn học là đối tượng để nhà văn thể hiện chủ đề, tư tưởng của mình trong
tác phẩm. Nói như Anh Đức thì sức sống của nhà văn chính là ở việc xây
dựng nhân vật đặc sắc.
Nhân vật văn học có nhiều chức năng tương ứng với nhiều vai trò khác
nhau trong tác phẩm. Trước hết, nhân vật văn học là đơn vị cơ bản, là phương
tiện tất yếu và quan trọng nhất, giúp nhà văn phản ánh một cách chân thực
cuộc sống bằng sự suy ngẫm, chiêm nghiệm bằng những tìm tòi khám phá,
nhà văn xây dựng nên nhân vật và hệ thống nhân vật để từ đó khái quát các
tính cách xã hội và đời sống gắn liền với nó.
Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính cách của con
người. Do tính cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử, nên chức năng khái
quát tính cách của nhân vật văn học cũng mang tính lịch sử. Trong thời cổ đại

xa xưa, nhân vật văn học của thần thoại, truyền thuyết thường khái quát năng
lực và sức mạnh của con người (Nữ Oa đội đá vá trời, Lạc Long Quân và Âu
Cơ đẻ ra trăm trứng, Các ông tát bể). Ứng với xã hội phân chia giai cấp, nhân
vật của truyện cổ tích lại khái quát các chuẩn mực giá trị đối kháng trong
quan hệ giữa người và người như thiện với ác, trung với nịnh, thông minh và
ngu đần… Vì tính cách là kết tinh của môi trường, nên nhân vật văn học là
người dẫn dắt độc giả vào các môi trường khác nhau của đời sống. Tính cách
của nhân vật mang vai trò hết sức quan trọng đối với cả nội dung và hình thức
của tác phẩm văn học. Về nội dung: nhân vật với tính cách của nó là phương
tiện để thể hiện tư tưởng của tác phẩm - tức thông qua sự hoạt động và mối
liên hệ giữa tính cách người đọc sẽ đi đến một khái quát hóa về mặt nhận thức
Vũ Ngọc Chinh
văn

14

K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp
tư tưởng. Về hình thức: nhân vật với tính cách của nó quyết định phần lớn các
yếu tố hình thức như kết cấu, những quy luật loại thể, ngôn ngữ, các biện
pháp nghệ thuật thể hiện… về luận điểm này Hêghen đã từng nói: “tính cách
là điểm trọng tâm của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức”. Ta cũng cần
chú ý rằng tính cách nhân vật mang tính lịch sử nghĩa là với mỗi thời đại lịch
sử các tính cách được tôn vinh hay coi nhẹ là khác nhau, có thể ở thời kì này,
tính cách này được tôn sùng nhưng sang thời kì khác thì không.
Nhưng ý nghĩa của nhân vật không chỉ là sự thể hiện tính cách. Vì mỗi
tính cách là kết tinh của một môi trường cho nên nhân vật còn là người dẫn
dắt ta vào một thế giới đời sống. Phêđin nói rằng: "nhân vật là một công cụ

nhận thức". Nó là phương tiện để nhà văn mở ra những cánh cửa vào hiện
thực rộng lớn, tiếp cận các đề tài, chủ đề mới mẻ. Qua nhân vật ta hiểu được
bản chất của chế độ xã hội mà nó đang sống.
Nhân vật chính là phương tiện để khái quát tư tưởng của tác phẩm. Tư
tưởng của tác phẩm không phải là lời phát biểu trực tiếp của tác giả mà nó
được chuyển hóa vào hệ thống hình tượng nhân vật. Chính vì vậy mà nhà
nghiên cứu Timopheev đã nhận xét: “tư tưởng đạt được tính xác định và cụ
thể khi nhà văn chuyển nó sang ngôn ngữ của tính cách, tức là thể hiện những
con người mà tình cảm, hành động đẩy độc giả đến những kết luận nhất định
về cuộc sống tạo ra chúng”. Thông qua nhân vật người đọc hiểu được tư
tưởng tình cảm của nhà văn.
Có thể khẳng định nhân vật là yếu tố không thể thiếu của tác phẩm văn
chương. Nó là phương tiện để nhà văn khái quát hiện thực cuộc sống, thể hiện
quan niệm, tư tưởng của bản thân.
1.1.3. Các loại nhân vật trong tác phẩm văn học
Nhân vật văn học là hiện tượng hết sức đa dạng. Các nhân vật thành
công thường là những sáng tạo độc đáo, không lặp lại. Tuy nhiên, xét về mặt
Vũ Ngọc Chinh
văn

15

K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp
nội dung, cấu trúc, chức năng có thể thấy nhiều hiện tượng lặp lại, tạo thành
các loại nhân vật. Các phương diện loại hình của nhân vật cũng rất đa dạng.
Các nhân vật của truyện dân gian, thơ ca dân gian khác với nhân vật văn học
viết. Nhân vật thần thoại cũng khác với nhân vật truyền thuyết và nhân vật cổ

tích. Về mặt thể loại, nhân vật tự sự, nhân vật kịch, nhân vật trữ tình đều có
những đặc trưng khác biệt… Dưới đây, chúng tôi chỉ giới hạn phân biệt các
nhân vật vào ba khía cạnh: kết cấu, ý thức hệ và cấu trúc.
 Thứ nhất, xét trên phương diện kết cấu có nhân vật chính, nhân vật
phụ, nhân vật trung tâm. Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt,
xuất hiện nhiều, giữ vị trí then chốt của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện. Đó
là những con người liên quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở
để tác giả triển khai đề tài cơ bản của mình. Đây là những nhân vật được tác
giả tập trung xây dựng, khắc họa, được thể hiện rõ nét, gây ấn tượng sâu đậm
trong lòng độc giả như Chí Phèo, Bá Kiến trong tác phẩm “Chí Phèo” của
Nam Cao. Trong các nhân vật chính của tác phẩm lại có thể nhận thấy nổi lên
những nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm từ đầu đến cuối về mặt ý
nghĩa. Đó là nơi quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn
đề trung tâm của tác phẩm. Chẳng hạn Thúy Kiều trong “Truyện Kiều”,
Hamlet trong kịch "Hamlet". Nhận ra nhân vật trung tâm là điều rất quan
trọng như cùng là nhân vật chính trong tác phẩm “Chí Phèo” nhưng Bá Kiến
không phải là nhân vật trung tâm mà nhân vật trung tâm là Chí Phèo. Ngoài
nhân vật chính là nhân vật phụ . Có nhân vật phụ ở bình diện hai, có tính
cách, tình tiết như Thúy Vân, Vương Quan trong “Truyện Kiều”, lại có nhân
vật phụ hàng thứ ba, chỉ thấp thoáng trong các tình tiết, sự kiện, tư tưởng có
tính chất phụ trợ, bổ sung. Nhân vật phụ tuy không được tác giả tập trung
khắc họa nhưng nó có vị trí không thể thiếu trong tác phẩm, nó có vai trò như

Vũ Ngọc Chinh
văn

16

K33C - Ngữ



Khóa luận tốt nghiệp
các “đô thị vệ tinh” để bổ trợ, khắc họa, đối chiếu… để từ đó làm nổi bật nhân
vật chính. Nó tạo nên một thế giới đa màu và sinh động trong tác phẩm.
 Thứ hai, xét về phương diện ý thức hệ có nhân vật chính diện và
nhân vật phản diện. Sự phân biệt nhân vật chính diện và phản diện gắn liền
với những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống xã hội, hình thành trên cơ sở
đối lập về quan điểm, tư tưởng và lí tưởng sống. Nhân vật chính diện mang lí
tưởng, quan điểm đạo đức tốt đẹp của tác giả, của thời đại được nhà văn
khẳng định, đề cao. Còn nhân vật phản diện ngược lại mang những phẩm chất
xấu, trái với đạo đức và lí tưởng đáng lên án và phủ định.
 Thứ ba, xét về phương diện cấu trúc ta có nhân vật chức năng, nhân
vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng. Nhân vật chức năng có
các đặc điểm phẩm chất cố định, không thay đổi từ đầu đến cuối, không có
đời sống nội tâm, sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện một số
chức năng trong truyện và trong việc phản ánh đời sống. Nhân vật đồng nhất
với vai trò mà nó đóng trong tác phẩm. Nhân vật loại hình là nhân vật thể hiện
tập trung một loại phẩm chất, tính cách nào đó của con người hoặc các phẩm
chất, tính cách, đạo đức của một loại người nhất định của một thời đại. Chẳng
hạn, các nhân vật của Mô-li-e như Ác-pa-gông thể hiện tập trung thói keo
kiệt. Nhân vật tính cách là một kiểu nhân vật phức tạp được miêu tả trong tác
phẩm như một nhân cách, một cá nhân có cá tính nổi bật. Còn nhân vật tư
tưởng là loại nhân vật tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý thức tồn tại
trong đời sống tinh thần của xã hội.
Như đã nói, việc phân chia nhân vật chỉ giới hạn trên ba khía cạnh: kết
cấu, ý thức hệ và cấu trúc. Việc phân chia trên ba khía cạnh đó cũng chỉ mang
tính chất tương đối. Việc phân chia nhân vật không phải lúc nào cũng có
những ranh giới rạch ròi. Đặc biệt càng về sau, nhất là văn học hiện đại khi
thể hiện con người đa dạng, đa chiều và sinh động hơn ranh giới đó càng bị
Vũ Ngọc Chinh

văn

17

K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp
thu hẹp và có lúc không thể xác định được. Dù thế nào thì nhân vật luôn có
khả năng phản ánh và tác động đến cuộc sống, khả năng lôi cuốn, hấp dẫn
người đọc và đây chính là điều quan trọng nhất.
1.2. Vài nét về nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới
Sang thế kỉ XX, khi các tiểu thuyết gia hiện đại phương Tây, đặc biệt là
ở Pháp không chú trọng đến nhân vật, họ cho rằng tiểu thuyết của các nhân
vật đã thuộc về quá khứ khi hoàn cảnh xã hội đã đổi khác, trong bối cảnh hỗn
độn của cuộc sống, cá nhân không còn giữ được sức mạnh tuyệt đỉnh, vì thế
tiểu thuyết không dung nạp loại nhân vật. Trong tác phẩm của họ, thay vì
nhân vật là “đồ vật” hoặc chỉ còn là duy nhất dòng chảy của ngôn từ “nhân
vật chỉ còn là những đại từ mơ hồ”. Nhân vật đã không còn là nhân vật theo
đúng nghĩa của nó. Nó chỉ là những mảnh vỡ manh mún, hay chỉ là một suy
nghĩ thoảng qua, một dòng ý thức, một sự ám ảnh… các nhà văn không quan
tâm đến cái gọi là nhân vật điển hình tính cách. Trung tâm hứng thú của họ là
việc vạch ra và tái hiện một cách sinh động những chất liệu tâm lí mới mẻ, là
khám phá những gì đang diễn ra trong miền nội tâm khuất tối, những bí mật
sâu thẳm nhất của con người. Các nhà văn đương đại đã bứt ra khỏi khuôn
khổ chật hẹp của cách xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết truyền thống để đi
tìm những yếu tố, chất liệu mới mẻ tiềm tàng, khả năng trong việc phản ánh
đời sống ở bề sâu bí ẩn.
Còn ở Việt Nam thế kỉ XX, chứng kiến những bước phát triển, thay đổi
sâu sắc và tất cả để phù hợp với hoàn cảnh xã hội đã sản sinh ra nó. Trong

dòng chảy sống động hôm nay, thật khó tìm thấy sự tĩnh lặng của cuộc sống
và tâm hồn trong mỗi âm thanh tích tắc của chiếc đồng hồ thời đại. Văn học
Việt Nam sau 1975 đã có những bước nhảy đáng kể, trong đó có sự khám phá
quá trình “nổ tung bên trong của ý nghĩ” con người. Trước đổi mới, cảm hứng
chủ đạo là ngợi ca những con người “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,mà lòng
Vũ Ngọc Chinh
văn

18

K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp
phơi phới dậy tương lai”. Những anh lính giải phóng quân, những cô thanh
niên xung phong… được tập trung khắc họa, ngợi ca, họ là những con người
trung tâm với những phẩm chất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Có những
con người “đẹp không tì vết” họ trở thành những con người lí tưởng của cả
một thời đại. Nhưng sau đổi mới, các nhà văn với chủ trương đưa văn học về
gần với cuộc sống và coi đó là “mảnh đất vĩnh hằng khám phá những quy luật
của các giá trị nhân bản”. Các nhà văn nhận ra rằng: hình như cuộc chiến
tranh ảnh hưởng sôi nổi hôm nay được văn xuôi, thơ ca tráng lên một lớp
men “trữ tình” hơi dày cho nên ngắm nó ta thấy mong manh bé bỏng và óng
chuốt quá khiến người ta ngờ vực. Với nhận thức đó, văn học Việt Nam sau
1986 đã có sự chuyển biến từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, từ cảm
hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng thế sự đời tư, thay vì những câu chuyện
về chiến tranh là những câu chuyện về tình đời, tình người. Và có chăng chiến
tranh cũng chỉ là những cái vỏ, cái cớ để bộc lộ nỗi lòng về nhân tình thế thái
ngày hôm nay. Các nhà văn chân chính “tự thay máu” cho chính mình. Và thể
loại tiểu thuyết đã phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực,

con người trong giai đoạn mới một cách nhanh nhạy và sắc bén. Sau chiến
tranh văn học sẽ trở về với những gì mà trong chiến tranh nó không hoặc ít
được nói tới đó chính là số phận của con người. Các nhà văn đã hướng ngòi
bút của mình miêu tả số phận những con người bình thường với những bi kịch
của cuộc đời họ. Đó là bi kịch giữa khát vọng và thực trạng, giữa cái muốn
vươn lên và cái kìm hãm, giữa cái nhân bản và phi nhân bản. Không chỉ vậy
các nhà văn đã nhìn nhận con người như một cá thể bình thường. Nhân vật
trong tiểu thuyết là những con người với trăm ngàn mảnh đời khác nhau “đầy
những vết dập xóa trên thân thể, trong tâm hồn”. Có thể nói, trong tiểu thuyết
Việt Nam những năm đổi mới không chỉ đi sâu vào thân phận con người mà
còn đề cập đến những khát vọng con người tự nhiên trước nhu cầu của hạnh
Vũ Ngọc Chinh
văn

19

K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp
phúc đời thường của cuộc sống riêng tư. Khi con người trở về với cuộc sống
đời thường mối quan hệ giữa sự nghiệp chung và hạnh phúc riêng, giữa con
người cá nhân và con người xã hội phải được giải quyết hài hòa, gắn bó.
Tiểu thuyết thời kì đổi mới đã không ngần ngại miêu tả chất sắc dục,
tình yêu nhục thể là lĩnh vực rất riêng của mỗi cá nhân. Miêu tả những con
người tự nhiên, khai thác yếu tố tích cực của con người tự nhiên cũng là một
khía cạnh nhân bản của văn học. Các nhà văn đi sâu vào thế giới nội tâm để
khám phá chiều sâu tâm linh nhằm nhận diện hình ảnh con người đích thực.
Ngòi bút nhà văn khơi sâu vào cõi tâm linh, vô thức của con người, khai thác
“con người ở bên trong con người”.

Còn ở mảng tiểu thuyết nói về chiến tranh cũng có những thay đổi.
Trong việc tiếp cận và tái hiện hiện thực chiến tranh các nhà văn cũng đã kết
hợp hài hòa giữa khai thác con người bên trong và con người bên ngoài. Bên
cạnh ý nghĩa lịch sử của cuộc chiến tranh, các nhà văn đã “gia tăng sự chú ý”
đến việc trình bày “con người trong diễn biến lịch sử”. Nghĩa là nhà văn chú
ý miêu tả các biến cố, sự kiện trong toàn bộ đời sống, đặc biệt là đời sống tinh
thần, đời tư, tâm hồn con người. Cái mà họ quan tâm không chỉ là chiến tranh
đã xảy ra như thế nào mà trong chiến tranh và sau chiến tranh người ta sống
như thế nào. Như “Nỗi buồn chiến tranh’’ của Bảo Ninh dựng lại cuộc chiến
tranh đã lùi vào quá khứ qua nỗi ám ảnh khôn nguôi của nhân vật Kiên. Như
“Ăn mày dĩ vãng” của Chu Lai đưa người đọc về những năm tháng khốc liệt
của cuộc kháng chiến chống Mỹ và số phận của người lính sau chiến tranh
qua cuộc đời Hai Hùng. “Góc tăm tối cuối cùng” của Khuất Quang Thụy
dựng lại chiến tranh bằng nước mắt, bằng đau thương, bằng “sự thật về con
người’’ vừa đi ra khỏi cuộc chiến qua số phận ông Dần… Vì thế chiến tranh
hiện lên toàn diện hơn, khách quan hơn. Ở đó có cái oanh liệt, hào hùng, có
vẻ đẹp lãng mạn của những con người luôn mang trong mình trái tim ĐanKô
Vũ Ngọc Chinh
văn

20

K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp
sẵn sàng thắp lên ngọn lửa để lịch sử dân tộc mãi mãi sáng ngời. Ở đó còn có
bộ mặt khủng khiếp của chiến tranh, luôn ẩn hiện sau những tấm huân chương
và hiển hiện trong đời sống của con người. Nhờ vậy tiểu thuyết viết về chiến
tranh thời kì này đã đem lại cho người đọc những cảm xúc mới mẻ.

Như vậy nếu như nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam trước đổi mới
(đặc biệt là giai đoạn 1945-1975) được khai thác trong tư cách công dân đơn
phiến, được nhìn nhận đánh giá theo quan điểm chính trị, thì nhân vật trong
tiểu thuyết Việt Nam đương đại được khai thác toàn diện hơn, phức tạp hơn
và sâu sắc hơn. Con người xuất hiện trong hàng loạt các tiểu thuyết là con
người trần thế với tất cả chất người tự nhiên của nó: con người có sự hòa hợp
giữa con người tự nhiên - con người xã hội - con người tâm linh, con người
với sự thống nhất giữa ánh sáng và bóng tối, cao cả và thấp hèn, ý thức và vô
thức, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và
con người trong tính nhân loại phổ quát.
Tóm lại, trên lĩnh vực tiểu thuyết nhà văn đã khắc họa chân dung
những con người vừa đời thường vừa trần thế, vừa đẹp đẽ, thánh thiện luôn
khao khát cái đẹp và hướng tới cái thiện. Đó chính là nét nổi bật mang đậm ý
nghĩa nhân văn khi nhìn nhận con người tạo nên tiếng nói đa thanh đầy “hòa
âm” và “nghịch âm” trong tiểu thuyết.
1.3. Hành trình sáng tác của nhà văn Chu Lai
Hơn ba mươi năm cầm bút, Chu Lai đã để lại một số lượng tác phẩm
tương đối lớn, bao gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, kí sự, kịch
bản sân khấu, truyện thiếu nhi… Tiểu thuyết gồm: Nắng đồng bằng (1977);
Gió không thổi từ biển (1985); Sông xa (1986); Vòng tròn bội bạc (1990); Bãi
bờ hoang lạnh (1990); Ăn mày dĩ vãng (1992); Phố (1993); Ba lần và một lần
(1999); Cuộc đời dài lắm (2001); Khúc bi tráng cuối cùng (2004); Người im
lặng (2005). Các truyện ngắn mà nhà văn đã sáng tác từ trước tới nay được
Vũ Ngọc Chinh
văn

21

K33C - Ngữ



Khóa luận tốt nghiệp
tập hợp lại và in trong cuốn “Truyện ngắn Chu Lai” (2003). Về kí sự có “ Nhà
lao cây dừa”,“Út Teng” là tập truyện viết cho thiếu nhi. Bao trùm lên các
sáng tác của Chu Lai là sự trăn trở day dứt của tác giả về số phận con người
mà tiêu biểu là số phận người lính trong và sau chiến tranh.
Với mười một tiểu thuyết xoáy sâu vào một đề tài chủ lực là người lính
thời bình, mối quan hệ đa chiều của họ trong các lĩnh vực phức tạp của cuộc
sống hiện nay, Chu Lai là một trong những người ở vị trí hàng đầu của dòng
chảy văn học đương đại ở đề tài người lính thời hậu chiến. Các tiểu thuyết của
Chu Lai tuy tập trung ở một đề tài, song thông qua đó rất nhiều lĩnh vực của
cuộc sống được khai thác và phản ánh khá sâu sắc mà hình tượng người lính
luôn là tâm điểm.
Tiểu thuyết viết về người lính thời hậu chiến đã có được những thành
tựu đáng ghi nhận. Người lính giữa dòng đời thường với bao bộn bề trăn trở
chính là mối quan tâm của các nhà văn. Những day dứt âm thầm về quá khứ
như là một “căn bệnh” cố hữu của người lính hôm nay. Trong tâm tưởng
những người đã từng đi qua cuộc chiến mãi mãi còn những ám ảnh khôn
nguôi về một thời máu lửa. Hậu quả nặng nề của chiến tranh, mặt trái của cơ
chế thị trường đã làm cho người lính thời hậu chiến không có được cuộc sống
bình yên. Các nhà tiểu thuyết nghiêm túc nhìn nhận lại cuộc chiến đã qua và
đồng cảm sâu sắc với tâm tư của người lính hôm nay.
Trong một loạt các tiểu thuyết của Chu Lai thì tiểu thuyết “Ăn mày dĩ
vãng” chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc hành trình sáng tác của ông.
Đây là tác phẩm được các nhà nghiên cứu đánh giá cao, tác phẩm đạt được
nhiều giải của Bộ quốc phòng, Hội nhà văn. Tác phẩm thể hiện số phận người
lính cả trong và sau cuộc chiến, đặc biệt người lính trở về với đời thường hôm
nay nhưng không nguôi nghĩ về quá khứ. Nhưng cũng chính bởi sự mải mê
tìm về quá khứ mà Hai Hùng đã bị đánh bật ra khỏi lề đường của cuộc sống
Vũ Ngọc Chinh

văn

22

K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp
hiện đại. Quá khứ với người lính là sự thiêng liêng không gì thay thế được.
Họ tìm về quá khứ trân trọng quá khứ. Sự trân trọng đó như sự trân trọng
đồng đội, tôn trọng chính mình. Họ tìm về quá khứ để đi tìm sự bình yên
trong tâm hồn mình.
Tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng” đã đạt được nhiều thành công về nghệ
thuật. Đặc biệt là nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật, xây dựng đa
dạng kiểu nhân vật... Tất cả tạo nên sự đa dạng trong tác phẩm. Có thể khẳng
định Chu Lai là nhà văn đương đại tài năng đã và tiếp tục khẳng định vị trí
của mình trên văn đàn và để lại những thành tựu nổi bật, đọng lại những dấu
ấn đậm nét trong lòng độc giả.

Vũ Ngọc Chinh
văn

23

K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 2
CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT

“ĂN MÀY DĨ VÃNG” CỦA CHU LAI

Như đã nói, việc phân chia nhân vật trên ba khía cạnh: kết cấu, ý thức
hệ và cấu trúc chỉ mang tính tương đối. Lịch sử phát triển văn học là một tiến
trình phát triển không ngừng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Do
vậy, những tiêu chí phân loại nhân vật có thể đúng ở thời kì này song đến thời
kì khác những tiêu chí đó tỏ ra không phù hợp nữa mà cần sự phân loại thích
hợp hơn với thực tế diễn ra của văn học. Trong tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng”
Chu Lai có khuynh hướng tiếp cận con người từ nhiều góc độ. Con người
trong tiểu thuyết của nhà văn mang tính đa trị lưỡng cực là những con người
không toàn vẹn. Chính vì vậy, những tiêu chí phân loại nhân vật theo truyền
thống đã không còn đủ sức bao quát hết những biểu hiện của nhân vật trong
tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng”. Chúng tôi đã thống kê trong tiểu thuyết “Ăn
mày dĩ vãng” có 48 nhân vật. Các nhân vật này có nhiều cách phân loại. Hoặc
theo cấp bậc (những anh binh nhất, binh nhì, sĩ quan, cán bộ) hoặc có thể
phân chia theo lí tưỏng (ta - địch) hoặc có thể phân loại theo giới tính nghề
nghiệp… Cách phân chia nào cũng có lí và là một phương diện loại biệt để
nhận diện. Tuy nhiên, những cách phân chia đó bộc lộ những điểm chưa hợp
lí, đòi hỏi sự tổng hợp để có một cách phân loại hợp lí và khoa học hơn. Phân
tích các nhân vật trong tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng”, chúng tôi đề xuất các
kiểu nhân vật theo các cách gọi tên sau, sự phân loại đó chủ yếu dựa trên đặc
điểm nổi bật của các nhân vật.
2.1. Nhân vật đa diện
Trước hết, ta cần hiểu thế nào là “đa diện”? Đa diện tức là có tính chất
nhiều mặt, nhiều khía cạnh. Con người đa diện có nghĩa là tồn tại nhiều mặt
Vũ Ngọc Chinh
văn

24


K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp
tính cách khác nhau, thậm chí đối lập nhau ngay trong một con người
[16,364].
Văn học sau 1986 không còn cái nhìn một chiều hoặc rất tốt hoặc rất
xấu như quan niệm nghệ thuật về con người trong thời kì kháng chiến
nữa.Trong tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng” tiêu biểu là nhân vật Hai Hùng. Hai
Hùng hiện lên trong tác phẩm với tất cả sự tự nhiên như nó vốn có, như con
người ngoài đời: “trong con người tôi đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu,
rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ” [3,133]. Có thể nói, anh là một
chiến sĩ kiên trung mang trong mình lí tưởng và khát khao giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước, có tình đồng chí, bạn bè, tình yêu đẹp, là con người
được mọi người mến mộ, tin yêu song trong con người anh phần xấu, phần
rắn rết, phần ác quỷ cũng có lúc hiện diện và chiến thắng.
Để lại ấn tượng đầu tiên trong lòng người đọc đó là một Hai Hùng kiên
trung, sẵn sàng hi sinh vì sự nghiệp cách mạng, luôn được bạn bè tin yêu
“đồng đội tin cậy nơi anh như đoàn thủy thủ hết lòng tin cậy vào người
thuyền trưởng tài ba giữa muôn trùng sóng cả”. Đồng đội tin tưởng anh bởi
trong chiến đấu anh là người chỉ huy tài ba, trong trận mạc người ta không
thấy ở anh một động tác thừa. Trong cuộc sống, anh là người khéo léo “trong
cuộc sống, đồng đội không hề thấy anh nói dư một câu bao giờ”. Trong anh
hội tụ đầy đủ những phẩm chất của một thủ lĩnh ở cái nơi mà ngày nào cũng
có người ngã xuống. Phẩm chất thủ lĩnh của Hai Hùng được thể hiện qua từng
trận đánh.
Trong cái đêm đột ấp định mệnh mà nhờ đó Hai Hùng gặp được Ba
Sương - người con gái của đời anh. Trong đêm đột ấp đó, mọi người tưởng
chừng như sẽ nguyên vẹn trở về không vấp phải bất cứ sự tấn công nào của
kẻ thù. Nhưng cũng chính vào lúc không ngờ nhất, khi trên lưng người nào

cũng đầy những gạo, thịt hộp, bánh tráng, thuốc lá… thì có những tiếng nổ.
Vũ Ngọc Chinh
văn

25

K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp
Ngay sau tiếng nổ đầu tiên, đội hình hỗn hợp đã bị xé nát, tan rã, mạnh ai nấy
chạy. Trong đó có cả cán bộ như Ba Tiến - phó bí thư quận ủy. Trong cái lúc
mà ranh giới giữa sự sống và cái chết bị xóa nhòa, theo bản năng con người
thường chạy đi để tìm sự sống và nhiều người trong lực lượng hỗn hợp của
Hai Hùng đã làm như vậy. Nhưng Hai Hùng thì khác, ngay giữa chiến trận
tan rã anh đã chửi thẳng những kẻ bỏ bạn bè, bỏ đồng đội chạy lấy thân. Hai
Hùng đã kiên cường lao nhanh về hướng có tiếng nổ đầu tiên. Và anh thoáng
thấy lính đặc nhịêm của anh kẻ nằm người ngồi trong tư thế sẵn sàng đánh trả.
Trong những lúc nguy nan Hùng càng tỏa sáng, càng khẳng định lòng dũng
cảm, quyết tâm chiến đấu không lùi bước trước kẻ thù. Nhưng “cuộc chiến
tranh cài răng lược” nó như đùa giỡn người lính, địch thì mặc sức cắn ngoạm
nhưng quân ta lại không biết nó ở đâu mà quất trả. Trong đợt đột ấp “coi như
là lãi” ấy Viên đã ngã xuống để đổi những bồng gạo, thuốc men… cho đồng
đội. Trong nỗi đau mất bạn, Hai Hùng vẫn giữ được bản lĩnh không nản chí
vẫn quyết tâm chiến đấu.
Sự kiên trung, mưu trí của Hai Hùng như càng được khẳng định khi
cuộc chiến ngày càng ác liệt. Sau hiệp định hòa bình (1973) tình hình ở vùng
giáp ranh lại diễn ra thê thảm hơn cả hồi Mậu Thân. Ba xã trọng điềm của
phong trào cách mạng bị đám gián điệp chỉ điểm nên lực lượng cách mạng bị
tổn hại không ít. Cấp trên giao nhiệm vụ phải tiêu diệt nhóm gián điệp đó.

Với sự phối hợp của lực lượng du kích và đội đặc nhiệm của Hai Hùng đã bắt
gọn nhóm gián điệp gồm bảy tên khi chúng đang bàn tính chỉ điểm đánh ta
một đòn chí mạng nữa vào ngay căn cứ tỉnh ủy. Chiến công này của đội “diệt
ác” đã góp phần rất lớn cho sự an toàn, bảo toàn lực lượng và phát triển
phong trào cách mạng ở vùng giáp ranh vô cùng quan trọng này.
Những tưởng sau cuộc chiến khiến mỗi người lính “bại hoại sức chiến
đấu” họ chỉ còn có thể ôm nhau ngồi thở, sẽ được “xả hơi” trong vài tuần, chí
Vũ Ngọc Chinh
văn

26

K33C - Ngữ


Khóa luận tốt nghiệp
ít là vài ngày nhưng chiến tranh đâu phải là hòa bình mà có cái quy luật đó.
Chiến tranh kéo căng khiến con người ta mệt mỏi, dường như không thể vượt
qua nhưng con người vẫn phải gượng dậy để tiếp tục chiến đấu. Sau đợt càn
khiến một phần ba quân số nằm xuống đó, đơn vị Hai Hùng phải tiếp tục nhận
nhiệm vụ tiêu diệt chi khu Phú Thuận - nơi xuất phát mọi cuộc hành quân của
đối phương. Tuy không tán thành lắm với phương án của ông phó tham mưu
phân khu nhưng anh vẫn phải chấp hành. Ngay đêm đầu tiên, những chiến sĩ
thiện chiến nhất đi nghiên cứu đối phương nhưng kết quả thu được chỉ là mất
mát. Đêm hôm sau, không nản lòng chính Hai Hùng đã dẫn một đội đi tập
kích nhưng do sức lực đã bị vắt kiệt nên cũng không thể thành công. Qua đây,
ta thấy một Hai Hùng can trường, không lùi bước trước khó khăn, luôn tỉnh
táo trước mọi phán đoán và quyết định của mình.
Cuộc chiến với quân thù diễn ra vô cùng ác liệt song cuộc chiến với
chính mình trong chiến tranh có lẽ càng khó khăn và khốc liệt hơn nhiều. Sau

những quyết định của mình, Hai Hùng bị cấp trên gọi lên kỉ luật. Nếu anh
ngoan ngoãn chấp nhận kỉ luật và có lời xin lỗi, hứa sẽ sửa chữa thì có lẽ
phiên họp sẽ diễn ra nhanh chóng và anh cũng sẽ không gặp khó dễ gì nhưng
“song tôi không thể hèn nhát như thế. Danh dự lính chiến và nhân phẩm buộc
tôi không thể phản bội lại chủ thuyết lí tưởng trong sạch, phản bội lại bạn bè
thân yêu đã thay nhau ngã xuống mà giờ đây quay đi quay lại đã dường như
chẳng còn thấy một ai”. Chính bởi sự cương trực của mình mà Hai Hùng bị
nhiều người phê phán đòi kỉ luật nhưng dù thế nào thì “tôi không thể thực
hiện một hành vi giả trá khác mình cốt để yên thân”. Hai Hùng khi không còn
nghĩ đến chuyện kiềm chế nữa thì anh đứng dậy và nói bằng tất cả tấm lòng
chân thật của mình “(...) Chúng tôi, những người con trai con gái từ hậu
phương lam lũ và đau thương tình nguyện từ trái tim chân thật vào đây để
thực hiện lí tưởng giải phóng quê hương chứ không phải là quân viễn chinh
Vũ Ngọc Chinh
văn

27

K33C - Ngữ


×