Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Phật giáo trong văn hoá việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.04 MB, 80 trang )

Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**************

HOÀNG THỊ HƢỜNG

PHẬT GIÁO TRONG VĂN HOÁ
VIỆT NAM

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học

Hà Nội – 2010

Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
1


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN
** **************



HOÀNG THỊ HƢỜNG

PHẬT GIÁO TRONG VĂN HOÁ
VIỆT NAM
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
GS.TS. NGUYỄN ĐỨC NINH

Hà Nội – 2010

Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
2


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện khóa luận với đề tài: “Phật giáo trong văn hoá Việt Nam”,
trước tiên tác giả khoá luận xin gửi lời biết ơn chân thành nhất tới GS.TS.
Nguyễn Đức Ninh - người hướng dẫn khoa học.
Tác giả khoá luận xin bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn chân thành
nhất tới các thầy, cô giáo đã giúp tác giả hoàn thành khoá luận này.


Hà Nội, ngày 17 tháng 4 năm 2010.
Tác giả khóa luận

Hoàng Thị Hường

Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
3


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi đã trình bày trong khóa luận
này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của GS. TS.
Nguyễn Đức Ninh.
Những nội dung này không trùng lặp với kết quả nghiên cứu của các tác
giả khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của cá nhân mình trong
khóa luận này.

Hà Nội, ngày 17 tháng 4 năm 2010.
Tác giả khóa luận

Hoàng Thị Hường


Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
4


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT

CHÚ THÍCH

GS

Giáo sư

TS

Tiến sĩ

Nxb

Nhà xuất bản

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU


trang

1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..........................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................3
6. Đóng góp của khóa luận..............................................................................3
7. Bố cục khoá luận .........................................................................................3
NỘI DUNG
Chƣơng 1: NGUỒN GỐC PHẬT GIÁO VÀ SỰ TRUYỀN BÁ
PHẬT GIÁO VÀO VIỆT NAM............................................4
1.1. Nguồn gốc của đạo Phật giáo ................................................................4
1.1.1. Giáo lý của đạo Phật ............................................................................5

Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
5


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

1.1.2. Hai trường phái chính trong Phật giáo ................................................9
1.2. Sự truyền bá Phật giáo vào Việt Nam ..................................................10
1.2.1. Quá trình du nhập Phật giáo vào Việt Nam .........................................10
1.2.2. Phật giáo Việt Nam phát triển qua các thời đại ...................................10

Chƣơng 2: VĂN HOÁ PHẬT GIÁO TRONG
VĂN HOÁ VIỆT NAM.................................................................................14
2.1. Kiến trúc, điêu khắc, bài trí tƣợng thờ, trang phục Phật giáo trong
văn hoá Việt Nam ..........................................................................................14
2.1.1. Kiến trúc chùa và tháp ..........................................................................14
2.1.2. Điêu khắc - hội hoạ ...............................................................................20
2.1.3. Bài trí tượng thờ ....................................................................................23
2.1.4. Trang phục Phật giáo ...........................................................................26
2.2. Lễ hội .......................................................................................................30
Chƣơng 3: PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRÊN ĐƢỜNG HỘI NHẬP VỚI
PHẬT GIÁO THẾ GIỚI - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP ....................................................................................................34
3.1. Phật giáo Việt Nam trong thế kỉ XXI ...................................................34
3.2. Phật giáo Việt Nam trên đƣờng hội nhập với Phật giáo thế giới ......36
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với Phật giáo Việt Nam ...............................40
3.4. Một số giải pháp cụ thể ..........................................................................41
KẾT LUẬN ....................................................................................................44
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................46
PHỤ LỤC

Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
6


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển nhân loại, tôn giáo có vai trò lớn quy định bộ
mặt văn hoá dân tộc, tác động đến mọi mặt của đời sống con người. Tôn giáo
chính là chất men kích thích sự phát triển văn hoá, đồng thời cũng góp phần
định hình bản sắc văn hoá từng khu vực, tự biến thành một yếu tố trong cấu
trúc văn hoá của từng dân tộc và là một phương tiện giao tiếp văn hoá thuận
lợi, hữu hiệu giữa các dân tộc. Tôn giáo chính là nhu cầu tinh thần của con
người.
Marx đã từng nói: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, trước đó
nhà triết học Đức Kant (1724 - 1804) cũng có một câu tương tự. Rất nhiều
người hiểu sai ý nghĩa câu nói của Marx, cho rằng tôn giáo ru ngủ nhân dân.
nhưng bấy giờ thuốc phiện được sử dụng như là thứ thuốc giảm đau chứ
không bị coi là độc hại như ma tuý sau này. Khi nhân loại còn đau khổ thì
hiển nhiên còn cần đến thứ thuốc giảm đau là tôn giáo.
Trong sự phát triển xã hội, tôn giáo luôn luôn đóng một vai trò quan
trọng, lúc thì góp phần làm nhu hoà ổn định xã hội, lúc thì bị lợi dụng gây nên
những trường ác khốc liệt. Bao giờ tôn giáo cũng là một hiện thực xã hội, lúc

Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
7


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

bộc lộ lúc tiềm ẩn. Cho nên các tầng lớp cầm quyền ở hầu hết các quốc gia đã

sử dụng tôn giáo vào mục đích chính trị của họ.
Phật giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới, đã được du nhập vào Việt
Nam ngay từ những năm đầu công nguyên. trải qua nhiều thời kỳ biến động
lúc thịnh lúc suy, nhưng Phật giáo đã khẳng định như là thành tố ảnh hưởng
tới văn hoá dân tộc.
Phật giáo đã đi vào đời sống của người dân Việt Nam, góp phần làm
cho nền văn hoá Việt Nam mang đậm chất Phật. Vì vậy chúng ta cần có sự
hiểu biết về Phật giáo một cách toàn diện phát huy những mặt tích cực và hạn
chế mặt tiêu cực của nó trong việc xây dựng, phát triển đời sống con người
Việt Nam. Xuất phát từ những lý do trên, việc chọn đề tài “Phật giáo trong
văn hóa Việt Nam” có ý nghĩa cần thiết và thiết thực.
2. Lịch sử vấn đề
Đạo Phật xuất hiện trên thế giới có chiều dài lịch sử hàng ngàn năm và
phát triển ở Việt Nam cũng gần hai mươi thế kỷ. Từ trước đến nay đã có rất
nhiều tài liệu và công trình nghiên cứu để lý giải, tìm hiểu sâu sắc về đạo Phật
như:
Thích Đức Nghiệp (1995), Đạo Phật Việt Nam, Thành hội Phật giáo
thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Khắc Đức (2008), Vai trò của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay,
Nxb Nghiên cứu tôn giáo.
Nguyễn Tài Thư (1991), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
8


Trường Đhsp hà Nội 2


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Đức Lữ (2006), Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hoá, Tạp chí Triết học (số 1).
Những công trình đó đã giúp ích rất nhiều cho tác giả để thực hiện khoá
luận này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Khoá luận tìm hiểu về Phật giáo và vai trò tác động của
Phật giáo đối với văn hoá Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm
phát huy những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong quá trình xây dựng
nền văn hoá xã hội ở nước ta.
* Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, khoá luận thực
hiện những nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu về Phật giáo, trên cơ sở đó đi sâu phân tích quá trình truyền
bá Phật giáo vào Việt Nam.
Nghiên cứu những ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hoá Việt Nam
Đưa ra các giải pháp
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu: Phật giáo
* Phạm vi nghiên cứu
Do vấn đề tôn giáo thì rộng lớn và phức tạp, trong khuôn khổ đề tài,
khoá luận chỉ tìm hiểu khái quát những nét chung nhất về Phật giáo và từ đó
thấy được ảnh hưởng của nó với văn hoá Việt Nam.
Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
9


Trường Đhsp hà Nội 2


Khoá luận tốt nghiệp
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Khoá luận sử dụng phương pháp nghiên cứu:
- Thu thập tài liệu

- Phân tích, mô tả và tổng hợp vấn đề nghiên cứu
6. Đóng góp của khóa luận
Đề tài góp phần hoàn thành lí luận về việc nghiên cứu về Phật giáo nói
chung và Phật giáo trong văn hóa Việt Nam nói riêng.
Ngoài ra, khóa luận làm nguồn tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
của các ngành có liên quan.
7. Kết cấu khoá luận
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo nội dung khoá
luận gồm 3 chương:
Chương 1: Nguồn gốc Phật giáo và sự truyền bá Phật giáo vào Việt
Nam.
Chương 2: Văn hoá Phật giáo trong văn hoá Việt Nam.
Chương 3: Phật giáo Việt Nam trên đường hội nhập với Phật giáo quốc
tế - những vấn đề đặt ra và một số giải pháp

Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
10


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp


NỘI DUNG
Chƣơng 1
NGUỒN GỐC PHẬT GIÁO VÀ SỰ TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO
VÀO VIỆT NAM
1.1. Nguồn gốc của Phật giáo
Đạo Phật là một hiện tượng tôn giáo, nó được khởi nguồn từ Ấn Độ
vào thế kỷ V trước Công nguyên, do Thái tử Siddharta (Tất - đạt - đa) sáng
lập. Phật giáo là một tôn giáo với những giáo lý đầy tính nhân văn cao cả. Đó
là chủ trương tinh thần vị tha, quan tâm đến nỗi khổ của người khác, có đặc
điểm chăm lo làm điều thiện, nêu cao tinh thần dân chủ, bình đẳng, chống lại
sự phân biệt giai cấp, đề cao lao động, chống lười biếng. Giúp nhân loại thoát
khỏi khổ đau tìm đến an lạc tinh thần và cao hơn nữa là tới được cõi Niết Bàn
phẳng lặng.
Theo truyền thuyết kể lại của Đạo Phật rằng: Cách đây 2.500 năm, tại
Ấn Độ một đêm Hoàng hậu Nahamaia mơ thấy mình được đưa tới hồ thiêng
Anavatapta ở Himmalaya. Sau khi các thiên thần tắm rửa cho bà trong hồ
thiêng, thì có một con voi trắng khổng lồ có đoá sen ở vòi bước tới chui vào
sườn Hoàng hậu và bà có mang. Khi Hoàng tử vừa ra đời đã đứng ngay dậy,
đi bẩy bước và nói: “Đây là kiếp cuối cùng của ta. Từ nay ta không còn phải
Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
11


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp


luân hồi một kiếp nào nữa” [1.tr1407]. Hoàng tử đó mang dòng họ Thích ca
(Sakya) tên là Cồ - Đàm - Tất - Đạt - Đa (565 trước Công nguyên). Sau khi có
vợ con rồi, ông thấy cảnh khổ của cuộc đời và đến năm 29 tuổi, ông rời bỏ
cung điện và vợ con đi tu khổ hạnh 6 năm trong rừng sâu. Nhưng rồi ông
cũng vỡ lẽ ra con đường khổ hạnh cũng tăm tối, vô nghĩa như con đường
cung đình, ông ngồi thiền định 49 ngày dưới gốc cây Bồ đề (Bodhi) tại lăng
Uruvela, yên tĩnh tìm ra sự bừng sáng của tâm hồn, trí tuệ, đến được với chân
lý, hiểu được bản chất của tồn tại, nguồn gốc của khổ đau và con đường cứu
vớt. Ngài tự xưng là Phật (Buddha - có nghĩa là giác ngộ). Người đời gọi
Ngài là bậc thánh nhân của dòng họ Sakya (phiên âm là Thích Ca Mâu Ni).
Sau khi giác ngộ, Phật thu nạp và truyền cho mười đệ tử.
1.1.1.Giáo lý của đạo Phật
Giáo lý cơ bản của đạo Phật được thể hiện qua: tứ diệu đế, bát chính
đạo và thập nhị nhân duyên.
* Tứ diệu đế
Tứ diệu đế theo tiếng Pali là Ariya Saccani (Thánh đế). Ariya có ý
nghĩa là cao quý hay thánh. Saccani có nghĩa là cái gì thực sự có.
- Thánh đế đầu tiên (Khổ đế) Dukkha
Dukkha - một danh từ khó để phiên dịch chính xác một ngôn ngữ nào
khác - mà người ta thường gọi là đau khổ hay phiền não. Phật giáo cho rằng
cuộc đời con người là một bể khổ, con người sinh ra đã mang sẵn cho mình
nỗi khổ: sinh, lão, bệnh, tử là bốn cái khổ không ai tránh khỏi. Năm mối quan
hệ gắn với năm giác quan (mắt, mũi, tai, lưỡi, da) với năm ngoại cảnh (màu
sắc, mùi vị, âm thanh, cảm giác) mà không được toại nguyện gọi là ngũ uẩn
Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
12



Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

khổ, đó là cái khổ thứ năm. Cái khổ với ý thức mong muốn giàu sang mà
không đạt được gọi là sở cầu bất đắc khổ (muốn mà không được) là cái khổ
thứ sáu. Trong cuộc sống hàng ngày muốn sum họp, yêu thương nhau lại cứ
phải chia ly, lìa xa nhau là thụ biệt ly khổ, cái khổ thứ bảy. Ngược lại, không
muốn sống chung ghét nhau như muốn xúc đất đổ đi mà lại cứ bắt buộc ở gần
nhau gọi là oán tăng hội khổ, cái khổ thứ tám.
Tóm lại, Dukkha trong đạo Phật có một ý nghĩa rất rộng, vừa mang ý
nghĩa của từ khổ thông thường, nhưng nó còn bao gồm cả những gì bất toàn,
những gì không như ý, những gì thay đổi.... trong Kinh pháp luân, Phật dạy:
“Sự chấp lấy thân này là khổ”. Dukkha không có gì khác ngoài việc không
thoả mãn những gì trong cuộc sống và tình cảm của chúng ta.

- Thánh đế thứ hai (Tập đế) Samuđaya.
Samuđaya theo đạo lý duyên khởi thì có nhiều nguyên nhân dẫn đến
khổ đau. Nhưng nguyên nhân trực tiếp nhất, dễ nhận biết nhất là ái dục hay
luyến ai, bám víu là cội nguồn của khổ đau. Kinh pháp cú ghi nhận: “do ái
dục phát sinh lo âu, do ái dục phát sinh sợ sệt. Người đã trọn vẹn thoát khỏi
ái dục không còn lo âu, càng ít sợ sệt”[16.tr47]
Ái dục là một năng lực tinh thần hết sức hùng mạnh, luôn ngủ ngầm
trong tất cả mọi người, mọi chúng sinh và nguồn cội của bao khổ đau trong
đời. Chính ái dục dưới mọi hình thức tự nhiên và không do bất cứ ai hay bất
cứ một thế lực nào tạo ra cả. Trong mọi thành phần và hình thức của năng
lượng, sự va chạm, mâu thuẫn, mất cân đối, hay sự đổi thay đều liên tục xảy
ra, như khoa học đã khẳng định tất cả mọi vật thể hữu hình đều tồn tại do sự

Hoàng Thị Hường


K32G - Việt Nam học
13


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

vận động, va chạm và điều đó sẽ đưa đến thay đổi, vậy nên thay đổi là đặc
trưng của cuộc sống. Khi tình trạng thay đổi liên tục này mà chúng ta trải
nghiệm về mặt thể chất và tinh thần trong từng giây phút, có liên quan đến
tình cảm và lòng khao khát của con người, thì chúng ta trải nghiệm sự không
thoả mãn hay sự khổ.
Nguyên nhân của sự khổ không phải là tội lỗi từ căn nguyên hay là do
lời nguyền hay ảnh hưởng của bất cứ vị thần, quỷ hay ma nào như một vài tôn
giáo đã tin như vậy, mà là do lòng khát khao muốn tồn tại và các thú vui về
giác quan (lục giác) của chúng ta. Con người thấy khổ khi họ không hiểu biết
(vô minh) và cố gắng thoả mãn các đòi hỏi tham lam, vô hạn độ của ngũ
quan.
- Thánh đế thứ ba ( Diệt đế) Nirodha
Nirodha chính là mục tiêu mà con người hướng đến. Ta phải biết là ta
muốn gì. Từ lúc mới sinh ra mọi người đều muốn hạnh phúc và không muốn
khổ đau. Chúng ta là những sinh vật có ý thức đang hiện hữu trên quả địa cầu
này, phải đương đầu với việc tạo ra một cuộc sống hạnh phúc cho mình.
Nhưng ta không nên nhầm hạnh phúc chân thật với những hình thái mới nhìn
qua thì trông như hạnh phúc mà kì thực chỉ là nguyên nhân của khổ đau.
Hạnh phúc chân thật được diễn tả trong đạo Phật như là sự vắng mặt của
những khổ đau, là sự giải phóng con người ra khỏi tham dục, hận thù và tối
tăm, là sự đạt tới các đức vô uý, trầm tĩnh, đại hùng khiến cho ta không còn là

nạn nhân của sự sợ hãi, của những thành bại đắc thất tầm thường.
Hầu hết các tôn giáo, cảnh giới chí thiện (hết sức tốt đẹp hoàn thiện)
chỉ có thể đạt tới sau khi người ta đã chết. Trái lại, theo đạo Phật con người có
thể đạt được hạnh phúc thật sự ngay trong cuộc đời này. Những người đã
Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
14


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

chứng ngộ chân lý của đạo Phật là những người thật sự hạnh phúc. Họ không
còn bị trói buộc của bất cứ trạng thái tâm lý lo, buồn, khổ, não đã gây biết bao
đau khổ cho con người. Sự khỏe mạnh về tâm lý của họ là hoàn mỹ. Họ sống
một cuộc đời hiện tại một cách hồn nhiên phác thực. Vì vậy họ có thể thưởng
thức và hưởng thụ một đời sống vật chất không chút phiền muộn, ưu tư, tâm
tư yên tĩnh. Người phật tử phải nhận thức rằng theo đuổi sự nghiệp giải thoát
không phải là từ bỏ mọi hạnh phúc của cuộc đời, trái lại chính là để xây dựng
một nền tảng vững chắc cho hạnh phúc. Nếu không đạt tới căn bản giải thoát
thì có mắt cũng không biết nhìn, có tai cũng không biết nghe, có cuộc đời
cũng không biết sống, có những điều hạnh phúc cũng không biết hạnh phúc.
Phải nhận thức rằng diệt khổ là một thực tế có thể đạt được. Sự an lạc
hạnh phúc mà chúng ta có thể đạt được do thực hiện những phương pháp Phật
giáo là điều có thể kiểm chứng được. Bất cứ một nhân nào gieo xuống đều
đưa đến kết quả.
- Thánh đế thứ tư (Đạo đế) Magga
Magga là con đường, là phương pháp hành động. Để đạt tới một đời

sống an lạc cho bản thân và xã hội, ta phải biết tìm đường, ta phải biết
phương pháp hành đạo. Đạo đế không phải là một số giáo điều hoặc giới luật
để có thể học thuộc lòng, trái lại là kết quả của những chiêm nghiệm sâu sắc
về khổ đế, tập đế và diệt đế cùng những kinh nghiệm sống của chúng ta và
các thánh đế.
Con đường dẫn đến dứt khổ đau, theo đạo Phật là Trung đạo. Trung
đạo “có khả năng năng sản sinh trí kiến, dẫn đến yên tĩnh, chứng ngộ bên
trong. Chính giác, Niết bàn”. Trung đạo này, thường gọi là Bát chính đạo. Bát
chính đạo là con đường của tám nguyên tắc hành động chân chính. Tám
Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
15


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

nguyên tắc hành động ấy có liên hệ nhân quả rất mật thiết với nhau: 1- Chính
kiến: thấy đúng; 2- Chính tư duy; 3- Chính ngữ: nói đúng; 4- chính nghiệp:
hành động đúng; 5- Chính mệnh: phương tiện mưu sinh chân chính; 6- Chính
tịnh tiến: cần mẫn và nỗ lực chân chính; 7- Chính niệm: ý thức chân chính; 8Chính định: thiền định chân chính.
Tất cả các nguyên tắc trên đều liên hệ với nhau, bồi đắp cho nhau một
cách thân thiết dẫn đến trong tám chi của bát chính đạo, mỗi chi đều bao gồm
tám chi. Chi nào cũng làm nhân và đồng thời làm quả cho bảy chi khác.
Chứng kiến không phải là bước đầu cũng như chính định không phải là bước
cuối.v.v...
Theo đạo Phật, một con người hoàn thiện cần phải có đủ hai phẩm tính:
Bi và Tuệ. Bi đại diện cho ái, từ thiện và tình cảm cao thượng khác, cũng tức

là phẩm chất của tâm. Còn Tuệ đại diện cho lý trí hoặc những phẩm chất về tư
tưởng. Chỉ phát triển tình cảm mà coi nhẹ lý trí thì sẽ trở thành kẻ ngu ngốc
mà có lòng tốt. Nếu phát triển lý trí mà coi nhẹ tình cảm thì sẽ biến thành nhà
tư tưởng lòng dạ sắt đá, không có chút tình cảm nào đối với con người. Do đó
muốn trở thành con người hoàn thiện tất phải vun đắp cả hai phẩm tính. Đó
chính là mục đích phương thức sống của Phật giáo. Bi và Tuệ làm cơ sở bao
quát tám chi của Bát chính đạo.
Giáo lý của đạo Phật tuy rất đơn giản nhưng có tác dụng rất lớn, nó
giúp con người loại bỏ được những thói hư, tật xấu để đi đến một cuộc sống
tốt đẹp, bình đẳng hơn. Bertrand Russel nhà toán học kiêm triết học Anh nổi
tiếng đã nói: “Đạo Phật là một sự kết hợp của hai loại triết học là Tự biện và
Khoa học, nó đề cao phương pháp khoa học và đeo đuổi một mục tiêu tối hậu,
có thể nói là với lý trí. Nó thay thế cho khoa học ở những đoạn đường mà

Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
16


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

khoa học không đến được do tính không hoàn thiện của những công cụ khoa
học. Thành tựu của đạo Phật là những thành tựu của tinh thần. Không có lý
do gì về giả thiết”[14.tr67]
* Thập nhị nhân duyên (duyên khởi)
Bao gồm: Vô minh - hành - thức - danh sắc - lục nhập - xúc - thụ - ái thủ - hữu - sinh - tử. Đây là quá trình sự sống phát sinh, tồn tại và tiếp diễn.
Nếu chấm dứt sự chết, thì quá trình sẽ chấm dứt: không còn vô minh, không

còn phiền não... vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt
thì danh sắc diệt,... cho đến khi sinh diệt thì lão tử diệt. Mỗi một duyên khởi
vừa là quả, vừa là nhân, vừa bị định đoạt, vừa làm điều kiện. Vì thế chúng đều
là tương đối, liên quan đến nhau, không có gì là tuyệt đối hay biệt lập. Thập
nhị nhân duyên, vì thế không phải là một chuỗi, mà là một vòng.
1.1.2. Hai trường phái chính trong Phật giáo
Sau khi Đức Phật qua đời, các đệ tử của Người đã định kỳ họp lại. Tại
các cuộc họp càng về sau, sự bất đồng ý kiến giữa các chư tăng trong việc
hiểu và giải thích kinh Phật càng ngày càng lớn. Hàng ngũ Phật giáo do vậy
chia ra làm hai phái: Tiểu thừa và Đại thừa. Hai trường phái đều có tôn chỉ
mục đích là phấn đấu cho Niết Bàn, cùng thừa nhận giáo lý cơ bản của Đức
Phật chỉ khác nhau về phương pháp và phương tiện tu hành.
Phật giáo Đại thừa (Mahayana) còn có tên là Phật giáo Bắc tông. Chủ
trương “không luận”, cho rằng vạn pháp tuy có nhưng thực ra là không. Nghĩa
là nghiêm khắc với bản thân còn đối với mọi người phải từ bi, hỷ, xả, không
chỉ giải thoát cho bản thân mình mà muốn giải thoát cho cả thế giới. Phái Đại
thừa tin rằng tôn giáo là mối quan tâm của mọi người; thừa nhận Phật là đấng

Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
17


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

cứu độ; họ có nhiều nghi thức đi kèm với cầu nguyện cá nhân.
Phật giáo Tiểu thừa chủ trương tự giải thoát cho mình bằng nỗ lực cá

nhân, nhấn mạnh sự tự giác; tôn chỉ là mối quan tâm của sư tăng, họ coi Đức
Phật là một vị đại sư; tránh các nghi thức và cầu nguyện.
1.2. Sự truyền bá Phật giáo vào Việt Nam
1.2.1. Quá trình du nhập Phật giáo vào Việt Nam
Đạo Phật truyền bá vào Việt Nam từ rất sớm, nhất là từ cuối thế kỉ thứ
II, đầu thế kỉ thứ III qua hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
Con đường Hồ Tiêu, tức là đường biển, xuất phát từ các hải cảng vùng
Nam Ấn, rồi qua Srilanka, Inđônêsia, Việt Nam, những thương nhân Ấn cùng
với một số vị tăng đi để cầu nguyện cho thủy thủ đoàn và các vị tăng này nhờ
đó mà truyền bá đạo Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á. Các nhà sư Ấn Độ
theo đường biển đến Việt Nam. Luy Lâu trở thành trung tâm Phật giáo từ đầu
Công Nguyên.
Con đường Đồng Cỏ, tức là đường bộ (còn gọi là đường tơ lụa). Con
đường này xuất phát từ vùng Đông Bắc Ấn Độ, Assam hoặc phía Trung Á,
một nhánh của đường tơ lụa đi từ Châu Âu qua các vùng thảo nguyên và vùng
sa mạc Trung Á tới Lạc Dương bằng phương tiện lạc đà. Cũng có thể các
thương nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng và các triền sông Mê Công, sông
Hồng, sông Đà mà vào Việt Nam.
Như vậy, đạo Phật đến với Việt Nam thông qua con đường hoà bình,
mặt khác giáo lý của Phật giáo truyền tải tư tưởng bình đẳng, bắc ái, cứu khổ,
cứu nạn... gần gũi tín ngưỡng, văn hoá Việt Nam nên được cư dân Việt Nam
dễ dàng chấp nhận.
Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
18


Trường Đhsp hà Nội 2


Khoá luận tốt nghiệp
1.2.2. Phật giáo Việt Nam phát triển qua các thời đại

Lịch sử tồn tại của Phật giáo Việt Nam cho đến nay đã gần 2.000 năm,
có thể chia làm nhiều giai đoạn, gắn với các giai đoạn phát triển của lịch sử
Việt Nam.

 Giai đoạn từ cuối thế kỉ I đến hết thế kỉ X:
Đây là giai đoạn Phật giáo du nhập vào Việt Nam.
Từ cuối thế kỉ I đến hết thế kỉ V, sự truyền bá của Phật giáo vào Việt
Nam được gắn với tên tuổi của một số nhà sư Ấn Độ là: Ma Ha Kì Vực, Khâu
Đà La, Khương Tăng Hội, Chi Lương Cương và một số nhà sư Trung Quốc là
Mâu Bác (Mâu Tử), Du Pháp Lan, Du Đạo Toái, Đàm Hoằng...
Trong đó:
Maha kì vực, Khâu đà la, Mâu Bác truyền giáo ở thế kỉ II.
Khương Tăng Hội và Du Đạo Toái truyền giáo ở thế kỉ IV.
Đàm Hoằng truyền giáo ở thế kỉ V.
Đến thế kỉ thứ V, ở Việt Nam đã có những nhà sư người Việt nổi tiếng
như: Huệ Thắng (440 - 479), Thích Đạo Thiền (457 - 483) được mời sang
Trung Quốc để thuyết pháp.
Đến thế kỉ thứ VI, thời hậu Lý Nam Đế, nhà sư Ấn Độ là Tỳ-ni-đa-lưuchi là học trò của Tăng Xán (Tổ thứ ba của Thiền phái Trung Quốc) đến tu tại
chùa Pháp Vân và trở thành Tổ thứ nhất của phái thiền ở Việt Nam. Phái thiền
Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
19


Trường Đhsp hà Nội 2


Khoá luận tốt nghiệp

này được truyền 18 đời với 29 vị Thiền sư, người đầu tiên là Pháp Hiền (626),
người cuối cùng là Y Sơn (1216).
Khoảng năm 820, nhà sư Trung Quốc là Vô Ngôn Thông đến tu tại
chùa Kiến Sơ (làng Phù Đổng - Bắc Ninh) và lập ra phái Thiền thứ hai ở Việt
Nam. Phái thiền này truyền được truyền 15 đời, với 40 vị thiền sư. Cảm
Thành (860) là người đầu tiên và Ứng Vương (1287) là người cuối cùng. Phái
thiền Vô Ngôn Thông chủ trương tìm chân lý ở ngay hiện tại, trong bản thân
mỗi người. Chân lý chỉ có thể tu chứng trực tiếp bằng niệm Phật chứ không
thể nắm bắt được qua ngôn ngữ, văn tự. Chỉ có niệm Phật mới có thể đạt tới
tuệ giác.

* Giai đoạn từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ thứ XV:
Sang thế kỉ thứ X, nhà nước phong kiến Việt Nam được xây dựng,
củng cố và phát triển. Các triều đại phong kiến từ Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đều
có những chính sách nhằm khuyến khích, nâng đỡ đạo Phật.
Thời nhà Đinh, vua Đinh Tiên Hoàng triệu tập các cao tăng để định rõ
phẩm chất cho tăng già, phong cho sư Ngô Chân Lưu (đời thứ IV của Phái
thiền Vô Ngôn Thông) làm chức Tăng Thống (người đứng đầu hàng giáo
phẩm) và ban hiệu là Khuông Việt đại sư (ngang hàng với “Tam Công” trong
triều).
Thời nhà Lê, vua Lê Đại Hành trọng dụng những nhà sư có công giúp
triều đình đánh giặc, mời sư Đỗ Thuận (đời thứ 10 của phái thiền Tỳ - ni - đa

Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
20



Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

- lưu - chi) làm cố vấn triều chính và bang giao, hỏi ý kiến sư Vạn Hạnh trước
khi xuất quân đánh Tống, cho phép các nhà sư Việt Nam sang Trung Quốc
thỉnh kinh về truyền bá Phật pháp.
Thời nhà Lý (1010 - 1025), Lý Công Uẩn nguyên là sa-di,là học trò của
sư Lý Khánh Vân, sau khi lên ngôi đã ban hành nhiều chính sách có lợi cho
Phật giáo như: độ dân làm sư, xây dựng nhiều chùa chiền khắp nơi, cho sư
sang Trung Quốc thỉnh kinh.v.v...
Các vua nhà Lý như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý
Cao Tông, Lý Huệ Tông đều tôn sùng đạo Phật. Lý Thái Tông (1028 - 1054)
thuộc thế hệ thứ 7 của phái Thiền Vô Ngôn Thông. Lý Thánh Tông (1054 1071) thuộc thế hệ thứ nhất của Thiền phái Thảo Đường. Đây là Thiền phái
kết hợp giữa Thiền Tông và Tịnh Độ Tông, chú ý sự giải thoát bằng tự lực kết
hợp với tha lực (sự cứu vớt của các vị Bồ Tát, đặc biệt là Quan Thế Âm Bồ
Tát).
Trong xã hội, các tầng lớp quan lại và bình dân đều mộ Phật. Ở nông
thôn, chùa Phật trở thành một trung tâm sinh hoạt văn hoá tinh thần, cùng tồn
tại song song bên cạnh ngôi đình của Nho giáo. Các lễ hội chùa Phật trở thành
một đặc điểm văn hoá của thời Lý.
Dưới thời Trần, Phật giáo tiếp tục có những bước phát triển mới với
những đại biểu xuất sắc như: Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung
Thượng Sĩ,... Trần Thái Tông là một nhà Phật học lỗi lạc.
Nhìn chung, Phật giáo thời Lý - Trần đã có những bước phát triển cả
chiều rộng lẫn chiều sâu. Nó là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng của xã
hội Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV, được giai cấp phong kiến Việt Nam

Hoàng Thị Hường


K32G - Việt Nam học
21


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

sử dụng trong quá trình xây dựng và củng cố địa vị thống trị của mình và đã
ảnh hưởng sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
* Giai đoạn từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XIX:
Từ thế kỉ thứ XV, giai cấp phong kiến Việt Nam suy tôn Nho giáo, lấy
đó làm chỗ dựa về tư tưởng, chính trị và đạo đức. Phật giáo cung đình suy tàn
dần. Phật giáo dân gian mang yếu tố thần bí. Người Việt đã sáng tạo ra hình
ảnh Phật bà nghìn mắt, nghìn tay thể hiện ước vọng được cứu vớt.
* Giai đoạn từ thế kỉ XX cho tới nay:
Từ những năm 30 của thế kỉ XX, phong trào “Chấn hưng đạo Phật” do
một số nhà sư cùng với một số nhân sĩ trí thức có tinh thần dân tộc và mộ đạo
khởi xướng đã làm cho Phật giáo dần dần được khởi sắc. Một số tổ chức Phật
giáo có cơ sở đào tạo tăng ni chuyên nghiệp được hình thành.
Từ năm 1954 đến 1975 Phật giáo ở hai miền tuy có những nét khác
biệt, nhưng nhìn chung đều có những đóng góp quan trọng trong công cuộc
đấu tranh giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sau khi đất nước thống nhất, theo nguyện vọng và yêu cầu của đa số
tăng ni, phật tử, đặc biệt là các chức sắc của các hệ phái Phật giáo, năm 1981
“Giáo hội Phật giáo Việt Nam” đã ra đời. Đây là tổ chức Phật giáo thống nhất
trong cả nước, gồm có hai hội đồng là Hội đồng Chứng minh và Hội đồng Trị
sự.


Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
22


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp
Chƣơng 2

VĂN HOÁ PHẬT GIÁO TRONG VĂN HOÁ VIỆT NAM
2.1. Kiến trúc, điêu khắc, sự bài trí tƣợng thờ, trang phục phật giáo trong
văn hoá Việt Nam
2.1.1. Kiến trúc chùa và tháp
* Kiến trúc chùa
Từ sau khi du nhập, Phật giáo luôn là một tôn giáo chiếm vị trí quan
trọng trong tâm linh người Việt Nam. Suốt chiều dài lịch sử, Phật giáo luôn
đồng hành cùng dân tộc. Vai trò của Phật giáo lúc nổi trội được coi là quốc
giáo và lúc chìm lắng sống trong lòng người dân nhưng chưa bao giờ gián
đoạn. Người Việt Nam gắn bó chặt chẽ với ngôi chùa Phật giáo. Từ ngàn xưa,
trẻ con Việt Nam lớn lên với những câu chuyện mẹ kể cho nghe về ông Bụt
hiền từ và giúp đỡ người lành. Gắn liền với hình ảnh của các vị Phật cứu thế
độ nhân là ngôi chùa Phật giáo. Chùa Phật có mặt ở khắp làng quê Việt Nam
từ mấy nghìn năm nay, đâu chỉ có vẻ đẹp đơn thuần,nó là một bộ phận quan
trọng trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Theo số liệu thống kê
của giáo hội Phật giáo Việt Nam, hiện nay nước ta có 13.775 tự viện, bao
gồm: 11,432 của Phật giáo Bắc Tông, 517 của Phật giáo Nam Tông, 361 tịnh
xá, 467 tịnh thất, 998 Niệm Phật đường [6.tr46].
Chùa chiền ở Việt Nam do nhiều hoàn cảnh lịch sử và xã hội chi phối

nên mỗi thời kỳ lịch sử có dáng vẻ kiến trúc khác nhau, phân bố không đồng
đều, thường phía Nam nhiều hơn phía Bắc, mỗi miền có phong cách riêng biệt
nhau. Trong tất cả cái riêng đó, người ta vẫn thấy được cái chung rất đáng
quý, đáng trân trọng, xuyên suốt cho mọi thời kỳ, cho tất cả mọi miền đó là
Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
23


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

chức năng và vị trí văn hoá của ngôi chùa đối với người dân Việt Nam. Khi
tìm hiểu về kiến trúc của các ngôi chùa ta có thể thấy rõ điều này.
Theo tục ngữ Việt Nam “đất vua, chùa làng”, các ngôi chùa đa số là
thuộc về cộng đồng làng xã. Xây chùa bao giờ cũng là một việc trọng đại đối
với làng quê Việt Nam. Việc chọn đất xây chùa thường bị chi phối bởi quan
niệm phong thuỷ. “Xây dựng chùa, phải chọn đất tốt, ngày tốt, giờ tốt”.
Chùa Việt Nam thường xây dựng không phải là một công trình mà là
một quần thể kiến trúc, gồm những ngôi nhà sắp xếp cạnh nhau hoặc nối vào
nhau.
Bố cục mặt bằng của các ngôi chùa đa số là:
+ Chữ Đinh.
+ Chữ Công.
+ Chữ Tam.
+ Kiểu Nội công ngoại quốc.
Chùa chữ Đinh, có nhà chính điện hay còn gọi là Thượng điện, là nhà
đặt các bàn thờ Phật, được nối thẳng góc với nhà Bái đường hay nhà Tiền

đường phía trước.
Chùa chữ Công là chùa có Chính điện và nhà Bái đường song song với
nhau và được nối với nhau bằng một ngôi nhà gọi là nhà Thiêu hương, nơi sư
làm lễ.

Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
24


Trường Đhsp hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

Chùa chữ Tam là kiểu chùa có ba nếp nhà song song với nhau, thường
được gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng.
Chùa kiểu nội công ngoại quốc là kiểu chùa có hai hành lang nối dài
liền nhà Tiền đường ở phía trước với hậu đường (có thể là nhà Tổ hay nhà
Tăng) ở phía sau làm thành một khung hình chữ nhật bao quanh lấy nhà Thiêu
hương, nhà Thượng điện hay các công trình kiến trúc khác ở giữa. Bố cục mặt
bằng chùa có dạng phía trong hình chữ công, còn phía ngoài có khung bao
quanh như chữ khẩu hay chữ quốc.

Trong chùa chủ yếu gồm các cấu trúc đơn lẻ:
+ Tam quan là bộ phận không thiếu trong thành phần chùa Việt Nam,
là cổng vào chùa, thường là một ngôi nhà với ba cửa vào. Có nhiều chùa có
hai Tam quan, một Tam quan nội và một Tam quan ngoại. Tầng trên có thể
dùng làm gác chuông.
+ Sân chùa: Qua Tam quan là đến sân chùa. Sân chùa có nhiều chùa

thường được bày đặt chậu cảnh, hòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh
sắc thiên nhiên cho ngôi chùa. Diện tích sân chùa phụ thuộc vào những điều
kiện và đặc điểm riêng của từng chùa.
+ Bái đường: Từ dưới sân chùa lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là
nhà Bái đường ( hay còn gọi là Tiền đường, nhà Thiêu hương). Để đi được
đến đây thường phải đi lên một số bậc thềm. Ở nhà Bái đường có thể đặt một
số tượng, bia đá ghi sự tích của ngôi chùa, có thể đặt cả gác chuông, khánh
Hoàng Thị Hường

K32G - Việt Nam học
25


×