Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Totem sói của khương nhung với văn học tầm căn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.4 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
-------***-------

PHẠM THỊ THU TRANG

TÔTEM SÓI CỦA KHƯƠNG NHUNG
VỚI VĂN HỌC TẦM CĂN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

HÀ NỘI - 2013

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
-------***-------

PHẠM THỊ THU TRANG

TÔTEM SÓI CỦA KHƯƠNG NHUNG
VỚI VĂN HỌC TẦM CĂN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH DUNG



HÀ NỘI – 2013

2


LỜI CẢM ƠN

Khóa luận này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của cô giáo Nguyễn
Thị Bích Dung. Lời đầu tiên tác giả khóa luận muốn chuyển tới cô giáo lời
cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất.
Người viết cũng xin được gửi lời trân trọng cảm ơn đến các thầy cô
giáo trong tổ Văn học nước ngoài và các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn –
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ người viết trong
quá trình thực hiện khóa luận này.

Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Người thực hiện

Phạm Thị Thu Trang

3


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Thị Bích Dung. Các số liệu trong khóa luận
này là trung thực. Khóa luận này chưa từng được công bố trong bất kì công
trình nghiên cứu nào. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.


Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Người thực hiện

Phạm Thị Thu Trang

4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 7
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 10
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát ........................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 10
6. Đóng góp của khóa luận ........................................................................ 11
7. Bố cục của khóa luận ............................................................................ 11
NỘI DUNG .................................................................................................. 12
Chương 1. TẦM CĂN – MỘT TRÀO LƯU MỚI CỦA VĂN HỌC ĐƯƠNG
ĐẠI TRUNG QUỐC .................................................................................... 12
1.1. Khái niệm “tầm căn” và Văn học Tầm Căn ........................................ 12
1.1.1. Khái niệm “tầm căn” ................................................................... 12
1.1.2. Khái niệm Văn học Tầm Căn ....................................................... 12
1.2. Đặc trưng của Văn học Tầm Căn ........................................................ 12
Chương 2. TÔTEM SÓI CỦA KHƯƠNG NHUNG VỚI VĂN HỌC
TẦM CĂN..................................................................................................... 17
2.1. Khái niệm tôtem và ý nghĩa của nó .................................................... 17
2.1.1. Khái niệm tôtem ........................................................................... 17
2.1.2. Ý nghĩa tôtem với Văn học Tầm Căn ............................................ 17

2.2. Tôtem sói của Khương Nhung với Văn học Tầm Căn......................... 17
2.2.1. Tầm căn từ phương diện lịch sử ................................................... 17
2.2.2. Tầm căn từ phương diện dân tộc học ........................................... 25
2.2.3. Tầm căn từ phương diện văn hóa ................................................. 40
KẾT LUẬN.................................................................................................. 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 57

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cùng với Văn học Vết Thương, Văn học Tiên Phong... Tầm Căn là
trào lưu mới của văn học Trung Quốc đương đại. Đó là trào lưu văn học tìm
về cội nguồn, đưa ra những kiến giải mới mẻ và lí thú về nguồn gốc của
người Trung Hoa. Văn học Tầm Căn ngày càng nhận được sự đón nhận nồng
nhiệt từ công chúng và thu hút một lượng lớn tác giả tham gia sáng tác như
Uông Tăng Kì, Giả Bình Ao... Nhưng phải tới Khương Nhung với Tôtem sói
vấn đề nguồn gốc của dân tộc Hoa Hạ mới thực sự được chỉ ra rõ nét và
“khai quật” một cách triệt để, có hệ thống (chữ dùng của Khương Nhung).
Tôtem sói được công bố trong thời kì Đổi mới của văn học Trung Quốc và
ngay lập tức nhận được sự đánh giá trái chiều từ nhiều phía. Tác phẩm nhanh
chóng gây xôn xao dư luận bởi những lập thuyết mới mẻ về cội nguồn của
người Hoa Hạ, đánh động vào quan niệm “thâm căn cố đế” tồn tại hàng nghìn
năm trên đất Trung Hoa. Đọc xong tác phẩm người ta thấy một mối hoài nghi
lớn: Chúng ta là truyền nhân của Rồng hay Sói? Dân tộc nông canh Hoa Hạ
tồn tại, phát triển và duy trì được nền văn minh không đứt đoạn phải chăng là
nhờ sự tiếp máu của dân tộc du mục sống trên lưng ngựa và tôn thờ tôtem sói?
Tôtem sói còn gây sốc bởi doanh thu khổng lồ mà nó đem lại cho tác giả của
mình từ việc mua lại bản quyền xuất bản sách, dịch tác phẩm và chuyển thể

sang phim hoạt hình.
1.2. Cái tên Tôtem sói nói riêng, Văn học Tầm Căn nói chung còn là
những thuật ngữ mới mẻ và có phần xa lạ với độc giả Việt Nam. Bởi hầu hết
các tác phẩm thuộc dòng Văn học Tầm Căn vẫn chưa được dịch ra tiếng Việt
và cũng chưa có một công trình nghiên cứu nào xứng tầm với Tôtem sói.
Tôtem sói và Văn học Tầm Căn mới chỉ chủ yếu được điểm danh trên một số
mặt báo, tạp chí, một số bài phê bình, tiểu luận. Bởi thế khóa luận nghiên cứu

6


này có thể đem đến một cách đọc, một hướng khai thác mới với Tôtem sói từ
góc độ “tầm căn”, góp phần rút ngắn cự li giữa tác phẩm văn học nước ngoài
với tác phẩm văn học trong nước, tiếp nối dòng chảy từ văn học truyền thống
tới văn học đương đại, làm xích lại gần hơn tác phẩm văn học trong đời sống
xã hội và tác phẩm văn học trong nhà trường. Điều đó có nghĩa người viết
chọn đề tài nghiên cứu này phần nào giúp bạn đọc hình dung một cách đầy đủ
về cục diện nền văn học đương đại Trung Quốc nói chung, cập nhật một tác
phẩm văn học mới trong Nhà trường Sư phạm.
Xuất phát từ sự yêu thích đặc biệt của bản thân với Tôtem sói của
Khương Nhung cũng như trào lưu Văn học Tầm Căn mà tác giả khóa luận
chọn đề tài này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ sự nghiên cứu và tìm hiểu chúng tôi nhận thấy đề tài mà chúng tôi
triển khai là một đề tài mới mẻ và chưa được khai thác, tìm hiểu một cách
chuyên sâu bởi Văn học Tầm Căn cũng như Tôtem sói còn là những cái tên xa
lạ đối với nhiều nhà nghiên cứu và đông đảo bạn đọc Việt Nam.
Xuất hiện từ giữa những năm 80 của thế kỉ trước với sự mở đường của
Hàn Thiếu Công, Văn học Tầm Căn là một trong những trào lưu mới của văn
học Trung Quốc đương đại. Tính đến nay những tác phẩm đã được chuyển

ngữ tại Việt Nam không nhiều, số lượng các công trình nghiên cứu có hệ
thống về trào lưu văn học này lại càng hiếm. Văn học Tầm Căn mới chỉ được
nhắc tới sơ lược trong một số bài viết khái quát về tình hình văn học Trung
Quốc thời kì mới của các tác giả Hồ Sĩ Hiệp, Lê Huy Tiêu và một số tác giả
cộng tác trên báo mạng xã hội.
Trong số các tên tác giả đã được điểm danh ở trào lưu Văn học Tầm Căn
thì có lẽ Khương Nhung là cái tên có phần lạ lẫm hơn cả với công chúng
Trung Quốc và Việt Nam...

7


Tôtem sói là tác phẩm đầu tay nhưng cũng được xem là tác phẩm thành
công nhất của nhà văn Khương Nhung. Tác phẩm được thai nghén trong suốt
20 năm và viết trong 6 năm. Đây là kết quả của chuyến đi thực tiễn và sinh
sống trên thảo nguyên Ơlôn của tác giả dưới thời kì “Đại Cách mạng Văn
hóa” ở Trung Quốc. Trước khi xuất hiện tại Việt Nam, tác phẩm đã gây xôn
xao dư luận thế giới với nhiều ý kiến trái chiều. Người khen khen hết lời, coi
đây là kho tàng văn hóa kì diệu, là một bộ kì thư của nhân loại. Người chê thì
chê không ngớt đả đảo tinh thần phát xít, phản động ẩn bóng trong tác
phẩm… Tuy nhiên vượt lên trên tất cả cuốn sách vẫn dành được sự ái mộ và
đón đọc của hàng triệu độc giả trên thế giới đồng thời nhận được số tiền
chuyển giao bản quyền lên tới con số kỉ lục từ trước tới nay. Cuốn sách đã
mang lại vinh dự cho tác giả của nó với 12 giải thưởng văn chương và danh
giá nhất là giải thưởng văn chương châu Á đầu tiên trong lịch sử - Man Asian
Booker Prize. Sau khi Tôtem sói “xuất đầu lộ diện” ở Trung Quốc không lâu,
các nhà xuất bản nước ngoài đã ráo riết mua bản quyền chuyển ngữ tác phẩm.
Một số nhà xuất bản ở Tokyo đưa ra con số 300.000 USD riêng cho bản
quyền đưa cuốn sách này lên phim hoạt hình. Nhà xuất bản Penguin Books ở
Anh đã lập kỉ lục khi ứng trước 100.000 USD mua bản quyền phát hành cuốn

sách bằng tiếng Anh trên toàn thế giới. Và nhà xuất bản Bertelsmann đặt
20.000 Euro cho bản quyền tiếng Đức…
Ở Việt Nam cuốn sách được nhà xuất bản Công an Nhân dân ấn hành đầu
năm 2007 do dịch giả Trần Đình Hiến chuyển ngữ. Sau khi xuất hiện Tôtem sói
cũng dấy lên làn sóng tranh luận trong giới nghiên cứu phê bình văn học cũng
như độc giả yêu thích văn học nước ngoài ở Việt Nam. Ngày 08/ 08/ 2007 tại
Thư viện – Café Đông Tây (nhà 11A, phố Trần Quý Kiên, Cầu Giấy, Hà Nội),
Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây kết hợp với báo Người Hà Nội đã tổ
chức buổi tọa đàm về Tôtem sói với các nội dung chính như: Giới thiệu bản

8


dịch Tôtem sói của dịch giả Trần Đình Hiến và những dư luận xoay quanh tác
phẩm ở Việt Nam và trên thế giới; trao đổi về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật
tiểu thuyết; trao đổi về chất lượng bản dịch và về xu hướng chọn tác phẩm văn
học nước ngoài để dịch sang tiếng Việt trong điều kiện xã hội – văn hóa Việt
Nam hiện nay. Trong buổi tọa đàm nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học có
uy tín đều khẳng định: “Đây là cuốn sách hay, rất đáng được chuyển ngữ để
bạn đọc Việt Nam có cơ hội tìm hiểu và chúng ta nên tiếp cận cuốn sách từ góc
nhìn dành cho một cuốn tiểu thuyết chứ không phải theo quan điểm tư tưởng
chính trị”. Theo ý kiến của đông đảo các nhà văn, nhà giáo, nhà nghiên cứu có
mặt tại đó thì đây là cuốn sách có giá trị trên nhiều phương diện: văn hóa, khoa
học, sử học, nghiên cứu tự nhiên…
Ngoài ra Tôtem sói cũng nhận được nhiều bài viết phê bình, phân tích
trên các trang báo khác nhau, đặc biệt là những chia sẻ trên Internet.
Trên trang http:www.Nhandan.com.vn, tác giả Hồng Minh đã trích dẫn
cuộc phỏng vấn dịch giả Trần Đình Hiến về tác phẩm Tôtem sói của Khương
Nhung do ông chuyển ngữ với nhan đề bài viết “Tôtem sói – một kho tàng kiến
thức kì diệu”. Theo dịch giả tác phẩm: “Đọc tác phẩm này là một cơ may cho

độc giả Việt Nam. Bởi các nhà văn sẽ tìm thấy trong đó những bài học về sáng
tác, cách khai thác đề tài cũng như loại hình tác phẩm, các nhà khoa học, đặc
biệt các nhà sử học sẽ coi cuốn sách như một giả thuyết về lịch sử trong đó đặt
ra và giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến nguồn gốc loài người, về văn hóa,
xã hội của Trung Quốc. Còn đối với bạn đọc trẻ, những người ham hiểu biết,
đây sẽ là một cơ hội khám phá tuyệt vời về thế giới tự nhiên, về cuộc sống nơi
thảo nguyên mênh mông. Tôtem sói là một kho tàng kiến thức kỳ diệu, thú vị
về một nền văn hóa chưa được biết tới, chưa được đánh giá đúng”.
Trên trang Evan.com, tác giả Lan Anh cũng đưa ra những ý kiến của
mình về tác phẩm Tôtem sói với nhan đề bài viết là “Tôtem sói”. Nội dung
của bài viết tập trung vào việc đưa ra những ý kiến phân tích tác phẩm. Đó là

9


việc thông qua hình tượng sói tác giả đã đặt ra nhiều giả thuyết mới về lịch sử
Trung Hoa. Khương Nhung đã tái tạo bản anh hùng ca bi tráng về loài sói và
những người dân du mục cuối cùng của Mông Cổ trong thời kì “Đại Cách
mạng Văn hóa vô sản”.
Ngoài những bài viết trên, Tôtem sói còn được nhắc tới trên các trang
báo mạng khác như LAODONG_COM_VN, Thuvien_ebook_com…
Tuy nhiên hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu nào quy mô và
xứng tầm với những đóng góp to lớn của Tôtem sói với trào lưu Văn học Tầm
Căn do tác phẩm còn nhiều mới mẻ với độc giả Việt Nam và xoay quanh nó
còn tồn tại nhiều ý kiến tranh luận trái chiều chưa ngã ngũ.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nêu bật những đặc trưng cơ bản của trào lưu Văn học Tầm Căn.
- Qua phân tích tác phẩm Tôtem sói chỉ ra được những lập thuyết mới mẻ
của nhà văn Khương Nhung về cội nguồn của người Trung Quốc, thấy được
những đóng góp to lớn của Tôtem sói đối với trào lưu Văn học Tầm Căn.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
●Đối tượng nghiên cứu:
Tôtem sói của Khương Nhung với Văn học Tầm Căn.
●Phạm vi khảo sát:
Do khuôn khổ giới hạn, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát tác phẩm Tôtem
sói của Khương Nhung do Nxb Công an Nhân dân ấn hành đầu năm 2007
được dịch giả Trần Đình Hiến chuyển ngữ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả khóa luận đã sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau. Trong đó có thể kể tới một số phương pháp chính như sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh

10


- Phương pháp phân tích, tổng hợp
6. Đóng góp của khóa luận
Trong khóa luận này, chúng tôi đã đi vào phân tích Tôtem sói từ ý
nghĩa “tầm căn” của nó để cung cấp cho độc giả những nhận thức về trào lưu
Văn học Tầm Căn và những giả thuyết, kiến giải “phản truyền thống” về gốc
tích Hoa tộc của nhà văn Khương Nhung.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài hai phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung khóa luận được triển
khai qua hai chương chính:
- Chương 1: Tầm Căn – một trào lưu mới của văn học đương đại
Trung Quốc
- Chương 2: Tôtem sói của Khương Nhung với Văn học Tầm Căn

11



NỘI DUNG
Chương 1
TẦM CĂN – MỘT TRÀO LƯU MỚI CỦA VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI
TRUNG QUỐC
1.1. Khái niệm “tầm căn” và Văn học Tầm Căn
1.1.1. Khái niệm “tầm căn”
Theo chiết tự thì “tầm” có nghĩa là tìm kiếm, “căn” là gốc rễ. Đây là một
từ Hán Việt được trích từ câu “Tầm căn vấn đề”. Như vậy hiểu một cách sâu
xa thì “tầm căn” nghĩa là tìm kiếm, truy nguyên ngọn nguồn gốc rễ vấn đề. [9]
1.1.2. Khái niệm Văn học Tầm Căn
Văn học Tầm Căn là thuật ngữ dùng để chỉ một trào lưu văn học mới,
khởi thủy từ Trung Quốc. Hiểu một cách đơn giản thì đây là trào lưu văn học
có khuynh hướng tìm lại cội nguồn dân tộc, đi vào giải mã những bí ẩn về gốc
tích của chính quốc dân hoặc đặt ra những giả thuyết mới có tính chủ quan về
các vấn đề truyền thống dân tộc và trầm tích văn hóa cổ xưa.
1.2. Đặc trưng của Văn học Tầm Căn
“Đại Cách mạng Văn hóa” (1966 - 1976) kết thúc, “bè lũ bốn tên” bị tiêu
diệt đã đưa văn học Trung Quốc nói chung, tiểu thuyết Trung Quốc nói riêng
đi vào thời kì nở rộ với sự phát triển rực rỡ, mới lạ cả về nội dung và hình
thức. Làm nên diện mạo văn học Trung Quốc đương đại là những nhà văn
thuộc “thế hệ thứ 5”, lớp nhà văn xuất hiện và mau chóng trưởng thành sau
“Đại Cách mạng Văn hóa” - với các đại diện tiêu biểu: Lưu Chấn Vân, Mã
Nguyên, Mạc Ngôn, Giả Bình Ao, Trương Khiết, Thẩm Dung, Tông Phác.
Đây là những nhà văn đã phải chịu đựng nhiều đau khổ, mất mát trong những
năm “đại động loạn”. Khác với các lớp nhà văn trước đó, lớp “nhà văn thứ
năm” là những người “ưu thời mẫn thế”, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới và
dám đối mặt với hiện thực, họ đã mạnh mẽ đứng lên vạch trần tội lỗi của “bè


12


lũ bốn tên”, vạch trần những tàn dư xấu xa trong xã hội. Lớp nhà văn này đã
làm nên nền tiểu thuyết đương đại Trung Quốc với rất nhiều trường phái. Mở
đầu là dòng tiểu thuyết Văn học Vết Thương tố cáo tính vô nhân đạo của “Đại
Cách mạng Văn hóa”. Đến năm 1985, trong bối cảnh “cơn sốt văn hóa” lan
rộng, văn học Trung Quốc xuất hiện một trào lưu văn học mới – trào lưu Văn
học Tầm Căn.
Nguyên nhân nảy sinh dòng tiểu thuyết này là sự xuất hiện bài viết “Gốc
rễ của văn học” (“Văn học đích căn”) của Hàn Thiếu Công đăng trên tạp chí
Nhà văn tháng 6 năm 1985. Bài viết được coi như là tuyên ngôn của trường
phái này. Tác giả bài viết cho rằng: “Văn học có gốc rễ, gốc rễ của văn học
cần phải ăn sâu vào mảnh đất văn hóa truyền thống. Rễ không sâu, cành lá
khó mà mọc”. Trách nhiệm của nhà văn là “giải phóng nhiệt năng” của quan
niệm hiện đại để tạo lại và đánh bóng lại “tự ngã dân tộc”. Sau đó, trên văn
đàn Trung Quốc đã dấy lên một cơn sốt "Tìm gốc rễ văn học", một loạt tác
giả bắt dầu dốc sức khai quật ý thức truyền thống và tâm lý văn hóa dân tộc.
Tập hợp các tác phẩm của họ được gọi là Văn học Tầm Căn (Văn học tìm về
cội nguồn). Hàn Thiếu Công cũng cho rằng: nền văn minh Trung Hoa là nền
văn minh đặc thù, không hề bị gián đoạn, không biến mất, rất hiếm thấy trong
phạm vi cả thế giới, bên cạnh đó, nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc
được bảo tồn khá nhiều ở nông thôn Trung Quốc, là một mẫu của nền văn
minh, nông thôn lẽ ra phải là nguồn gốc sáng tác của các tác giả. Ông nói:
"Chúng tôi đang làm một công tác khá quan trọng, đó là phân tích và chẩn
đoán xã hội và gen văn hóa bản xứ của Trung Quốc. Sở dĩ độc giả thích đọc
một số tác phẩm của tôi là vì họ nhìn thấy một khuôn mặt mới mẻ của Trung
Quốc". Nhà văn A Thành, Trịnh Nghĩa, Mạc Ngôn, v.v… đều lên tiếng hưởng
ứng và sau đó hình thành một trường phái khá đông đảo, bao gồm các nhà văn
trẻ tiêu biểu như Lý Đà, Lý Khánh Dục, Trịnh Vạn Long, Lý Khánh Tây,

Uông Tăng Kì, Giả Bình Ao, v.v…

13


Văn học Tầm Căn khác với Văn học phản tư và Văn học cải cách nhưng
nó lại là sự phát triển chiều sâu của hai dòng tiểu thuyết trên. Từ góc độ Văn
học phản tư mà nói, Tầm Căn là sự tiếp nối diễn biến của phản tư, tức phản tư
về truyền thống dân tộc và trầm tích văn hóa cổ xưa; đứng về góc độ Văn học
cải cách mà nói, đó chính là sự cải cách thấm sâu, động chạm đến truyền
thống văn hóa dân tộc, thúc đẩy nhà văn suy nghĩ về giá trị văn hóa của ngày
hôm nay.
Các nhà nghiên cứu phân loại Văn học Tầm Căn Trung Quốc thành hai
nhánh chủ yếu: Tầm Căn nguyên thủy và Tầm Căn truyền thống.
Tầm Căn nguyên thủy thông qua miêu tả cuộc sống nguyên thủy hoặc
bán nguyên thủy của các dân tộc ở vùng thảo nguyên, sa mạc, rừng sâu để ca
ngợi sức sống bền bỉ của người xưa. Điều này thể hiện chủ yếu qua sự giằng
co giữa văn minh và dã man, giữa hiện đại và cổ xưa, khoa học và tín ngưỡng.
Các tác phẩm của Hàn Thiếu Công thể hiện nền “văn hóa Sở” thần bí,
cuồng phóng, cô phàm, kì vĩ; một loạt tiểu thuyết trong “hệ thống sông Cát
Xuyên” của Lý Khánh Dục đượm sắc thái của “văn hóa Ngô Việt”; rất nhiều
tiểu thuyết viết về vùng Thương Châu của Giả Bình Ao đậm đà màu sắc “văn
hóa Tần Hán”; tiểu thuyết của Mạc Ngôn viết về vùng cao lương Đông Bắc
của Trung Quốc; tiểu thuyết của nhà văn dân tộc thiểu số Uzơrơtu viết về
cuộc sống nguyên thủy của dân tộc Ewenki vùng Đông Bắc Trung Quốc; tiểu
thuyết của Jia-xi-ta-oa viết về cuộc sống nguyên thủy và tôn giáo thần bí của
cư dân vùng Tây Tạng.
Tầm Căn truyền thống lại nặng về miêu tả cuộc sống tâm linh của người
dân. Ví dụ tác phẩm Thụ giới của Uông Tăng Kì đã thông qua mối tình giữa
một cô gái nông thôn và một chú tiểu để chứng minh đạo Phật không thể tiêu

diệt sức mạnh tinh thần tự nhiên của con người. Tiểu thuyết Tuấn Mã Đen,
Dòng sông phương Bắc của Trương Thừa Chí phản ánh sinh hoạt tôn giáo của

14


dân tộc Hồi. Tiểu thuyết bộ ba Vua cờ, Vua cây, Vua trẻ con của A Thành
thấm đượm triết học Lão Trang.
Nhìn chung Văn học Tầm Căn Trung Quốc chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ
nghĩa hiện thực huyền ảo của Mĩ La-tinh. Đặc trưng của loại tiểu thuyết này là
sự kết hợp giữa ý thức tầm căn văn hóa với ý thức lo âu dân tộc, thủ pháp nghệ
thuật của nó là “biến hiện thực thành ảo giác mà không đánh mất tính chân
thực”. Khuynh hướng cơ bản của tác phẩm là tả thực của chủ nghĩa hiện thực,
nhưng hình thái bên ngoài đầy vẻ thần bí, quái dị. Hiện thực được khoa trương
phóng đại, biến dạng thành truyền thuyết thần thoại, dường như các nhà tiểu
thuyết Tầm Căn đan xen giữa hiện thực và thần thoại, truyền thuyết, sáng tạo ra
một “hiện thực” theo ý thức chủ quan của mình. Các nhà văn không chú trọng
sáng tạo ra hình tượng nhân vật hoàn chỉnh mà cố gắng thể hiện ý chí sinh tồn
mạnh mẽ và tâm lí đổi thay do cuộc sống biến dạng tạo nên.
Những đổi thay trong bút pháp của các nhà văn Trung Quốc là học được
từ chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của Mĩ La-tinh. Những cuốn tiểu thuyết Tầm
Căn Trung Quốc ở mức độ khác nhau đều có những đặc điểm của sáng tác
hiện thực huyền ảo. Thứ nhất là sự kết hợp kì diệu giữa miêu tả thần kì với
phản ánh hiện thực, tuy hiện thực đã được huyền thoại hóa nhưng không mất
đi tính chân thực; thứ hai là xóa bỏ ranh giới giữa sống và chết, giữa người và
ma, làm cho hiện thực gắn với phi hiện thực; thứ ba là phá bỏ hạn chế về
không gian – thời gian, lối thuật chuyện rất linh hoạt, có thể xuôi theo thời
gian, cũng có thể quay ngược thời gian, kể đi kể lại nhiều lần; thứ tư, sử dụng
nhiều thủ pháp ẩn dụ, tượng trưng, ám thị, ngụ ngôn dự báo, v.v... để tăng
không khí thần bí của truyện; thứ năm, cốt truyện thường xen kẽ truyền thuyết

dân gian, thần thoại, có khi thần thoại và hiện thực hòa trộn với nhau là một.
Chẳng hạn Người đào sâm đã có cuộc gặp gỡ kì lạ với những tên trộm “kì
phùng địch thủ” của mình. Nhưng điều đặc biệt là cuộc gặp gỡ này diễn ra tại

15


thế giới hiện thực mà không hiện thực, ảo ảnh mà không ảo ảnh – thế giới
trong gương.
Cách giải quyết xung đột trong các tác phẩm thuộc dòng Văn học Tầm
Căn cũng đầy bất ngờ, thú vị. Ví dụ trong tác phẩm Thợ săn, tác giả đã tái
hiện cuộc giao tranh giữa người thợ săn và sói. Cuộc giao tranh đang diễn ra
ác liệt thì đột nhiên xuất hiện xác một người đàn ông dưới vực sâu mà điều
đặc biệt là người đàn ông ấy lại không phải là người thợ săn. Kết thúc bất ngờ
ấy đã tạo khoảng trống cho người đọc suy ngẫm: Vậy thực chất người thợ săn
săn người hay săn sói? Cuộc giao tranh đang theo dõi là cuộc giao tranh giữa
người với sói hay giữa người với người? Tác phẩm vì thế gợi ra suy ngẫm
thấm đẫm triết lí nhà Phật “Săn đuổi cái gì thì ắt biến thành cái ấy”.
Không gian, thời gian trong các tác phẩm này cũng dị biệt, khác thường.
Đó là không gian kì ảo, là thời gian có sự xáo trộn, ngược dòng…
Tuy nhiên tiểu thuyết Tầm Căn có khuyết điểm là lí giải cái “gốc” (căn)
hơi cứng nhắc, phi lịch sử, dẫn tới tình trạng có một số nhà văn quá sùng bái
cái thô, cái tục, cái cổ, cái man dại, tỏ ra coi trọng cái xa xưa mà xem nhẹ cái
gần gũi trước mắt, như thế là mắc vào cái bệnh “hậu cổ bạc kim”.
Song tiểu thuyết Tầm Căn nói riêng và Văn học Tầm Căn nói chung có ý
nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của văn học Trung Quốc đương đại
vì: nó nhìn nhận lại văn hóa truyền thống, tìm tòi phương thức tư duy nghệ
thuật tượng trưng, đột phá diện phản ánh mà tiểu thuyết cũ chỉ dừng lại ở
cuộc sống hiện thực, dung nạp phương pháp biểu hiện của nghệ thuật hiện đại
chủ nghĩa, góp phần hình thành nên cục diện đa nguyên của văn học Trung

Quốc đương thời.

16


Chương 2
TÔTEM SÓI CỦA KHƯƠNG NHUNG VỚI VĂN HỌC TẦM CĂN
2.1. Khái niệm tôtem và ý nghĩa của nó
2.1.1. Khái niệm tôtem
Tôtem là động vật, cây, vật hoặc hiện tượng tự nhiên mà tộc người
nguyên thủy tin là có mối quan hệ siêu tự nhiên, có sự gần gũi máu mủ với
mình và coi là biểu tượng thiêng liêng của mình. [7, tr.1248]
2.1.2. Ý nghĩa Tôtem với Văn học Tầm Căn
Tôtem là một khái niệm không mới và đối với dòng Văn học Tầm Căn
việc tìm hiểu tôtem mang một ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi nói một cách
đơn giản thì tôtem của một dân tộc chính là linh vật, vật tổ của dân tộc ấy. Nó
biểu tượng cho đời sống tinh thần của con người trong cộng đồng dân tộc. Và
cũng từ mối quan hệ gần gũi với linh vật, tôtem giúp lí giải tồn tại xã hội
nguyên thủy của một tộc người cũng chính là truy tìm được cội nguồn lịch sử
của dân tộc ấy.
2.2. Tôtem sói của Khương Nhung với Văn học Tầm Căn
2.2.1. Tầm căn từ phương diện lịch sử
Nếu như xem các quan điểm trước Khương Nhung về nguồn gốc dân tộc
Hoa Hạ là quan điểm truyền thống thì tới Khương Nhung – nhà văn đã đưa ra
những lập thuyết hoàn toàn mới mẻ và có phần táo bạo khi dám đả đảo quan
niệm “thâm căn cố đế” tồn tại hàng nghìn năm trên đất Trung Hoa để “khai
quật” một cách khoa học cội nguồn lịch sử của dân tộc mình. Tôtem sói đã
truy tìm ngọn nguồn gốc tích Hoa tộc từ việc trở lại căn vấn vấn đề tôtem
nguyên thủy của tiên dân Trung Quốc.
“Quan niệm truyền thống ở Trung Quốc cho rằng rồng là một trong bốn

linh vật mà Lễ Ký (thiên Lễ Vận) chép: “Lân, phụng, quy, long, vị chi tứ
linh.” (Lân, phượng, rùa, rồng gọi là tứ linh). Tuy xếp hàng thứ tư trong tứ

17


linh nhưng rồng có ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống tinh thần của người dân
Trung Quốc. Sùng bái rồng trong xã hội nguyên thủy chiếm địa vị trọng yếu
trong tín ngưỡng linh vật hay vật tổ (tôtem: đồ đằng sùng bái) và liên quan
mật thiết tới chính trị, kinh tế, văn học, nghệ thuật, phong tục dân gian từ đời
Hạ, đời Thương. Ảnh hưởng này kéo dài mấy ngàn năm không suy giảm”. [4]
Minh chứng cho sự sùng bái tôtem rồng của tiên dân nguyên thủy Hoa
Hạ là di chỉ khảo cổ của cuộc phát tích vào cuối năm 1987 tại huyện Bộc
Dương, tỉnh Hà Nam. Các nhà khảo cổ Trung Quốc đã khai quật được một
con rồng bằng gốm giám định là có 6000 năm tuổi. Trước đó, năm 1971 tại
Tamtinh Thala cũng xuất thổ một con rồng ngọc, thuộc văn hóa Hồng Sơn,
thời kì đồ đá mới. Rồng còn luôn hiện hữu trong các chuyện thần thoại Trung
Quốc, trong các cổ vật, tranh vẽ, lời bói trên mai rùa, xương thú khai quật
được và trong các thư tịch cổ như Chu Dịch, Sơn Hải Kim, Tả truyện, v.v…
Như vậy, tôtem rồng đã xuất hiện ở Trung Quốc cách đây 5000 – 6000
năm. Điều đó cho thấy tôtem rồng là một trong những tôtem nguyên thủy
quan trọng nhất của dân tộc Hoa Hạ. Từ xa xưa người Trung Quốc đã tôn
sùng và thuật tả rất cụ thể về rồng.
Thuyết Văn Giải Tự giảng về rồng (long) là: “Lân trùng chi trưởng, năng
u năng minh, năng tế năng cự, năng đoản năng trường, xuân phân nhi đăng
thiên, thu phân nhi tiềm uyên.” (Rồng đứng đầu các loài có vẩy, có thể ẩn
hiện, có thể biến hóa nhỏ hoặc lớn, dài hoặc ngắn; tiết xuân phân thì bay lên
trời, tiết thu phân thì lặn sâu đáy vực).
Đoàn Ngọc Tài chú: “Mao Thi - Liệu Tiêu truyện viết: “Long sủng dã. Vị
long tức sủng chi giả tá dã”. Chước truyện viết: “Long hoà dã. Trường phát

đồng. Vị long vi ung hoà chi giả tá tự dã.” (Truyện Liệu Tiêu trong Mao Thi
nói: “Long tức là sủng (vinh diệu, yêu mến). Nói long tức là nói chữ giả tá của
sủng”. Chước truyện nói: “Long tức là hoà. Đồng nghĩa với trường phát (phát
triển lâu dài). Nói long tức là nói chữ giả tá của ung hoà (hoà mục, hoà hiệp)”.

18


Về hình thể, các nhà sử học Trung Hoa cho rằng rồng là một tổng hợp
của nhiều động vật: đầu lạc đà, sừng nai, mắt thỏ, tai trâu, cổ rắn, bụng ếch,
vẩy cá chép, móng vuốt chim ưng, lòng bàn chân cọp. Trên sống lưng có 81
vảy. Hai bên khoé miệng có những sợi râu dài, cằm có râu mang một hạt
minh châu.
Vì dân Ai Cập cổ đại thờ cá sấu làm vật tổ nên có thuyết cho rằng:
Tương tự như thế, có lẽ rồng chỉ là một biến thể của cá sấu (ngạc), thỉnh
thoảng xuất hiện nơi sông Dương Tử.
Tôn thờ rồng, coi rồng là biểu tượng tinh thần, là linh vật của dân tộc
đồng nghĩa tộc người Hoa Hạ tin rằng tổ tiên mình quen thuộc và gần gũi với
rồng. Họ xem rồng là loài có khả năng “đằng vân giá vũ”, đem lại mây mưa
thuận hòa làm nên mùa màng bội thu. Cũng chính từ đây mà các nhà nghiên
cứu cho: tồn tại nguyên thủy của dân tộc Trung Hoa là tồn tại nông canh và
dân tộc Trung Hoa là dân tộc khởi phát từ văn minh nông nghiệp. Vì chỉ có
dân tộc nông canh định trú định cư mới chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất bởi
những điều kiện tự nhiên như đất đai, thời tiết, khí hậu, v.v…
Quan niệm này đã tồn tại hàng nghìn năm trên đất Trung Hoa. Nhưng từ
khi cuốn tiểu thuyết tầm căn của Khương Nhung ra đời, người ta bắt đầu hoài
nghi lại lịch sử: Chúng ta luôn miệng thừa nhận là con cháu của Viêm Hoàng
nhưng rất có thể tôtem rồng là diễn biến từ tôtem sói. Tấm màn bí mật “Sùng
bái tôtem rồng” của dân tộc Hoa Hạ từ đó được vén lên. Vậy rốt cuộc chúng
ta là truyền nhân của Rồng hay Sói?

Coi rồng là tôtem, là linh vật nhưng người Trung Quốc nói riêng và các
dân tộc nông canh trên thế giới nói chung chưa ai từng nhìn thấy hình dáng
tôtem của dân tộc mình. Khổng Tử cũng thú nhận “Điểu, ngô tri kỳ năng phi;
ngư, ngô tri kỳ năng du; thú, ngô tri kỳ năng tẩu; [...] chí ư long, ngô bất năng
tri kỳ thừa phong vân nhi thướng thiên.” (Chim, ta biết nó bay thế nào; cá, ta

19


biết nó lội thế nào; thú, ta biết nó chạy thế nào; [...] đến như rồng thì ta không
biết nó cỡi mây đạp gió mà bay lên trời ra sao). Rồng thiên biến vạn hóa trong
trí tưởng của con người song là loài không có thật.
Riêng Khương Nhung quan niệm: “Con rồng “trừu tượng” dứt khoát
phải có cơ sở từ vật thật”. Nhà văn từ đó truyền đam mê khám phá ngọn
nguồn tấm màn bí mật về hình tượng rồng trong tôtem của dân tộc Hoa Hạ
vào nhân vật Trần Trận.
Nhân vật chính trong Tôtem sói – Trần Trận từng có 11 năm lao động
trên thảo nguyên Ơlôn, đã có cơ may được chung sống với dân tộc du mục và
sói thảo nguyên. Trần Trận có hứng thú đặc biệt với tôtem của dân tộc này. Ở
Ơlôn, người ta chỉ tôn sùng sói. Bởi người già Ơlôn tin rằng sói là loài vật
được Tăngcơli (trời) sai xuống để bảo vệ thảo nguyên và đưa linh hồn người
chết trở về trời. Sự ngưỡng vọng tôtem sói còn xuất phát từ việc dân tộc du
mục hiểu được tính cách ngoan cường, dũng mãnh và sự thông minh tuyệt
đỉnh của loài sói. Vì vậy, họ chiến đấu với sói nhưng cũng học tập rất nhiều từ
“kẻ thù một nửa” của mình. “Đối với người thảo nguyên sói là kẻ thù, là thần
chiến tranh nhưng cũng lại là tôtem, là thần linh và là tông sư của họ”. [5]
Từ chỗ thích thú, say mê Trần Trận cũng dần bị thuyết phục và tôn sùng
tôtem sói. Anh may mắn được nhìn thấy sói, chiến đấu với sói và nuôi sói.
Nhưng càng đi sâu tìm hiểu về sói và tôtem sói chàng thanh niên trí thức Bắc
Kinh này càng cảm thấy hoài nghi về nguồn gốc của dân tộc Trung Quốc. Sau

một thời gian dài trở lại Bắc Kinh, Trần Trận quyết định nghiên cứu và “khai
quật” nguồn gốc thực sự của tộc người Hoa Hạ qua sự sùng bái tôtem rồng. Cuối
cùng anh thành lập giả thuyết: tôtem rồng rất có thể là diễn biến từ tôtem sói
đồng thời đưa ra những kiến giải lí thú và khoa học cho lập thuyết đó của mình.
Trần Trận đã chứng minh lập thuyết của mình trước hết qua cái nhìn đối
sánh giữa hình tượng rồng và hình tượng sói.

20


Đi từ việc phân tích một trong những di chỉ khảo cổ đầu tiên về hình
tượng rồng là con rồng ngọc xuất thổ tại Tamtinh Thala thời Đá mới, Trần
Trận nhận thấy: “Con rồng ngọc này thực tế là con sói ngọc. Con rồng ngọc
nguyên thủy không giống chút nào con rồng mà người Trung Quốc quen
thuộc, mà là con rồng đầu sói thân rồng, trên mình con rồng ngọc không có
vảy, cũng không có móng vuốt, đầu và gáy hoàn toàn sao chép y nguyên đầu
sói, gáy sói: mặt dài, mũi dài, mép hơi nhếch lên, đặc biệt là đôi mắt tròn mà
xếch, lông gáy được điêu khắc giống như thật từ sau ót cho tới lông bờm nổi
hẳn lên vốn là đặc trưng của sói Mông Cổ, đẹp mà oai không thể tả”.
Theo Trần Trận vẫn có một số học giả cho đó là đầu lợn. Nhưng anh
nhanh chóng bác bỏ ngay giả thuyết đó. Bởi: thứ nhất, dân tộc du mục không
khi nào sùng bái con vật họ đã thuần dưỡng hay có thể thuần dưỡng. Suốt thời
gian sống trên thảo nguyên rộng lớn Trần Trận đã nhận thức rõ điều đó. Ngay
đến như ngựa Mông Cổ thiện chiến, dũng mãnh, đầy hoang dã hay loài chó
Mông Cổ dũng cảm dám đương đầu với bầy sói hoang cũng không bao giờ
được mục dân tôn sùng nói gì tới giống lợn thuần chậm chạp, ươn hèn, lười
nhác như bầy cừu. Thứ hai, từ hình tượng mà xét mắt lợn không xếch, mõm
lợn không mở ngay ra phía trước, đầu lợn cũng không dài như sự mô phỏng
đầu của rồng ngọc nguyên thủy. Thứ ba, thân lợn ngắn mà tròn, đuôi ngắn,
bất kể lợn rừng hay lợn nhà đều không thể diễn biến thành rồng; trong khi đó

thân sói dài, lông mượt, đuôi dài diễn biến thành rồng là có thể và hình tượng
con rồng bay Trung Hoa rất có thể là hình tượng con sói “lên trời” trong
tưởng tượng của tổ tiên Hoa Hạ thảo nguyên, mỹ hóa và thần thánh hóa mà
thành. Trần Trận từng hai lần chứng kiến bộ da sói hình ống treo trên ngọn
sào, nhất là lần chiêm ngưỡng tấm da sói con mà anh từng nuôi cuộn khúc
như rồng lộn trên cao, anh đã giật mình: trong trí tưởng tượng của Trần Trận,
anh như trông thấy “đầu rồng, thân rồng trong mưa gió vần vũ, thân sói dài

21


nhào lên hụp xuống như hải trư dưới biển, lại như con phi long màu vàng kim
cưỡi gió đạp mây vui sướng bay lên trời xanh”.
Khái quát hơn, chàng thanh niên trí thức Bắc Kinh này đã chỉ ra được 7
điểm giống nhau giữa tôtem sói và tôtem rồng:
Một, địa điểm xuất hiện: tôtem sói và tôtem rồng sớm nhất xuất lộ ở thảo
nguyên Nội Mông hoặc thảo nguyên Mông Cổ kế cận. Nơi này lại là quê
hương của giống sói thảo nguyên Mông Cổ lớn nhất, dũng mãnh nhất và đông
nhất thế giới. Hơn nữa sói thảo nguyên là đồng hương của dân tộc du mục,
người và sói đấu tranh sinh tồn do đó tinh thần và tính cách sói ảnh hưởng lớn
nhất tới người thảo nguyên.
Hai, tôtem sói và tôtem rồng nguyên thủy đầu và cổ giống nhau, thân
tròn mà dài cũng gần tương tự. Rồng ngọc Tamtinh Thala Nội Mông đầu sói
mình rồng tức là vào thời kì Đá mới, đầu và cổ hai tôtem này hoàn toàn giống
nhau, mình cũng giống nhau đều không có vảy. Trần Trận cũng khẳng định
chính đặc điểm này chứng tỏ tôtem rồng không diễn biến từ cá hoặc rắn theo
như quan niệm truyền thống.
Ba, tôtem sói và tôtem rồng đều bay trong tư thế “uốn lượn lên xuống”.
Trong truyền thuyết, dù là trên thảo nguyên hay trên đại lục Hoa Hạ, hai
tôtem này đều đang bay. Chúng có chung đặc điểm tôtem bay khác với tôtem

của nhiều dân tộc trên thế giới không biết bay ví dụ như tôtem gấu, bò, khỉ…
Qua việc quan sát bộ da hình ống của con sói trên đầu sào uốn lượn lên
xuống “bay” trước gió và động tác bay của con rồng Trung Hoa trong điêu
khắc và trên bích họa, Trần Trận đi tới kết luận tôtem sói và tôtem rồng giống
nhau nhất ở tư thế bay. Quan niệm truyền thống cho rằng rồng lấy nguyên
mẫu từ cá sấu. Song cá sấu dựa vào “quạt đuôi sang trái sang phải” để di
chuyển còn rồng thì “uốn lượn lên xuống” để bay. Hai tư thái và động tác
hoàn toàn khác nhau: một đằng “uốn lượn lên xuống”, một đằng “quạt trái
quạt phải” chứng tỏ tôtem rồng không diễn biến từ cá sấu.

22


Bốn, tôtem sói và tôtem rồng tuy đều biết bay nhưng không có cánh.
Thần thoại Trung Quốc có “phi hổ” (hổ bay), “phi mã” (ngựa bay), một số
dân tộc khác có “rắn bay” nhưng tất cả những tôtem bay đó đều có cánh
nhưng tôtem rồng lại không có cánh. Theo Trần Trận sở dĩ tôtem rồng không
cánh là vì nó diễn biến từ tôtem sói. Tôtem sói không có cánh nên tôtem rồng
không cánh cũng là điều dễ hiểu. Vậy tại sao tôtem sói lại không có cánh?
Câu trả lời nằm ở sự tôn sùng của người thảo nguyên nguyên thủy đối với linh
vật của mình. Họ cho rằng con sói thần thông quảng đại, biến hóa như thần thì
không cần cánh vẫn bay được.
Năm, tôtem sói và tôtem rồng có liên quan mật thiết tới tục sùng bái trời
của người Trung Quốc. Trên thảo nguyên, dân tộc thảo nguyên tin rằng sói
được trời sai xuống bảo vệ thảo nguyên và đưa linh hồn của những người
sùng bái Tăngcơli lên trời. Còn trên đại lục Hoa Hạ, dân tộc nông canh cho
rồng là hóa thân của trời, nhà vua là “con trời”, thần thánh không được xâm
phạm. Rõ ràng Hán tộc đã tiếp nhận tục sùng bái trời của tổ tiên đem từ khu
vực du mục về đại lục nông canh thì tất nhiên cũng đã tiếp nhận tôtem sói từ
lâu đời.

Sáu, tôtem sói và tôtem rồng đều là hình tượng mãnh thú hung dữ đáng
sợ. Dân tộc Hoa Hạ sở dĩ lấy con rồng có bộ mặt hung tợn làm tôtem là vì khi
ấy tổ tiên vẫn còn trong thời kì săn bắn hái lượm mà tuyệt đại đa số dân tộc
du mục Trung Quốc đều lấy sói làm tôtem. Hình tượng sói rất dữ dằn nên
hình tượng rồng diễn biến từ sói cũng rất dữ.
Bảy, sói và rồng đều có đặc tính không thể thuần dưỡng. Dân tộc du mục
không khi nào lấy động vật họ đã thuần dưỡng hoặc có thể thuần dưỡng làm
tôtem. Họ đặc biệt tôn sùng sói vì sói là loài động vật quật cường, không khi
nào chịu khuất phục. Vậy nên rồng diễn biến từ sói cũng không chịu khuất
phục, không bị thuần dưỡng mà còn có khả năng thuần hóa thần dân.

23


Từ những lập luận trên Trần Trận đi tới kết luận: tôtem rồng Trung Hoa
diễn biến từ tôtem sói thảo nguyên. Anh cũng chỉ rõ trong quá trình diễn biến
của hai tôtem này còn có một giai đoạn quá độ là tôtem thao thiết vì con thao
thiết vừa có tính cách của sói vừa mang bộ mặt dữ tợn như rồng sau này.
Trần Trận cũng đã lí giải nguyên nhân của sự diễn biến từ tôtem sói thành
tôtem rồng một cách thấu đáo. Theo anh, dân tộc thảo nguyên xưa nay chỉ sùng
bái tôtem sói. Từ viễn cổ, một bộ phận dân tộc du mục rời thảo nguyên tiến vào
khu nông canh của dân tộc Hoa Hạ, cũng là đưa tục sùng bái Tăngcơli và sùng
bái tôtem sói vào cuộc sống nông canh Hoa Hạ. Thời cổ xưa bất kể chăn nuôi
hay nông nghiệp đều dựa vào trời, vì vậy tục sùng bái trời vẫn được giữ lại sau
khi vào khu vực nông canh sinh sống. Nhưng về sau bộ phận du mục biến
thành tộc nông canh, tính cách bị mềm hóa dần trở nên sợ sói, ghét sói. Vì vậy
tục sùng bái sói đem từ thảo nguyên về không thích ứng với cuộc sống và tinh
thần nông canh, dần dà bị nông canh cải tạo thành hình tượng mới là tôtem
rồng có khả năng “hô phong hoán vũ”, chủ quản mạch sống của nông canh. Có
lẽ tiên dân Hoa Hạ lấy tôtem sói và tôtem “đầu người mình thú” thời Phục Hi

làm chuẩn, sau đó lấy một số chi tiết từ tôtem của những bộ tộc khác, thêm vào
đó một số tình tiết như vẩy cá, vuốt chim ưng và sừng hươu biến tôtem sói
thành tôtem rồng. Trong quá trình sáng tạo và pha trộn tôtem rồng, tôtem sói
đóng vai trò then chốt. Hình tượng con rồng Trung Hoa sở dĩ oai phong lẫm
liệt khiến người người nể sợ mà vẫn có giá trị thẩm mĩ là vì nó mang những
đặc trưng về hình tượng cũng như về tính cách của sói.
Khẳng định tôtem rồng Trung Hoa diễn biến từ tôtem sói thảo nguyên,
Khương Nhung cũng đồng thời khẳng định dân tộc nông canh Hoa Hạ diễn
biến từ dân tộc du mục thảo nguyên. Theo nhà văn, văn hóa Trung Quốc có
sự hội tụ của văn hóa du mục và văn hóa nông canh. Mỗi bộ phận văn hóa
này lại có một biểu tượng tinh thần riêng. Dân tộc du mục từ viễn cổ đã tôn
thờ tôtem sói tương ứng với đó là tôtem rồng trong tâm linh tộc người canh

24


nông. Sự diễn biến từ tôtem sói thành tôtem rồng cho thấy quá trình di cư của
dân tộc thảo nguyên vào trung nguyên. Tộc người này sau khi vào khu vực
nông canh thì dần chuyển từ hình thức du mục sang hình thức sản xuất bán
canh bán mục (nửa trồng trọt, nửa chăn nuôi). Từ đó bộ tộc du mục thảo
nguyên biến thành tộc nông canh định canh định cư trên đại lục Hoa Hạ.
Giả thuyết này của Khương Nhung đã lật nhào quan niệm truyền thống
cho rằng dân tộc Trung Hoa là truyền nhân của Rồng và văn minh Hoa Hạ
khởi thủy, tiếp diễn được là nhờ văn hóa nông canh lâu đời. Quả thực nếu lập
luận của Khương Nhung đứng vững thì 24 bộ sử Trung Quốc phải viết lại.
Nho gia trong 24 bộ sử chỉ khẳng định một chiều, đầy thiên kiến: Văn hóa cổ
Trung Quốc là văn hóa nông canh, lấy nông nghiệp làm gốc, độc tôn Nho
thuật, mạt sát du mục, khinh rẻ “tứ di”. Tác giả cho rằng đã đến lúc cần phải
khôi phục bộ mặt vốn có của văn hóa cổ Trung Quốc. Nhà văn muốn dùng
chiếc lược tôtem sói chải lại cho thuận dòng chảy lịch sử mà các nhà sử học

cố ý dùng tinh thần Nho gia làm cho rối tung lên. Theo ông, nếu không “đưa
sói vào sử”, không cung cấp cho giới sử học tinh thần tôtem sói ảnh hưởng
sâu sắc tới lịch sử Trung Quốc như thế nào, thì sử học Trung Quốc mãi như
cái ao tù, không rõ cội nguồn và dòng chảy.
2.2.2. Tầm căn từ phương diện dân tộc học
Từ việc khẳng định dân tộc nông canh Hoa Hạ diễn biến từ dân tộc du
mục thảo nguyên dựa trên biểu tượng tinh thần và tồn tại lịch sử của hai tộc
người này, tác giả Tôtem sói đã tiến một bước sâu hơn vào quá trình “tầm
căn” khi tiến hành “mổ xẻ”, phân tích chính huyết thống của dân tộc mình.
Xét trên phương diện huyết thống hay còn gọi là phương diện dân tộc học,
Khương Nhung không còn chỉ là đặt ra giả thuyết về sự diễn biến của dân tộc
nông canh đại lục từ dân tộc du mục thảo nguyên nữa mà đã kết luận chắc chắn
“Thực chất người Hán chúng ta là hậu duệ của dân tộc du mục tây bắc”.

25


×