Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đánh giá lại cuộc đời và những đóng góp cho hát nói của Dương Khuê cho văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.78 KB, 12 trang )

Đánh giá lại cuộc đời và những đóng góp cho hát nói
của Dương Khuê cho văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX.
Suốt một thế kỷ (giữa thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX) trong văn học Việt
Nam được coi là giai đoạn phát triển đỉnh cao nhất trong lịch sử văn học nước
nhà. Trong đó có hai hiện tượng rất đặc biệt trong giai đoạn này, đó là sự xuất
hiện đồng loạt những tên tuổi của một loại hình nhà Nho mới, đó là "các tài tử ra
đời để thay thế cho các quân tử, các trượng phu, những người độc chiếm văn
đàn trước đây", Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Qúat đều tự xưng là tài
tử. Cùng với sự thay đổi của lực lượng sáng tác là những thành công về mặt thể
loại, nhà nho tài tử đã có công đưa ba thể loại thuần tuý dân tộc : ngâm khúc,
truyện thơ, hát nói trở thành "đỉnh cao của thơ Nôm trong các thể loại đã có từ
trước" .
Sang nửa cuối thế kỉ XIX, đời sống chính trị xã hội của nước ta thay đổi
khác trước, văn học cũng nằm trong quy luật thay đổi của thời cuộc. Lực lượng
sáng tác có sự phân hoá sâu sắc. Theo Nguyễn Lộc , ông chia văn học giai đoạn
này ra bốn khuynh hướng trong văn học :
1. Khuynh hướng văn học yêu nước chống Pháp: là tiếng nói chống Pháp,
tiêu biểu có Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn
Thông, Nguyễn Quang Bích…
2. Văn học tố cáo hiện thực: Văn chương phản ánh thực trạng đất nước
với nỗi niềm của một người dân mất nước. Tiêu biểu cho khuynh hướng văn học
này là Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Thiện Kế…
3. Văn học hưởng lạc thoát ly: Chủ yếu là nhóm thơ Dương Lâm, Dương
Khuê, Chu Mạnh Trinh
4.Văn học nô dịch: Đại biểu của dòng văn học này là Tôn Thọ Tường,
Hoàng Cao Khải. Đây là khuynh hướng văn học đã và đang được tìm hiểu và có
nhiều nhận định lại.
1
Đây là cách phân chia đã từng được chấp nhận trong văn học sử nước ta,
tuy nhiên cách phân chia này mang nhiều khuynh hướng chính trị tư tưởng, đó
có thể là sản phẩm của lịch sử hoặc do những hiểu lầm trong quá khứ vẫn chưa


được sáng tỏ dẫn đến việc phê phán sai lệch,có hại cho nền văn học dân tộc.
đáng chú ý có lẽ là cái nhìn quá khắt khe với những nhà nho như Dương Khuê,
Dương Lâm, Chu Mạnh Trinh với những nhận định về một thứ văn chương
"thoát ly" mang ý nghĩa rất tiêu cực và phiến diện. Nhìn nhận về khuynh hướng
trong văn chương hưởng lạc:“ Trên bối cảnh chung là sự thất bại của phong trào
đấu trânh chống Pháp và việc đặt ách thống trị của thực dân Pháp trên đất nước
ta, các nhà thơ thuộc khuynh hướng thoát ly vốn là những người xuất thân từ
tầng lớp quan lại suy tàn, mang sẵn tâm lý tuỳ thời. Trong hoàn cảnh xã hội mới,
họ ra làm quan cho thực dân Pháp. Chức quan có khi cao, nhưng họ không đến
nỗi táng tận lương tâm, theo hùa thực dân Pháp để đàn áp phong trào cách
mạng. Họ làm quan để có điều kiện thoả mãn cuộc sống hưởng lạc cá nhân, và
sáng tác cũng làm một cách thoả mãn cuộc sống ấy.
Trong thơ văn học, thỉnh thoảng cũng có bàn đến thời thế, ngụ một chút
tâm sự xa gần, đến một thói xấu hoặc đeo đuổi hình bóng của học ở các nhà
chứa, cô đầu.Tính chất hưởng lạc là đặc điểm chủ yếu của nhóm thơ này mặc dù
đối với từng người mức độ khác nhau”(Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa
cuối thế kỷ XVIII - Hết thế kỷ XIX,tr 604)
I. Đánh giá lại những nhận định về Dương Khuê
1. Sự đánh giá Dương Khuê trong quá khứ
Dương Khuê được nhận như là một đại biểu cho khuynh hướng văn
chương hưởng lạc, nằm trong quy luật chung của văn học đó “Lợi dụng chức
cao để thoả mãn cuộc sống hưởng lạc”, văn chương của ông thể hiện một cuộc
đời hưởng lạc.
Do phải phát triển văn học dân tộc trong điều kiện chịu sự kiểm duyệt của
thực dân Pháp , nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng đã giải thích những câu văn
của Dương Khuê theo cách “vô thưởng vô phạt” về mặt chính trị.
2
Sau này, do ảnh hưởng của một quan điểm phê phán văn học thoát ly,
hưởng lạc, năm 1967, Giáo sư Trần Đình Hượu đã nhận định:” Cuộc đời nhà
nho có một nửa Trang Chu, bất đắc chí muốn thanh cao cũng tìm đến Trang

Chu, bất đắc chí, túng dục cũng lấy lý thuyết ở Trang Chu, thậm chí truỵ lạc như
Dương Khuê cũng viện Trang Chu”(Những bài Giảng, tr 156)
2. Nguyên nhân dẫn đến những định kiến sai lầm đó:
a. Do những hạn chế thuộc về thời đại lịch sử, thuộc về tư tưởng chi phối
đến cái nhìn văn học, đây là những nhận định phù hợp trong một giai đoạn nhất
định.
Cái này chúng ta có thể nhận thấy với văn học thời nào cũng có, cũng dễ
hiểu được sự phê phán không tránh khỏi khi giữa lúc nước sôi lửa bỏng thì
những người có khả năng chống Pháp nhất lại tìm đến những thú vui mà quên
nhiệm vụ của đất nước.
Đó cũng là hạn chế trong quá trình nghiên cứu về con người và tiểu sử
một tác giả văn học trong điều kiện có sựu hạn chế về tài liệu và có lieen quan
đến một thời kỳ chính trị phức tạp dẫn đến quy chụp họ về tư tưởng suốt một
thời gian dài.
b. Do chính những đặc trưng của thể loại hát nói và những ấn tượng
không tốt đẹp cho đến ngày nay về loại hình văn học này:
Dân gian chúng ta vẫn hay lưu truyền câu nói về nghề con hát :” xướng ca
vô loài”, do đâu mà có những suy nghĩ đó?
Có thể nói người ta có ấn tượng không tốt về nghề cầm ca từ đầu thế kỷ
XX khi cùng với sự thay đổi của xã hội là sự thay đổi về lề thói ăn chơi. Các ả
đào đua nhau mở các nhà hát, cô đầu ở tỉnh thì tinh thần ca trù suy kém hẳn.
Quan viên đến hát , ít người lo thưởng thức văn chương mà phầ nhiều chỉ chủ ý
họp nhau uống rượu, hành lạc phung phí tiền bạc. Vì thế nên việc hát ả đào trở
thành một thú vui đồi truỵ.
Nhưng trước đó, thú nghe hát ả đào lành mạnh hơn thế. Hai thế kỷ đầu khi
nó ra đời, hát nói chỉ để thể hiện tâm trạng vui sướng , hoan ca của con người
trong cảnh yên vui thái bình Sau này, sự xuất hiện của những nhà nho tài tử đã
3
làm thay đổi nhiều, nhung nó vẫn chỉ để thể hiện cốt cách của nhà nho mới trong
một xã hội đã có nhiều biến động, vậy nên dù ở Nguyễn Công Trứ, chúng ta có

thể thấy hình ảnh:
“ Lênh đênh một chiếc thuyền nan
Một cô thiếu nữ một quan đại thần”
hay: ”Gót tiên đeo đủng dỉnh một đôi dì”
Thì nó vẫn mang cốt cách một nhà nho tài tử cốt thể hiện cái tài, cái tình
và nhất là cái ngông nghênh thách thức với cuộc đời.
Cùng thời với Dương Khuê, Tú Xương cũng nói nhiều về cảnh nghe hát,
nhưng ngưòi ta mặc nhiên công nhận trong thơ ông không có ý tứ gì, mà đó chỉ
là cách để nhà thơ trào phúng về thực tại xã hội và bênh vực ông. Trong khi đó
suốt một thời kì dài, người ta chỉ công nhận Dương Khuê trong những bài thơ tả
cảnh như "Hương Sơn phong cảnh ca"…với nội dung bề nổi là ca ngợi cảnh đẹp
quê hương đất nước , mà quên đi nỗi lòng canh cánh trước thời cuộc của một
người đang là quan triều đình. Người ta tìm thấy trong thơ văn thơ Nguyễn
Khuyến kỹ thuật hành văn trác tuyệt, công nhận bài hát nói "Gặp đào Hồng đào
Tuyết" của cụ như một chuẩn mực trong hát nói nhưng họ quên mất một tính
cách tế nhị, phóng khoáng trong cách bộc lộ tình cảm và thậm chí còn phê phán
cái đa tình của người tài tử trong những khúc hát có mặt cả tài tử giai nhân ấy.
Dương Khuê từng bị phê phán rất nặng nề “ Cùng thời nói nhiếu đến ăn
chơi là các nhà nho hưởng lạc thoát ly. Dưới ngòi bút của các nhà thơ này , cảnh
ăn chơi được vẽ lại với tất cả sự khoái lạc. Cuộc đời họ dường như chỉ quan tâm
đến ăn chơi, họ ngụp lặn trong ăn chơi, làm thơ về ăn chơi, làm thơ về văn chơi,
họ ngụp lặn trong ăn chỏi, nâng ăn chơi lên thành triết lý:
Trách con tạo trêu ngươi không chán
Mà xui cho cái dại vô chừng
Chơi cho phờ râu, cho chán mắt, cho long dải yếm, cho tụt dây lưng
Còn ham tiếc lăn lưng vào cuộc dại…
(Cái dại – Dương Khuê)” (Nguyễn Lộc)
4
Ra đời vào thời điểm ấy , lại vốn mang nhiều định kiến không tốt, mang
nhiều giai thoại về chốn ăn chơi này nên các bài hát nói của Dương Khuê cũng

bị hiểu theo cách ấy, Nhất là khi hầu hết các bài của cụ phần nhiều là những
bài gửi tặng cho các đào nưương, có khi tưởng tượng, có khi thực như đào Ái
Cúc, đào Ngọ, đào Phẩm, đào Oanh…
Chơi cho thanh lịch mới là chơi
Chơi cho đài các,cho người biết tay
Tài tình dễ mấy xưa nay
(Nguyễn Công Trứ)
Cũng do một đặc trưng của thể loaị văn học này : đó là môi trường diễn
xướng. Hát nói, hát ả đào, hát ca trù.. là một thể loại có sự hoà trộn giữa lời văn
và điệu hát, ở trong cảnh sinh hoạt của nó phải có cả người viết và người hát, tác
giả cũng đồng thời là một thính giả, một độc giả đặc biệt. Cũng theo đó, bài hát
nói nhiều khi được truyền lại dưói dạng ghi nhớ nhiều hơn là văn tự, và nó cũng
phụ thuộc rất nhiều vào trí nhớ của cô đào hay có sự thay đổi của những nhà
nho khác theo sở thích riêng của mỗi người.
Ngày nay, nhiều nhân vật lịch sử trong quá khứ đã được "minh oan", cũng
đã có nhiều nhà nghiên cứu , sinh viên và những người yêu thơ văn Dương Khuê
đã giải thích một cách minh xác hơn về văn chương ông. Có lẽ nhìn nhận về
Dương Khuê, chúng ta nên nhìn nhận vị trí của ông trong cả hai lĩnh vực : chính
trị và văn học, để nhìn nhận một Dương Khuê không phải là một nhà khoa bảng
suốt đời lợi dụng quan chức để tận hưởng vinh hoa phú quý của triều đình và
nhìn nhận lại từ góc độ tài và tình để tìm ra giá trị văn chương đích thực trong
văn chương Dương Khuê, văn chương của một nhà nho tài tử trong xã hôi phi cổ
truyền .
II. Dương Khuê trong chốn quan trường – không phải
một nhà khoa bảng tận hưởng vinh hoa phú quý trong
suốt cuộc đời làm quan dưới thời Pháp thuộc .
5

×