Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Đặc trưng thể loại tự sự hiện đại giai đoạn sau 1975 và việc giảng dạy các tác phẩm tự sự hiện đại sau 1975 trong nhà trường phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.86 KB, 96 trang )

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoa Ngữ văn
****************
Vũ Thị Thuý

Đặc trưng thể loại tự sự hiện đại giai đoạn
sau 1975 và việc giảng dạy các tác phẩm tự
sự hiện đại sau 1975 trong nhà trường phổ
thông
Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

Người hướng dẫn khoa học
Ths. Vũ NGọC DOANH

Hà NộI - 2009

1


Lời cảm ơn
Với đề tài nghiên cứu: “ Đặc trưng thể loại tự sự hiện đại giai
đoạn sau 1975 và việc giảng dạy các tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn sau
1975 trong nhà trường phổ thông”, người viết mong muốn đem đến cho người
đọc những tri thức cần thiết về đặc trưng thể loại của văn học hiện đại sau 1975,
cũng như việc giảng dạy các tác phẩm này trong chương trình Ngữ văn trung học
phổ thông theo đặc trưng thể loại.
Trong quá trình thực hiện đề tài người viết đã nhận được sự ủng hộ nhiệt
tình của đông đảo thầy cô và các bạn. Người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành
tới các thầy cô trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn, đặc biệt là Thạc sĩ Vũ
Ngọc Doanh đã nhiệt tình hướng dẫn người viết hoàn thành khoá luận tốt nghiệp


của mình.
Cuối cùng do sự hạn chế của thời gian và trình độ của người viết, khoá
luận không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, vì vậy người viết rất mong được
sự đóng góp chân thành của đông đảo thầy cô và các bạn.
Hà Nội ngày 15 tháng 4 năm 2009.
Người thực hiện

Vũ Thị Thuý

2


Lời cam đoan
Với tư cách là một giáo viên Ngữ văn trong tương lai, qua đề tài
nghiên cứu của khoá luận tốt nghiệp người viết mong muốn có những kiến thức,
kiến thức cần thiết và thực tế nhất cho nghề nghiệp sau này của mình.
Người viết xin cam đoan những vấn đề mà người viết trình bày trong khoá
luận là kết quả nghiên cứu của bản thân người viết. Nếu sai người viết xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm.

Hà Nội ngày 15 tháng 4 năm 2009
Người thực hiện
Vũ Thị Thuý

3


Mục lục
Mở đầu:
1Lí do chọn đề tài.....................................................................................1

2Lịch sử vấn đề.........................................................................................3
3Đối tượng nghiên cứu..............................................................................6
4Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................6
5Phạm vi nghiên cứu.................................................................................7
6Phương pháp nghiên cứu.........................................................................7
7Bố cục khoá luận.....................................................................................7
Nội dung:
Chương 1: Những vấn đề chung........................................................9
1- Cơ sở lí luận..............................................................................................9
1.1- Khái niệm thể loại văn học.....................................................................9
1.2- Sự phân chia thể loại văn học................................................................10
1.3- Thể loại tự sự và các đặc trưng cơ bản của nó.......................................11
1.3.1- Khái niệm thể loại tự sự........................................................................11
1.3.2- Những đặc trưng cơ bản của thể loại tự sự............................................12
1.3.2.1- Đặc trưng về cốt truyện......................................................................12
1.3.2.2- Đặc trưng về nhân vật.........................................................................14
1.3.2.3- Đặc trưng về ngôn ngữ ......................................................................16
1.4- Những vấn đề lí thuyết chung về tiếp nhận văn học.................................17
1.4.1-Khái niệm tiếp nhận văn học...................................................................17
1.4.2-Đặc trưng của tiếp nhận văn học.............................................................18
1.5- Mối quan hệ giữa vấn đề thể loại văn học và tiếp nhận tác phẩm văn học
theo đặc trưng thể loại........................................................................................21
2- Cơ sở thực tiễn ............................................................................................23
2.1- Vị trí vai trò của văn học giai đoạn sau 1975 trong tiến trình phát triển của
văn học Việt Nam.......................................................................................... .23
2.2- Văn học Việt Nam giai đoan sau 1975 trong nhà trường phổ thông........25
Chương 2: Đặc trưng thể loại tự sự hiện đại giai đoạn sau 1975 và
việc giảng dạy các tác phẩm tự sự hiện đại sau 1975 theo đặc trưng thể
loại...................................................................................................................27
1- Đặc trưng thể loại tự sự hiện đại giai đoạn sau 1975..................................27

1.1- Cơ sở phát triển của thể loại tự sự hiện đại sau 1975............................27
1.2- Những đặc trưng cơ bản của thể loại tự sự hiện đại sau 1975... ...........29
1.2.1- Đặc trưng về cốt truyện.........................................................................29
1.2.2- Đặc trưng về nhân vật............................................................................33
4


1.2.3- Đặc trưng về ngôn ngữ..........................................................................36
2- Phương pháp giảng dạy các tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn sau 1975
theo đặc trưng thể loại.......................................................................................39
2.1- Giúp học sinh nắm được cốt truyện.........................................................40
2.2- Giúp học sinh nhận diện, cảm thụ, đánh giá về nhân vật trong tác phẩm
tự sự...................................................................................................................44
2.3- Giúp học sinh nắm được những đặc điểm về ngôn ngữ và nghệ thuật kể
truyện trong tác phẩm tự sự...............................................................................49
2.4- Giúp học sinh tạo lập được văn bản dựa trên những hiểu biết cảm nhận
của học sinh về những biểu hiện của đặc trưng thể loại tự sự trong tác
phẩm…………………………………………………………………………..51
Chương 3: Giáo án thực nghiệm............................................................53
1. Chiếc thuyền ngoài xa.......................................................................54
2. Một người Hà Nội..............................................................................64
3. Mùa lá rụng trong vườn.....................................................................73
Kết luận....................................................................................................80
Tài liệu tham khảo..................................................................................82

5


Danh mục chữ viết tắt
GV:......................................Giáo viên

HS:.......................................Học sinh
SGK :....................................Sách giáo khoa
GS:........................................Giáo sư
NXB:.....................................Nhà xuất bản
GD:........................................Giáo dục
HN:.......................................Hà Nội
KHXH:..................................Khoa học xã hội

6


Mở đầu
1- Lí do chọn đề tài
M.Gorxki từng nói "Văn học là nhân học" vì vậy dạy văn không chỉ
dạy cái hay cái đẹp mà quan trọng hơn là phải góp phần hình thành và bồi dưỡng
nhân cách cho học sinh. Chính vai trò to lớn đó của môn Văn đã khiến môn học
này trở thành một trong những môn học chủ đạo trong nhà trường phổ thông.
Tuy nhiên làm thế nào để học sinh có sự hứng thú với môn học, có niềm say mê
và yêu thích văn chương từ đó lĩnh hội được các giá trị tư tưởng và thẩm mĩ của
các tác phẩm văn học, đó vẫn là một bài toán khó đặt ra với các nhà giáo dục đặc
biệt là những người trực tiếp làm công tác giảng dạy.
Trước sự đi xuống của nền giáo dục Việt Nam trong những năm 90 của
thế kỉ trước mà nguyên nhân chính là chưa có một phương pháp giảng dạy phù
hợp và hiệu quả. Thì những năm gần đây giáo dục Việt Nam đã được nhận thức
lại và thực hiện một "cuộc cách mạng" trong việc đổi mới nội dung chương trình
và phương pháp giảng dạy. Đặc biệt môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông
cũng thể hiện sự đột phá với nhiều đổi mới táo bạo. Theo đó để tiếp cận một tác
phẩm văn chương giờ đây không phải là hoạt động giảng văn mang tính thụ động
truyền thụ kiến thức của giáo viên và sự tiếp nhận thụ động của học sinh mà là
hoạt động "đọc - hiểu" với vai trò chủ động, tích cực sáng tạo của học sinh và vai

trò định hướng của người giáo viên. Để đạt tới mục đích của việc dạy học tác
phẩm văn chương là không những "hiểu văn" lĩnh hội được cái hay cái đẹp mà
còn có những kĩ năng nhất định để tạo lập một văn bản văn học thì cần thiết phải
có một phương pháp thích hợp. Với tất cả những lí do trên thì phương pháp dạy
học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại được coi là sự lựa chọn tích cực
7


của các nhà giáo dục văn chương. Bởi cho dù ở thời đại nào và theo phương
pháp nào thì vấn đề cốt lõi của việc giảng dạy tác phẩm văn học trong nhà
trường phổ thông vẫn là hình thành cho học sinh cách hiểu phù hợp về nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm, giúp các em vươn tới những giá trị thẩm mĩ, hướng
tới những hành vi và lối sống cao đẹp. Theo tinh thần đổi mới, trong cấu trúc và
nội dung chương trình sách giáo khoa Ngữ văn không chỉ được sắp xếp theo
quan điểm tích hợp mà còn được sắp xếp theo quan điểm loại thể. Chính vì vậy,
việc hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm văn chương theo thể loại là một
hướng đi có nhiều ưu thế để học sinh có thể có được những kĩ năng cần thiết để
đọc, cảm thụ, phân tích, cắt nghĩa tác phẩm văn chương một cách hiệu quả .
Các em học sinh Trung học phổ thông từ nhiều năm nay đã quen thuộc với
các tác phẩm tự sự hay của các giai đoạn trước như giai đoạn 1930-1945 nóng
bỏng tính hiện thực với những tác phẩm của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô
Tất Tố...Hay giai đoạn 1945-1975 với các tác phẩm của các nhà văn cách mạng
mang đậm khuynh hướng sử thi anh hùng, thì giờ đây các tác phẩm tự sự hiện
đại giai đoạn sau 1975 lại đem đến cho các em cái nhìn mới mẻ và sâu sắc về
con người và hiện thực cuộc sống, với nhiều vấn đề đặt ra tưởng chừng như rất
nhỏ nhặt nhưng lại có giá trị nhân văn lớn lao. Với các tác phẩm được đưa vào
nội dung chương trình như: Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu; Một
người Hà Nội của Nguyễn Khải; Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn
Kháng...các em có điều kiện tiếp xúc với một hiện thực gần gũi với bản thân hơn
bao giờ hết. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra nhiều yêu cầu thách thức với người

giáo viên dạy văn ở trường phổ thông trong vai trò là người định hướng, hướng
dẫn các em đến được với những giá trị đích thực.
Với tư cách là người giáo viên Ngữ văn trong tương lai, tôi mong muốn
giúp những học trò nhỏ của mình có những cách tiếp cận tác phẩm văn học một
8


cách khoa học và đúng đắn, có khả năng lĩnh hội được đầy đủ các giá trị của tác
phẩm. Với đề tài nghiên cứu: “Đặc trưng thể loại tự sự hiện đại giai đoạn sau
1975 và việc giảng dạy các tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn sau 1975 trong
nhà trường phổ thông” cho khoá luận tốt nghiệp của mình, tôi mong mình có
thêm những tri thức lí luận và thực tiễn giảng dạy tác phẩm văn học sau 1975, để
trong tương lai trở thành người giáo viên vững vàng trên bục giảng.
2- Lịch sử vấn đề
Phương pháp luận nghiên cứu văn học đã chỉ rõ có rất nhiều con đường
khác nhau để tiếp cận một tác phẩm văn học. Và với mục đích người tiếp nhận
không chỉ đi lại con đường nhà văn đã đi mà còn trở thành người cùng đồng
hành sáng tạo với tác giả, thì con đường khám phá tác phẩm văn chương từ góc
độ thể loại là hướng đi tích cực. Điều đó đã được các nhà nghiên cứu, các nhà lí
luận dạy học nhận thức từ khá lâu với nhiều những công trình nghiên cứu thể
loại văn học ở những phân môn của khoa học văn chương.
ở cấp độ lí luận, tiêu biểu chúng ta phải kể đến hai cuốn giáo trình lí luận
văn học của trường Đại học Sư phạm do GS. Phương Lựu chủ biên và cuốn giáo
trình của trường Đại học Tổng hợp do GS. Hà Minh Đức chủ biên đã dành một
phần lớn để nói về vấn đề loại thể văn học. Theo đó những vấn đề cơ bản nhất về
loại thể văn học được các tác giả trình bày một cách khá kĩ lưỡng. Tuy nhiên, ở
mỗi cuốn giáo trình lại đề cập đến những thể loại cụ thể khác nhau như giáo trình
của Đại học Tổng hợp quan tâm đến truyện và kí; còn giáo trình của trường Đại
học sư phạm lại nhấn mạnh đến sự phong phú của thể loại tự sự ở nhiều thể khác
nhau như: anh hùng ca, truyện thơ, ngụ ngôn, truyện ngắn, truyện vừa, tiểu

thuyết. Mặc dù, có những hướng khai thác khác nhau nhưng tinh thần chung của
hai cuốn sách là cung cấp cho người đọc, người học những kiến thức lí luận
chung nhất về đặc trưng thể loại. Đó là cơ sở cho các hoạt động sáng tạo, nghiên
9


cứu, phê bình cũng như là cơ sở lí luận cho việc tiếp cận các tác phẩm văn
chương từ góc độ thể loại.
Trên lĩnh vực nghiên cứu văn học, việc tiếp cận các tác phẩm văn học từ
góc độ thể loại là sự lựa chọn của nhiều nhà nghiên cứu. Tác giả Nguyễn Thanh
Hùng trong cuốn chuyên khảo Văn học Lí-Trần nhìn từ thể loại
(NXBGD.HN.1996) đã tìm hiểu, nghiên cứu văn học Lí-Trần từ khía cạnh loại
thể. Theo đó rất nhiều thể loại văn học khác nhau của văn học Lí-Trần được tác
giả phân tích như: thơ, chiếu, hịch, phú, truyện...trên cơ sở đó mở rộng sự nhìn
nhận trong mối quan hệ về đặc trưng thể loại với văn học Trung Quốc. Để từ đó
cắt nghĩa lí giải những thành tựu của văn học Lí-Trần có được vừa là sự tiếp thu
học tập vừa là những sáng tạo mới mẻ, độc đáo của văn học Việt Nam.
Cũng trên tinh thần ấy ở lĩnh vực nghiên cứu văn học nước ngoài GS.
Đặng Anh Đào trong công trình nghiên cứu: Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết
phương Tây hiện đại đã đi sâu nghiên cứu về đặc trưng của tiểu thuyết phương
Tây hiện đại. Để thấy được những nét vận động biến đổi của những đặc trưng
thể loại tiểu thuyết phương Tây hiện đại tác giả đã so sánh với những đặc trưng
của tiểu thuyết truyền thống từ đó đi đến kết luận tiểu thuyết hiện đại phương
Tây có những biến đổi mới về đặc trưng thể loại như: cốt truyện, nhân vật, ngôn
ngữ ...
Như vậy, ở hai lĩnh vực lí luận và nghiên cứu văn học các vấn đề về thể loại
đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Còn ở lĩnh vực giảng dạy tác phẩm văn
học, vấn đề về đặc trưng thể loại cũng giành được sự quan tâm của nhiều công
trình lí luận dạy học và của nhiều nhà giáo có tâm huyết.
Người đầu tiên đề cập đến việc đưa lí luận về đặc trưng thể loại vào việc

giảng dạy tác phẩm văn học trong nhà trường là GS. Trần Thanh Đạm trong
cuốn chuyên luận Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể
10


(NXBGD.HN.1971). Trong cuốn sách này tác giả đã giới thiệu một số kiến thức
cơ bản nhất về thể loại văn học của các thể loại phổ biến trong chương trình văn
học trung học phổ thông. Và để minh hoạ cho tư tưởng của mình ông đã kết hợp
với việc phân tích một số tác phẩm ở các thể loại như: thơ, kịch, phú, truyện, văn
chính luận, tiểu thuyết...Có thể nói cuốn sách là một công trình nghiên cứu khoa
học đi từ lí luận đến thực tiễn và mặc dù mới dừng lại ở những vấn đề chung
chung nhưng có tác dụng định hướng gợi mở cho một phương pháp dạy học văn
mới.
Trên tinh thần ấy, cuốn Hiểu văn, dạy văn của GS Nguyễn Thanh Hùng
(NXBGD.HN.2000) cũng bàn về vấn đề vận dụng đặc trưng về mặt thể loại vào
việc giảng dạy tác phẩm văn học. Tác giả đã đặt ra nhiều vấn đề với tiếp nhận
văn học và giảng dạy tác phẩm văn học. Trong đó tác giả đưa ra ý kiến một trong
những cách hiểu văn và dạy văn là đi từ khía cạnh về mặt thể loại và minh hoạ
qua những tác phẩm trữ tình còn các thể loại khác chưa được tác giả nói tới.
Tiếp đó, tác giả Nguyễn Viết Chữ trong cuốn Phương pháp dạy học tác
phẩm văn chương theo thể loại (NXBGD.HN.2000) cũng dành sự quan tâm đặc
biệt của mình đối với việc vận dụng những tri thức lí luận văn học vào việc
giảng dạy tác phẩm văn học. Trong cuốn sách này tác giả đề cập đến những vấn
đề học văn và dạy văn hiện nay cũng như mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề thể
loại và phương pháp dạy học văn để phát triển thành quan điểm: "loại thể là vấn
đề mấu chốt trong quá trình phát triển của khoa học về phương pháp dạy học tác
phẩm văn chương". Để minh họa cho quan điểm của mình tác giả đã giới thiệu
một số cách thức dạy học tác phẩm văn chương theo thể loại ở cả ba thể loại: tự
sự, trữ tình, kịch...
Như vậy, những vấn đề về loại thể văn học và phương pháp dạy học theo

loại thể đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhà giáo có tâm huyết lấy làm định
11


hướng cho hoạt động nghiên cứu giảng dạy của mình. Với tư cách là một giáo
viên dạy văn chúng ta có tinh thần tiếp thu, học tập, kế thừa và vận dụng những
thành tựu đó vào việc giảng dạy các tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn sau 1975.
Bởi nắm được những kiến thức về đặc trưng thể loại là nắm vững một công cụ,
phương tiện để khám phá tác phẩm văn chương một cách khoa học. Tuy nhiên
bên cạnh đó người giáo viên cũng cần có những kĩ năng cần thiết để vận dụng
những tri thức đó vào quá trình dạy học tác phẩm văn chương của mình. Để từ
đó rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cần thiết để đọc- hiểu tác phẩm văn
chương không chỉ với những tác phẩm trong chương trình mà cả những tác phẩm
văn học ngoài đời sống.
3- Đối tượng nghiên cứu
Dựa trên những cơ sở lí thuyết về đặc trưng thể loại tự sự, khảo sát,
tìm hiểu những đặc điểm của các đặc trưng thể loại tự sự hiện đại giai đoạn sau
1975. Trên cơ sở đó kết hợp với lí thuyết tiếp nhận văn học và phương pháp dạy
học tác phẩm văn chương theo thể loại để xây dựng cách đọc hiểu các tác phẩm
tự sự hiện đại giai đoạn sau 1975 theo đặc trưng thể loại tự sự hiện đại. Đồng
thời từ các vấn đề lí thuyết vận dụng vào hướng dẫn học sinh tìm hiểu các tác
phẩm tự sự hiện đại sau 1975 được đưa vào chương trình giảng dạy trong sách
giáo khoa Ngữ văn lớp 12.
4-Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Với đề tài nghiên cứu: " Đặc trưng thể loại tự sự hiện đại giai đoạn sau
1975 và việc giảng dạy các tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn sau 1975 trong
nhà trường phổ thông" khoá luận xác định thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu
sau:
4.1- Tìm hiểu những tài liệu liên quan đến những vấn đề như: dạy học theo
đặc trưng thể loại, vấn đề đặc trưng thể loại tự sự hiện đại được đưa vào giảng

12


dạy trong chương trình Ngữ văn 12 và thực tiễn giảng dạy các tác phẩm tự sự
hiện đại giai đoạn sau 1975 trong nhà trường phổ thông.
4.2- Xác định các đặc trưng của thể loại tự sự hiện đại với những nét vận động
và biến đổi của nó.
4.3- Xác lập cách thức tiếp cận các tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn sau 1975
theo đặc trưng thể loại.
4.4-ứng dụng vào việc hướng dẫn học sinh đọc hiểu các tác phẩm tự sự hiện
đại giai đoạn sau 1975 trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 12 bằng cách
thiết kế một số giáo án thực nghiệm.
5- Phạm vi nghiên cứu.
Trong phạm vi khuôn khổ của đề tài: "Đặc trưng thể loại tự sự hiện
đại giai đoạn sau 1975 và việc giảng dạy các tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn
sau 1975 trong nhà trường phổ thông" vì vậy phạm vi nghiên cứu được xác
định cho khóa luận là: những đặc điểm của thể loại tự sự hiện đại giai đoạn sau
1975 với những đặc điểm riêng của nó, đồng thời xác lập phương pháp đọc hiểu
các tác phẩm tự sự hiện đại sau 1975 trong chương trình Ngữ văn lớp 12 (bao
gồm cả chính thức và đọc thêm) theo đặc trưng của thể loại tự sự. Và để minh
họa cho tư tưởng của đề tài khoá luận cũng tiến hành vận dụng thiết kế một số
giáo án thực nghiệm bao gồm:
1- Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu.
2- Một người Hà Nội- Nguyễn Khải.
3- Mùa lá rụng trong vườn - Ma Văn Kháng
6-Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành những nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài khoá luận sử dụng
kết hợp những phương pháp nghiên cứu sau:
1- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết để tìm ra cơ sở lí luận.
13



2- Phương pháp phân tích tổng hợp.
3- Phương pháp so sánh đối chếu.
4- Phương pháp thực nghiệm.
7- Bố cục khoá luận
Chương 1: Những vấn đề chung
1.1.Cơ sở lí luận
1.2.Cơ sở thực tiễn
Chương 2: Đặc trưng thể loại tự sự hiện đại giai đoạn sau 1975 và việc
giảng dạy các tác phẩm tự sự hiện đại sau 1975 trong nhà trường phổ thông.
1.1.Đặc trưng thể loại tự sự hiện đại giai đoạn sau 1975.
1.2.Phương pháp giảng dạy các tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn sau 1975 theo
đặc trưng thể loại.
Chương 3 : Giáo án thực nghiệm
1- Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu
2- Một người Hà Nội - Nguyễn Khải
3- Mùa lá rụng trong vườn - Ma Văn Kháng

14


Nội dung

Chương1
Những vấn đề chung

1.Cơ sở lí luận
1.1-Khái niệm thể loại văn học
Thể loại là một phạm trù của lí luận văn học, là một phương diện ổn định

bền vững trong cấu trúc của một tác phẩm văn học. Khái niệm này được hình
thành bởi hai khái niệm cấu thành là "loại" và "thể."
Khái niệm "loại": (được hiểu là" loại hình"). Khái niệm này được hình
thành từ thời Hi Lạp cổ đại mà người đầu tiên đề xướng là cha đẻ của "Nghệ
thuật thi ca"Arixtôt. Khái niệm này được hiểu là những phương thức mà người
nghệ sĩ sử dụng để nhận thức khám phá đời sống khách quan, để tái hiện ra đời
sống và sáng tạo hình tượng nghệ thuật. Thông qua hình tượng nghệ thuật ấy để
biểu hiện tư tưởng tình cảm.
Thông thường theo cách phân chia truyền thống thì có ba loại hình chủ yếu
tiêu biểu cho ba phương thức tái hiện đời sống đó là tự sự, trữ tình và kịch.
Trong đó, tự sự được hiểu là tái hiện đời sống theo phương thức "kể chuyện", trữ
tình bày tỏ trạng thái cảm xúc, còn kịch thiên về hành động và mâu thuẫn xung
đột. Ba loại trên tuỳ theo những đặc điểm riêng của mình mà được tổ chức dưới
hai dạng tồn tại cơ bản là văn xuôi và văn vần..
Có thể nói ba loại hình trên của tác phẩm văn học là những phạm trù vừa
mang tính quy luật ổn định vừa mang tính cá biệt vận động. Khái niệm “thể”, so
với “loại” thì khái niệm “thể” nhỏ hơn, tuy nhiên về sự biến động và số lượng
15


cũng nhiều hơn. "Thể" được hiểu là hình thức tổ chức ngôn ngữ trong tác phẩm.
Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại. Bất kì một tác phẩm văn học nào cũng
thuộc một loại nhất định và quan trọng hơn nó có một hình thức thể nào đó. Mỗi
loại hình tác phẩm văn học lại bao gồm nhiều thể khác nhau.
Loại và thể tuy là hai khái niệm mang tính độc lập tương đối nhưng có vẫn
có mối quan hệ mật thiết và chặt chẽ với nhau. Loại là khái niệm bao chứa mang
tính phương thức, thể là khái niệm nằm trong loại. Cùng một "loại" nhưng có
nhiều "thể" sự khác nhau giữa các thể là khá sâu sắc. Mối quan hệ giữa "thể" và
"loại" sâu sắc đến mức người ta thường dùng nó như một khái niệm kép là khái
niệm "thể loại".

Khái niệm "thể loại" theo Từ điển thuật ngữ văn học được hiểu là “dạng
thức của tác phẩm văn học được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong
quá trình phát triển của lịch sử văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ
chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hình tượng đời sống được miêu tả và về
tính chất của mối quan hệ của nhà văn với các hiện tượng đời sống ấy”. [tr.299]
"Thể loại" là một phạm trù mang tính lịch sử nó vừa có nét ổn định mang
tính quy luật nhưng lại vừa mang tính vận động biến đổi bởi nó chịu sự tác động
của nhiều yếu tố đặc biệt là yếu tố thời đại và cá nhân người nghệ sĩ "Nó chỉ xuất
hiện vào một giai đoạn phát triển nhất định của văn học và sau đó được biến đổi
và thay thế"(D.Li-kha-chốp). Thể loại văn học trong bản chất phản ánh những
khuynh hướng phát triển bền vững, vĩnh hằng của văn học, và các thể loại văn
học tồn tại để giữ gìn, đổi mới thường xuyên những khuynh hướng ấy. Bởi vậy
khái niệm thể loại văn học luôn luôn vừa cũ vừa mới, vừa biến đổi, vừa ổn định.
Khi xem xét các vấn đề về thể loại văn học chúng ta cần quan tâm đến tính thời
đại và lịch sử của văn học cũng những sự vận động biến đổi của chúng.

16


1.2-Sự phân chia thể loại văn học
Có nhiều cách phân chia thể loại văn học khác nhau. Tuy nhiên trong
thực tiễn đời sống văn học người ta đã coi sự phân chia loại thể văn học của
Arixtôt là cơ bản và thông dụng nhất. Dựa vào phương thức tái hiện đời sống và
thể thức cấu tạo của văn bản Arixtôt đã chia tác phẩm văn học thành ba loại
chính là: tự sự, trữ tình và kịch. Tương ứng với ba loại trên là ba phương thức
tiếp cận đời sống của tác phẩm văn học.
Theo đó, tự sự là tác phẩm văn học dùng lời kể để tái hiện lại những sự
kiện, biến cố, nhằm dựng lại một quá trình, một cuộc đời tồn tại một cách khách
quan. Đồng thời qua đó bày tỏ một cách hiểu một thái độ, một nhận định. Tương
ứng với nó là phương thức phản ánh hiện thực bằng cách kể chuyện.

Trữ tình: là loại tác phẩm dùng lời lẽ để thổ lộ nỗi niềm tâm trạng trước
những cảnh tượng trông thấy mà thể hiện trực tiếp cảm xúc thái độ chủ quan của
con người với thế giới. Tương ứng với nó là phương thức phản ánh hiện thực
bằng cách bộc lộ cảm xúc.
Kịch: là loại tác phẩm qua việc tái hiện những hành động xung đột có tính
căng thẳng mâu thuẫn, đột ngột để làm hiện lên bản chất đời sống và bày tỏ thái
độ. Loại tác phẩm này phản ánh hiện thực cuộc sống bằng hành động xung đột.
Có thể nói sự phân chia loại thể văn học như trên là căn cứ vào những đặc
trưng có tính ổn định của tác phẩm văn học. Tuy nhiên, như đã nói ở trên khái
niệm loại thể là khái niệm mang tính lịch sử, chúng ta không nên tuyệt đối hoá

17


sự phân chia cũng như ranh giới giữa các thể loại. Do đó sự phân chia văn học
thành ba thể loại tự sự, trữ tình và kịch chỉ mang tính tương đối.

1.3-Thể loại tự sự và các đặc trưng cơ bản của nó
1.3.1-Khái niệm thể loại tự sự
Khi quan niệm “tự sự” như một phương thức tái hiện đời sống thì ở cấp
độ lí luận các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học lại đưa ra khái niệm: “Tự
sự là phương thức tái hiện đời sống bên cạnh hai phương diện khác là trữ tình và
kịch, được dùng để làm cơ sở để phân chia tác phẩm văn học”[tr.385]. Tác phẩm
tự sự tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự
phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian thời
gian qua các sự kiện biến cố xảy ra trong cuộc sống con người.
Còn theo GS. Trần Thanh Đạm trong cuốn "Vấn đề giảng dạy tác phẩm
theo thể loại"( NXB GD H.1971) cho rằng: "Tự sự là loại tác phẩm văn học tái
hiện trực tiếp hiện thực khách quan như một cái gì tách biệt ở bên ngoài đối với
tác giả thành một câu chuyện có diễn biến của sự việc của hoàn cảnh, có sự phát

triển của tâm trạng, tính cách hành động của con người" [tr.10].
Các quan niệm trên nhìn chung đều nêu bật được những đặc điểm cơ bản
nhất của tác phẩm tự sự. Từ những quan niệm đó chúng ta có thể hình thành một
cách hiểu chung nhất về thể loại tự sự như sau: Tự sự là thể loại văn học phản
ánh cụ thể hiện thực đời sống một cách khách quan bằng cách kể lại sự việc, sự
kiện miêu tả tính cách nhân vật, chi tiết...có đầu có đuôi thông qua cốt truyện
tương đối hoàn chỉnh và được kể lại bằng một người kể chuyện nào đó. Và cũng
chính điều đó đã hình thành nên những đặc trưng cơ bản của tác phẩm tự sự đó
là cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ.

1.3.2-Những đặc trưng cơ bản của thể loại tự sự
18


1.3.2.1- Đặc trưng cơ bản về cốt truyện
Cốt truyện được coi là đặc trưng cơ bản đầu tiên, đặc trưng này quan
trọng đến mức có quan niệm không có cốt truyện không có tác phẩm tự sự, nhắc
đến tự sự phải nhắc đến cốt truyện. Bởi bản chất của tự sự là kể chuyện và để kể
chuyện thì phải có cốt truyện.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) NXB KHXH HN 2002 thì
“Cốt truỵên là hệ thống các sự kiện là nòng cốt cho sự diễn biến các mối quan hệ
và sự phát triển tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học loại tự sự” [tr.276]
Dưới cấp độ lí luận văn học cuốn Giáo trình lí luận văn học của Đại
học Tổng hợp Hà Nội quan niệm "Cốt truyện chính là một hệ thống các xung đột
xã hội một cách nghệ qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong mối
quan hệ của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng của tác phẩm"[tr.99].
Như vậy dù cách diễn đạt khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu đều
thống nhất quan niệm "Cốt truyện là một hệ thống các hệ thống các sự kiện, các
biến cố, các chi tiết làm nòng cốt để thể hiện diễn biến của cuộc sống, những
xung đột xã hội trong đó có sự tham gia của con người với những tính cách hành

động ngôn ngữ nội tâm trong các mối quan hệ và tác động lẫn nhau" (Từ điển
thuật ngữ văn học [tr.137]). Đơn vị để tạo thành cốt truyện là các sự kiện tác
động ảnh hưởng đáng kể tới tính cách số phận nhân vật và được sắp xếp theo
một trình tự nhất định nào đó.
Trong tác phẩm tự sự cốt truyện có các đặc điểm:
Tính hệ thống: cốt truyện trong tác phẩm tự sự tồn tại như một hệ thống
các biến cố sự kiện được tổ chức xắp xếp theo một trình tự nhất định. Trong đó
các biến cố sự kiện có mối quan hệ chặt chẽ tác động lẫn nhau quyết định đến số
phận nhân vật. Bởi vậy cốt truyện mang tính hoàn chỉnh để tạo thành một "câu
chuyện", sự hoàn chỉnh đó là do sự liên kết của các chi tiết sự kiện, sự kiện trước
19


là nguyên nhân của sự kiện sau, sự kiện sau là kết quả của sự kiện trước. Sự liên
kết của cấu sự kiện đó tạo nên một quá trình có hình thành và có kết thúc. Thông
thường thì cốt truyện hoàn chỉnh được tổ chức qua năm giai đoạn: trình bày, thắt
nút, phát triển, cao trào và kết thúc. Tuy nhiên, tính hoàn chỉnh ở đây không phải
là quan niệm bó buộc mọi tác phẩm phải đủ năm thành phần như trên mà nó luôn
có sự vận động linh hoạt. Vì vậy, tính hoàn chỉnh của cốt truyện được hiểu thông
qua đó mà người đọc người học có khả năng hiểu được toàn bộ "câu chuyện" về
đối tượng được đề cập tới trong tác phẩm.
Tính lịch sử cụ thể: được biểu hiện thông qua tính chân thực của các sự
kiện lịch sử xã hội làm điểm tựa cho sự phát triển cốt truyện và đặc điểm tính
cách bởi tính cách nào cũng chịu sự chi phối của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể
nhất định. Và tuỳ vào từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà cốt truyện có các đặc
điểm khác nhau.
Tính kịch: Cốt truyện ngoài khả năng bộc lộ có hiệu quả đặc điểm mỗi
tính cách thì sức mạnh và sự hấp dẫn của nó còn thể hiện ở khả năng tái hiện một
cách chân thực những mâu thuẫn xung đột đó các tính cách mới được biểu hiện
một cách đầy đủ nhất cũng như thể hiện tập trung tư tưởng tác phẩm. Cơ sở

chung của mọi cốt truyện xét đến cùng là những xung đột xã hội được khúc xạ
qua các xung đột nhân cách.
b-Đặc trưng về nhân vật trong tác phẩm tự sự
Văn học phản ánh hiện thực bằng hình tượng. Vì vậy việc xây dựng
hình tượng nhân vật là vấn đề trung tâm cốt lõi của tác phẩm văn học.
Dưới cấp độ thuật ngữ theo “Từ điển văn học”: “Nhân vật là yếu tố cơ
bản nhất trong tác phẩm văn học, là tiêu điểm để bộc lộ chủ đề và đến lượt mình
nó lại được các yếu tố có tính hình thức của tác phẩm tập trung khắc hoạ. Nhân
vật do đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng nghệ thuật văn học”.
20


Còn trong “Từ điển thuật ngữ văn học” các tác giả quan niệm : “Nhân
vật văn học là những con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học”.
[tr.235]
Tiếp nối những quan niệm đó GS Trần Thanh Đạm cụ thể hơn bằng quan
niệm: nhân vật văn học "hình tượng những con người đang sống suy nghĩ, cảm
xúc, hành động trong những môi trường hoàn cảnh, tình huống, những con người
có quá trình có vận mệnh, có khi có bản sắc có tính cách". [tr.164]
Tuy nhiên, cần chú ý thêm một điều là nhân vật không chỉ được quan
niệm là con người mà thường được quan niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều.
Nhân vật có thể là con người nhưng cũng có thể là loài vật, sự vật...
Vì vậy, để hiểu đầy đủ nhất và bao quát nhất về nhân vật văn học thì
quan niệm của các tác giả giáo trình lí luận văn học được xem là cơ bản nhất.
“Nhân vật văn học không chỉ là con người những con người có tên hoặc không
tên được khắc hoạ sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm mà
còn có thể là những sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng tính cách của
con người được dùng như những phương thức để biểu hiện con người có khi đó
không phải là những con người sự vật cụ thể mà chỉ là hình tượng về con người
hoặc có liên quan đến con người được thể hiện nổi bật trong tác phẩm”. (Giáo

trình lí luận văn học Đại học Tổng hợp [trang 126]).
Nhân vật trong tác phẩm tự sự thể hiện một cách đầy đủ nhất những đặc
điểm của nhân vật văn học. Nó là đặc điểm cốt lõi nổi bật cuả tác phẩm tự sự nó
là phương diện mà nhà văn sử dụng, phản ánh cuộc sống khách quan. Mỗi nhân
vật trong tác phẩm tự sự bao giờ cũng được đặt vào rất nhiều mối quan hệ như
quan hệ với môi trường, hoàn cảnh sống, với cộng đồng, gia đình... Qua những
mối quan hệ ấy nhân vật được bộc lộ tính cách của mình qua ngoại hình hành
động và ngôn ngữ.
21


So với nhân vật của các loại hình tác phẩm khác như trữ tình và kịch thì
nhân vật trong tác phẩm tự sự có nhiều ưu thế hơn trong sự thể hiện bởi số lượng
nhân vật không bị hạn chế. Đó là những con người hàng ngày bình thường với
tất cả những vẻ tự nhiên của nó gắn bó toàn diện hơn với thời đại của mình với
những số phận riêng biệt độc đáo nhiều sắc thái thẩm mĩ hơn. Bởi vậy, nhân vật
tự sự được coi là trung tâm thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Chính bởi vai trò quan trọng của nhân vật trong tác phẩm tự sự nên trong
quá trình giảng dạy tác phẩm tự sự chúng ta cần quan tâm đến việc tìm hiểu phân
tích nhân vật. Bởi thực chất của việc tìm hiểu tác phẩm tự sự là tìm hiểu nhân vật
của tác phẩm
c-Đặc trưng về ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự
Văn học sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu sáng tác. Bởi vậy với mỗi tác
phẩm văn học ngôn ngữ là một đặc trưng cơ bản để hình thành nên tác
phẩm."Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học"(Gorki).
Theo 150 thuật ngữ văn học thì "ngôn ngữ là một hệ thống các phương
tiện ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp giúp cho việc khách thể hoá hoạt động của tư
duy và làm công cụ giao tiếp trao đổi các suy nghĩ, hiểu biết lẫn nhau giữa người
với người trong xã hội" [tr.115]. Đó là quan niệm chung về ngôn ngữ. Còn ngôn
ngữ trong tác phẩm văn học tồn tại như một nghệ thuật với những đặc điểm riêng

biệt của nó lại được quan niệm là ngôn ngữ đã được chuẩn hoá dùng trong văn
học nghệ thuật, nó vừa là công cụ vừa là phương tiện để nhà văn thể hiện tác
phẩm.
Ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự tồn tại dưới hai dạng thức cơ bản là ngôn
ngữ nhân vật và ngôn ngữ người kể chuyện.
Ngôn ngữ nhân vật: là "lời nói của nhân vật trong tác phẩm loại hình tự sự'
(theo Từ điển thuật ngữ văn học [tr.214]). Nó là một trong những phương tiện
22


quan trọng được người nghệ sĩ sử dụng để biểu hiện hiện thực cuộc sống và cá
tính nhân vật.
Ngôn ngữ nhân vật được chia thành hai loại cơ bản là ngôn ngữ đối thoại
và ngôn ngữ độc thoại. Thông qua ngôn ngữ mà nhân vật thể hiện những đặc
tính tự nhiên cuả nó với những nét tiêu biểu về ngoại hình, tính cách hành động
thậm chí đại diện cho một lớp người trong xã hội.
Ngôn ngữ người kể chuỵên: ngôn ngữ người kể chuyện trong tác phẩm tự
sự có vai trò đặc biệt quan trọng "quyết định tới toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ của
tác phẩm". Ngôn ngữ người kể chuyện có thể là ngôn ngữ nhân vật nhưng cũng
có thể là ngôn ngữ tác giả kể chuyện.
Đối với ngôn ngữ tác giả nó là hình thức người kể chuyện đứng ở bên
ngoài quan sát rồi kể lại nên nó thường mang tính chất khách quan. Đồng thời
qua đó tác giả cũng bày tỏ những thái độ cảm xúc của mình một cách khách quan
hơn. Ví dụ như Đời thừa của Nam Cao, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Còn nhân vật kể chuyện là hình thức nhân vật tham gia trực tiếp vào các sự kiện
trong tác phẩm và kể lại câu chuyện nên mang tính chủ quan song câu chuyện
mà nhân vật kể lại tạo được niềm tin ở người đọc hơn. Ví dụ Đôi mắt của Nam
Cao, Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu.
Như vậy, trong tác phẩm tự sự có ba đặc trưng cơ bản là cốt truyện, nhân
vật và ngôn ngữ. Các đặc trưng này dù mang tính độc lập tương đối nhưng lại

gắn bó mật thiết với nhau trong một chỉnh thể thống nhất tạo nên hình thức của
tác phẩm. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau chuyển hoá linh hoạt
trong tác phẩm. Cốt truyện là những sự kiện xoay quanh nhân vật, nhân vật qua
ngôn ngữ mà được biểu hiện và ngôn ngữ là dạng thức tồn tại của tác phẩm. Bởi
vậy trong quá trình tìm hiểu và giảng dạy tác phẩm tự sự ngoài việc tìm hiểu
phân tích từng đặc trưng chúng ta cũng phải thấy được mối quan hệ giữa chúng.
23


Nắm vững những đặc trưng về thể loại là chìa khoá hữu hiệu giúp chúng ta khai
thác, khám phá tác phẩm văn học.
1.4-Những vấn đề lí thuyết chung về tiếp nhận văn học
1.4.1-Khái niệm tiếp nhận văn học
Trên thế giới từ thế kỉ 20 có nhiều công trình nghiên cứu về tiếp nhận
văn học, người đầu tiên đưa ra một mô hình hoàn thiện cho nó là Hans Robert
Jauu (Đức). Theo ông khái niệm tiếp nhận văn học theo quan điểm mĩ học tiếp
nhận phải là: tác phẩm văn học bằng văn bản cộng sự tiếp nhận của độc giả với
nó. Khái niệm cơ bản mà Jauu đưa ra là khái niệm "tầm đón nhận". Khái niệm
này được Jauu phát triển trên cơ sở về luận điểm "tầm nhìn" của chủ thể giải
thích và của tác phẩm. Ông quan niệm "tầm đón nhận" của công chúng là hệ quy
chiếu có thể trình bày được một cách khái quát mà đối với mỗi tác phẩm ở thời
điểm lịch sử xuất hiện của nó, hệ quy chiếu đó sẽ được rút ra từ ba yếu tố cơ bản
là: kinh nghiệm có trước của công chúng và thể loại tác phẩm; hình thức và hệ đề
tài của tác phẩm trước nó mà nó yêu cầu tìm hiểu; thứ ba là sự đối lập giữa ngôn
ngữ thi ca và ngôn ngữ thực tế giữa thế giới tưởng tượng và thực tế hàng ngày.
Nghĩa là mỗi độc giả đều có một tầm hiểu biết của mình về mặt văn học và tầm
hiểu biết đó sẽ luôn luôn thay đổi theo lịch sử và tuỳ thuộc và tính chất của tác
phẩm được tiếp nhận. Sự thay đổi tầm hiểu biết đó được Jauu đưa ra thành khái
niệm "sự thay dổi của tầm đón nhận"
Đặc biệt Jauu cũng đưa ra một khái niệm rất mới xung quanh khái niệm

tầm đón nhận.Ông cho rằng nếu chúng ta gọi "khoảng cách thẩm mĩ" là cái
khoảng cách giữa một bên là tầm đón nhận và một bên là tác phẩm mới xuất hiện
mà sự đón nhận nó có thể kéo theo một sự thay đổi tầm đón nhận cũ của độc giả
phủ định những kinh nghiệm cũ hoặc làm cho những kinh nghiệm mới thâm

24


nhập vào ý thức của độc giả thì khoảng cách này có thể được đo bằng phản ứng
của công chúng hoặc bằng phán đoán của giới phê bình.
Như vậy, lí thuyết tiếp nhận đã đưa những cách hiểu cách lí giải về khái
niệm tiếp nhận văn học. Xung quanh khái niệm này cũng tồn tại nhiều khái niệm
liên quan như: "tầm đón nhận" và "khoảng cách tiếp nhận". Tuy nhiên, chúng ta
có thể hiểu chung nhất về khái niệm tiếp nhận văn học: "là hoạt động chiếm lĩnh
các giá trị tư tưởng và thẩm mĩ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn
bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật,
tài nghệ tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc: cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ,
ảnh hưởng trong hành động sáng tạo, bản dịch chuyển thể...(Từ điển thuật ngữ
văn học [trang 325])
1.4.1.2-Đặc trưng của tiếp nhận văn học
Thực chất tiếp nhận văn học là cuộc giao tiếp đối thoại tự do giữa người
đọc và tác giả qua tác phẩm. Nó đòi hỏi người đọc phải tham gia với tất cả trái
tim, khối óc, hứng thú, nhân cách, tri thức và sức sáng tạo.Trong tiếp nhận văn
học người đọc ở vào một tâm trạng đặc biệt, vừa quên mình vừa nhập thân thể
nghiệm nội dung của tác phẩm vừa phân thân duy trì khoảng cách thẩm mĩ để
nhìn nhận tác phẩm từ bên ngoài thưởng thức tài nghệ hoặc nhận ra điều bất cập,
hoặc cắt nghĩa khác với tác giả. Cũng qua tiếp nhận văn học, nhờ được tri giác
liên tưởng, cắt nghiã tưởng tượng của người đọc mà tác phẩm trở nên đầy đặn,
sống động hơn hoàn chỉnh. Đồng thời người đọc qua đó mà được mở rộng vốn
hiểu biết kinh nghiệm về đời sống, tư tưởng và tình cảm cũng như năng lực cảm

thụ tư duy.
Văn học là một hình thái ý thức xã hội chịu sự chi phối của các yếu tố cá
nhân và thời đại bởi vậy hoạt động tiếp nhận cũng không nằm ngoài những sự
tác động đó. Nó cũng là hoạt động mang tính quy luật. Quy luật đó trước hết
25


×