ĐỀ TÀI
" Thực trạng ứng dụng
CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay "
1
MỤC LỤC
Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
2
2. Mục đích nghiên cứu 5
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
B GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 6
1. Cơ sở lý luận 6
2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường hiện nay 6
3.Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học và quản
lý
8
4. Một số biện pháp chỉ đạo ứng dụng CNTT trong dạy
học và quản lý giáo dục có hiệu quả
10
4.1 Các giải pháp cơ bản 10
4.2 Các biện pháp cụ thể
5. Kết quả 22
C KẾT LUẬN 23
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Lý do khách quan
a. Tầm quan trọng của công nghệ thông tin:
*) Máy tính, mạng Internet và thế giới ảo trên Internet
2
Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng
dụng trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu như
công dụng của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính
toàn cầu (Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được.
Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ CNTT&Truyền
thông (ICT) thay vì CNTT (IT).
Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi email
mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ tri
thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia những tổ chức ở xa
nửa vòng trái đất. Mạng máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra một thế giới mới trong
đó cũng có gần như các hoạt động của thế giới thực: thương mại điện tử
(ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực tuyến (game online), các
diễn đàn (forum), các mạng xã hội (social network), các công dân điện tử (blogger),
…
* ) Lợi ích mà thể giới ảo trên Internet mang lại
Tuy gọi là thế giới ảo nhưng nó đem lại lợi ích thực sự cho những người tham
gia, thậm chí những lợi ích đem lại còn nhiều hơn so với trong thế giới thật. Ví dụ
những cá nhân tham gia thương mại điện tử có thể ngồi ở nhà, thông qua máy tính
nối mạng để buôn bán trao đổi và có thể thu được rất nhiều lợi nhuận. Học sinh có
thể tham gia các hệ thống học trực tuyến trên mạng mà không phải tốn một đồng học
phí, mà kiến thức thu được còn nhiều hơn là theo lớp học thật. Một học sinh ở Hà
Nội có thể thông qua một hệ thống học trực tuyến để theo học một thầy giáo ở tận
TP HCM. Một thầy giáo có thể dạy cùng một lúc hàng vạn học sinh.
Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi, chia sẻ
với nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc trong đời
sống và công việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc các bài hát,
có thể chia sẽ các bài viết về những kiến thức khoa học, xã hội, v.v… Ví dụ các bậc
phụ huynh trên cả nước có thể chia sẻ kinh nghiệm về cách chăm sóc con cái. Các
giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim, các bài giảng và giáo án với nhau, để
xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ cho việc giảng dạy của mỗi người.
Học sinh cũng có thể thông qua các mạng xã hội để trao đổi những kiến thức về học
tập và thi cử.
*) Những thế mạnh của thế giới ảo so với thế giới thật
Trong nhiều lĩnh vực, các hoạt động của thế giới ảo trên mạng Internet tỏ ra có
nhiều ưu điểm vượt trội so với ở thế giới thực. Bởi vì đó là một “Thế giới phẳng”
(tên một cuốn sách nổi tiếng của Thomas L.Friedman đã được dịch sang tiếng Việt)
nơi mà tất cả mọi người tham gia sẽ ở cùng một điểm xuất phát, không phân biệt vị
trí địa lý, nghề nghiệp, tuổi tác, địa vị xã hội. Trong thế giới này, các hoạt động có
thể diễn ra vô cùng lớn mạnh với hàng triệu người tham gia. Các kết quả mà thế giới
ảo đạt được có thể không bao giờ làm được trong thế giới thật (ví dụ xây dựng thư
viện trực tuyến khổng lồ hoặc các công cụ tìm kiếm tri thức toàn cầu).
Chi phí để vận hành thế giới ảo này hầu như không đáng kể so với thế giới thật,
ví dụ thương mại điện tử sẽ không cần phải có cửa hàng, kho bãi, không cần nhân
3
viên tiếp thị phải đi khắp nơi, học trực tuyến không cần trường học, lớp học, đồ dùng
dạy học, v.v hay các diễn đàn hội thảo không cần hội trường, chi phí đi lại ăn ở cho
các đại biểu v.v
Mặc dù ở nhiều lĩnh vực thì hoạt động của thế giới ảo trên Internet không thể
thay thế, mà chỉ có thể hỗ trợ cho các hoạt động thật, tuy nhiên thực tế nó đang phát
triển mạnh mẽ và ở nhiều lĩnh vực đã lấn át các hoạt động thật (ví dụ đọc báo điện
tử, nghe nhạc trực tuyến ). Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, mỗi chúng ta đều phải
nhanh chóng thích nghi với những thay đổi mới của thế giới nếu như không muốn tụt
hậu.
Trong thời đại của chúng ta, sự bùng nổ CNTT đã tác động lớn đến công cuộc
phát triển kinh tế xã hội người. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa và tầm
quan trọng của tin học và CNTT, truyền thông cũng như những yêu cầu đẩy mạnh
của ứng dụng CNTT, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, mở cửa
và hội nhập, hướng tới nền kinh tế tri thức của nước ta nói riêng - thế giới nói chung.
*) Tầm quan trọng của CNTT trong nhà trường
Khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công nghệ thông
tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo,
CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học
vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng
CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh
chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không
nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận
dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của
mình.
Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh mẽ,
làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã
hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT.
Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn tin
học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn tin
học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những
phần nâng cao trong các cấp tiếp theo.
Với tầm quan trọng đó, năm học 2008-2009 Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa ra
chủ đề “ Năm ứng dụng CNTT " trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học,
ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi
mới phương pháp dạy học ở các môn.
Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà
bất cứ một giáo viên nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy.
Trong bản sáng kiến này, tôi sẽ đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình
trong các năm học vừa qua để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải
pháp tốt nhất cho những tiết dạy của mình.
b. Tác dụng của CNTT trong dạy học ở bậc học THCS
4
Môn Tin học ở bậc THCS bước đầu giúp học sinh làm quen với một số kiến
thức ban đầu về CNTT như: Một số bộ phận của máy tính, một số thuật ngữ thường
dùng, rèn luyện một số kỹ năng sử dụng máy tính, …
Hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao
động hiện đại như:
+ Góp phần hình thành và phát triển tư duy thuật giải.
+ Bước đầu hình thành năng lực tổ chức và xử lý thông tin.
+ Có ý thức và thói quen sử dụng máy tính trong hoạt động học tập, lao động
xã hội hiện đại.
+ Có thái độ đúng khi sử dụng máy tính và các sản phẩm tin học.
+ Bước đầu hiểu khả năng ứng dụng CNTT trong học tập.
+ Có ý thức tìm hiểu CNTT trong các hoạt động xã hội.
*) Đặc biệt khi học sinh học các phần mềm như:
+ Phần mềm soạn thảo văn bản: Học sinh ứng dụng từ các môn học Tập Làm
Văn để trình bày đoạn văn bản sao cho phù hợp, đúng cách. ứng dụng soạn thảo văn
bản để soạn thảo giải những bài toán, bài văn đã học ở các môn học khác.
+ Phần mềm sử dụng bảng tính: Học sinh ứng dụng từ các môn học như toán,
vật lý để tính toán một cách nhanh chóng, chính xác.
+ Phần mềm vẽ: Học sinh ứng dụng trong môn Mỹ thuật, học được từ môn mỹ
thuật để vẽ những hình ảnh sao cho sinh động, hài hoà thẩm mĩ.
+ Phần mềm tập gõ bàn phím bằng mười ngón tay Mario: Giúp HS luyện tập
cách làm việc với bàn phím một cách chuẩn xác nhanh chóng và hiệu quả cao.
+ Trong chương trình tin học THCS thì một số bài học được phân bố xen kẽ
giữa các bài vừa học, vừa chơi. Điều đó sẽ rèn luyện cho học sinh óc tư duy sáng tạo
trong quá trình chơi những trò chơi mang tính bổ ích giúp cho học sinh thư giãn sau
những giờ học căng thẳng ở lớp …
1.2 Lý do chủ quan
Năm học 2008- 2009 là năm Bộ GD&ĐT phát động là năm học ứng dụng công
nghệ thông tin và năm học 2009 – 2010 là năm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin nhưng tôi không cảm thấy bỡ ngỡ, xa lạ bởi tôi nhận ra những công dụng và ích
lợi của việc ứng dụng công nghệ thông tin và bản thân tôi đã có một quá trình trong
việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục
nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, của nghành giáo dục, sự
ủng hộ của giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn
nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng, chưa có chiều sâu và chưa mang lại
hiệu quả đúng với vai trò của nó.
Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách
dạy và học đã được nhiều Cán bộ giáo viên hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con
đường ngắn nhất để đi đến đích của chất lượng dạy học trong các nhà trường.
Xuất phát từ thực trạng giảng dạy của đội ngũ cán bộ, giáo viên của Ngành.
Mặc dù hầu hết trình độ giáo viên của các trường đều đạt trên chuẩn và trên chuẩn
5
cao, tuy vậy vẫn còn nhiều giáo vên dạy theo phương pháp truyền thống, nặng về
phương pháp thuyết trình, độc thoại, ngại sử dụng phương pháp mới mà đặc biệt là
việc ứng ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở
các trường hầu hết thông qua các đợt hội giảng, ứng dụng CNTT chưa thường xuyên,
còn mang tính hình. Để thúc đẩy việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy và quản lý
giáo dục tại các trường phổ thông, góp phần nâng cao chất lượng chúng tôi mạnh
dạn xây dựng đề tài “Chỉ đạo Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
và quản lý giáo dục”
2. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài này nhằm mục đích trao đổi cùng đồng nghiệp vai trò của ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học.
- Cung cấp kiến thức ban đầu về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng
dạy và việc đổi mới phương pháp dạy học.
- Hình thành những kĩ năng cơ bản khi thực hành trên máy tính và biết vận
dụng phương pháp dạy học mới trong giảng dạy
- Luôn say mê và nghiên cứu công nghệ thông tin phục vụ cho giảng dạy.
- Thực hiện đề tài này nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm qua thực
tế giảng dạy của bản thân và của đồng nghiệp.
- Đồng thời là một số kinh nghiệm cho đồng nghiệp tham khảo, vận dụng
trong quá trình công tác và trong giảng dạy để đảm bảo việc đổi mới phương pháp
dạy học.
- Bên cạnh đó còn góp phần khắc phục những khó khăn cho một số giáo viên
khi sử dụng giáo án điện tử để dạy học.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
- Tìm hiểu những khó khăn của giáo viên khi soạn giáo án điện tử
- Những yêu cầu cơ bản để soạn được một giáo án điện tử.
- Xây dựng quy trình soạn giáo án điện tử
- Đưa ra một số kinh nghiệm ứng dụng CNTT trong dạy học, đề xuất một số
biện pháp nâng cao hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy học và đẩy mạnh phong
trào ứng dụng CNTT trong năm học mới.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận về “Ứng dụng công nghệ thông tin”
- Chỉ thị số 58-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh ứng
dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa .
6
- Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường.
Chỉ thị 29 nêu rõ : “Ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra
một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương
pháp giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục” .” Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong
giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng
CNTT như một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy và
học tập ở tất cả các môn học” .
- Trong nhiệm vụ năm học 2005 - 2006 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
nhấn mạnh: Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguần nhân lực CNTT từ
nay đến năm 2010 của chính phủ và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền
thông giai đoạn 2005 - 2010 của ngành.
- Chiến lược phát triển giáo dục 2005 – 2010 chỉ rõ :”Nhanh chóng áp dụng
CNTT vào giáo dục để đổi mới phương pháp giáo dục và quản lí”
- Chỉ thị 08/203 của Bộ bưu chính viễn thông, ngày 02/06/2003 : “Đưa
Internet đến tất cả các trường đại học, cao đẳng, THCN, THPT trên phạm vi cả nước
và kết nối tới các trường THCS và TH ở những nơi có điều kiện”
Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology hay là
IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy
tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập
thông tin. Ở Việt Nam khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết
Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993 : Công nghệ thông tin là tập hợp các phương
pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật
máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của
con người và xã hội.
Trong hệ thống giáo dục Tây phương, CNTT đã được chính thức tích hợp vào
chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về
CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác.
Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng tần rộng tới tất cả các trường
học, áp dụng của kiến thức, kỹ năng và hiểu biết về CNTT trong các môn học đã trở
thành hiện thực.
Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy,
học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và
chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo
dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất
nước.
2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay
2.1. Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử
Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian
để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các
dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý thuyết là một điều mà các
giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều
thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát
7
hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống
với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%, trong khi hiệu quả của
phương pháp multimedia (nhìn - nghe) lên đến 70%. Việc sử dụng phương pháp mới
đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì
giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức
căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm Power point, Violet,… giáo viên
cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy
bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn.
Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một giáo án điện tử tốt, từng cá
nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm
thanh sôi động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực
hiện dạy ứng dụng CNTT.
Trong tổ chuyên môn đa số giáo viên mới nên ngoài việc hoàn thiện về chuyên
môn bên cạnh đó còn phải trang bị cho bản thân những kiến thức Tin học về các
phần mềm ứng dụng trong giảng dạy. Mặc dù đã bước đầu soạn giảng nhưng kinh
nghiệm xử lí còn nhiều hạn chế.
Thường trình chiếu nội dung bài dạy suốt cả tiết học làm cho học sinh mỏi mắt,
đưa vào tình trạng mệt mỏi, kém tích cực.
Có một số nội dung không nhất thiết phải trình chiếu cũng thể hiện lên. Chưa
chắt lọc được phần kiến thức nào thì dùng phần mềm để hỗ trợ.
Một số hoạt động tiếp cận khái niệm, mô tả khái niệm, quy tắc, tiếp cận định lý
chưa biết khai thác thế mạnh của các phần mềm ứng dụng như Power point,
Sketchpat, . . .
Qua thăm dò, đánh giá học sinh thì các em làm phần trắc nghiệm trả lời rất tốt
nhưng cho làm bài toán có tính suy luận thì gặp rất nhiều khó khăn.
Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi có nhu
cầu. Tức là chỉ có thao giảng, thì mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối
phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng
máy tính phục vụ cho công tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này.
2.2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường hiện nay
Từ khá sớm, các trường học, THCS đã bắt đầu đưa công nghệ thông tin vào giảng
dạy. Hầu hết các trường đều chưa có phòng máy tính riêng. Mặc dù một số trường
được trang bị phòng mày tính tuy nhiên chỉ nhằm mục đích cho học sinh thực hành
môn Tin học (chỉ là một môn trong rất nhiều môn học), hoặc ứng dụng trong công tác
lưu trữ, quản lý hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta
đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn
của công nghệ thông tin, mà một trong những ứng dụng đó là việc sử dụng các phần
mềm hỗ trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối với các môn văn hoá khác như:
Toán, Vật lý, Hoá học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ v.v
Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn.
Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các
sinh viên sư phạm cũng đều coi khả năng thiết kế bài giảng bằng máy tính như một
8
tiêu chuẩn nâng cao giá trị của mình khi xin việc vào các trường tốt. Các lãnh đạo
trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả năng sử dụng giáo
án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó, các lớp tập huấn Tin học
sử dụng Powerpoint, Violet, thường được các giáo viên tham gia rất đông. Trong các
cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là các bài giảng là dùng phần mềm. Ở các
tỉnh thành lớn, đa số các trường học đều đã trang bị máy chiếu để phục vụ việc giảng
dạy bằng máy tính.
Trên thực tế thì các phần mềm giáo dục của Việt Nam cũng đã xuất hiện rất
nhiều, phong phú về nội dung và hình thức như: sách giáo khoa điện tử, các website
đào tạo trực tuyến, các phần mềm multimedia dạy học, Trên thị trường có thể dễ
dàng lựa chọn và mua một phần mềm dạy học cho bất cứ môn học nào từ lớp một cho
đến luyện thi đại học. Tuy nhiên, các "Sách giáo khoa điện tử" không tỏ ra nổi trội hơn
SGK truyền thống, Website đào tạo từ xa khó triển khai rộng được vì Internet ở VN
còn là một vấn đề lớn. Các phần mềm dạy học cho học sinh, dù đã có rất nhiều cố
gắng về mặt hình thức và nội dung, tuy nhiên sự giao tiếp giữa máy với người chắc
chắn không thể bằng sự giao tiếp giữa thầy với trò
Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video quay các
tiết giảng mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó phát huy được
hiệu quả, vì sản phẩm cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong khi chi phí để xây
dựng rất lớn (vài chục triệu đồng/tiết dạy) mà hầu như không thể chỉnh sửa về sau
được. Nó thậm chí còn có thể gây phản tác dụng khi tạo ra sự áp đặt cho giáo viên, tạo
ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ cần dạy theo giáo án mẫu, làm giảm đi sự sáng tạo của
giáo viên trong việc giảng dạy
3. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng CNTT
trong dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa vào máy
tính), và E-learning (học dựa vào máy tính). Trong đó:
- CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang
thiết bị như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ
truyền tải kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các phần
mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự tương tác
người và máy.
- E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà
giáo viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên, hoặc có
thể trao đổi trực tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ bản của hình
thức E-learning là lấy người học làm trung tâm, học viên sẽ tự làm chủ quá trình học
tập của mình, giáo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc học tập cho học viên.
Như vậy, có thể thấy CBT và E-learning là hai hình thức ứng dụng CNTT vào
dạy và học khác nhau về mặt bản chất. Một bên là hình thức hỗ trợ cho giáo viên, lấy
người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ. Còn một bên là
hình thức học hoàn toàn mới, lấy người học làm trung tâm, trong khi giáo viên chỉ là
người hỗ trợ. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều người vẫn bị nhầm lẫn 2 khái niệm này,
trong đó có không ít các chuyên gia giáo dục, nên nhiều khi dẫn đến những sai lầm
9
trong đường hướng chỉ đạo. Vì vậy, tôi sẽ phân tích kỹ hơn nhưng mặt mạnh mặt yếu
của CBT và E-learning để có thể hiểu rõ hơn chúng ta đã làm gì, cần làm gì và nên
làm gì trong giai đoạn hiện nay.
CBT E-learning
Có thể phát triển, cải tiến từ phương
pháp dạy học truyền thống. Vẫn dựa
trên những hình thức cơ bản của một
lớp học thông thường
Thay đồi hoàn toàn cách dạy và học.
Người học có thể học riêng rẽ, học ở nhà
hoặc ở nơi làm việc. E-learning khai thác
được tối đa sức mạnh của thế giới
Internet: khả năng phổ biến rất cao (có
thể 1 bài giảng hàng triệu người học),
hay có khả năng cập nhật các thông tin
mới ngay lập tức.
Chi phí đầu tư ban đầu thấp. Chỉ cần
trang bị cho lớp học máy tính, máy
chiếu và các thiết bị multimedia.
Chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Mỗi lớp
học phải là một phòng máy tính nối mạng
Internet, mỗi học sinh và giáo viên phải
có máy tính riêng và những phần mềm
chuyên dụng.
CBT là phương pháp kết hợp được cả
những thế mạnh của phương pháp dạy
học truyền thống (dựa trên giao tiếp
thầy-trò) và khai thác được những ưu
thế của các công nghệ hiện đại (ví dụ
những bài giảng điện tử).
Chỉ dựa trên thế mạnh của các bài giảng
điện tử, hầu như không có giao tiếp thầy
trò.
Phù hợp hơn với giáo dục phổ thông, vì
là ở giáo dục phổ thông, giáo viên
không chỉ dạy kiến thức mà còn phải
theo dõi hướng dẫn cách tư duy. Vả lại
học sinh nhỏ tuổi chưa đủ khả năng để
làm chủ được quá trình học tập của
mình.
Phù hợp hơn với giáo dục Đại học, Sau
đại học và những người đã đi làm.
Đây là phương pháp mà các giáo viên ở
Việt Nam hay dùng phổ biến hiện nay
như dùng Powerpoint, Violet để thiết
kế bài giảng và dạy học dùng máy
chiếu. Những kết quả thu được là rất
đáng kể.
Chưa phải là hình thức phổ biến lắm ở
Việt Nam. Mới chỉ có một số trường ĐH
có hệ thống E-learning riêng như ĐH Sư
phạm HN, ĐH Xây dựng HN, ĐH Cần
Thơ,
Các công cụ tạo bài giảng cho CBT gọi
là các Authoring Tools như là
Powerpoint, Violet, Impress, Author-
ware
Các công cụ tạo bài giảng cho e-learning
thì tuân theo một chuẩn chung để đưa lên
mạng, trong đó nổi tiếng nhất là chuẩn
SCORM.
10
4. Một số biện pháp chỉ đạo ứng dụng CNTT trong dạy học và quản lý giáo
dục có hiệu quả
4.1 Các giải pháp cơ bản
1. Tham mưu với lãnh đạo chỉ đạo các đơn vị trang bị những thiết bị cần thiết
cho việc thực hiện GAĐT như máy tính, máy chiếu đa năng (Multimedia projector),
nối mạng Internet cho phòng bộ môn tin học.
2. Tổ chức một số buổi học tập về cách sử dụng máy chiếu, thiết lập các hiệu
ứng trong PowerPoint, khai thác mạng Internet cho giáo viên để họ có thể tự thiết kế
GAĐT cho mình.
3. Tìm hiểu và nghiên cứu thêm những kỹ năng cơ bản và nâng cao trong việc
sử dụng GAĐT, khai thác mạng Internet để làm phong phú thêm những dạng bài tập
khác nhau.
4. Tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn để thu nhận những góp ý chân thành từ
đồng nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy theo phương pháp mới.
5. Thăm dò và đánh giá chất lượng học sinh sau giờ học để nắm bắt được thực
chất chất lượng dạy học và giáo dục.
4.2. Các biện pháp cụ thể
Biện pháp 1: Hướng dẫn tự bồi dưỡng, trang bị những kiến thức Tin học
cơ bản nhất về công nghệ thông tin cho cán bộ, giáo viên trong các trường phổ
thông
Mặc dù GAĐT chưa được các trường học đón nhận rộng rải, chưa thực sự phổ
biến nhưng bước đầu đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học
và cách giảng dạy truyền thống. Phải chăng việc dạy bằng GAĐT sẻ giúp người thầy
đỡ vất vả bởi vì chỉ cần “click” chuột? Thực ra muốn “click” chuột để tiết dạy thực
sự hiệu quả thì người dạy cũng phải chịu bỏ nhiều công sức tìm hiểu và làm quen với
cách soạn và giảng bài mới này. Cụ thể người thầy cần phải:
- Có một ít kiến thức hiểu biết về sử dụng máy tính.
- Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint2003 ( và đối với môn Toán :
Phần mềm Geometer’s Sketchpad, VisuaBasic, Violet, … )
- Biết cách truy cập Internet
- Có khả năng sử dụng được một số phần mềm chỉnh sửa ảnh, cắt phim, làm các
ảnh động bằng Plash, cắt các file âm thanh,…
- Biết sử dụng máy chiếu Projector ( Máy chiếu đa năng )
Mới nghe thì có vẻ mới mẻ và phức tạp nhưng thực sự muốn ứng dụng công
nghệ thông tin vào giảng dạy có bắt buộc thì phải thực hiện hết các yêu cầu trên hay
không? Câu trả lời là không. Vì nó còn tùy thuộc vào tính chất của mỗi môn học mà
các yêu cầu khác nhau được đặt ra cho mỗi giáo viên. Tuy nhiên, nếu đáp ứng được
các yêu cầu trên thì thật là tuyệt vời, lúc đó chất lượng Dạy - học như thế nào thì các
bạn đồng nghiệp tự thảo luận?. Tại sao tôi lại đặt ra các yêu cầu đó? Các bạn thử
tưởng tượng xem nếu một người nào đó không có khái niệm gì về CNTT thì liệu họ
có bật máy tính lên và chọn cho mình một chương trình làm việc hay không? Liệu họ
có biết được tài liệu của mình nằm ở đâu trên máy tính hay không? Có biết cách
Copy (sao chép) tài liệu từ nơi này sang nơi khác hay Delete( xóa) một tài liệu khi
11
không dùng nữa? Nghĩa là dù ít hay nhiều thì cũng phải sử dụng được máy tính
theo ý riêng mình.
Ở đây, vấn đề cần đặt ra là từ những giáo án được soạn sẳn trên giấy và được trình
bày lại trên bảng đen làm thế nào để giáo án đó trở thành GAĐT được trình bày trên
màn chiếu projector? Điều này đòi hỏi người thầy trước hết phải biết sử dụng phần
mềm PowerPoint 2003 ( phần mềm nằm trong bộ MS Office 2003 , hiện nay đã có
PowerPoint trong bộ MS Office 2007) dùng để tạo các trình diển đa dạng trên máy
tính. Ngoài ra có các phần mềm Cabri (Toán) ,GEOSPACW ( Toán ), GraphCalc
(Toán), PhotoFrameShow (xử lí hình ảnh), Geometer’s Sketchpad(GSP) … Nếu chỉ
dừng ở mức độ soạn thảo những nội dung cần thiết và cộng thêm các thao tác định
dạng về màu sắc, font chữ tôi nghĩ rằng chắc thầy cô nào cũng có thể làm được. Tuy
nhiên nếu chỉ có làm như thế thì chúng ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của
PowerPoint 2003 ( hay PowerPoint 2007) và cũng như một số phần mềm kể trên lúc
đó cũng như chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới này. Ví dụ
trong một tiết toán “ Đồ thị hàm số y = ax
2
+ b (a≠0)” đại số lớp 9 thay vì giáo viên
hay học sinh lên bảng lập bảng giá trị và vẽ đồ thị hàm số thì bây giờ trên màn hình
lớn hiện ra công thức và bảng giá trị, học sinh chỉ cần thảo luận tại chổ và trả lời
( phần mềm PowerPoint 2003) và vẽ đồ thị (phần mềm GSP), tiết toán hình học lớp 8
“hình lăng trụ , hình chóp” thay vì giáo viên vẽ trên bảng hay trên bảng phụ thì bây
giờ hiện trên màn hình với những hình rõ nét và chuyển động theo không gian (Cabri
,GEOSPACW, GraphCalc,Geometer’s Sketchpad)… .Với môn Lịch sử khi dạy về
các trận chiến của quân ta và địch, thay vì giáo viên diển thuật các trận đánh dựa trên
bảng đồ vẽ sẳn thì bây giờ học sinh nhìn vào trên màn hình lớn các trận đánh sẽ diễn
ra qua các đoạn phim tài liệu mà giáo viên chèn vào. …
Với hình thức giảng dạy như thế, tôi tin rằng các em học sinh sẻ cảm nhận và khắc
sâu, dể hiểu về bài học, qua đó giáo viên khỏi mất thời gian vẽ hình, không mất thời
gian xóa bảng mà chỉ khắc sâu và mở rộng kiến thức cho học sinh ……
Với những nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao
tác cơ bản đòi hỏi người thầy phải nắm được là thiết lập các hiệu ứng để làm sao cho
bài giảng được sinh động, mang lại không khí học tập sôi động và mới mẻ. Vậy các
hiệu ứng đó là gì? Đó là các hoạt cảnh của các đối tượng ( văn bản, hình ảnh, )
được thiết lập có thứ tự, có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện trước dòng
chữ hay hình ảnh kia, hay có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện sang trái,
dòng chữ hay hình ảnh xuất hiện sang phải….Chẳng hạn trong giờ học Toán giáo
viên (GV) đưa ra bài toán trắc nghiệm (chọn Đúng hoặc Sai: ( Phần mềm VisuaBasic
hay PowerPoint hay Violet sẻ làm được điều đó) sau đó mới kiểm nghiệm kết quả
trên màn hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng, đồng thời
tăng khả năng tư duy của học sinh (HS). Với đặc điểm này GV tiết kiện được thời
gian viết nội dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu GV giảng đến đó, làm cho
thời gian giảng bài nhiều hơn, logic hơn , HS hiểu bài sâu hơn.
Đối với môn Lịch sử, Địa lý bài giảng thường đi kèm với nhiều hình ảnh minh
họa. Có thể là hình ảnh mô tả một trận chiến, các căn cứ địa cách mạng, hay hình ảnh
của các vùng kinh tế, khí hậu, diện tích lảnh thổ của các nước trên thé giới,……Nếu
12
chỉ trình bày suông, tôi nghĩ rằng cũng chỉ có vấn đề gì cả. Nhưng tại sao khi chúng
ta đã chấp nhận làm GAĐT thì lại không làm bài tập phong phú hơn. Hiện tai những
hình ảnh minh họa, phần mềm cho các nội dung bài dạy nói trên tương đối nhiều trên
Internet mà hiện tại nhà trường đã có mạng Internet , tôi nghĩ rằng nếu chỉ cần bỏ
một chút thời gian lên mạng mà có được những phần mềm, hình ảnh, đoạn phim cần
minh họa cho bài giảng thì người thầy nào cũng sẵn lòng cả. Điều đó đồng nghĩa với
việc giáo viên phải biết cách truy cập mạng Inernet để lấy thông tin. Tuy nhiên
không phải hình ảnh nào cũng lấy từ Internet được mà những hình ảnh cần lấy từ
sách giáo khoa (SGK) thì lúc đó ta phải Scaner(quét ảnh), chụp ảnh và chỉnh sữa ảnh
…. Nói tóm lại để có được một GAĐT tạm gọi là hiệu quả thì mỗi GV cần phải có
chút ít về kĩ thuật tin học.
Bài giảng sau khi được thiết kế sẻ được trình chiếu lên màn hình thông qua đầu
projector. Điều đó dù muốn hay không mỗi GV buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây
là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với GV chỉ cần một vài thao tác lắp máy
chiếu với Case của máy vi tính hoặc Laptop (máy tính xách tay) và điều chỉnh độ
nét, độ lớn trên màn hình, lúc này GV chắc hẳn có một bài giảng chất lượng, HS sẽ
có một tiết học thoải mái và sôi động.
Điều cuối cùng tôi muốn nói đến là nhờ GAĐT mà các giáo viên đã tạo ra một
không khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh buộc phải tập trung nghe
giảng và tư duy nhiều hơn trong các giờ học. Tuy nhiên, để làm được điều đó người
dạy phải có một kiến thức nhất định. Chẳng hạn sử dụng được phần mềm trình chiếu
PowrPoint để trình bày bài giảng và cần phải có khái niệm về các phương tiện kĩ
thuật đã được đề cập là các phương tiện hổ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể
thay thế được vai trò chủ đạo của người thầy trong giờ lên lớp.
Biện pháp 2: Hướng dẫn một số quy trình và nguyên tắc khi thực hiện bài
giảng ứng dụng Công nghệ thông tin
Hiện tại, ở trường đã và đang áp dụng GAĐT trong các giờ dạy, nhưng vấn đề đặt
ra là việc áp dụng như vậy đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa ? Nếu chưa thì áp dụng
thế nào cho đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT?
Khi chuyển từ bài giảng truyền thống ( thầy giảng- đọc trò ghi hay thầy vừa giảng
vừa ghi – trò chép) sang việc giảng bài bằng GAĐT (ƯDCNTT trong dạy học), hầu
hết các giáo viên ở trường nói chung và tổ Tự nhiên nói riêng trong đó có tôi thường
mang một tư tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là nghĩ và sẻ trình bày
những gì mình nói và viết tất cả các nội dung vào trong Slide. Điều này hoàn toàn sai
lầm vì như thế HS sẻ cho rằng giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở
rộng các kiến thức ngoài.
Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm nào đó)
là nơi là chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài
giảng.Tùy theo từng môn học, chúnh ta có thể bổ sung các công thức, hình ảnh minh
họa một cách hợp lý. Đây là bước mà GV cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin
học của mình để xây dựng bài giảng. Nếu Slide nào cần hình ảnh minh họa, giáo
viên nên tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Hay Slide kia đang trình bày một kết quả
của thí nghiệm vào để tăng tính thực tế. Công đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng
13
nên luu ý về số lượng chữ, màu sắt, kích thước trên một Slide. Giáo viên nên tóm tắt
vấn đề mình muồn trình bày một cách rỏ ràng, dể hiểu. Nhìn vào Slide GV có nhiệm
vụ giải thích kĩ càng và mở rộng nó ra chứ không phải đọc các dòng chữ trên Slide.
Nếu chưa quen với cách giảng dạy này, GV cảm thấy khó khăn trong việc xác định
xem slide tiếp theo sẻ trình bày về vấn đề gì. Giáo viên có thể in ra một bảng để vừa
giảng vừa nhìn vào để xác định vấn đề tiếp theo.
Sử dụng GAĐT cũng có nghĩa giáo án truyền thống được lảng quên. Chúng ta hãy
nhìn lại xem trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày những gì, phải chăng là
tất cả nội dung bài giảng? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số các Slide chỉ chứa
văn bản, hình ảnh,….thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần được
giảng? Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung nhiều thời gian vào và giảm thời
gian cho các nội dung còn lại? Liệu nếu một GV mới có thể nhớ hết nội dung đã
chuẩn bị trước buổi dạy hay không? Chỉ cần chúng ta xây dựng kế hoạch giảng dạy
thì vấn đề trên sẻ được giải quyết ngay. Đề cương này sẽ ghi rõ tên bài dạy, các mục
kiến thức cần trình bày, vấn đề nào cần trình bày trước, vấn đề nào cần trình bày
sau ? Vấn đề nào trọng tâm và nhấn mạnh? Chúng ta phải chuẩn bị kĩ lưỡng như vậy
là vì nếu tiết dạy đó GV chưa nói hết các nội dung trong các Slide hay đã trình bày
hết nội dung nhưng thời gian còn thừa. Tóm lai, chúng ta phải kết hợp đề cương này
cùng với việc trình bày trên các slide một các hợp lý thì lúc đó GV ắt hẳn không còn
băn khoăn gì về cách dạy mới mẻ này.
* Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT.
Thật ra, ta phải giải quyết khó khăn của học sinh ngay từ người thầy và giải
quyết ở ba khâu: soạn giáo án, trình chiếu giáo án và hướng dẫn học sinh ghi chép.
Mỗi lớp học có trung bình từ 30 - 40 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy
GAĐT thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng trời
để ảnh trên màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp hay những
học sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay công thức trên
màn chiếu. Do đó để học sinh có thể ghi chép được bài học chính xác từ màn chiếu,
giáo viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú ý một số nguyên tắc về hình
thức sau:
- Các trang trình diễn phải đơn giản và rõ ràng
- Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi
trang trình diễn
- Về màu sắc của nền hình:
Màu sắc không lòe loẹt, đồ họa vui nhộn gây mất tập trung cho học sinh.Cần tuân
thủ nguyên tắc tương phản (contrast), chỉ nên sử dụng chữ màu sậm (đen, xanh đậm,
đỏ đậm…) trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược lại, khi dùng màu nền sậm thì
chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.
- Về Font chữ:
Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các đề mục
có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau”, màu xanh mực cho học sinh
ghi vào vở…)
Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Arial, Times Roman,…) hạn chế dùng
14
các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu.
- Về cỡ chữ:
Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có khuynh
hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, trong kỹ thuật video, khi chiếu trên màn hình TV
(25 inches) cho vài người xem hay dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho
khoảng 50 người xem thì size chữ thích hợp phải từ cỡ 28 trở lên mới đọc rõ được.
- Về trình bày nội dung trên nền hình:
Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền hình từ trên xuống từ trái
qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp
(thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu
lên màn. Các dạng đồ họa (hình ảnh, âm thanh,hiệu ứng…) cần phải được lựa chọn
cẩn thận, nếu không chúng sẽ gây phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh.
Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì
cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin xác định như ta
mong muốn.
- Trình chiếu giáo án:
Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội dung
trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng hay phân
đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng. Trường hợp có nội
dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích
hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ
chép hơn.
- Hướng dẫn học sinh ghi chép
Cần thể hiện bố cục của bài giảng trong suốt quá trình giảng dạy. (vd: Tên bài dạy,
các đề mục) để học sinh dễ dàng củng cố.
Cần quy định màu chữ cho học sinh ghi vào vở. (vd: màu xanh mực)
Trong tiết học, học sinh phải có sẵn trước mặt sách giáo khoa quy định của Bộ
GD&ĐT và dùng vở để ghi chép. Khi trình chiếu Power Point và giảng bài, giáo viên
hướng dẫn học sinh cách ghi bài học vào vở như sau:
+ Những kiến thức căn bản, thuộc nội dung giáo khoa quy định sẽ nằm trong
các slide có ký hiệu riêng. Ví dụ ký hiệu (@, đặt ở góc trên bên trái). Học sinh phải
chép đầy đủ nội dung trong các slide này. Tập hợp nội dung các slide có ký hiệu
riêng tạo nên kiến thức yêu cầu tối thiểu của tiết học.
+ Những nội dung có tính thuyết minh, minh họa, mở rộng kiến thức sẽ nằm
trong các slide khác, không có ký hiệu riêng. Với những slide này, học sinh tự chọn
học nội dung để chép tùy theo sự hiểu bài của mình.
+ Với những kiến thức căn bản nhưng khá dài, nếu chép hết sẽ ảnh hưởng
đến tiến độ của tiết học, sau khi giảng xong giáo viên hướng dẫn học sinh đánh dấu
trong sách giáo khoa để về nhà chép (học sinh sẽ chừa khoảng trống thích hợp).
- Nguyên tắc giáo dục chủ động là lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên trong
quá trình giảng dạy là phải đảm bảo được việc học sinh nắm được kiến thức trọng
tâm, nhưng giáo viên không phải là người bao tiêu mọi kiến thức cung cấp cho học
sinh. Chính bản thân học sinh, trong khi tham gia tích cực vào tiết học, sau khi tìm
15
hiểu lại sách giáo khoa và tìm tòi ở các phương tiện multimedia, sẽ chọn lọc đúc kết
những kiến thức của tiết học và ghi chép, lưu trữ cho riêng mình.
* Các tiêu chí đánh giá bài giảng:
- Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục tiêu,
nội dung, tiến trình bài giảng.
- Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy tính
tích cực của học sinh.
- Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy định,
có tính hệ thống và khoa học.
- Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý, tối ưu
nhằm phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo môi
trường tương tác tích cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với nhau.
- Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện.
- Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với môi trường giáo dục.
Biện pháp 3: Hướng dẫn khai thác và xử lý thông tin, tư liệu phục vụ cho bài
giảng có ứng dụng Công nghệ thông tin
Từ nhiều năm nay, ở các trường phổ thông cũng đã tương đối phổ biến mô hình
giảng dạy sử dụng bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như máy tính,
máy chiếu (projector), Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là những
công cụ dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học khác từ
truyền thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình, ) đến hiện đại (cassette, ti vi, đầu video ).
Hơn nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây dựng cẩn thận thì sẽ đem lại hiệu
quả hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng một trận đánh lịch sử, trên bản đồ giấy chỉ có
thể diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng tấn công, còn trên phần mềm có thể diễn
tả được hình ảnh của các đoàn quân di chuyển, nên tạo được sự hấp dẫn và học sinh có
thể tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn.
Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần
mềm dạy học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là
giáo viên, không phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa
trên giao tiếp thầy - trò, chứ không phải giao tiếp máy - người. Mặt khác, vì giáo viên
là người trực tiếp điều hành việc sử dụng phần mềm nên có thể khai thác tối đa được
những kiến thức cần chuyển tải trong phần mềm, tuỳ thuộc vào trình độ của học sinh
và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với các
tiết dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương pháp
dạy học truyền thống và của các công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, nếu đầu tư xây dựng các bài giảng đóng gói đơn lẻ như sau thì dễ
thấy những mặt hạn chế như sau:
- Tính cứng nhắc trong nội dung bài giảng: Các bài giảng điện tử xây dựng theo
mô hình trên thường không thể ứng dụng trên quy mô rộng được. Một bài giảng do
giáo viên này thiết kế khó có thể áp dụng cho một giáo viên khác vì mỗi người sẽ có
một phương pháp giảng dạy khác nhau. Thậm chí với cùng một giáo viên nhưng với
những trình độ học sinh khác nhau thì cũng phải có những bài giảng khác nhau.
16
- Giá thành cao: Để có được những sản phẩm có chất lượng phù hợp với yêu cầu
của các giáo viên thì đòi hỏi phải có một đội ngũ kỹ thuật viên có đủ chuyên môn và
kinh nghiệm làm việc, phải đầu tư không ít thời gian cho các việc thiết kế, sản xuất
và bảo trì phần mềm. Do vậy, nếu tính theo giá thị trường thì giáo viên khó có thể
đáp ứng được, thậm chí đối với một trường học thì giá thành cũng là một vấn đề lớn.
- Sự áp đặt máy móc: Hiện nay, nhiều cơ quan trong ngành Giáo dục hay các Sở
Giáo dục địa phương cũng thường đầu tư xây dựng hoặc mua phần mềm hỗ trợ giảng
dạy, sau đó đưa về các trường để sử dụng. Tuy nhiên, giáo viên phải tâm đắc với
phần mềm nào thì quá trình giảng dạy mới đạt hiệu quả. Mọi sự áp đặt từ cấp trên
đưa xuống sẽ trở nên vô nghĩa. Phương pháp giảng dạy tốt nhất là do giáo viên trực
tiếp đứng lớp quyết định, không phải một người khác sáng tác ra để áp đặt cho họ.
Thậm chí việc áp đặt còn có thể gây ra hiệu quả xấu khi tạo cho người giáo viên tính
lười soạn bài, không phát huy tính sáng tạo trong giảng dạy và cũng không nắm rõ
được những ý đồ sư phạm trong một bài giảng.
Chỉ có một cách duy nhất là phải hướng dẫn, tập huấn các giáo viên để có thể tự
xây dựng các bài giảng cho riêng mình. Tuy nhiên, việc tập huấn cũng chỉ dừng lại ở
mức độ sử dụng thành thạo một vài công cụ thiết kế bài giảng như Powerpoint hay
Violet, cách tìm kiếm các tư liệu qua mạng Internet, sử dụng máy quay phim, máy
ảnh số, máy quét
Ở mức độ này, giáo viên mới chỉ có thể tạo được bài giảng ở mức cơ bản, chất lượng
trung bình. Chẳng hạn như họ không thể tự vẽ thêm một bức tranh, tự xây dựng một hình
ảnh động hoặc lập trình tạo ra một thí nghiệm mô phỏng, hoặc cũng không thể tự chỉnh
sửa được các tư liệu hình ảnh sau khi quét ảnh hoặc lấy về từ Internet cho đẹp hơn, biên
tập lại các đoạn phim, dịch thuyết minh các tư liệu của nước ngoài thành tiếng Việt, v.v
đặc biệt rất khó có thể tìm kiếm thu thập được những phim ảnh tư liệu quý hiếm. Tất cả
những việc này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, họa sĩ, kỹ thuật viên tin học chuyên
nghiệp thì mới đảm nhiệm tốt được.
Hiện nay, nhiều chuyên gia giáo dục đã cảnh báo tình trạng “lạm dụng CNTT”
khi các giáo viên tự xây dựng bài giảng. Do hạn chế về định hướng, công nghệ nên
giáo viên thường hay xây dựng những bài giảng mang nặng tính trình chiếu, ví dụ
như sử dụng Powerpoint “bắn” rất nhiều chữ ra màn hình và khi giảng bài thì gần
như đọc lại nội dung đó. Phương pháp này thậm chí sẽ làm cho học sinh giảm hiệu
quả tiếp thu khi phải đồng thời nghe giảng, vừa đọc chữ, chưa kể là còn bị cuốn hút
vào những hiệu ứng chữ chạy nhảy và âm thanh kèm theo.
Một trong những lý do của tình trạng trên là do các giáo viên chưa hiểu được
rằng: cách sử dụng hiệu quả của ứng dụng phần mềm dạy học là phải khai thác triệt
để các nội dung tư liệu, đặc biệt là các tư liệu multimedia (âm thanh, hình ảnh, phim,
Flash, ). Một lý do quan trọng nữa là kể cả khi hiểu được như vậy thì cũng khó có
thể thực hiện, vì việc giáo viên đưa một đoạn văn bản vào phần mềm thì dễ, chứ nếu
tự vẽ hình, tự tạo ảnh động hay tìm kiếm tư liệu bên ngoài thì sẽ rất khó khăn.
Chính vì vậy, giáo viên nên sử dụng các công cụ tìm kiếm trên Internet tư liệu
như Google hay Yahoo, hoặc các truy cập các nguồn tư liệu phong phú như
Wikipedia, YouTube, đặc biệt là các nguồn tài nguyên phục vụ cho giáo dục và
17
đào tạo như Thư viện tư liệu giáo dục tại (cung cấp các tư liệu
giúp giáo viên sử dụng vào bài giảng) và Thư viện bài giảng điện tử tại
(cung cấp các bài giảng tham khảo có chất lượng để giáo viên
học tập và chia sẻ kinh nghiệm trong giảng dạy).
Biện pháp 4: Hướng dân sử dụng các phần mềm, tiện ích tiêu biểu phục vụ
cho công tác giảng dạy học và quản lý giáo dục
Học sử dụng máy vi tính thực chất là học cách sử dụng các phần mềm vi tính.
Có thể phân ra 2 loại là các phần mềm phổ thông (như soạn thảo văn bản, xử lý ảnh,
bảng tính, gõ tiếng Việt, các phần mềm gửi thư điện tử ) và các phần mềm chuyên
dụng, cụ thể đối với giáo viên đó là những phần mềm tạo bài giảng như Powerpoint,
Violet, tạo các hình ảnh mô phỏng để dạy học như Macromedia Flash, Swish, v.v
*) Các phần mềm phổ thông
Các phần mềm phổ thông là bắt buộc phải sử dụng thành thạo đối với cả mọi
người, từ cấp quản lý đến giáo viên trong nhà trường. Trong đó một số phần mềm
quan trọng có thể kể ra (chủ yếu nằm trong bộ phần mềm văn phòng Microsoft
Office)
Microsoft Word: Phần mềm soạn thảo văn bản, dùng để soạn công văn, báo
cáo, kế hoạch và tất cả các giấy tờ tài liệu khác. Các giáo viên có thể dùng để soạn
giáo án vừa có thể in ra để sử dụng, lưu trữ trên máy tính hoặc chia sẻ trên mạng
Internet.
Microsoft Excel: Phần mềm tạo bảng tính để xây dựng các kế hoạch, các chi
phí tài chính, hoặc lưu trữ và tính điểm của học sinh. Excel mạnh ở điểm là có thể
đưa vào những phương pháp tính toán, thống kê tùy ý một cách rất dễ dàng.
Microsoft Outlook: Phần mềm gửi nhận thư điện tử. Đã qua rồi thời kỳ mà các
đơn vị hoặc cá nhân trao đổi với nhau với nhau hoàn toàn bằng công văn giấy tờ
hoặc gọi điện thoại (thậm chí điện thoại đường dài) trong những công việc thường
ngày. Ngày nay thư điện tử đã được sử dụng chủ yếu, với những ưu điểm vượt trội
như rẻ tiền, thông tin nhanh chóng và đơn giản. Mỗi cá nhân sẽ có một địa chỉ thư
điện tử riêng. Microsoft Outlook là phần mềm hỗ trợ việc quản lý và gửi nhận thư
điện tử rất dễ dàng.
UniKey: Cài đặt phần mềm này, ta mới có thể gõ được tiếng Việt trong các văn
bản, thư tín, Ta có thể chọn kiểu gõ Telex hay VNI, có thể chọn mã chữ là Unicode
hay TCVN, Đặc biệt phần mềm có chức năng chuyển mã chữ rất tiện lợi, giúp có
thể đọc được những văn bản không dùng Unicode mà máy tính không có font chữ
tương ứng. Ví dụ trước đây các văn bản từ miền Bắc vào miền Nam hoặc ngược lại
thì đều không thể đọc được, vì miền Bắc dùng mã TCVN, còn miền Nam thì dùng
mã VNI.
Adobe Photoshop: Là phần mềm xử lý ảnh thông dụng nhất, với rất nhiều tính
năng từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp đều có thể sử dụng được. Với những chức
năng cơ bản thì giáo viên và cán bộ quản lý cũng nên sử dụng được, vì nó hiện nay
dù làm bài giảng hay báo cáo, kế hoạch cũng ít nhiều sử dụng các tư liệu ảnh (ảnh
chụp hoặc hình vẽ).
18
*) Các phần mềm phục vụ cho giáo dục
Đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, tôi khuyến khích học và sử dụng các
phần mềm sau vì sẽ rất có ích trong việc xây dựng các bài giảng hỗ trợ cho việc giảng
dạy.
Microsoft PowerPoint: Phần mềm cho phép soạn các bài trình chiếu hấp dẫn
để làm bài giảng điện tử. PowerPoint có thể sử dụng được các tư liệu ảnh phim, cho
phép tạo được các hiệu ứng chuyển động khá hấp dẫn và chọn các mẫu giao diện
đẹp.
Hiện nay, phần lớn các bài giảng điện của giáo viên ở Việt Nam đều sử dụng
phần mềm Powerpoint, tuy nhiên, xu hướng đang chuyển dần sang các phần mềm
khác hiện đại hơn, dễ dùng hơn và không gặp phải vấn đề bản quyền.
Phần mềm Violet: Dùng cho giáo viên có thể tự thiết kế và xây dựng được
những bài giảng điện tử sinh động, hấp dẫn, để trợ giúp cho các giờ dạy học trên lớp
(sử dụng với máy chiếu projector hoặc ti vi), hoặc để đưa lên mạng Internet. Tương
tự như Powerpoint nhưng Violet có nhiều điểm mạnh hơn như giao diện tiếng Việt,
dễ dùng, có những năng chuyên dụng cho bài giảng như tạo các loại bài tập, chức
năng thiết kế chuyên cho mỗi môn học, và đặc biệt là khả năng gắn kết được với các
phần mềm công cụ khác.
Macromedia Flash: Đây là phần mềm cho phép vẽ hình, tạo ra hình ảnh động,
các hiệu ứng chuyển động và biến đổi, lập trình tạo ra các hoạt động mô phỏng và
tương tác sinh động, hấp dẫn. Để sử dụng tốt Flash đòi trình độ người sử dụng cũng
phải ở mức khá và phải thực hành nhiều. Thông thường không dùng Flash để tạo cả
một bài giảng vì nó sẽ tốn khá nhiều công sức, mà chỉ dùng để tạo ra các tư liệu rồi
kết hợp với Violet hoặc Powerpoint để tạo thành một bài giảng hoàn chỉnh.
Biện pháp 5: Hướng dẫn Sử dụng Internet trong việc tìm kiếm các thông tin
trực tuyến
Chúng ta có thể tự xây dựng một kho tài nguyên dạy học với vài nghìn tư liệu,
nhưng như vậy liệu đã đủ chưa. Thực ra, việc đó giờ không còn là vấn đề cần lo lắng
vì Internet đã chính là một thư viện không lồ, là nơi lưu chứa tri thức của toàn nhân
loại với hàng tỷ tư liệu và các bài viết của mọi lĩnh vực, đặc biệt các thông tin trên đó
luôn được cập nhật từng ngày, từng giờ. Như vậy một vấn đề quan trọng và bắt buộc
đối với giáo viên trong việc ứng dụng CNTT trong dạy học là phải biết khai thác
nguồn tài nguyên phong phú trên Internet.
Có 2 phương pháp để khai thác các thông tin phục vụ cho việc giảng dạy như
sau:
*) Truy cập các thư viện tài nguyên trực tuyến
Thông thường hiện nay, các thư viện lớn đều được phát triển theo mô hình xã
hội, nội dung sẽ do chính người sử dụng cùng xây dựng lên với số lượng người tham
gia xây dựng lên đến hàng triệu người. Trên thế giới đã xuất hiện các thư viện nổi
tiếng như:
- Wikipedia.org (trang tiếng Việt là vi.wikipedia.org) là hệ thống bách khoa
toàn thư khổng lồ với đầy đủ tri thức nhân loại từ xưa đến nay, do hàng chục triệu
tình nguyện viên trên thế giới đóng góp xây dựng. Có thể tìm ở đây từ các kiến thức
19
khoa học phổ thông đến các nghiên cứu khoa học chuyên ngành, tìm hiểu về tiểu sử
những người nổi tiếng cho đến những vấn đề thời sự được cập nhật hàng ngày v.v
- , là trang web chia sẻ video lớn nhất thế giới, ở đây chúng
ta có thể dễ dàng tìm được những tư liệu phim phù hợp với mục đích dạy học. Ở Việt
Nam cũng có trang chia sẻ video riêng ở địa chỉ
- Thư viện tư liệu giáo dục là trang web chia sẻ các tư liệu
phim, ảnh, flash phục vụ cho giáo dục và đào tạo của người Việt Nam, hiện là trang
web chia sẻ tư liệu dạy học duy nhất ở Việt Nam với gần 60.000 mục tư liệu.
- Thư viện bài giảng điện tử: địa chỉ trang web là . Đây là
trang web cho phép giáo viên chia sẻ các bài giảng và giáo án của mình, đồng thời
tham khảo các bài giảng và giáo án của rất nhiều giáo viên khác trên cả nước. Hiện
tại trang web đã có trên 200.000 thành viên tham gia, với hàng triệu lượt truy cập
mỗi tháng, số lượng tài nguyên lên đến 50.000 bài giảng và giáo án.
- Thư viện giáo trình điện tử: địa chỉ . Đây là trang web
tập hợp các giáo trình bậc đại học và chuyên ngành từ các dự án của Bộ GD&ĐT với
các trường Đại học lớn trên cả nước như Đại học Bách Khoa HN, ĐH Sư phạm HN,
Đại học Cần Thơ, Tuy nhiên đây không phải là trang web cộng đồng nên lượng
thông tin không lớn và không được cập nhật thường xuyên.
Thư viện tư liệu giáo dục và Thư viện bài giảng điện tử là các hệ thống mở,
không những giúp giáo viên có thể download các tư liệu dạy học và các bài giảng
mẫu mà còn cho phép giáo viên có thể đưa các tư liệu và bài giảng của mình lên để
chia sẻ với mọi người. Việc sử dụng các hệ thống mở như trên hiện nay đang là xu
hướng tất yếu của ngành CNTT, với những ưu điểm vượt trội là:
• Hoàn toàn miễn phí.
• Có hệ thống dữ liệu khổng lồ vì là do cộng đồng cùng xây dựng.
• Luôn được cập nhật thường xuyên, từng ngày, từng giờ.
• Các tư liệu cũng như bài giảng có chất lượng cao vì được chọn lọc và tổng
hợp từ nhiều nguồn khác nhau. Ngoài ra công ty Bạch Kim cũng luôn có một đội ngũ
kỹ thuật thường xuyên xây dựng các tư liệu mới và bài giảng mới theo yêu cầu của
giáo viên các nơi để đưa lên Thư viện.
• Thư viện cũng là kênh kết nối các giáo viên trên cả nước, giúp mọi người
học hỏi và chia sẻ với nhau nhiều vấn đề trong công việc của mình.
Đây cũng là tư tưởng chủ đạo trong công văn số 9584/BGDĐT-CNTT của Bộ
GD&ĐT về việc Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2007-2008 về CNTT và
phát động năm học 2008-2009 là năm CNTT. Vì vậy, mặc dù mới triển khai 2 hệ
thống này từ tháng 9/2007, nhưng đã nhận được sự hưởng ứng của rất đông giáo viên
trên cả nước (gần 40.000 người). Hiện hai hệ thống thư viện đã có hơn 40.000 mục
tư liệu và gần 8.000 bài giảng mẫu.
Trên thế giới cũng đã có những thư viện trực tuyến do cộng đồng phát triển đã rất
nổi tiếng như thư viện Bách khoa toàn thư Wikipedia.org, thư viện chia sẻ video trực
tuyến YouTube.com, thư viện mã nguồn CodeProject.com v.v Chính vì vậy, mô hình
“mở” chính là xu thế phát triển của tất cả các hệ thống công nghệ thông tin trong hiện
tại và tương lai gần.
20
*) Sử dụng các dịch vụ tìm kiếm như Google, Yahoo, Baamboo.
Có thể truy cập vào các trang web này qua các địa chỉ trang web tương ứng
Công cụ tìm kiếm trực tuyến là một trong những sản phẩm tuyệt vời nhất của
nền khoa học kỹ thuật hiện đại, nó quy tụ được tri thức nhân loại về một nơi. Có thể
nói chúng ta cần bất cứ thông tin gì thì các máy tìm kiếm này có cung cấp cho chúng
ta gần như ngay lập tức, từ hàng chục tỷ trang Web và nguồn tài nguyên khác nhau
trên mạng Internet.
Ví dụ: một người nước ngoài muốn tìm hiểu về phở Hà Nội, họ chỉ cần lên mạng,
vào công cụ tìm kiếm, gõ chữ “phở Hà Nội” là có thể hiện ra hàng trăm trang web về
chủ đề này. Một người Hà Nội muốn có hình ảnh về chợ Bến Thành thì chẳng cần phải
vào tận HCM để chụp ảnh mà chỉ cần vào mạng, sau vài thao tác đơn giản là có thể tìm
được hàng chục bức ảnh.
Công cụ tìm kiếm thu nhỏ kho kiến thức khổng lồ của nhân loại thành cuốn cẩm
nang đầu giường đối với mỗi con người hiện đại. Ngay cả đối với giáo viên thì cũng
nên coi như việc ngồi máy tính để soạn bài giảng, giáo án là phải kết nối Internet và
sử dụng công cụ tìm kiếm Internet thì mới có thể tạo ra những sản phẩm có chất
lượng được.
Các công cụ tìm kiếm thực chất đã làm thay đổi một phần của thế giới, con
người không cần phải nhồi nhét những kiến thức khoa học và đời sống để trở thành
những học giả uyên thâm, mà chỉ cần là người có tư duy tốt, nhạy bén, sáng tạo thì
mới phát huy được hiệu quả trong công việc và nâng cao chất lượng cuộc sống. Hiểu
được điều này, chúng ta sẽ thấy rõ hơn những vấn đề cần làm trong giáo dục hiện
nay, nhất là giáo dục phổ thông.
Biện pháp 6: Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã hội
Kết nối mạng Internet, giáo viên không chỉ có thể tìm thấy ngay những kiến
thức, nhưng tài nguyên mình cần mà còn có thể chia sẻ, trao đổi thông tin với nhau.
Hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin với nhau đơn giản nhất là phổ biến nhất hiện
nay là thông qua các diễn đàn (forum) trên mạng.
Diễn đàn lớn nhất Việt Nam về giáo dục là trang diễn đàn Mạng giáo dục của
Bộ GD&ĐT, địa chỉ trong đó trao đổi về mọi vấn đề liên
quan đến giáo dục như giảng dạy, quản lý giáo dục, chống tiêu cực trong giáo dục,
các chính sách mới của Bộ GD&ĐT.
Diễn đàn giáo viên: địa chỉ , là diễn đàn chuyên cho giáo
viên trao đổi với nhau về những kinh nghiệm dạy học, các kiến thức về ứng dụng CNTT
trong dạy học.
Một hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin khác nữa trên Internet là tham gia các
mạng xã hội. Ở các mạng này, mỗi người có thể xây dựng các blog (có thể coi là
trang web riêng) cho mình. Tại các blog, giáo viên có thể chia sẻ các kinh nghiệm
trong dạy học và trong cuộc sống. Bạn bè đồng nghiệp có thể vào xem các blog của
21
nhau và gửi lên ý kiến của mình. Ở các nước châu Âu, các giáo viên sử dụng rất
nhiều blog phục vụ cho công việc của mình.
Blog hiện nay đang được giới trẻ ưa chuộng, thực tế thì cũng có nhiều điểm
chưa tốt, chưa kiểm soát được. Tuy nhiên, tùy từng mục đích sử dụng, các blog có
thể phát huy tính tích cực rất cao, mà đặc biệt nếu các giáo viên biết sử dụng để làm
tốt hơn cho công việc giảng dạy của mình.
Các địa chỉ mạng xã hội để tạo blog được dùng nhiều nhất ở Việt Nam là:
: Là mạng xã hội phổ biến nhất hiện nay vì tính dễ dùng
và nó gắn liền với chương trình chat Yahoo Messager.
: Đây là mạng xã hội mà giáo viên và trí thức sử dụng
nhiều hơn do có giao diện đẹp và nhiều tính năng hấp dẫn.
Biện pháp 7: Chỉ đạo, hướng dẫn sử dụng các phần mềm nguồn mở thay cho
các phần mềm bản quyền
Ngày nay, trong xu hướng hội nhập, việc tôn trọng bản quyền đang trở nên một
vấn đề không thể không quan tâm. Hầu hết ở Việt Nam hiện nay chúng ta đang sử
dụng các phần mềm vi phạm bản quyền, thậm chí vi phạm mà cũng không biết rằng
mình đang vi phạm. Giá thành của một phần mềm là không nhỏ, thậm chí còn cao
hơn cả giá thành của chiếc máy tính. Vì vậy với một chiếc máy tính, tổng giá trị các
phần mềm trong đó có khi lớn gấp hàng chục lần giá trị của máy tính.
Trong vài năm gần đây, Chính phủ và các Bộ ngành cũng đã ra nhiều chỉ thị về
việc mua bản quyền các phần mềm trong các cơ quan hành chính Nhà nước, tuy
nhiên kết quả đạt được cũng chưa đáng kể là bao. Hiện nay, mới chỉ có một số doanh
nghiệp lớn của Việt Nam là có đủ tiềm năng để trang bị bản quyền phần mềm cho
đơn vị mình.
Vì vậy, do điều kiện kinh tế còn khó khăn, vả lại chúng ta đã quá quen với việc
dùng phần mềm mà không trả tiền nên việc mua bản quyền các phần mềm, nhất là
phần mềm của nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không dễ thực hiện. Một trong
những giải pháp đơn giản cho vấn đề này là chúng ta tìm và sử dụng các phần mềm
miễn phí có tính năng gần tương tự như các phần mềm bản quyền kia. Ví dụ: Hệ điều
hành Linux thay cho Windows, bộ phần mềm Open Office của hãng Sun là miễn phí
và có thể sử dụng thay cho Microsoft Office, v.v
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành công văn số 12966/BGDĐT-CNTT
ngày 10/12/2007 về việc đẩy mạnh triển khai một số hoạt động về CNTT trong đó có
đề cập đến việc sử dụng các phần mềm mã nguồn mở, .cụ thể 4 phần mềm cần thiết
là OpenOffice, FireFox, Thunderbird và UniKey.
5. Kết quả đạt được sau khi áp dụng các biện pháp
Qua 2 năm miệt mài áp dụng CNTT trong dạy học tôi đã thu được các kết quả
sau:
- Số trường có địa chỉ email phục vụ công tác trao đổi thông tin 81/81 = 100%
Năm học 2009-
2010
Năm học 2010-
2011
Năm học 2011-
2012
Số cán bộ, giáo viên có địa 213/1655 254/1677 716/1670
22
chỉ email = 12,9% = 21,11% = 42,9%
Số cán bộ, giáo viên có trình
độ Tin học A trở lên
616/1677
= 36.73%
1113/1670
= 66.6%
Số cán bộ, giáo viên có khả
năng ứng dụng CNTT
353/1655
= 21.3%
716/1670
= 42,9%
1265/1670
= 75,7%
Số bài giảng có ứng dụng
CNTT
107 945 2533
- Chất lượng giáo dục (học lực)
Năm học Giỏi Khá TB Yếu, kém
2009 – 2010 8.44% 36.24% 51.65% 3.60%
2010-2011 9.82% 37.69% 50,27% 2,22%
2011-2012 11,61% 39,82% 46,14% 1,72%
C. KẾT LUẬN
1. Kết luận
Chúng ta đang bước vào thế kỷ XXI - thế kỷ của khoa học và công nghệ. Sự chuẩn
bị nguồn nhân lực cho thời kỳ mới của đất nước là một trong những nhiệm vụ trọng
đại của toàn xã hội và của ngành giáo dục đào tạo nói riêng. Muốn theo kịp với các
nước tiên tiến, đón đầu sự phát triển đòi hỏi phải đổi mới giáo dục một cách đồng bộ:
23
chương trình, SGK, kiểm tra đánh giá và đặc biệt là cơ sở vật chất, thiết bị, phương
tiện dạy học hiện đại.
Sự ra đời của phương pháp dạy học mới bao giờ cũng gặp những khó khăn,
đòi hỏi phải có ý thức và quyết tâm tìm tòi, thử nghiệm với những bước đi vững chắc
mới có thể đạt hiệu quả cao.
Áp dụng phương pháp giảng dạy bằng công nghệ thông tin đòi hỏi giáo viên
phải dành thời gian đầu tư vào mỗi bài dạy. Từng bước áp dụng các phương tiện hiện
đại như máy chiếu đa năng, đầu Projector, băn hình, tranh ảnh vào trong giảng dạy
các bộ môn, đó là con đường hữu hiệu, có tác dụng tăng hiệu quả tiết học lên gấp
đôi.
Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đang là vấn đề có ý nghĩa quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Đó là một trong những mục tiêu quan trọng
nhất trong cải cách giáo dục ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên việc ứng dụng CNTT
nhằm đổi mới nội dung, phương pháp dạy học là một công việc lâu dài, khó khăn đòi
hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ giáo viên.
Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển CNTT
trong dạy học trong thời gian tới có hiệu quả, không có gì khác hơn, là nhà nước tăng
dần mức đầu tư để không ngừng nâng cao, hoàn thiện và hiện đại hoá thiết bị, công
nghệ dạy học, đồng thời hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông để
mọi trường học, mọi giáo viên đều có thể kết nối vào mạng Internet. Bên cạnh đó,
có sự chỉ đạo đầy đủ, đồng bộ, thống nhất bằng các văn bản mang tính pháp quy để
các trường có cơ sở lập đề án, huy động nguồn vốn đầu tư cho hoạt động này, góp
phần làm thay đổi nội dung, phương pháp, hình thức dạy học và quản lý giáo dục,
tạo nên được sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội thông qua mạng, làm cơ
sở tiến tới một xã hội học tập.
Để ứng dụng CNTT trong nhà trường có nhiều cách tiếp cận, nhưng thực tiễn
cho thấy cách tiếp cận thích hợp là đi từ thấp lên cao, từ tổng thể đến chi tiết, từ môi
trường thông tin đến môi trường làm việc chuyên nghiệp . Vì thế cần cho giáo viên
thấy được tầm quan trọng của CNTT được ứng dụng trong giảng dạy và học tập .
Kinh nghiệm cho thấy ở đâu cán bộ lãnh đạo và quản lý nhận thức được vai trò của
CNTT, hiểu biết về CNTT, quan tâm sử dụng thật sự CNTT phục vụ cho công tác
giáo dục( giảng dạy, học tập, quản lý …) thì ở đó CNTT phát huy được tác dụng .
Không ai đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải trở thành nhà CNTT nhưng cần có
hiểu biết khái quát về các vấn đề cơ bản, về phương pháp tổ chức và khai thác các hệ
thống thông tin . Từ đó học biết đòi hỏi những gì mà CNTT có thể đáp ứng, chủ
động đề xuất và thúc đẩy thực hiện kế hoạch ứng dụng CNTT trong giảng dạy và học
tập có hiệu quả .
Việc ứng dụng CNTT trong dạy - học trong các trường phổ thông là rất cần thiết
nó có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp, phương thức dạy và
học theo một chương trình thay sách giáo khoa hiện nay. Do đó việc soạn GAĐT là
không thể thiếu, để có được một GAĐT chất lượng thì giáo viên phải tự tìm tòi, học
hỏi, nghiên cứu và mất nhiều thời gian mới có được. GAĐT là một phương tiện dạy -
học theo phương pháp mới hiện nay, nó đòi hỏi phải có sự đầu tư không chỉ kiến
24
thức mà còn là thời gian. Trên đây là một số quan điểm và kinh nghiệm của tôi trông
suốt thời gian thực hiện, các thầy cô và các bạn đồng nghiệp xem xét và góp ý thêm
để quá trình thực hiện GAĐT có hiệu quả.
Qua thực tế giảng dạy và học tập, được sự giúp dỡ của các thầy cô, các bạn
đồng nghiệp, bản thân tôi đã tiếp thu được nhiều điều bổ ích, thiết thực cho quá trình
giảng dạy và công tác. Tôi mạnh dạn chọn đề tài này với mong muốn được đóng góp
một phần công sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp giáo dục toàn ngành trong việc
đổi mới phương pháp dạy học.
2. Kiến nghị
Để ứng dụng CNTT trong dạy- học được đồng bộ hóa ở nhà trường tôi xin kiến
nghị: các nhà trường luôn tạo điều kiện về cơ sở vật chất, tinh thần cho những giáo
viên giảng dạy đồng thời tạo điều kiện cho GV được đi tập huấn các chương trình
ứng dụng CNTT trong giảng dạy để bổ sung thêm kiến thức và học hỏi thêm kinh
nghiệm của đồng nghiệp.Tôi mong rằng với kiến nghị này, các cơ quan ban nghành
luôn tạo điều kiện và giúp đỡ.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong hai năm làm quen và ứng dụng
CNTT trong công tác giảng dạy. Mặc dù chưa được đầy đủ, mang tính thuyết phục
cao, song tôi mong rằng các đồng chí cùng tham khảo và chia sẻ kinh nghiệm để
cùng nhau thực hiện tốt chủ đề năm học của Bộ giáo dục và Đào tạo phát động, đặc
biệt cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực trồng người ngày càng đáp ứng
với yêu cầu hội nhập quốc tế, đưa nước ta trở thành nước CNH - HĐH trên mọi lĩnh
vực.
Trong quá trình viết đề tài, do điều kiện về thời gian và năng lực có hạn, đề tài
không tránh khỏi những sai sót hạn chế . Tôi rất mong nhận được sự đóng góp chỉ
bảo của các thầy cô giáo và các đồng nghiệp để làm kinh nghiệm quý báu cho bản
thân trong quá trình giảng dạy.
Người viết
Nông Văn Sinh
25