TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA VẬT LÝ
----------***----------
TRẦN MINH PHƯỢNG
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CÁNH TIẾP CẬN MỚI
TRONG DẠY HỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Sư phạm Kỹ thuật
Người hướng dẫn khoa học
Th.s:Nguyễn Ngọc Tuấn
Hà Nội – 2011
LỜI CẢM ƠN
Lời nói đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới
thầy giáo ThS. Nguyễn Ngọc Tuấn, Khoa Vật lý Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thiện nội dung khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin cảm ơn Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Vật lý, các thầy cô
giáo trong Khoa Vật lý - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, những người đã giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành đề
tài này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè và các bạn sinh
viên lớp K33D-SPKT đã luôn động viên, cổ vũ và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
làm khóa luận.
Hà Nội,tháng 05 năm 2011
Tác giả
Trần Minh Phượng
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
1
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: Hội đồng bảo vệ khóa luận tốt nghiệp Đại học Khoa Vật lý
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Tên tôi là: Trần Minh Phượng
Sinh viên lớp: K33D-SPKT
Khoa: Vật lý
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Tôi xin cam đoan đề tài “Nghiên cứu một số cách tiếp cận mới trong dạy
học” là kết quả của sự nghiên cứu tìm tòi, tra cứu tài liệu và nhất là có sự định
hướng của ThS. Nguyễn Ngọc Tuấn - khoa Vật lý Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2. Đề tài không sao chép từ bất cứ một tài liệu nào có sẵn và kết quả nghiên
cứu không trùng với tác giả nào khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2011
Tác giả
Trần Minh Phượng
MỤC LỤC
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
2
Lời cảm ơn.
Lời cam đoan.
Mục lục.
Phần 1 Mở đầu...................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu........................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................3
5. Kết cấu của đề tài..............................................................................3
Phần 2: Nội dung…………………………………………………….4
Chương I. Những vấn đề cơ bản về cách tiếp cận được vận dụng trong
quá trình dạy học……………………………………………………4
1.1.
Quan điểm tiếp cận trong dạy học……………………………..4
1.2.
Những khái niệm cơ bản………………………………………5
1.2.1. Khái niệm dạy học………………………………………….5
1.2.2. Quá trình dạy học…………………………………………..6
1.2.3. Tiếp cận………………………………………………….....7
1.2.4. Các cách tiếp cận được dùng trong quá trình dạy học……..7
1.3. Các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại……………8
1.3.1. Các phương pháp dạy học truyền thống……………………8
1.3.2. Các phương pháp dạy học hiện đại……………………….11
Chương II. Tiếp cận trong dạy học……………………………….14
2.1. Cách tiếp cận quá trình………………………………………….14
2.1.1 Bản chất của cách tiếp cận quá trình……………………...14
2.1.2 Các kĩ năng của cách tiếp cận quá trình…………………..14
2.1.3 Giảng dạy theo cách tiếp cận quá trình…………………...17
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
3
2.1.4 Cơ hội và hạn chế của cách tiếp cận quá trình……………19
2.2. Cách tiếp cận phát hiện…………………………………………20
2.2.1 Bản chất của cách tiếp cận phát hiện……………………..20
2.2.2 Những vấn đề cần thiết khi giảng dạy khái niệm…………21
2.2.3 Dạy học theo cách tiếp cận phát hiện……………………..22
2.2.4 Cơ hội và hạn chế của cách tiếp cận phát hiện…………...24
2.3. Cách tiếp cận tìm tòi và giải quyết vấn đề……………………..25
2.3.1
Đặc điểm của cách tiếp cận tìm tòi và giải quyết vấn
đề…………………………………………………………………………..25
2.3.2 Cách thức điều tra tìm tòi, giải quyết vấn đề……………26
2.3.3
Cơ hội và hạn chế của cách tiếp cận tìm tòi và giải quyết vấn
đề……………………………………………………………………..27
2.3.4 Ưu điểm của cách tiếp cận tìm tòi và giải quyết vấn đề…28
2.4. Điều kiện và khả năng vận dụng cách tiếp cận trong dạy học…28
2.4.1. Điều kiện vận dụng……………………………………….28
a, Theo mục đích bài dạy…………………………………….28
b, Theo nội dung bài dạy……………………………………..28
c, Theo cơ sở vật chất………………………………………...28
2.4.2. Khả năng vận dụng………………………………………..29
a, Khả năng của giáo viên…………………………………….29
b, Khả năng của học sinh……………………………………..30
Phần 3: Kết luận chung……………………………………………31
Tài liệu tham khảo…………………………………………………32
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
4
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế của thời đại, nhu cầu phát triển kinh tế của đất
nước, giáo dục Việt Nam đang đứng trước bài toán phải đổi mới một cách toàn diện
từ mục tiêu giáo dục, nội dung đến phương pháp, phương tiện dạy học. Vì thế luật
giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 đã đề ra mục tiêu
của giáo dục phổ thông như sau: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản,
phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân chuẩn
bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng
và bảo vệ tổ quốc”.(Luật giáo dục, Chương 2 – mục 2, điều 27).
Để thực hiện mục tiêu trên, Luật giáo dục đã quy định rõ: “Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh,
phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng môn học, chủ động sáng tạo của học sinh,
phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng môn học, bồi dưỡng năng lực tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”.(Luật giáo dục, Chương 2 – mục 2, điều
28).
Để thực hiện các mục đích trên, ngành giáo dục đã và đang tiến hành đổi mới
sách giáo khoa ở tất cả các cấp học phổ thông, bố trí lại khung chương trình, giảm
tải lượng kiến thức không cần thiết, đưa sách giáo khoa mới vào trường phổ thông.
Đi đôi với việc đổi mới sách giáo khoa, đổi mới chương trình là đổi mới phương
pháp dạy học. Nhưng đổi mới phương pháp dạy học như thế nào để dạy học đạt
hiệu quả? Đây là một vấn đề hết sức cấp thiết trong sự nghiệp giáo dục ở nước ta.
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
5
Hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học đã và đang được tiến hành ở tất cả các
cấp trong ngành giáo dục theo các quan điểm: “tích cực hóa hoạt động học tập”,
“hoạt động hóa người học”, “lấy người học làm trung tâm”… Những quan điểm
trên đều bao hàm các yếu tố tích cực, có tác dụng thúc đẩy đổi mới phương pháp
dạy học nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và đào tạo. Trong những năm gần đây,
việc vận dụng các cách tiếp cận mới vào dạy học với tinh thần nhấn mạnh vai trò
trung tâm của học sinh trong quá trình dạy học đã giúp khơi dậy hứng thú, lòng
ham học tập, tìm tòi, kích thích tư duy sáng tạo của học sinh. Với các cách tiếp cận
này, học sinh sẽ chuyển từ vai trò chỉ là người tiếp nhận kiến thức sang vị thế chủ
động trong suốt quá trình học. Vì những lí do trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài
nghiên cứu: “Nghiên cứu một số cách tiếp cận mới trong dạy học”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Từ những phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại đã biết; cách thức
vận dụng chúng trong dạy học; tôi đi đến giới thiệu, phân tích, ... để đưa ra một số
cách tiếp cận mới vào trong quá trình dạy học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Các khái niệm, các đặc điểm, các ưu - nhược điểm, những yêu cầu cơ bản,
những điều kiện cần thiết, các tiêu chí cần có đối với từng cách tiếp cận...khi sử
dụng trong quá trình giảng dạy.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại
Một số cách tiếp cận mới trong dạy học
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
6
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như: Phương pháp nghiên cứu lý luận, thống kê, thu thập ý kiến chuyên gia, tổng
kết kinh nghiệm.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo thì nội dung đề tài
gồm hai chương:
Chương I. Những vấn đề cơ bản về cách tiếp cận được vận dụng trong
quá trình dạy học.
Chương II. Tiếp cận trong dạy học.
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
7
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ CÁCH TIẾP CẬN ĐƯỢC VẬN DỤNG
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
1.1.
Quan điểm tiếp cận trong dạy học.
Quan điểm tiếp cận trong dạy học truyền thống là những cách thức dạy học
quen thuộc được truyền từ lâu đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Về cơ
bản, phương pháp dạy học này lấy hoạt động của người thầy là trung tâm. Theo
Frire – nhà xã hội học, nhà giáo dục học nổi tiếng người Braxin đã gọi phương
pháp dạy học này là “hệ thống ban phát kiến thức”, là quá trình truyền tải thông tin
từ người thầy sang người học trò. Thực hiện lối dạy này, giáo viên là người thuyết
trình, diễn giảng, là “kho tri thức” sống, học sinh là người nghe, nhớ, ghi chép và
suy nghĩ theo. Với cách tiếp cận học sinh này, giáo viên là chủ thể, là tâm điểm,
học sinh là khách thể, là quỹ đạo. Giáo án dạy theo cách này được thiết kế kiểu
đường thẳng theo hướng từ trên xuống. Nội dung bài dạy theo phương pháp truyền
thống có tính hệ thống, tính logic cao. Song do quá đề cao người dạy nên nhược
điểm của cách dạy học truyền thống là học sinh thụ động tiếp thu kiến thức, giờ dạy
dễ đơn điệu, buồn tẻ, kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực hành của
người học; do đó kỹ năng vận dụng vào đời sống thực tế bị hạn chế.
Phương pháp dạy học hiện đại xuất hiện đầu tiên ở các nước phương Tây (ở
Mỹ, ở Pháp… ) từ đầu thế kỷ XX và được phát triển mạnh từ nửa sau thế kỷ, có
ảnh hưởng sâu rộng tới các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đó là cách
thức dạy học theo lối phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Với những
cách tiếp cận dạy học mới này, giáo viên chỉ giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức,
giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận,
hội thảo theo nhóm. Người giáo viên có vai trò là cố vấn điều khiển tiến trình giờ
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
8
dạy. Những cách tiếp cận mới này rất chú ý đến đối tượng học sinh, coi trọng việc
nâng cao quyền năng cho người học. Giáo viên là người nêu tình huống, kích thích
hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh; từ đó hệ thống hóa
các vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm vững. Giáo án dạy
theo các cách tiếp cận mới này được thiết kế kiểu chiều ngang theo hai hướng song
hành giữa hoạt động dạy của thầy và học sinh. Ưu điểm của các cách tiếp cận mới
là rất chú trọng kĩ năng thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi
trọng rèn luyện và tự học. Đặc điểm của dạy học theo các cách tiếp cận này là giảm
bớt thuyết trình, diễn giải; tăng cường dẫn dắt, điều khiển, tổ chức, xử lý tình
huống song nếu không tập trung cao, học sinh sẽ khó hệ thống và logic được.
Dù là cách tiếp cận truyền thống hay hiện đại cũng đều có những đặc điểm,
ưu thế và nhược điểm riêng. Không có phương thuốc nào có thể chữa được bách
bệnh, không có phương pháp dạy học nào là chìa khóa vạn năng. Việc nghiên cứu
kĩ từng bài dạy, từng đặc điểm bộ môn và đối tượng người học để có sự phối kết
hợp đa dạng các phương pháp là việc cần làm của mỗi giáo viên để nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay.
1.2.
Những khái niệm cơ bản.
1.2.1. Khái niệm dạy học.
Nhiều tác giả cho rằng: “ Dạy học là toàn bộ các thao tác có mục đích
nhằm chuyển các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các giá trị văn hóa mà nhân
loại hoặc cộng đồng đã đạt được vào bên trong một con người”. Quan niệm này lí
giải đầy đủ cách mà nền giáo dục đang cố gắng đào tạo những con người thích ứng
với những nhu cầu hiện tại của xã hội. Tuy nhiên quan niệm này làm cho nền giáo
dục luôn đi sau sự phát trển của xã hội. Bởi vì nó chỉ có nhiệm vụ tái hiện lại các
giá trị tinh thần xã hội đã được vật chất hóa bằng cách nào đó để trở lại thành các
giá trị tinh thần bên trong người học. Quan niệm đó đi ngược lại quan niệm của
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
9
Socrate về giáo dục trong đó giáo dục có nhiệm vụ “đỡ đẻ” các ý niệm vốn có trong
mỗi con người, để cho ý niệm đó được khai sinh và trở thành giá trị tinh thần chung
của nhân loại. Quan niệm đó cũng hạn chế nền giáo dục hướng đến một xã hội tri
thức. Một xã hội mà tri thức con người đang được số hóa với một tốc độ cực lớn,
làm cho tri thức dễ dàng và nhanh chóng trở thành tài sản chung. Tuy nhiên xã hội
tri thức không chỉ có nhiệm vụ tích hợp các kiến thức của con người đã đạt được
trong các phương tiện lưu trữ, các cơ sở dữ liệu mà còn có nhiệm vụ từ đó nhân
khối lượng kiến thức này lên thành các kiến thức mới có chất lượng cao hơn nữa.
Triết học Mác nói rằng “Lượng đổi thì chất đổi. Lượng thay đổi một cách
tiệm tiến còn chất thì thay đổi một cách nhảy vọt”. Phạm trù về mối tương quan
giữa lượng và chất này hoàn toàn đúng trong các hoạt động giáo dục. Người ta đã
tính ra rằng khối lượng kiến thức hiện nay của nhân loại trong vòng hai mươi năm
trở lại đây đã tăng bằng tổng khối lượng kiến thức mà nhân loại đạt được trong toàn
bộ lịch sử trước đó của nó. Sự tăng về khối lượng kiến thức đó nhất thiết phải kéo
theo sự thay đổi về chất tri thức của con người. Sự thay đổi về chất đó là gì? Con
người của thời đại hiện tại không chỉ có nhiệm vụ học tập và nhớ các kiến thức sẵn
có mà còn đòi hỏi con người phải có khả năng từ khối lượng tri thức đó sản sinh ra
các giá trị vật chất, tinh thần và nắm bắt tri thức mới. Vậy có lẽ hợp lí hơn nếu cho
rằng: “Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định
hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với
mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kĩ năng, các giá trị
văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được
các bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người học”.
1.2.2. Khái niệm quá trình dạy học.
Quá trình dạy học là một quá trình phức tạp, rộng lớn và bao gồm nhiều
thành tố có liên quan chặt chẽ với nhau. Để đưa ra một định nghĩa có tính khái quát
nhất, bao quát toàn bộ hoạt động dạy và học là một công việc không dễ. Hiện nay,
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
10
các nhà lý luận dạy học ở Việt Nam cũng như thế giới đưa ra nhiều định nghĩa khá
nhau về quá trình dạy học tùy theo quan điểm tiếp cận về hoạt động dạy và học.
Chẳng hạn, các nước sử dụng tiếng Anh khi nghiên cứu quá trình dạy học thường
xem xét hai phạm trù độc lập: dạy và học (teaching and learning). Theo đó, với
hoạt động dạy có phương pháp dạy của giáo viên, với hoạt động học có phong cách
học của mỗi cá nhân. Trong phạm vi nghiên cứu, tôi xin đưa ra một khái niệm phù
hợp với đề tài này. Vậy: “Quá trình dạy học là hệ thống những hành động liên
tiếp và thâm nhập vào nhau của thầy và trò dưới sự hướng dẫn của thầy, nhằm
đạt được mục đích dạy học và qua đó phát triển nhân cách của trò”.
1.2.3. Khái niệm tiếp cận.
Sẽ chẳng có gì mới khi nói rằng, dạy học vừa là một khoa học vừa là một nghệ
thuật. Các nhà nghiên cứu về giáo dục sẽ không bao giờ có đủ khả năng định ra phương
pháp dạy học phù hợp với mọi học sinh và mọi lớp học. Điều tốt nhất mà các nhà nghiên
cứu có thể mang lại là cho chúng ta biết phương pháp dạy học nào có nhiều khả năng
nhất để thực sự có hiệu quả với học sinh. Các phương pháp dạy học đã có sẵn nhưng
giáo viên sử dụng phương pháp nào để tiếp cận học sinh một cách có hiệu quả nhất, giúp
cho học sinh nắm vững bài học thì đấy lại là sự sáng tạo của người thầy. Vậy giáo viên
có thể sử dụng những cách tiếp cận nào đem lại hiệu quả cao cho bài học chúng ta sẽ
cùng nghiên cứu tiếp ở phần sau, bây giờ để hiểu hơn về các cách thức tiếp cận chúng ta
cùng đi tìm hiểu khái niệm tiếp cận. Vậy : “Tiếp cận là cách thức giảng dạy trong
môi trường sư phạm nhằm mục đích đưa người học vào thế chủ động tích cực,
tự lực rèn luyện, phát triển các kĩ năng quá trình giải quyết vấn đề thực tế của
bài học để từ đó dẫn đến sự hình thành các nguyên lý, tổng quát hoá... giúp cho
việc giải quyết vấn đề một cách hiệu quả”.
1.2.4. Các cách tiếp cận được dùng trong quá trình dạy học.
+ Cách tiếp cận quá trình.
+ Cách tiếp cận phát hiện.
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
11
+ Cách tiếp cận tìm tòi và giải quyết vấn đề.
1.3. Các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại.
1.3.1. Các phương pháp dạy học truyền thống.
Một giáo viên cần thiết phải sử dụng nhiều phương pháp dạy học phù
hợp với các tình huống khác nhau. Có một số phương pháp dạy học đã được
sử dụng qua nhiều năm và người ta thường gọi là các phương pháp dạy học
truyền thống. Những phương pháp này có thể rất hiệu quả trong một số tình
huống dạy học nhất định với những giáo viên có kinh nghiệm, tuy nhiên không
nên quá lạm dụng các phương pháp dạy học này.
Dưới đây là một số phương pháp dạy học truyền thống thường được sử
dụng :
a, Phương pháp thuyết trình.
* Khái niệm của phương pháp thuyết trình.
Phương pháp thuyết trình sử dụng lời giảng của mình là nguồn dẫn
tới tri thức mới cho học sinh. Giáo viên trình bày một cách liên tục, mạch lạc
những nội dung tài liệu có tính trừu tượng, khái quát giúp học sinh lĩnh hội
một cách có hệ thống.
* Ưu điểm của phương pháp thuyết trình.
- Mặc dù là một phương pháp dạy học truyền thống, phương pháp
thuyết trình vẫn có nhiều điểm tích cực khó thay thế:
- Có khả năng gây cảm hứng và tạo động lực cao. Bởi vậy, đây là một
phương pháp có hiệu quả khi muốn tạo dựng hứng thú và sự ham học cho học
sinh.
- Bổ sung và làm phong phú cho phần tài liệu học sinh đã có.
- Giáo viên hoàn toàn có thể chủ động về nội dung của bài giảng.
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
12
- Giúp cho giáo viên tiết kiệm thời gian và không đòi hỏi những nỗ lực
lớn. Mặt khác phương pháp thuyết trình cũng giúp học sinh tiết kiệm thời gian
tìm tòi cái mới.
- Có thể áp dụng với lớp học đông học sinh.
* Nhược điểm của phương pháp thuyết trình.
- Hạn chế tính chủ động khi tiếp nhận tri thức mới cũng như tính sáng
tạo của học sinh. Phương pháp này có thể biến học sinh trở thành người nghe
thuần túy không cần phải tư duy.
- Không tạo điều kiện cho học sinh nâng cao kĩ năng giao tiếp.
- Mức độ hiểu bài của học sinh ít được đánh giá trong quá trình giảng
dạy, bởi giáo viên thường không khuyến khích học sinh tham gia hoặc đáp lại.
Điều này sẽ làm hạn chế việc đánh giá mức độ hiểu bài của học sinh.
b, Phương pháp đàm thoại.
* Khái niệm của phương pháp đàm thoại.
Phương pháp đàm thoại là phương pháp mà giáo viên căn cứ vào nội
dung bài học khéo léo đặt ra câu hỏi, để học sinh căn cứ vào kiến thức đã có
kết hợp với sự hướng dẫn của giáo viên qua các thiết bị giảng dạy để làm sáng
tỏ vấn đề.
* Ưu điểm của phương pháp đàm thoại.
- Kích thích tính tích cực, độc lập sáng tạo trong hoạt động học tập của
học sinh.
- Bồi dưỡng cho học sinh năng lực diễn đạt những vấn đề học tập bằng
lời.
- Giúp giáo viên thu thập thông tin từ phía học sinh để kịp thời điều
chỉnh hoạt động dạy học.
- Tạo không khí học tập sôi nổi trong giờ học.
* Nhược điểm của phương pháp đàm thoại.
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
13
Nếu người giáo viên chưa có nghệ thuật tổ chức, điều khiển phương
pháp đàm thoại thì mang một số hạn chế sau:
- Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng tới việc thực hiện kế hoạch bài học.
- Có thể biến đàm thoại thành cuộc tranh luận giữa giáo viên và học
sinh, giữa các thành viên của lớp với nhau.
c, Phương pháp trình diễn.
* Khái niệm của phương pháp trình diễn.
Phương pháp trình diễn được coi là một quá trình học thông qua quan
sát và sau đó được áp dụng vào thực tế. Thông qua các bài luyện tập và thực
hành thường xuyên học sinh có thể tiến hành hoạt động một mình hoặc theo
nhóm.
* Ưu điểm của phương pháp trình diễn.
-Với người giáo viên có kiến thức, kinh nghiệm và năng lực, phương
pháp trình diễn có thể mang lại hiệu quả cao.
- Rèn luyện khả năng quan sát của học sinh.
- Khích lệ học sinh tư duy và hình thành các khái niệm, rèn luyện khả
năng tổng quát hóa.
-Thu hút sự chú ý của học sinh thông qua việc sử dụng những thiết bị
dạy học.
- Có tác dụng như là một sự giới thiệu và chuẩn bị cho việc học kĩ năng
của học sinh.
* Nhược điểm của phương pháp trình diễn.
- Học sinh ít có cơ hội phát hiện những điều mới hoặc tự giải quyết các
vấn đề.
- Không phù hợp tính năng động của người học vì học sinh chỉ đóng vai
trò quan sát.
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
14
- Khi lớp học quá rộng hoặc quá đông, học sinh có thể sẽ gặp khó khăn
trong việc quan sát và nghe
- Khó đánh giá đúng sự tiếp thu bài của học sinh.
1.3.2. Các phương pháp dạy học hiện đại.
Các phương pháp dạy học hiện đại (các phương pháp dạy học tích cực)
để chỉ những phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của
người học. Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa
hoạt động nhận thức của người học nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích
cực của người học chứ không phải là tập trung vào người dạy. Sau đây là một
số phương pháp dạy học hiện đại :
a, Phương pháp dạy học theo nhóm.
* Khái niệm của phương pháp dạy học theo nhóm.
Dạy học theo nhóm là một hình thức xã hội của dạy học, trong đó học
sinh của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ trong khoảng thời gian
giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân
công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và
đánh giá trước toàn lớp.
* Ưu điểm của phương pháp dạy học theo nhóm.
- Phát huy tính tích cực, tự lực và tính trách nhiệm của học sinh.
- Phát triển năng lực cộng tác làm việc.
- Phát triển năng lực giao tiếp.
- Tăng cường sự tự tin cho học sinh.
* Nhược điểm của phương pháp dạy học theo nhóm.
- Dạy học theo nhóm đòi hỏi thời gian nhiều. Thời gian 45 phút của một
tiết học cũng là một trở ngại trên con đường đạt được thành công cho hoạt
động theo nhóm.
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
15
- Công việc nhóm không phải bao giờ cũng mang lại kết quả như mong
muốn. Nếu việc tổ chức và thực hiện kém, nó thường sẽ dẫn đến kết quả
ngược lại với những gì dự định sẽ đạt.
- Trong các nhóm chưa được luyện tập dễ xảy ra hỗn loạn
b, Phương pháp nghiên cứu trường hợp.
* Khái niệm của phương pháp nghiên cứu trường hợp.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học,
trong đó học sinh tự lực nghiên cứu một tình huống thực tiễn và giải quyết các
vấn đề của tình huống đặt ra, hình thức làm việc chủ yếu là làm việc nhóm.
Phương pháp trường hợp là phương pháp điển hình của dạy học theo tình
huống và giải quyết vấn đề.
* Ưu điểm của phương pháp nghiên cứu trường hợp.
- Việc sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp tạo điều kiện cho
việc xây dựng các tình hống nhằm gắn lý thuyết với thực tiễn.
- Tích cực hóa động cơ của người học.
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp yêu cầu có sự cộng tác và thảo
luận trong nhóm, giúp học sinh tăng khả năng giao tiếp, sự tự tin.
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp tạo điều kiện phát triển các năng
lực giải quyết vấn đề, tư duy hệ thống, tính sáng tạo.
* Nhược điểm của phương pháp nghiên cứu trường hợp.
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp đòi hỏi nhiều thời gian, thích hợp
cho việc vận dụng nhưng không thích hợp với việc truyền thụ tri thức mới một
cách hệ thống.
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp có đòi hỏi cao về giáo viên và
người học.
c, Phương pháp dạy học dự án.
* Khái niệm phương pháp dạy học dự án.
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
16
Phương pháp dạy học dự án là một hình thức dạy học trong đó người
học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và
thực hành, tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người
học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập.
* Ưu điểm phương pháp dạy học dự án.
- Gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã
hội.
- Kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học.
- Phát huy tính tự lực tính trách nhiệm.
- Phát triển khả năng sáng tạo.
- Rèn luyện khả năng giải quyết những vấn đề phức hợp.
- Rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn và năng lực cộng tác làm việc.
* Nhược điểm phương pháp dạy học dự án.
- Không phù hợp trong việc truyền thụ tri thức lý thuyết mang tính hệ
thống cũng như rèn luyện hệ thống kĩ năng cơ bản.
- Đòi hỏi nhều thời gian và công sức.
- Đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp.
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
17
CHƯƠNG 2: TIẾP CẬN TRONG DẠY HỌC
2.1. Cách tiếp cận quá trình.
2.1.1. Bản chất của cách tiếp cận quá trình.
Cách tiếp cận quá trình nhấn mạnh nên tạo cơ hội cho học sinh phát triển các
kĩ năng quá trình (prcess skills) thông qua thực hành. Kĩ năng quá trình là những kĩ
năng giải quyết các vấn đề hằng ngày, bao gồm các kĩ năng: quan sát, phân loại,
suy luận, dự đoán v.v…nếu một học sinh yếu về mặt quan sát hoặc thiếu khả năng
tiên đoán những gì sẽ xảy ra cho một loạt sự kiện thì thường sẽ gặp nhiều hạn chế
trong cuộc đời sau này. Nhưng đối với một học sinh có khả năng suy đoán tốt, có
khả năng đưa ra được các giả thuyết, thì những kĩ năng này sẽ trở thành tài sản quý
giá cho tương lai nghề nghiệp sau này.
2.1.2. Các kĩ năng của cách tiếp cận quá trình.
a, Quan sát.
Một học sinh mong muốn sau này trở thành một kĩ sư, bác sĩ, luật sư, nhà xã
hội học hoặc một phi công, cần phải có khả năng quan sát tình hình, một vật thể,
một bản báo cáo hay con người một cách tỉ mỉ. Những người quan sát cẩn thận ở
những vị trí có trách nhiệm có thể cứu nhiều tính mạng người, tiết kiệm được ngân
sách công và đảm bảo tính công bằng ; trong khi đó, những người quan sát cẩu thả
có thể gây ra những hậu quả khôn lường.
b, Đo lường.
Trong cuộc đời mình, ai cũng có lúc phải cân, đo, đếm vì mục đích nghề
nghiệp hoặc vì mục đích bình thường của cuộc sống hằng ngày. Người thợ may, kĩ
thật viên, kiến trúc sư, nghệ sĩ, đầu bếp và người làm việc trong các nghề khác
cũng cần biết đong, đo, đếm một cách chính xác.
c, Phân loại.
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
18
Các vật thể có thể được phân loại thông qua nhận biết về hình dáng, màu sắc,
kích cỡ, sự giống nhau và khác nhau. Con người cũng được phân loại theo độ tuổi,
giới tính, màu da và chia thành từng nhóm theo thấp, cao, béo, gầy, giàu nghèo
v.v..Khả năng phân loại hoặc chia thành nhóm đúng đòi hỏi sự quan sát cẩn thận để
nhận biết những nét giống nhau hoặc khác nhau của sự vật, hiện tượng.
d, Giao tiếp.
Con người có thể giao tiếp với nhau thông qua tiếng nói, nghe, viết, đọc, vẽ,
nét mặt hay cử chỉ. Đối với các em nhỏ khả năng biểu lộ các cảm xúc, vui buồn hay
mong ước thông qua giao tiếp là một điều quan trọng.
e, Sử dụng các con số.
Mỗi con người cần phải làm quen với các con số. Kĩ năng làm toán cộng, trừ,
nhân, chia là rất quan trọng trong trường phổ thông. Số học và Đại số là những môn
học bắt buộc trong chương trình học. Sử dụng các con số là một kĩ năng có thể
được tích lũy không phải chỉ ở môn toán học mà còn ở những môn khác như Vật lí,
Hóa học, Kinh tế, Kế toán và nhiều môn học khác.
f, Sử dụng mối quan hệ không gian và thời gian.
Vật thể, con người và nơi chốn thường được đặt ở những vị trí tương đối với
không gian. Những từ như: phía sau, phía trước, ở trên, ở dưới, trái hay phải thường
được dùng để mô tả những mối quan hệ về không gian.
Trước và sau thường được dùng để mô tả các mối quan hệ thời gian. Để mô
tả các chuỗi sự kiện xảy ra trong quá khứ cũng như trong tương lai, điều quan trọng
là phải hiểu được mối quan hệ thời gian.
g, Dự đoán.
Khi kiểm tra một tình huống hoặc tiến hành theo dõi liên tục trong một
quãng thời gian, sau đó đưa ra ý kiến nhận xét về những gì có khả năng xảy ra thì ta
đã làm công việc dự đoán. Để có dự đoán mang tính chuẩn xác cao, cần phải xem
xét các bằng chứng một cách cẩn thận trước khi đưa ra điều dự đoán của mình.
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
19
h, Suy luận.
Suy luận có nghĩa là luận ra, ngầm hiểu hoặc kết luận. Nếu thấy một học sinh
hớn hở đi ra sau khi xem thông báo điểm thi, có thể suy luận rằng học sinh đó đã
vượt qua kì thi và thậm chí đạt được điểm cao trong kì thi đó. Trong ví dụ vừa rồi,
chúng ta đã suy diễn về nguyên nhân dẫn đến sự vui mừng của em học sinh.
i, Hình thành các mô hình.
Hầu hết các giáo viên dạy các bộ môn ngày nay đều sử dụng ảnh, bản đồ,
biểu đồ, và dụng cụ học tập để hỗ trợ cho phần bài giảng của mình với mục đích
nâng cao chất lượng và tạo điều kiện cho học sinh tiếp thu bài nhanh hơn. Nói
chung, người ta tin rằng việc sử dụng các mô hình hai hay ba chiều, các tình huống,
hoặc sự kiện có liên quan sẽ giúp học sinh hiểu bài nhanh hơn và đọng lại trong trí
nhớ lâu hơn là bài giảng suông. Các mô hình cụ thể sẽ giúp cho học sinh hình thành
các nếp nhăn trong trí não về những khái niệm và hình ảnh của bài học.
k, Đọc các dữ liệu.
Trong các nghiên cứu xã hội, chính trị, toán học và khoa học, dựa trên các dữ
liệu thu thập được trong quá trình điều tra, các nhà phân tích đưa ra các nhận xét.
Những nhận xét này có thể được thể hiện bằng những con số trung bình, phần trăm,
biểu đồ và từ đó đưa ra các kết luận. Để đưa ra các kết luận chính xác từ các số liệu
đòi hỏi phải có kĩ năng và những kĩ năng này chỉ có thể có được thông qua học,
tích lũy và thực hành. Trong thực tế, quá trình xây dựng những kĩ năng này là quá
trình diễn ra trong cả đời người.
l, Kiểm soát các biến số.
Người nông dân thường có ý định áp dụng các biện pháp canh nông mà họ
cho rằng có hiệu quả cao từ vụ này sang vụ khác trên các thửa ruộng của mình. Họ
đang cố gắng kiểm soát các biến số có thể gây ảnh hưởng xấu tới thời vụ. Trong bất
cứ một quá trình sản suất nào, bao giờ cũng có những biến số cần được kiểm soát
để đảm bảo chất lượng cao của sản phẩm.
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
20
m, Đưa ra các giả thuyết.
Khi quan sát thấy kết quả thi của học sinh của một trường học thấp, thầy hiệu
trưởng cho rằng có thể có những nguyên nhân sau :
- Học sinh không chăm chỉ;
- Bài thi quá khó;
- Giáo viên không chuẩn bị kĩ cho học sinh trước kì thi;
…
Những suy luận như vậy thường dựa trên một loạt quan sát được gọi là giả
thuyết. Để kiểm tra xem giả thuyết nào là đúng nhất đòi hỏi phải tiến hành cuộc
điều tra, trong đó bao gồm cả những đợt quan sát sâu hơn. Kết quả của cuộc điều
tra có thể dẫn tới sự rà soát lại hoặc đưa ra một giả thuyết hoàn toàn mới. Giả
thuyết chính là một sự tiên đoán mang tính chất trí tuệ, nêu lên được các nguyên
nhân hay kết quả dựa trên các quan sát ban đầu.
n, Thử nghiệm.
Trong công nghiệp, các nhà chế tạo bao giờ cũng mong muốn sản xuất ra
được các loại máy có công năng tốt hơn, các xe ô tô mang tính kinh tế cao hơn, sản
suất ra các loại vải có chất lượng tốt hơn và các loại thuốc có hiệu quả hơn. Các kĩ
sư nông nghiệp cố gắng đưa ra các biện pháp canh tác mang lại năng suất cao.
Trong khi đó các nhà kinh tế thì lại đang cố gắng tìm các biện pháp chống lạm
phát. Trên tất cả các lĩnh vực, loài người đang cố gắng thử nghiệm những biện pháp
mới với hi vọng cải thiện điều kiện sống của con người. Thử nghiệm là một kĩ năng
quá trình và đòi hỏi người thực hiện cuộc thử nghiệm phải có năng lực và thông
thạo trong lĩnh vực đó.
2.1.3. Giảng dạy theo cách tiếp cận quá trình.
a, Chuẩn bị bài giảng.
Khi chuẩn bị bài giảng, điều đầu tiên giáo viên cần phải làm là xác định các
kĩ năng quá trình muốn học sinh phát triển và mức độ thành công học sinh sẽ đạt
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
21
được. Để đạt được điều đó, các giáo viên cần thiết kế các hoạt động cho từng học
sinh hay cho từng nhóm học sinh. Dĩ nhiên để các hoạt động tiến hành có hiệu quả,
trong giai đoạn chuẩn bị giáo viên nên tham khảo ý kiến học sinh cũng như đảm
bảo mọi điều kiện vật chất cần thiết. Các mục tiêu, hành vi cần được nêu một cách
cụ thể nhằm mục đích đạt được các kĩ năng mong muốn sau bài học.
b, Thực hiện bài giảng theo cách tiếp cận quá trình.
+ Giới thiệu.
Giáo viên có thể bắt đầu bằng việc giới thiệu những kĩ năng học sinh cần
nắm bắt qua bài học. Giáo viên có thể kể một câu chuyện, một giai thoại về tầm
quan trọng của những kĩ năng sẽ được nêu ở trong bài học. Học sinh được giới
thiệu về các tài liệu và hướng dẫn cách quan sát hoặc thao tác các dụng cụ sẽ xử
dụng.
+ Tổ chức các hoạt động phát triển kĩ năng.
Giáo viên sẽ bố trí học sinh như thế nào trong tiết học phụ thuộc vào các loại
hình hoạt động mà các em sẽ tiến hành và những tài liệu có trong tay. Nên chia học
sinh thành từng đôi để các em có thể tham gia vào các hoạt động cả về thể chất lẫn
tinh thần. Nếu các em học cách quan sát một bông hoa hay một con chim thì giáo
cụ cần có phải là bông hoa hay con chim. Nếu học sinh học cách suy luận về một
sự kiện thông qua việc quan sát một loạt bức tranh, giáo viên nên chia các em thành
nhóm ba hoặc bốn người. Trong bất cứ hoạt động nào của học sinh cũng cần có sự
hướng dẫn cụ thể của giáo viên thông qua các câu hỏi gợi ý và hướng dẫn thích
hợp. Trong quá trình giảng bài, giáo viên quan sát lớp học một cách tổng quát và cố
gắng lượng hóa sự tiếp thu bài của học sinh. Khi giao bài tập trong tiết học, những
học sinh có năng khiếu thường hoàn thành bài sớm hơn các bạn khác ở trong lớp,
bởi vậy giáo viên nên giao cho các em đó một số bài tập khác cùng với những dụng
cụ học tập cần thiết. Khi cả lớp đã làm xong phần bài tập, giáo viên nên yêu cầu
các em áp dụng những điều học được vào một bài tập mới hay tình huống mới.
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
22
Thông qua kết quả của những tình huống như vậy, người giáo viên sẽ đánh giá mức
độ tiếp thu bài của học sinh.
+ Kết thúc bài học.
Giáo viên cần tóm tắt lại những điểm chính của bài học, thông qua hình thức
thảo luận ngắn có sự tham gia của tất cả học sinh. Ví dụ, giáo viên có thể đưa ra các
câu hỏi như: Hãy so sánh động cơ xăng 4 kỳ và động cơ điêzen 4 kỳ ? Dựa trên câu
trả lời của học sinh đưa ra, giáo viên sẽ hướng dẫn cả lớp thảo luận và nhấn mạnh
vào những câu trả lời đúng.
Nếu các hoạt động như vậy thực sự giúp học sinh hình thành được một khái
niệm hoặc sự tổng quát hóa thì cuối bài học giáo viên cần củng cố lại những khái
niệm hoặc sự tổng quát hóa mà các em đã hình thành trong tiết học.
2.1.4. Ưu điểm và nhược điểm của cách tiếp cận quá trình.
Cách tiếp cận quá trình dùng trong dạy học thoạt đầu được thiết kế để áp
dụng cho học sinh tiểu học và những lớp đầu của trung học cơ sở. Cách tiếp cận
này rất có hiệu quả đối với việc dạy học các bộ môn khoa học, nhưng cũng có thể
được áp dụng cho các bộ môn khác mà không chứa đựng những rào cản của các
chủ đề giả tạo. Người ta cho rằng, trong bất cứ nội dung nào của môn học, thông
qua thực hành quan sát, phân loại, suy đoán, v.v…học sinh có thể hình thành được
các khái niệm và sự tổng quát hóa, đó chính là nền tảng của kiến thức. Cách tiếp
cận quá trình có thể được áp dụng một cách dễ dàng với những lớp đầu của trung
học cơ sở khi mà chương trình học được phân chia thành các môn học riêng biệt.
a, Những ưu điểm của cách tiếp cận quá trình.
Xây dựng các kĩ năng để học sinh có thể áp dụng trong quá trình học tập ở
bất cứ bộ môn nào.
- Nội dung của một số lĩnh vực trong bộ môn có thể sẽ trở nên lạc hậu khi
các phát minh khoa học kĩ thuật mới được tìm thấy và đòi hỏi thông tin mới, nhưng
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
23
các kĩ năng quá trình bao giờ cũng bổ ích và có giá trị đối với từng cá nhân người
học.
- Vì cách tiếp cận này mang tính thực tiễn cao, nên hấp dẫn học sinh ; do đó
học sinh học nhanh, thực hành thành thạo và trở nên tự tin hơn.
- Sự thuần thục trong tiến trình xây dựng kĩ năng có thể giúp hình thành khái
niệm. Học kĩ năng không chỉ phải là nói suông mà đòi hỏi phải có một ngữ cảnh cụ
thể để vận hành. Ví dụ, nếu muốn dạy học học sinh cách cân, đo, các em sẽ hình
thành khái niệm về mét, kilôgram, đơn vị khối .v.v…
b, Một số nhược điểm của cách tiếp cận quá trình.
- Sự hiểu biết và phạm vi ứng dụng phương pháp này còn nhiều hạn chế, vì
phương pháp quá trình là phương pháp dạy học còn mới đối với nhiều nhà trường.
- Tiếp cận quá trình đòi hỏi giáo viên phải giàu trí tưởng tượng để đưa ra các
hoạt động mà học sinh có thể vận dụng những kĩ năng mới này trong việc học.
- Tiếp cận quá trình có thể thích hợp với những môn học thiên về khoa học
hơn là những môn học thiên về nghệ thuật.
2.2. Cách tiếp cận phát hiện.
2.2.1. Bản chất của cách tiếp cận phát hiện.
Theo Bruner, Wittrock và Cronbach, “phát hiện” được hiểu theo nhiều cách
khác nhau. Theo họ thì phát hiện xảy ra khi một người nào đó sử dụng trí tuệ của
mình để làm nảy sinh một khái niệm hay nguyên lý mới. Nếu đồng ý với cách phát
hiện này thì phát hiện sẽ là sự hấp thụ về mặt tinh thần một khái niệm hay nguyên
lý mà một cá nhân đã đúc kết từ những hoạt động thể chất hay tinh thần.
Một học sinh có thể đọc một số tài liệu và cảm thấy khó hiểu. Học sinh đó
cũng nghe người khác nói về điều này, việc nói chuyện với giáo viên và các bạn
cùng lớp ngay lúc đó cũng không khả quan gì hơn. Sau một thời gian dài trao đổi
với bạn bè hay đọc sách học sinh đó thấy mọi việc sáng tỏ và rõ ràng hơn. Như thế,
Trần Minh Phượng K33D - SPKT
24