Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Thiết kế nội dung tự học ở nhà cho học sinh khi nghiên cứu đề tài cảm ứng điện từ vật lý 11 SGK thí điểm bộ thứ nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.88 KB, 46 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn ban chủ nhiệm khoa Vật lý, các thầy cô
trong khoa và tổ phương pháp giảng dạy Vật lý - Trường đại học sư phạm
Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi giúp em hoàn thành khoá luận tốt
nghiệp này.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Tạ Tri Phương đã quan
tâm, động viên và giúp đỡ em tận tình trong suốt quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu. Mặc dù đã cố gắng hết sức song chắc hẳn bản khoá luận của
em sẽ không tránh khỏi một số thiếu sót, vậy em rất mong được sự đóng
góp ý kiến quý báu từ phía các thầy cô và bạn bè đồng nghiệp để khoá luận
này của em được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2007
Sinh viên

Phạm Thị Thuý

1

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

Mục lục


Trang
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

2

3.Đối tượng nghiên cứu

2

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

2

5. Giả thuyết khoa học

3

6. Phương pháp nghiên cứu

3

7. Cấu trúc luận văn

3


Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài

4

1. Một số quan niệm về vị trí, tác dụng và nội dung hoạt động tự
học trong hệ thống các hình thức tổ chức dạy và học ở các
trường phổ thông

4

4

1.1. Quan niệm về tự học
1.1.1. Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn

5

1.1.2. Theo tác giả Nguyễn Đức Thâm

6

1.1.3. Phương pháp sư phạm tương tác

7
8

1.2. Các quan điểm hiện đại về dạy học
1.2.1. Quan điểm dạy học theo lý thuyết hoạt động

8


1.2.2. Bản chất của hoạt động dạy vật lý

10

1.3. Lý thuyết vùng phát triển gần của Vưgôtxki
1.4. Thực trạng về công việc tự học môn vật lý ở trường phổ
thông hiện nay

12
13

1.4.1. Quan niệm của giáo viên

13

1.4.2. Quan niệm của học sinh

14

1.4.3. Thực trạng nội dung hoạt động tự học

14
16

Kết luận chương 1
2

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương



Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

Chương 2: Thiết kế nội dung tự học ở nhà cho học sinh khi
nghiên cứu đề tài: “Cảm ứng điện từ” Vật lý 11,
SGK thí điểm - bộ thứ nhất

18

1. Một số đặc điểm, yêu cầu mới của chương trình vật lý phổ
thông

18

1.1. Những điểm mới về mục tiêu

18

1.2. Về phương pháp

18

1.2.1. Về kiến thức

18

1.2.2. Về kỹ năng


19
20

1.3. Thái độ, tình cảm tác phong
2. Những đặc điểm về nội dung và phương pháp trình bày tài
liệu đề tài “Cảm ứng điện từ” Vật lý 11,SGK thí điểm - bộ thứ
nhất

20

3. Thiết kế nội dung hoạt động tự học ở nhà cho học sinh khi
nghiên cứu đề tài “Cảm ứng điện từ” Vật lý 11, SGK thí điểm
– bộ thứ nhất

21

3.1. Nội dung tự học ở nhà

21

3.1.1. Làm việc với SGK

21

3.1.2. Những vấn đề nhằm củng cố và khắc sâu những
mối quan hệ lôgic cơ bản, tài liệu học tập

21

3.1.3. Bài tập áp dụng kiến thức vào tình huống quen

thuộc

22

3.1.4. Bài tập áp dụng kiến thức vào tình huống không
quen thuộc

22

3.2. Quy trình hướng dẫn học sinh đọc SGK
4. Thiết kế nội dung tự học ở nhà cho học sinh đề tài
“Cảm ứng điện từ”

22
24

Kết luận chương 2

35

Kết luận chung

36

Tài liệu tham khảo

37
3

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương



Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Vật lý là một môn khoa học, sự phát triển của vật lý gắn liền với sự
phát triển của khoa học kỹ thuật (KHKT), khoa học công nghệ (KHCN).
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng KHKT - KHCN.
Những thành tựu khoa học được áp dụng nhanh chóng vào nền kinh tế và đời
sống. Để nâng cao chất lượng giáo dục ở trường phổ thông đòi hỏi phải có
biện pháp dạy học các bộ môn theo các phương pháp phù hợp với đặc trưng
của từng môn học. Trong đó để việc dạy vật lý đạt kết quả cao bên cạnh việc
dạy cho học sinh các tri thức vật lý, các kỹ năng, kỹ xảo còn phải dạy cho học
sinh cách học để có các kỹ năng đó. Tức là dạy cho học sinh những tri thức và
phương pháp học tập.
Trong những năm gần đây, ngành Giáo dục đã cố gắng đổi mới, cải tiến
mục tiêu, chương trình, nội dung SGK, nhiều phương pháp dạy học đã được
áp dụng như dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, tự lực
của học sinh. điều này đã được khẳng định trong Văn kiện hội nghị lần thứ 2
Ban chấp hành TW khoá VIII: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục
đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng
tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học,
tự nghiên cứu cho học sinh ở các cấp học…Phát triển mạnh mẽ phong
trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp toàn dân, nhất là
thanh niên. Tăng cường tự lực của học sinh để giải quyết các vấn đề
trong chương trình giáo dục và đào tạo”.

Quá trình học tập trong nhà trường mang tính chất hai phía: Thầy dạy,
trò học, vì vậy hiệu quả dạy học không chỉ phụ thuộc vào kỹ năng trình bày

4

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

tài liệu một cách vừa sức và dễ hiểu của giáo viên mà còn phụ thuộc vào mức
độ sẵn sàng tiếp thu và lĩnh hội của học sinh.
Tự học ở nhà là một trong các hình thức dạy vật lý (bài lên lớp, tham
quan ngoại khoá, tự học ở nhà). Tự học ở nhà là một hoạt động nhận thức của
học sinh sâu sắc, chắc chắn, biết vận dụng thành thạo, linh hoạt và thực tiễn.
Tuy nhiên, hiện nay nhiều giáo viên và học sinh chưa quan tâm sâu sắc đến
vấn đề này.
Trong khi hàng ngày có từ 4 đến 5 môn học, mà thời gian các em đi
học thêm lại càng tăng, thì thời gian tự học là rất ít. Khối lượng kiến thức tăng
nhanh trong khi khả năng nhận thức của học sinh hạn chế, sẽ dẫn đến việc học
sinh không hiểu vấn đề một cách sâu sắc, không có điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển tư duy sáng tạo của học sinh. Vì thế việc tự học ở nhà được tổ chức
một cách đúng đắn, khoa học thì sẽ giải quyết được những thiếu sót trên.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài: “Thiết kế nội dung tự học ở
nhà cho học sinh khi nghiên cứu đề tài: “Cảm ứng điện từ” Vật lý 11,
SGK thí điểm-bộ thứ nhất”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Vận dụng những lý luận cơ bản về các vấn đề liên quan đến tự học đưa

ra được nội dung giáo viên thiết kế tự học ở nhà của học sinh. Từ đó thiết kế
nội dung tự học của học sinh đề tài: “Cảm ứng điện từ” Vật lý 11,SGK thí
điểm - bộ thứ nhất.
Soạn thảo nội dung tự học của học sinh cho phần: “Cảm ứng điện từ”
nhằm đáp ứng đòi hỏi phát huy tính tự chủ, tích cực của học sinh trong quá
trình học tập.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Nội dung tự học của học sinh trong quá trình nghiên cứu đề tài: “Cảm
ứng điện từ” Vật lý 11, SGK thí điểm-bộ thứ nhất.
5

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, phải thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề: “tự học”.
- Tìm hiểu thực trạng vấn đề tự học hiện nay của học sinh.
- Phân tích nội dung cơ bản của đề tài: “Cảm ứng điện từ”.
- Biên soạn nội dung công việc tự học ở nhà của học sinh của đề tài:
“Cảm ứng điện từ”.
5. Giả thiết khoa học.
Nếu nội dung tự học ở nhà được giáo viên chủ động thiết kế có kế
hoạch, nếu đưa ra được quy trình hướng dẫn học sinh đọc SGK thì có khả
năng nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
6. Phương pháp nghiên cứu.

Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu trên, trong khi tiến hành làm luận
văn, tôi đã sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Nghiên cứu tài liệu về lý thuyết dạy học để tìm hiểu các quan điểm
dạy học hiện nay.
- Nghiên cứu chương trình SGK, SGV và các tài liệu tham khảo để xác
định nội dung cơ bản cấu trúc phần “Cảm ứng điện từ”.
- Điều tra thực tiễn vấn đề tự học nói chung, vấn đề từ học phần “Cảm
ứng điện từ” của học sinh lớp 11 THPT.
- Phân tích lý luận và thực tiễn, nghiên cứu chương trình SGK, SGV và
các tài liệu tham khảo để soạn thảo có hệ thống từng bài thuộc phần: “Cảm
ứng điện từ” Vật lý 11, SGK thí điểm - bộ thứ nhất.
7. Cấu trúc luận văn.
Lời cảm ơn
Mục lục
Phần mở đầu
6

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thiết kế nội dung tự học ở nhà cho học sinh khi nghiên cứu
đề tài “Cảm ứng điện từ” Vật lý11, SGK thí điểm - bộ thứ nhất.

7


GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

Chương 1: cơ sở lý luận của việc nghiên cứu
1. Một số quan niệm về vị trí tác dụng và nội dung hoạt động tự
học trong hệ thống các hình thức thiết kế dạy học ở trường phổ thông.
1.1. Quan niệm về tự học.
Giáo dục luôn đi theo con đường tiến hóa, từ số ít người được hưởng
rồi tăng lên, từ phổ cập bậc thấp, rồi từng bước lên bậc cao…Trong quá trình
tiến hoá đó của giáo dục “tự học” cũng dần được phát triển hoàn thiện: từ
quan niệm của Khổng Tử cho rằng: “Chỉ nên dạy 3 góc còn góc thứ 4, anh
phải tự tìm lấy” được phát triển thành phương pháp dạy học có hiệu quả và
đang được ứng dụng trong phạm vi toàn cầu.
Ngay từ những năm 60 của thế kỷ trước đã xuất hiện những mong
muốn hiện đại hóa, tích cực hoá, quá trình giáo dục: “Trong nhà trường điều
chủ yếu không phải là nhồi nhét cho học trò một mớ kiến thức hỗn độn tuy
rằng kiến thức là cần thiết. Điều chủ yếu là giáo dục cho học trò phương
pháp nghiên cứu, phương pháp học tập và phương pháp giải quyết vấn đề…”,
“ Dạy học phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự học, tự rèn
luyện cho học sinh”. Hoài bão khoa học cao quý đó đã hình thành một quá
trình thống nhất biện chứng: Quá trình dạy - tự học.
Vài năm gần đây, quá trình dạy - tự học từ một hoài bão khoa học đã
trở thành một thực thể thực nghiệm là kết quả nghiên cứu, ứng dụng, thử
nghiệm của công trình “ứng dụng phương pháp dạy học tích cực, lấy người
học làm trung tâm” thuộc chương trình 1 (Bộ GD - ĐT) từ năm 1993 -1998.
Tuy nhiên lý thuyết về tự học nói chung, về tự học môn vật lý nói riêng

cũng như việc triển khai - áp dụng các kết quả nghiên cứu trong tình hình
hiện nay còn chưa thoả đáng. Ngày nay nhìn chung mỗi người tự tìm tòi rút
8

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

kinh nghiệm, để xác định cho mình một phương pháp tự học riêng. Chúng ta
sẽ phân tích dưới đây một số quan điểm đó.
1.1.1. Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn.
“Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (
quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi cả cơ bắp ( khi phải sử
dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ tình cảm, cả
nhân sinh quan, thế giới quan… để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó
của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”.
Những nội dung cơ bản trong công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Cảnh Toàn thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
<1>. Cốt lõi của việc học là tự học. Hễ có học là có tự học vì không ai
có thể học hộ người khác.
<2>. Khi nói học là hàm ý xét đến mối quan hệ với ngoại lực tức là
dạy, còn khi nói tự học là chỉ nói riêng nội lực của người học: “Ngoại lực tác
dụng đến nội lực” như thế nào là thước đo chất lượng dạy. Tác động đó có thể
phát triển hoặc kìm hãm.
<3>. Muốn tự học cần phải có tài liệu, SGK. Khi đã có tài liệu, SGK
rồi việc tự học có thể diễn ra theo 3 cách:
- Tự học mà hiểu, mà thấm các kiến thức trong sách, qua việc hiểu mà

tự rút kinh nghiệm về tư duy, tự phê bình về tính cách (như kiên trì, thiếu tư
tưởng tiến công…) đó là tự học ở mức độ cao.
- Có thêm những ông thầy ở xa hướng dẫn, tự học bằng tài liệu hoặc
bằng các phương tiện thông tin viễn thông khác. Hướng dẫn tự học chủ yếu là
hướng dẫn về tư duy trong việc chiếm lĩnh kiến thức, đó là tự học có hướng
dẫn.
- Có sách và có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày, trong tuần. Đó là
học giáp mặt có hướng dẫn.
9

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

<4> Đối với học sinh, để tự học có kết quả cần có: “Nội dung hướng
dẫn tự học”.
1.1.2. Theo tác giả Nguyễn Đức Thâm.
“Dù bài giảng của giáo viên ở trên lớp có đạt hiệu quả cao kích thích
được tính tích cực và tự lực của học sinh thì vẫn phải coi trọng sự tổ chức
việc học tập ở nhà của học sinh về môn học của mình”.
Sở dĩ như vậy là do thời gian bài giảng và luyện tập ở trên lớp có hạn,
học sinh chưa kịp lĩnh hội sâu sắc kiến thức và vận dụng linh hoạt kiến thức.
Tự học ở nhà là lúc các em có đủ điều kiện nghiền ngẫm vấn đề theo một
phong cách riêng với một tốc độ thích hợp điều đó không những giúp các em
nắm được vấn đề một cách chắc chắn bền vững, bồi dưỡng phương pháp học
tập và kỹ năng vận dụng tri thức mà còn là dịp tốt để các em rèn luyện ý trí và
năng lực hoạt động sáng tạo. Do đó việc học tập ở nhà đòi hỏi học sinh phải

làm việc một cách có ý thức, tích cực ở mức độ cao hơn hẳn so với học tập ở
trên lớp có như thế học sinh mới có thể lĩnh hội sâu sắc kiến thức và vận dụng
kiến thức một cách linh hoạt. Giáo viên vật lý tổ chức được tốt việc học tập ở
nhà của học sinh vừa phát huy được bài giảng ở trên lớp, đồng thời chuẩn bị
cho học sinh tiếp thu tốt kiến thức ở bài giảng mới.
Nội dung công việc học tập ở nhà về môn vật lý theo tác giả bao gồm
các loại công việc theo trình tự sau:
<1>. Phục hồi các kiến thức vừa nghiên cứu tại lớp, đọc SGK, làm lại
những thí nghiệm cần thiết, bổ sung cách ghi chép, hình vẽ, đồ thị…
<2>. Giải bài tập, bắt đầu từ những bài tập có tính chất luyện tập rồi
đến những bài tập có tính sáng tạo, rèn luyện tư duy.
<3>. Ôn tập kiến thức cần cho bài học sắp tới.
<4>. Ôn tập thường xuyên trong một năm.
10

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

Theo tác giả khi xây dựng nội dung tự học ở nhà cho học sinh cần chú
ý một số nguyên tắc sau:
<1>. Công việc tự học ở nhà phải thích hợp với từng loại học sinh (học
sinh cá biệt, giỏi hoặc kém). Bao gồm các bài làm chung cho toàn lớp (phù
hợp với học sinh trung bình), các bài phụ dành cho học sinh kém để giúp đỡ
thêm điều kiện hoàn thành các bài làm chung, các bài bổ sung cho học sinh
khá để phát triển tài năng cho học sinh.
<2>. Trong những trường hợp cần thiết có thể có những hướng dẫn để

họ vượt qua được khó khăn sẽ gặp phải.
<3>. Nhất thiết phải kiểm tra thường xuyên việc thực hiện của học
sinh.
<4>. Nội dung phải phù hợp với lôgic của từng loại bài học, chống
được hiện tượng qua tải và độ khó, độ phức tạp tăng dần từ từ theo cấp học,
theo lớp học.
1.1.3. Phương pháp sư phạm tương tác (PPSPTT).
“PPSPTT” đặc biệt làm tăng giá trị các mối quan hệ tác động qua lại
giữa người dạy - người học - môi trường.
PPSPTT dựa trên ba nguyên lý cơ bản: người học - người thợ, người
dạy - người hướng dẫn, môi trường xung quanh và ảnh hưởng của nó.
PPSPTT khẳng định người học đóng vai trò quyết định của quá trình đào tạo,
chính người học là tác nhân đầu tiên thực hiện phương pháp học từ đầu cho
đến khi kết thúc quá trình học. Chính người học phải hoàn thành tác phẩm
học của mình và để làm được điều đó anh ta phải có đủ ba yếu tố: Sự hứng
thú, sự tham gia và có trách nhiêm. Tác giả đặc biệt quan tâm đến vấn đề tạo
ra hứng thú và khẳng định chính người dạy - người hướng dẫn hoạt động có
trách nhiệm sử dụng: “Phương pháp sư phạm hứng thú” để tạo ra hứng thú
11

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

cho người học. Phương pháp sư phạm hứng thú cho người học về cơ bản gồm
hai giai đoạn:
- Người dạy làm cho người học ý thức cần học, họ phải thấy rằng mình

đang thực sự thiếu tri thức.
- Người dạy phải thiết lập được mối quan hệ tương đồng giữa người
học và đối tượng đến mức nó khởi động ở người học một sự hứng thú thực sự,
anh ta trở thành bên nhận của đối tượng học.
Từ các nghiên cứu trên chúng tôi đưa ra các kết luận quan trọng là cơ
sở lý luận để xây dựng nội dung tự học:
KL1: Việc tự học, tự đọc SGK là việc rất khó khăn đặc biệt đối với học
sinh các lớp dưới.
KL2: Tự học là việc học tập tự điều khiển và tự lập đòi hỏi phải có sự
sử dụng khéo léo về lý luận dạy học.
KL3: Người dạy phải là người thiết kế chương trình, nội dung tự học
cho người học.
KL4: Tạo hứng thú cho người học là khâu then chốt trong quá trình tự
học.
KL5: Phải thiết lập được mối quan hệ tương đồng giữa người học và
đối tượng học đến mức mà nó khởi động ở người học một sự hứng thú thực
sự, anh ta trở thành bên nhận của đối tượng học.
1.2. Các quan niệm hiện đại về dạy học.
1.2.1.Quan niệm về dạy học theo lý thuyết hoạt động
Trong hoạt động dạy học giáo viên thực sự là chủ thể của hoạt động
dạy, muốn vậy phải tích cực, say mê, hướng vào đối tượng, tìm tòi, suy nghĩ
sáng tạo để thực hiện những nhiệm vụ dạy của mình đạt hiệu quả tối ưu.
12

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý


Trong hoạt động, học sinh chỉ trở thành chủ thể thực sự khi học sinh
say sưa, hướng vào đối tượng (môn học, bài học…) nhằm tích cực hoạt động
chiếm lĩnh lấy đối tượng đó. Đối tượng của hoạt động học chính là môn học,
bài học, kỹ năng, kỹ xảo, những giá trị mà học sinh cần lĩnh hội để phát triển
hoàn thiện chính bản thân mình.
Theo lý thuyết hoạt động, hoạt động học bao gồm nhiều thành phần có
quan hệ tác động lẫn nhau được biểu thị bằng sơ đồ sau:

13

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

Chủ thể

Đối tượng

Động cơ

Hoạt động

Mục đích

Hành động


Phương tiện

Thao tác

điều kiện
Hoạt động của chủ thể tồn tại tương ứng với động cơ thúc đẩy hoạt
động đó. Hoạt động có đối tượng cấu thành từ các hành động. Hành động
gồm các thao tác, ứng với mỗi thao tác trong những điều kiện cụ thể là những
phương tiện, công cụ thích hợp.
+ Động cơ học tập: Là mục tiêu lớn, lâu dài của quá trình dạy học nó
được hình thành củng cố và phát triển có hiệu quả bền vững do sự kích thích
bên trong bằng mâu thuẫn giữa nhiệm vụ mới cần được giải quyết và khả
năng hạn chế hiện có của học sinh, cần có sự cố gắng vươn lên tìm kiếm một
giải pháp mới xây dựng một kiến thức mới: “Động cơ tự hoàn thiện bản thân
mình” nhờ đó sẽ tạo ra thói quen lòng ham thích hoạt động, hoạt động một
cách tự giác tích cực và có hiệu quả.
+ Mục đích của hoạt động: Là mục tiêu cụ thể có thể đạt được trong
từng giai đoạn của quá trình dạy học và có thể kiểm tra được ở mỗi giai đoạn.

14

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

+ Muốn đạt được mục đích thì phải thực hiện một số hành động. Sau
đây là một số hành động phổ biến trong hoạt động vật lý của học sinh ở

trường phổ thông:
<1>. Quan sát nhận biết những dấu hiệu đặc trưng của sự vật hiện
tượng.
<2>. Phân tích một số hiện tượng phức tạp ra thành hiện tượng đơn
giản.
<3>. Xác định những giai đoạn diễn biến của hiện tượng.
<4>. Bố trí một thí nghiệm để tạo ra hiện tượng trong những điều kiện
xác định.
<5>. Đo lường một đại lượng vật lý.
<6>. Tìm mối quan hệ hàm số giữa các đại lượng vật lý, biểu diễn bằng
công cụ toán học.
<7>. Xây dựng một giả thiết.
<8>. Lập phương án thí nghiệm để kiểm tra một giả thiết.
<9>. Diễn đạt bằng lời những kết quả thu được.
<10>. Từ giả thiết suy ra một hệ quả.
+ Muốn thực hiện một mục đích cần phải có phương tiện, điều kiện cần
thiết; phương tiện bao gồm: phương tiện vật chất và phương tiện tư duy.
Để sử dụng các phương tiện đó có hiệu quả phải tiến hành các thao tác
trên phương tiện, gồm thao tác chân tay và thao tác tư duy.
Lý thuyết hoạt động là một trong những cơ sở tâm lý hiện đại của việc
nghiên cứu dạy học. Lý thuyết đó coi học sinh là chủ thể trong mọi hoạt động,
giáo viên cần phải xây dựng, triển khai nội dung hoạt động, hành động học
tập của học sinh đáp ứng yêu cầu của mục tiêu dạy học.
1.2.2. Bản chất của hoạt động dạy vật lý
15

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp


SVTH: Phạm Thị Thuý

Theo quan điểm hiện đại, dạy học vật lý là tổ chức, hướng dẫn cho học
sinh thực hiện các hành động nhận thức vật lý để họ tái tạo được kiến thức,
kinh nghiệm xã hội đồng thời làm biến đồi bản thân học sinh, hình thành và
phát triển những phẩm chất năng lực của họ.
Hoạt động dạy vật lý là một loại hoạt động có mục đích người giáo
viên muốn làm tốt hoạt động này phải thực hiện đầy đủ các thành phần cấu
trúc của một hoạt động.
+ Động cơ dạy học: Mỗi giáo viên phải tự xây dựng cho mình một
động cơ đúng đắn. Dạy học là một loại hoạt động tác động vào con người có
lý trí và tình cảm, vì vậy động cơ dạy học phải có tính nhân văn, có lòng yêu
thương học sinh, mong muốn cho các em tiến bộ với tất cả những tính cách đa
dạng, phức tạp của các em.
+ Mục đích dạy học: Mục đích dạy học ngày nay đang chuyển dần từ
“truyền thụ kiến thức có sẵn, hoàn chỉnh” cho học sinh sang bồi dưỡng năng
lực, đặc biệt là năng lực sáng tạo. Với mục đích đó thì hành động của giáo
viên không thể là hành động giảng giải, minh hoạ, truyền thụ một chiều.
Hoạt động dạy ngày nay phải là hoạt động khơi dậy của học sinh tính
tích cực, tự lực. Dạy học là dạy học sinh tự lực hoạt động dưới đây là một số
hành động chủ yếu của giáo viên trong giờ dạy học Vật lý:
<1>. Xây dựng tình huống có vấn đề, tạo ra mâu thuẫn nhận thức, gợi
động cơ hứng thú tìm cái mới kích thích học sinh tự giác, tích cực hoạt động.
<2>. Lựa chọn một lôgic nội dung bài học thích hợp để tạo điều kiện
cho học sinh có thể giải quyết thành công nhiệm vụ được giao, phải đặt học
sinh vào vị trí chủ thể hoạt động nhận thức.
<3>. Rèn luyện cho học sinh một số thao tác cơ bản, một số hành động
nhận thức phổ biến.
16


GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

<4>. Cho học sinh làm quen với các phương thức được sử dụng rộng
rãi trong hoạt động nhận thức vật lý: Phương pháp thực nghiệm và phương
pháp mô hình.
<5>. Hướng dẫn tạo điều kiện để học sinh phát biểu trao đổi tranh luận
về các kết quả hành động của mình, động viên khuyến khích kịp thời
<6>. Lựa chọn và cung cấp cho học sinh những phương tiện, công cụ
cần thiết để thực hiện các hành động, gồm các phương tiện vật chất và các
phương tiện tinh thần.
1.3. Lý thuyết vùng phát triển gần của Vưgôtxki.
Vấn đề dạy học và sự phát triển trí tuệ trong lứa tuổi học sinh đã được
Vưgôtxki giải quyết một cách độc đáo và có hiệu quả dựa trên lý thuyết về:
“Vùng phát triển gần” do ông đề xuất, theo Vưgôtxki: “Chỗ trẻ em có khả
năng thực hiện với sự giúp đỡ của người lớn - Đó chính là vùng phát triển
gần của trẻ ”.
“Chúng ta không ngần ngại khẳng định rằng dấu hiệu bản chất của bài
học tạo ra vùng phát triển gần nhất, tức là khêu gợi sức sống của trẻ và đưa
vào hoạt động hàng loạt các quá trình phát triển bên trong”.
Vùng phát triển gần đó là khoảng cách giữa trình độ phát triển hiện tại
được xác định bằng trình độ độc lập giải quyết các vấn đề và trình độ gần nhất
mà các em có thể đạt được với sự giúp đỡ của người lớn hay bạn hữu khi giải
quyết vấn đề. Nói một cách khác vùng phát triển gần là khoảng trống giữa nơi
mà một người đang đứng khi giải quyết vấn đề với nơi mà người đó cần đến

sự giúp đỡ của người khác. Đối với giáo viên thì điều nói trên nghĩa là phát
triển nhận thức xảy ra tốt nhất khi học sinh phải đi qua vùng phát triển gần
thông qua việc tranh luận với bạn bè đồng lứa hoặc người lớn tuổi. Học
thuyết về vùng phát triển gần có ý nghĩa to lớn: Chỉ có sự dạy học đi trước sự
phát triển mới là sự dạy học tốt. Sự dạy học có tổ chức đúng đắn sẽ dẫn đến
17

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

sự phát triển trí tuệ cao, làm cho một loạt các quá trình phát triển sống động
lên mà đứng ngoài dạy học không thể làm được.
Những vấn đề lý luận về sự phát triển trí tuệ của học sinh nói trên đều
dẫn tới một chiến lược dạy học mới: Dạy học bằng hoạt động, thông qua hoạt
động của học sinh. Học sinh bằng hoạt động tích cực, tự lực mà chiếm lĩnh
kiến thức hình thành kỹ năng, phát triển năng lực sáng tạo, bồi dưỡng tình
cảm thái độ cho mình.
1.4. Thực trạng về công việc tự học môn vật lý ở trường phổ thông hiện nay.
Để có những kết luận mang tính phổ biến đúng đắn thực trạng về vấn
đề tự học môn vật lý, chúng tôi đã tiến hành điều tra, thăm dò, khảo sát ở lớp
11A1, 11A2, Trường THPT Nguyễn Viết Xuân - huyện Vĩnh Tường. Từ
những kết quả thu được của chúng tôi và những kết quả đã công bố của tác
giả Tạ Tri Phương ( Đề tài nghiên cứu cấp bộ – mã số B 2004-41-38) có thể
đưa ra một số nhận định sau đây.
1.4.1. Quan niệm của giáo viên.
- Phần lớn giáo viên (60%) cho rằng việc tự học ở nhà là hoạt động bắt

buộc và chủ yếu là công việc của học sinh nhằm mục đích khắc sâu kiến thức
bài học trên lớp và rèn luyện các kỹ năng cần thiết. Các câu hỏi và bài tập
trong SGK là những nội dung tối thiểu bắt buộc học sinh phải thực hiện. Vai
trò của giáo viên là kiểm tra, đánh giá công việc tự học của học sinh thông
qua việc kiểm tra đầu giờ, kiểm tra viết. Tuy nhiên trong số giáo viên chỉ có
20% tổ chức việc đánh giá, kiểm tra thường xuyên.
- Một số giáo viên (20%) cho rằng vì nội dung kiến thức trong một bài
học của SGK hiện hành là rất lớn nên chỉ chú trọng tới phần bài giảng ở trên
lớp và dành thời gian cho những kiến thức trọng tâm của bài học nên đã
chuyển một phần của bài lên lớp thành hoạt động ở nhà của học sinh. Các
18

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

giáo viên này cũng thường xuyên yêu cầu học sinh giải nhiều bài toán nâng
cao, phức tạp.
- 30% số giáo viên cho rằng công việc ở nhà là công việc của cả giáo
viên và học sinh; 20% quan niệm đây là công việc của học sinh. Khoảng 50%
số giáo viên không thể hiện quan điểm. Như vậy phần lớn giáo viên phổ
thông hiện nay chưa coi trọng công việc tự học của học sinh.
- 80% số giáo viên chưa dạy học sinh đọc SGK và tài liệu tham khảo
(kết luận này được xuất hiện thông qua các phiếu thăm dò với học sinh)
1.4.2. Quan niệm của học sinh.
- Học sinh quan niệm hoạt động tự học gồm trả lời các câu hỏi, làm các
bài tập theo yêu cầu của thầy.

- Chỉ có 50% học sinh thường xuyên đọc SGK, so sánh bài giảng của
thầy và chỉ sau khi đó mới thực hiện các bài toán.
- 50% học sinh chỉ đọc các định nghĩa, định luật, công thức và chủ yếu
đọc để hiểu cách làm bài tập.
1.4.3. Thực trạng nội dung hoạt động tự học.
Thực tế giáo viên coi nội dung tự học ở nhà là những câu hỏi, những
bài tập trong SGK, sách bài tập mà học sinh phải thực hiện. Một số giáo viên,
đặc biệt là giáo viên trẻ, nhiệt tình thường yêu cầu học sinh làm thêm một số
bài nâng cao, phức tạp. Phân tích nội dung này có thể đưa ra một số nhận xét
sau đây:
- Trong các câu hỏi đưa ra để học sinh tự kiểm tra kiến thức, thiếu
những câu hỏi để học sinh thấy được mối quan hệ lôgic giữa các khái niệm,
các yếu tố hình thành khái niệm cũng như giữa các đại lượng của định luật.
Các câu hỏi trong SGK chỉ đạt được mục đích để học sinh học thuộc lòng các
khái niệm hoặc định luật, ví dụ: Phát biểu định luật Lenxơ, nêu định nghĩa hệ
số tự cảm,…
19

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

- Các bài tập định tính và định lượng chưa đáp ứng được hoạt động
nhận thức của học sinh ở nhiều trình độ khác nhau, chủ yếu ở trình độ tái hiện
kiến thức, vận dụng kiến thức theo mẫu, áp dụng kiến thức vào tình huống
đơn giản, quen thuộc. Hiện tượng này khá phổ biến ở cả SGK vật lý đại trà và
SGK dùng cho ban KHTN. Trong khi đó trong các tài liệu tham khảo không

chính thống lại trình bày các vấn đề mang tính nâng cao. Đối với nhiều học
sinh ham học, các em thường sử dụng tài liệu tham khảo và tham gia các buổi
học thêm do không chấp nhận việc học tập quá “nhẹ nhàng” theo nội dung
SGK. Đây cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng quá tải.
- Các bài tập trong SGK rất đơn điệu, rất ít bài liên quan tới thí nghiệm,
giải thích hiện tượng vật lý, dù là đơn giản và học sinh hoàn toàn có khả năng
thực hiện trong điều kiện ở nhà.

20

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

Kết luận chương 1
1. Phân tích các quan điểm hiện đại của các tác giả trong và ngoài nước
có thể đưa ra sự so sánh phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp
dạy học tích cực như sau:
Dạy học truyền thống

Dạy học tích cực

1. Cung cấp sự kiện, nhớ tốt, học
thuộc
2. Giáo viên là nguồn kiến thức
duy nhất.


1. Cung cấp kiến thức cơ bản có chọn
lọc.
2. Ngoài kiến thức học ở lớp còn có
nhiều kiến thức khác: bạn bè, phương
tiện thông tin đại chúng.
3. Học sinh làm việc một mình
3. Tự học kết hợp với nhóm tổ và sự
giúp đỡ của thầy.
4. Dạy thành từng bài riêng biệt.
4. Hệ thống bài học.
5. Coi trọng trí nhớ
5. Coi trọng độ sâu của kiến thức
không chỉ nhớ mà suy nghĩ, đặt ra
nhiều vấn đề mới.
6. Ghi chép tóm tắt
6. Làm sơ đồ mô hình, làm bộc lộ cấu
trúc bài học, giúp học sinh dễ nhớ và
vận dụng.
7. Chỉ dừng lại ở câu hỏi và bài 7. Thực hành nêu ý kiến riêng.
tập
8. Lý thuyết kết hợp với thực hành,
8. Không gắn lý thuyết với thực vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
hành
9. Cổ vũ cho học sinh tìm tòi, bổ sung
9. Dùng thời gian học tập để nắm kiến thức từ việc nghiên cứu lý luận và
kiến thức do thày truyền thụ
từ những bài học kinh nghiệm rút ra từ
thực tiễn.
10. Nguồn kiến thức rộng lớn.
10. Nguồn kiến thức hạn hẹp


21

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

Trong chu trình học mới xuất hiện từ “phương pháp dạy học tích cực”,
vấn đề tự học trở nên vô cùng quan trọng: Người học khai phá, tự nghiên cứu,
người học trả lời, tự thể hiện, tự hành động kiểm tra.
2. Sự học dù dưới dạng nào, tại trường lớp hoặc trường lớp, có thầy
hướng dẫn hoặc không có thầy hướng dẫn, có sự hỗ trợ của các phương tiện
kỹ thuật, của công nghệ thông tin hoặc chưa có đều phải là sự tự học, là sự
chiếm lĩnh những thái độ và năng lực, những kỹ năng, kiến thức nói chung là
chiếm lĩnh những giá trị hoạt động học hành đích thực của mình không phải
với thái độ máy móc, thụ động của “người tiêu thụ kiến thức” mà là với thái
độ phân tích, tìm tòi chân lý, rất chủ động của “người sản xuất kiến thức”.
3. Tổ chức hoạt động của học sinh là một quá trình liên tục và lâu dài. Tự
học của học sinh chỉ có thể phát triển khi có ý thức thực hiện thường xuyên ở
mọi môn học, mọi cấp học với những phương pháp và biện pháp thích hợp.
Để giải quyết nhiệm vụ của luận văn chúng tôi quan tâm đến những vấn đề
sau:
- Để học sinh tích cực tham gia tự học, cần xây dựng một hệ thống nội
dung tự học phải phù hợp với học sinh, tự chiếm lĩnh được kiến thức một
cách tự chủ, tích cực.
- Để việc tổ chức hoạt động tự học của học sinh có hiệu quả đảm bảo cho
học sinh không những nắm chắc kiến thức một cách sâu sắc mà thông qua đó

trí tuệ của học sinh được rèn luyện tư duy cũng được phát triển thì cần tổ chức
hoạt động tự học phải phù hợp với lôgic xây dựng tri thức và xây dựng hệ
thống câu hỏi định hướng hành động của học sinh đáp ứng những đòi hỏi của
phương pháp khoa học.

22

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

Chương 2: Thiết kế nội dung tự học ở nhà của học sinh khi nghiên cứu đề
tài “ cảm ứng điện từ”,
Vật lý 11, SGK thí điểm- bộ thứ nhất
1.Một số đặc điểm yêu cầu của CT VLPT.
1.1. Những đặc điểm mới về mục tiêu.
Ngoài những mục tiêu cơ bản của GDTHPT như: Phát triển kết quả
của THCS hoàn thiện học vấn phổ thông, cơ bản về trình độ tú tài về vật lý,
cần thiết để đi vào các ngành khoa học và hoà nhập được với cuộc sống trong
một xã hội hiện đại, CT THPT mới phải đáp ứng những mục tiêu rất cao của
GD THPT trong thời kỳ CNH - HĐH. Các yêu cầu này được thể hiện cụ thể
trong quy định tạm thời về mục tiêu và kế hoạch dạy học của trường THPT số
04/2002/QĐ - BGD & ĐT. Đặc biệt là những yêu cầu và kỹ năng: Kỹ năng
thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin, khả năng thực hành sử dụng dụng cụ
đo lường vật lý đơn giản, lắp ráp các thí nghiệm vật lý đơn giản, khả năng đề
xuất dự đoán khoa học và phương án kiểm tra.
1.2. Về phương pháp.

1.2.1. Về kiến thức.
Nhìn chung mức độ yêu cầu kiến thức của CT VL THPT mới ban
KHTN là ngang với CT VL THPT trong cải cách giáo dục. Đạt được một hệ
thống kiến thức VLPT cơ bản và phù hợp với những quan điểm hiện đại.
Một mặt chương trình mới tránh hết sức đi vào những chi tiết có tính
hàn lâm, các chi tiết của công nghệ, ít được sử dụng trong thực tế và nhất là
vượt quá yêu cầu học vấn phổ thông, ví dụ: Sự phóng điện thành miền, từ
trường trong ống dây có chiều dài hữu hạn,… Mặt khác mạnh dạn đưa vào
chương trình một số ứng dụng quan trọng của vật lý trong KH&KT hiện đại
như: Các linh kiện bán dẫn và vi điện tử…. Về nội dung thí nghiệm; chương
23

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

trình đưa ra yêu cầu phấn đấu sử dụng: Đệm không khí, các máy đo điện tử
số,… cũng làm quen với các phương pháp đo vật lý hiện đại như: Phương
pháp hoạt nghiệm, phương pháp dòng liên tục…
Điểm đáng chú ý nhất là SGK thí điểm đã đưa vào phần quang hình
ngay đầu chương trình lớp 11, giúp học sinh giải thích được nhiều hiện tượng
thường gặp trong cuộc sống có liên quan đến ánh sáng bằng việc áp dụng các
định luật cơ bản của quang hình học, đồng thời giúp học sinh hiểu được
nguyên tắc cấu tạo của một số dụng cụ quang học như: kính hiển vi, kính
thiên văn…, cách khắc phục các tật của mắt như: cận thị, viễn thị mà không
phải đợi tới lớp 12.
1.2.2. Về kỹ năng.

So với chương trình hiện hành các yêu cầu về kỹ năng của chương
trình mới lại cao hơn hẳn ngoài ba kỹ năng: Vận dụng kiến thức để giải quyết
các hiện tượng vật lý đơn giản, kỹ năng giải các bài tập vật lý đơn giản, kỹ
năng thực hành vật lý, trong chương trình mới còn có yêu cầu rèn luyện các
kỹ năng rèn luyện các kỹ năng tiến trình khoa học đó là các kỹ năng: Thu
thập, xử lý thông tin và truyền đạt thông tin. Ngay trên ghế nhà trường cần tạo
cho học sinh thói quen dùng những hiểu biết của mình để giải quyết những
vấn đề của cuộc sống.
Cùng với những thay đổi về nội dung, PPGD các kiến thức trong
chương trình mới cũng có nhiều thay đổi, đó là phương pháp lấy học sinh làm
trung tâm được áp dụng triệt để, giáo viên có vai trò là người tổ chức điều
khiển hoạt động nhận thức của học sinh. SGK mới không trình bày kiến thức
cần trang bị cho học sinh dưới dạng đầy đủ, rõ ràng, như SGK truyền thống.
Chính vì thế mà chương trình mới đã chú ý hơn về cách nhận thức cho học
sinh quan sát, làm, phân tích kết quả thí nghiệm, đồng thời phát huy tính tự
lực, sáng tạo, độc lập, tự chủ và tích cực trong các hoạt động trí tuệ của các
24

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


Khoá luận tốt nghiệp

SVTH: Phạm Thị Thuý

em chuyển từ phương pháp thông báo tiếp nhận sang phương pháp giải quyết
vấn đề…
Về thí nghiệm thực hành, tính đến khả năng thực hiện của các trường
THPT, chương trình chỉ đề ra yêu cầu dành từ 8% đến 10% thời gian học tập
vật lý để làm thí nghiệm, thực hành vật lý. Về thí nghiệm chứng minh và thí

nghiệm đồng loạt cho học sinh thực hiện ngay trong tiết học lý thuyết, chương
trình đề ra mức phấn đấu trước mắt khoảng 30% số tiết học vật lý có thí
nghiệm và đến 2010 tỉ lệ đó là 50%, tỉ lệ tiết bài tập chiếm khoảng 22% số
tiết học, tỉ lệ các tiết ôn và kiểm tra chiếm khoảng 9% số tiết học, như vậy
chương trình dành khoảng 30% số tiết học vào việc luyện tập ôn tập củng cố
và kiểm tra.
1.2.3. Về thái độ tình cảm tác phong.
CT VL THPT mới nhấn mạnh trước hết đến việc tạo hứng thú học tập
vật lý môn vật lý ở học sinh ban KHTN và việc làm cho học sinh ban KHXH
& NV không ngại học môn vật lý.
Chương trình cũng chú ý đặc biệt đến yêu cầu rèn luyện cho học sinh ý
thức sẵn sàng áp dụng những hiểu biết vật lý vào đời sống nhằm cải thiện điều
kiện sống, học tâp cũng như để bảo vệ và giữ gìn môi trường sống tự nhiên.
2. Những đặc điểm về nội dung, phương pháp trình bày tài liệu đề tài:
“Cảm ứng điện từ ” - SGK thí điểm vật lý 11.
Trong SGK hiện hành và SGK thí điểm đề tài : “Cảm ứng điện từ” đều
được nghiên cứu trong một chương với 6 tiết học. Phân tích nội dung kiến
thức và phương pháp trình bày tài liệu trong 2 SGK trên, sơ bộ chúng tôi đưa
ra một số nhận định sau đây:
Nội dung kiến thức trong hai tài liệu là tương đương nhau: Bao gồm
những vấn đề quan trọng về cảm ứng điện từ: Hiện tượng cảm ứng điện từ,
hiện tượng tự cảm, dòng điện cảm ứng, suất điện động cảm ứng… tuy nhiên
25

GVHD: PGS- TS Tạ Tri Phương


×