Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

ảnh hưởng của nhân sinh quan lão trang trong thơ nguyễn bỉnh khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.22 KB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Tuyết Đào

ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN
LÃO - TRANG TRONG THƠ
NGUYỄN BỈNH KHIÊM

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Tuyết Đào

ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN
LÃO - TRANG TRONG THƠ
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN KIM CHÂU


Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian đầu tư thực hiện, luận văn “Ảnh hưởng nhân sinh quan
của Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh khiêm” đã được hoàn thành đúng thời
hạn. Đó là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc với sự hỗ trợ nhiều mặt từ
phía nhà trường, quý thầy cô cùng bạn bè, đồng nghiệp. Dù rất cố gắng nhưng luận
văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được ý kiến
đóng góp, đề xuất để công trình nghiên cứu của chúng tôi hoàn thiện hơn.
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sĩ
Nguyễn Kim Châu - người đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài luận văn nói trên. Sự
quan tâm, hướng dẫn, chỉ bảo tận tâm của Thầy đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt
thời gian thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến phòng Sau đại học trường Đại học sư phạm
TP. HCM, các giảng viên cùng cán bộ thư viện trường Đại học Sư phạm TP. HCM
đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho học viên cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam
khóa 21 chúng tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn tại trường.
Sau cùng, tôi xin được cảm ơn những người thân trong gia đình, những
người bạn, những người đồng nghiệp đã luôn động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi
trong cả quá trình học tập và nghiên cứu luận văn.
Nguyễn Thị Tuyết Đào


MỤC LỤC

A. DẪN NHẬP ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .....................................................................................................2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................6
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................7
6. Kết cấu của luận văn ...........................................................................................7
B. NỘI DUNG ............................................................................................................ 9
Chương 1. Khái quát về tư tưởng Lão – Trang và tác giả, tác phẩm Nguyễn
Bỉnh Khiêm ................................................................................................................9
1.1. Tác giả, tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm...........................................................9
1.1.1. Tác giả ......................................................................................................9
1.1.2. Tác phẩm ................................................................................................12
1.2. Lão Tử và Đạo Đức Kinh, Trang Tử và Nam Hoa Kinh ...............................14
1.2.1. Lão Tử và Đạo Đức Kinh .......................................................................14
1.2.1.1. Lão Tử ...........................................................................................14
1.2.1.2. Đạo Đức Kinh ...............................................................................14
1.2.2. Trang Tử và Nam Hoa Kinh ...................................................................14
1.2.2.1. Trang Tử .......................................................................................14
1.2.2.2. Nam Hoa Kinh ..............................................................................15
1.3. Hành trình du nhập của tư tưởng Lão - Trang vào Việt Nam .......................15
1.4. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học Việt Nam trước thế kỷ XVI.17
1.4.1. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ X - XIV ....17
1.4.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ XV - XVI .23
Chương 2. Những biển hiện nhân sinh quan của Lão - Trang trong thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm ..............................................................................................................27


2.1. Biết dừng lại, quay về với cuộc sống ẩn dật, thanh cao - một biểu hiện của
tinh thần tri túc, cầu nhàn. .........................................................................................27
2.1.1. Tri túc, cầu nhàn - một vấn đề cơ bản trong tư tưởng Lão - Trang ........27
2.1.2. Nhàn - cách ứng xử thức thời và chủ động của Nguyễn Bỉnh Khiêm ...28
2.1.3. Nhàn - Sự tâm đắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm khi chọn được lẽ sống theo

ý mình ....................................................................................................37
2.2. Hòa hợp, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng quê - một biểu hiện của
tinh thần vô vi, tiêu dao .............................................................................................44
2.2.1. Tinh thần vô vi, tiêu dao của Lão - Trang ..............................................44
2.2.2. Niềm hạnh phúc, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng quê trong
thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm........................................................................47
2.3. Xem công danh như áng phù vân - một biểu hiện của quan niệm “đời là
giấc mộng” ...................................................................................................64
2.3.1. Quan niệm đời là giấc mộng của Trang Tử ............................................64
2.3.2. Giấc mộng công danh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ...........................66
2.3.3. Sự biến đổi thăng trầm nhanh chóng của vinh và nhục - hệ quả của
được và mất trên đường công danh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm .....71
Chương 3. Tương quan Nho – Phật – Đạo và những yếu tố nhân sinh quan tích
cực trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ........................................................................79
3.1. Tương quan Nho học và Đạo học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ................79
3.1.1. Cách ứng xử vừa hợp với tư tưởng Nho gia vừa hợp với tư tưởng Đạo gia 79
3.1.2. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần Nho sĩ vẫn lấn át phần ẩn sĩ ......83
3.2. Tương quan Phật học và Đạo học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm...............91
3.2.1. Cách ứng xử vừa hợp với tư tưởng Đạo vừa hợp với tư tưởng Thiền ..91
3.2.2. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần Nho sĩ, ẩn sĩ vẫn đậm nét hơn
phần cư sĩ ...............................................................................................96
C. KẾT LUẬN .......................................................................................................100
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................102


1

A. DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Văn học trung đại Việt Nam gắn liền với những tên tuổi không bao giờ bị lãng

quên như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Hồ Xuân
Hương, Bà Huyện Thanh Quan… Và thật thiếu sót nếu không nhắc đến Nguyễn
Bỉnh Khiêm, nhà thơ tiêu biểu của văn học thế kỉ XVI - một nhà nho, một vị quan
trong sạch, ngay thẳng, một ẩn sĩ. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là
một trong những chiếc cầu nối giữa hai thời đại văn học - thời đại Nguyễn Trãi
trước đó và thời đại Nguyễn Du sau này.
Quá trình hành - tàng, xuất - xử của nhà thơ này rất phức tạp, liên quan đến
nhiều biến động lịch sử. Tài năng bản lĩnh nhưng ông giấu mình suốt khoảng thời
trai trẻ vì bất mãn trước thời cuộc, thực hiện lối sống ẩn nhẫn đợi thời của một
người ẩn sĩ với những thú vui tao nhã: uống rượu, ngâm thơ, ngao du ở bên sông.
Mãi đến năm 45 tuổi, xét thấy tình hình chính trị xã hội ổn định Nguyễn Bỉnh
Khiêm mới bắt đầu con đường hành đạo, quyết định ra làm quan cho nhà Mạc với
mong muốn thực hiện lí tưởng “kinh bang tế thế” của mình. Gần 8 năm tại vị, dốc
hết lòng vì chúa, chứng kiến nhiều cảnh trái tai, gai mắt nhưng không can gián
được. Bất mãn ông trí sĩ xin về quê ở ẩn, náu thú sơn lâm, sống nhàn hạ đến cuối
đời.
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng theo dòng mà biến đổi như cuộc đời nhà thơ
vậy. Đó là tiếng nói của một con người tích cực nhập thế, hành đạo giúp đời, lắm
lúc là tiếng nói của một con người đã nắm vững mọi quy luật của cuộc sống, nhận
thấy đời người vô thường với kiếp sống ngắn ngủi, có đó rồi lại mất đó nên chọn
giải pháp lui về quê “lánh đục tìm trong”. Rõ ràng, thơ ông là một sự kết hợp tuyệt
vời của ba luồng tư tưởng Nho - Phật - Đạo. Sự chi phối các luồng tư tưởng này
trong thơ ông ở mức độ không đều nhau: lúc đậm, lúc nhạt. Tuy nhiên bước đầu
khảo sát thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi nhận thấy sự xuất hiện liên tục những
từ “nhàn, tiên, vô sự,” - biểu thị một lối sống phiêu diêu, tự tại đối lập hoàn toàn với
thực tế xã hội mục ruỗng, thối nát đương thời .


2


Từ bỏ chốn quan trường trở về với cuộc sống ẩn dật, ông đã xây dựng rất sớm
cho mình một quan niệm sống nhàn, lánh xa danh lợi, tìm niềm vui trong sự gắn bó
với thiên nhiên, và nhất là biết thuận theo quy luật của tạo hóa theo đúng tinh thần
Lão - Trang. Tuy nhiên, vẫn cần phải khẳng định rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm thân
nhàn nhưng tâm không nhàn, lui về quê sống ẩn dật nhưng lòng lúc nào cũng lo
nước thương dân. Nói cách khác, trong thơ ông, lý tưởng Nho gia vẫn chiếm một
phần quan trọng. Vấn đề đặt ra là trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần ảnh hưởng
của nhân sinh quan Lão - Trang hay của Nho giáo quan trọng hơn, đậm đặc hơn và
sự lựa chọn, dung hòa giữa các hệ tư tưởng đó có ý nghĩa gì đối với quan niệm
sống, cách ứng xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm? Đó là những vấn đề cần được khảo sát
cụ thể để tìm lời giải đáp thỏa đáng.
Mặt khác, hiện nay thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được đưa vào giảng dạy trong
chương trình Trung Học Phổ Thông. Là một giáo viên, tôi nhận thấy những kiến
thức chuyên sâu liên quan đến tư tưởng, tình cảm của tác giả sẽ là nền tảng quan
trọng giúp tôi hiểu sâu hơn, giảng dạy tốt hơn tác phẩm văn học trung đại nói chung
và tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng.
Với những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Ảnh hưởng nhân sinh quan
của Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm” để thực hiện luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Từ trước đến nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về cuộc đời và
tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Mỗi công trình có những góc nhìn riêng, những phát
hiện mới nhằm khẳng định giá trị và đóng góp của tác giả vào tiến trình phát triển
văn học. Trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu về nhà thơ này, người viết đã thu thập
một số công trình, bài viết tiêu biểu sau:
Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm - Trần Thị Băng Thanh, Vũ
Thanh tuyển chọn và giới thiệu: Đây là công trình quy tụ 67 bài viết tập trung
nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm ở nhiều phương diện. Trong đó phần thứ nhất tập
trung làm rõ thời đại ông sống, tư tưởng chính trị xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm



3

qua thơ văn: “Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa thế kỉ XVI đầy biến động”. Phần thứ hai
phác họa diện mạo tư tưởng nhà thơ với tư cách là ẩn sĩ, nho sĩ, cư sĩ: “Triết nhân
Nguyễn Bỉnh Khiêm - tư tưởng và nhân cách”. Phần thứ ba nêu những vấn đề chung
về sự nghiệp văn học, những thành tựu trong thơ văn chữ Hán và chữ Nôm của nhà
thơ: “Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ”. Phần thứ tư nhấn mạnh vị trí của nhà thơ trong
lòng dân tộc xưa và nay.
Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc - Viện khoa
học và xã hội - Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm: Công trình này tập hợp 28 bài
viết đi sâu khai thác hoàn cảnh lịch sử, thân thế, tư tưởng và thơ văn… của Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Trong đó đáng chú ý là những bài viết ở phần thứ hai, các nhà nghiên
cứu đã đi sâu khai thác được vẻ đẹp tài hoa và nhân cách tuyệt vời của Bạch Vân cư
sĩ.
Thơ Văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Đinh Gia Khánh (chủ biên): Đây là bộ hợp
tuyển giới thiệu 161 bài thơ Nôm và gần 100 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh
Khiêm cùng với lời giới thiệu của tác giả Đinh Gia Khánh. Nội dung xoay quanh
vấn đề văn bản, giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập - Nguyễn Khuê: Đây là công
trình khá công phu gồm bốn phần, với các vấn đề lớn sau: hoàn cảnh lịch sử, cuộc
đời, tác phẩm Hán Nôm của nhà thơ; khai thác sâu thế giới tình cảm và tư tưởng của
Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ; xác định giá trị nội dung và nghệ thuật của Bạch Vân
am thi tập và giới thiệu 102 bài thơ trong Bạch Vân am thi tập được dịch khá công
phu.
Tập kỉ yếu về trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Công trình được thực hiện
nhân kỉ niêm 500 năm ngày sinh của ông. Bao gồm 52 bài tham luận xoay quanh
những vấn đề về sự nghiệp sáng tác và cuộc đời của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Các bài viết được sắp xếp theo một chủ đề gồm bốn phần, trong đó phần
thứ nhất giới thiệu về quê hương Vĩnh Bảo và thời đại của ông; phần thứ hai, gồm

các bài viết trình bày cảm nhận sâu sắc của các nhà nghiên cứu về con người và tư
tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm; phần ba đề cập đến sự nghiệp văn chương của Nguyễn


4

Bỉnh Khiêm với những lời bình sâu sắc; phần thứ tư là những ý kiến đáng trân trọng
về vị trí của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tâm thức con người hiện nay.
Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu khác có giá trị về Nguyễn Bỉnh
Khiêm của Bùi Duy Tân, Bùi Văn Nguyên, Mai Quốc Liên, Vũ Tiến Quỳnh, Vũ
Tiến Phúc, Trần Lê sáng… Điểm qua những công trình chủ yếu nêu trên để thấy
được mức độ quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu đối với Nguyễn Bỉnh
Khiêm, người được xem là cây đại thụ của văn chương thế kỷ XVI. Qua khảo sát
những công trình này, người viết nhận thấy có một số ý kiến quan trọng có liên
quan đến phạm vi khảo sát của đề tài, tiêu biểu như:
- Nguyễn Huệ Chi nhận định: “Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một hình thức
biểu hiện của ung dung tự tại, của một phong thái sống hồ hởi, cởi mở với tạo vật,
biết gắn mình với thiên nhiên, sống theo qui luật tự nhiên, hiểu được đến cội nguồn
cái đẹp chân chất của sự sống, cái đẹp hồn nhiên của sự chuyển dần, thay đổi luôn
diễn ra xung quanh mình…” [37, tr.391].
- Trần Thị Băng Băng và Vũ Thanh cho rằng: “Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh
Khiêm là “cái nhàn triết học của một triết nhân” và cũng gợi ra Nguyễn Bỉnh
Khiêm là một nhà nho có bản lĩnh, một trí giả. Tìm đến với sự nhàn dật chính là
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm về với cái vụng, cái chuyết mà theo quan niệm của nho
gia, đã được điều chỉnh dưới cái nhìn của đạo Lão, mới là bản chất tự nhiên của sự
vật. Chính quan niệm nhàn dật đạt tới ý vị triết học đó đã tạo nên một Nguyễn Bỉnh
Khiêm - Bạch Vân cư sĩ tự do, tự tại, phản giác, hồn nhiên, lạc quan, khỏe khoắn,
rất hiếm thấy trong làng thơ nhàn thời trung đại” [37, tr.34].
- Trần Đình Hượu nhấn mạnh: “Nguyễn Bỉnh Khiêm coi mình là loại người
“chí để ở sự nhàn dật”, tự gọi mình là “ông nhàn”…Ông nhàn đặc biệt quan tâm

đến lạc thú nhưng thú vui của ông nhàn không phải là sự sung sướng theo lẽ thường
tình” [37, tr.130].
- Phạm Tú Châu lại đưa ra một nhận định khá sắc sảo về nhàn dật của Nguyễn
Bỉnh Khiêm: “Những bài thơ nói chí bằng chữ Hán cho người đọc thấy rõ Nguyễn


5

Bỉnh Khiêm tuy chí thích nhàn dật nhưng ông không để chí ở việc ẩn dật…” [37,
tr.355].
- Lê Trọng Khánh - Lê Anh Trà cho rằng: “Tính chất nhàn tản của Nguyễn
Bỉnh Khiêm thực chất không phải yếm thế, xu thời, ích kỷ và hoàn toàn hưởng lạc,
tư tưởng nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những khía cạnh tích cực, phù hợp
với tư tưởng hành đạo của Nho giáo. Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một lối
phản ứng của tầng lớp nho sĩ bất lực trước thời cuộc lúc bấy giờ, phản ứng bằng
hình thức tiêu cực nhưng vẫn bao hàm một nội dung đấu tranh bằng phương pháp
theo lẽ tự nhiên” [37, tr.247].
- Lê Trí Viễn nhìn nhận: “Xa lánh chốn phồn hoa, sống một cuộc đời giản dị,
thanh bạch, bạn bè với sách vở, với thơ rượu; đó là cảnh nhàn, cảnh “vô sự”, đó là
thái độ ẩn dật, phong thái phóng khoáng của tác giả” [37, tr.476].
- Trường Lưu, Phạm Vũ Dũng, Băng Thanh: “Một nét mới của ẩn sĩ Nguyễn
Bỉnh Khiêm là dù tàng, dù ẩn nhưng không ngoảnh đi, trái lại ông chăm chú nhìn
vào đời, sẵn sang làm những gì đời cần đến, chỉ miễn là không phải lao vào vòng
danh lợi, làm hoen ố tấm lòng trung trinh của một nhà nho chí sĩ” [37, tr.146].
- Các tác giả bộ Lịch sử Việt Nam: “Trong thơ văn ông có tố cáo cảnh thối
nát của xã hội, phê phán thói đời xấu xa, nhưng chủ đề nổi bật là ca ngợi chữ
“nhàn”…Tư tưởng của ông là sự kết hợp giữa hệ ý thức Nho giáo và tư tưởng Lão
Trang” [29, tr.306].
Nhìn chung, có khá nhiều bài viết đề cập đến những ảnh hưởng của nhân sinh
quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhiều ý kiến đánh giá hết sức xác

đáng và thuyết phục mà người viết xem là cơ sở quan trọng để tiếp tục phát triển
trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng vẫn chưa có một công
trình chuyên sâu nghiên cứu một cách toàn diện về những ảnh hưởng của nhân sinh
quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tư liệu chúng tôi dùng để khảo sát thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm phục vụ cho luận
văn là Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Đinh Gia Khánh, Nxb Văn học, Hà Nội


6

(1983), Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập - Nguyễn Khuê, Nxb TP.
HCM, 1997 và các sách có liên quan đến thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như
con người thời đại mà ông đang sống. Từ đó mà hiểu rõ hơn về tư tưởng nhân cách
của ông cũng như cảm thụ đúng hơn nội dung tác phẩm thơ văn của ông.
Tư tưởng Lão - Trang ảnh hưởng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở cả hai
phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Luận văn chủ yếu xem xét ảnh
hưởng trên phương diện nội dung, cụ thể là xem xét sự tác động của tư tưởng Lão Trang đến cảm hứng sáng tác để hình thành nội dung trong thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Trong quá trình phân tích những khía cạnh nội dung, chúng tôi cũng khảo
sát những yếu tố nghệ thuật có liên quan đến học thuyết Lão - Trang được dùng như
phương tiện thể hiện những nội dung đó.
Bên cạnh đó chúng tôi còn tìm hiểu thêm các tư liệu khác mà nội dung đề cập
đến Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo góp phần hỗ trợ đắc lực để làm sáng tỏ nội dung
đề tài.
Đề cập đến Lão - Trang còn có các khái niệm Đạo gia và Đạo giáo. Luận văn
chỉ xem xét ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mà
không xem xét tất cả những gì thuộc về Đạo gia hay Đạo giáo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết này người viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính
sau:

Phương pháp phân tích - tổng hợp: Nhằm chỉ ra những biểu hiện cụ thể của
tinh thần Lão - Trang trong những câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau đó chúng
tôi khái quát lại vấn đề nhằm nhấn mạnh một lần sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Phương pháp thống kê: Chúng tôi thu thập những câu chữ thể thể hiện tư
tưởng Lão - Trang nhằm giúp cho thao tác phân tích được rõ ràng và thuyết phục
hơn.
Phương pháp tiếp nhận: Góp phần lí giải sự tồn tại sự song song của ba
luồng tư tưởng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, đặc biệt là luồng tư tưởng Đạo giáo.


7

Phương pháp thực chứng tiểu sử: Giúp người đọc có cơ sở hiểu thêm về con
người và cách hành xử của nhà thơ.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa trên những thành tựu cũng như những vấn đề chưa được giải quyết một
cách triệt để trong thực tiễn nghiên cứu ảnh hưởng nhân sinh quan Lão - Trang
trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, luận văn này nhằm hướng đến giải quyết những vấn
đề sau:
- Khảo sát, phân tích những biểu hiện nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu ở phương diện nội dung. Cụ thể là tìm những
khía cạnh của tư tưởng Lão - Trang đã tác động đến việc hình thành cảm
hứng sáng tác ở nhà thơ.
- Xác định mức độ ảnh hưởng nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm từ đó thử đưa ra những lí giải về nguyên nhân của sự ảnh hưởng
này nhằm có cái nhìn tổng quan về tâm sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm được gửi
gắm qua thơ.
- Không chỉ dừng lại tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm dưới ảnh hưởng của
nhân sinh quan Lão - Trang, mà qua những tập thơ của ông chúng tôi còn
mong muốn phân tích sự dung hòa trong việc hội nhập cả hai luồng tư tưởng

khác là Nho học và Phật học trong thơ ông. Từ đó có cái nhìn, cách hiểu
đúng hơn về nhà thơ.
6. Kết cấu của luận văn
Sau khi xác định lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu, mục đích và phương pháp nghiên cứu, nhằm làm rõ những yêu cầu mà
đề tài đặt ra, chúng tôi trình bày hướng phát triển của đề tài như sau:
Chương 1: Khái quát về tác giả - tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm và tư
tưởng Lão - Trang
Ở phần này chúng tôi chỉ trình bày một cách khái quát về cuộc đời và thân thế,
sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đồng thời cung cấp thêm vài
nét về cuộc đời Lão Tử, Trang Tử và hai sáng tác của hai vị Đạo gia này với những


8

nội dung cơ bản nhất. Qua đó cho thấy sự ảnh hưởng của tư tởng Lão - Trang vào
văn học trung đại Việt Nam, trong đó có nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Chương 2: Những biểu hiện của nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Ở phần này chúng tôi không đi một cách chung chung, sơ lược ở dạng phác
thảo như chương 1, mà chúng tôi dừng lại đi sâu phân tích chỉ ra sự ảnh hưởng cụ
thể của tư tưởng Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở những khía cạnh
riêng như: Biết dừng lại, quay về với cuộc sống ẩn dật, thanh cao - một biểu hiện
của tinh thần tri túc, cầu nhàn. Hoà hợp, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng
quê - một biểu hiện của tinh thần vô vi, tiêu dao. Xem công danh như áng phù vân một biểu hiện của quan niệm “Đời là giấc mộng”.
Chương 3: Tương quan Nho - Phật - Đạo và những yếu tố nhân sinh quan
tích cực trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Chương này người viết đi vào phân tích làm rõ sự đa nhân cách trong con
người Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấy rằng nhà thơ rất linh hoạt trong phương cách
ứng xử của mình. Đồng thời qua đó thấy được nhà thơ không hẳn phụ đạo quên đời

khi chọn lựa lối sống theo Lão - Trang.
Phần kết luận: Kết luận ngắn gọn về những vấn đề đã trình bày ở phần nội
dung, khẳng định lại vị thế của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lòng người dân Việt.


9

B. NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG LÃO – TRANG VÀ TÁC
GIẢ, TÁC PHẨM NGUYỄN BỈNH KHIÊM
1.1. Tác giả, tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm
1.1.1. Tác giả
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491), còn có tên là Văn Đạt, tên chữ
là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, Xã Lý Học, huyện
Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ông mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Sửu (17/01/1585), sống
gần trọn thế kỉ XVI đầy biến động.
Ông xuất thân trong một gia đình Nho học. Tổ phụ là Văn Tĩnh được ấm
phong Thiếu bảo Tư quận công. Tổ mẫu là Phạm Thị Trinh Huệ được ấm phong
Chinh phu nhân. Ông ngoại là thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan. Cha là Nguyễn Văn
Định, hiệu Cù Xuyên tiên sinh, học rộng đức cao, được phong Thái bảo Nghiêm
quận công, được sung chức Thái học sinh. Ông là người thông minh, có tài văn thơ,
thông kinh kịch, giàu nghị lực, có chí khí khác thường, có công lớn trong việc dạy
dỗ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thân mẫu họ Nhữ được phong Từ Thục phu nhân. Bà
thông kinh sử, giỏi văn chương, tinh thông thuật số. Xét cho cùng thì Nguyễn Bỉnh
Khiêm thừa hưởng nhiều điều tốt đẹp từ gia đình, chính những phẩm chất nổi trội,
ưu tú từ cha và mẹ đã tôi luyện và cho ra đời một Nguyễn Bỉnh Khiêm lỗi lạc, được
mọi người tôn kính cho đến ngày nay.
Tương truyền Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh từ nhỏ, tư chất hơn hẳn người
thường, một tuổi đã nói sõi, năm tuổi đã thuộc nhiều thơ ca quốc âm do mẹ dạy
truyền khẩu. Lớn lên, ông được theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng (người Lạch

Triệu, Hoằng Hóa, Thanh Hóa) - một vị quan thanh liêm, một người thầy xuất sắc
nên ông đã sớm hấp thu những phẩm chất tốt đẹp đó. Có thể nói thời thơ ấu của
Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong giai đoạn được coi là thịnh trị nhất của nhà nước
phong kiến theo thể chế Nho giáo ở Việt Nam. Thế nhưng những ngày này đối với
Nguyễn Bỉnh Khiêm thật ngắn ngủi.


10

Dựa vào các cột mốc lịch sử và những hoạt động, chúng tôi chia cuộc đời của
nhà thơ làm ba chặng:
Chặng thứ nhất: tính từ thời niên thiếu đến năm 1534: Ngay từ thuở ấu thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm được mẹ nuôi dạy, chăm sóc cẩn thận cả về thể lực và trí lực.
Đến tuổi trưởng thành Nguyễn Bỉnh Khiêm được học với quan hưu trí Hộ bộ
Thượng thư Dương Đức Nhan và trở thành con rể của ông. Sau đó, Nguyễn Bỉnh
Khiêm nghe tiếng cụ Bảng nhãn Lương Đức Bằng là bậc văn chương cái thế, bèn
lặn lội tìm đến học. Đây là khoảng thời gian trong triều đình và ngoài xã hội có
nhiều biến động: nội chiến phi nghĩa, cướp bóc loạn lạc, sưu cao thuế nặng, nhân
dân đói khổ lầm than cơ cực…
Trong khoảng thời gian 1523 và 1526, triều Lê Tương Dực có mở khoa thi
nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mai danh ẩn tích. Cho đến khi Mạc Dăng Dung
cướp ngôi nhà Lê, nhà Mạc đã có một số chính sách mới nhằm ổn định trật tự xã
hội, thúc đẩy sự phát triển của đất nước về mọi mặt. Vì thế, uy tín nhà Mạc được
củng cố, và được một số quan lại nhà Lê cũ phò trợ đắc lực. Thời điểm này nhà Mạc
cũng tổ chức một số khoa thi như thi Hương, thi Hội để kén chọn nhân tài, các sĩ tử
hưởng ứng rất đông nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn ẩn cư dạy học, lấy đạo làm vui,
chẳng cầu danh tiếng.
Cho đến năm 1530, khi Mạc Đăng Doanh lên ngôi, nhà thơ tự nhận mình chưa
bằng Khổng Tử, chưa thấu suốt được lẽ đương nhiên của tạo vật, còn băn khoăn
chưa xác định được hướng đi, còn trăn trở là có nên ứng thí để đem đạo học ra giúp

nước cứu đời được hay không, vì con đường trước mặt còn đen tối như mực.
Chặng thứ hai: tính từ lúc ra làm quan (1535 - 1542): Nguyễn Bỉnh Khiêm
quyết định nhập thế. Mặc dù đã 44 tuổi, ông vẫn đi thi Hương và đỗ giải Nguyên
khoa Giáp ngọ dưới triều Mạc Đăng Doanh (1534). Năm 1535 dự thi Hội bốn kì
đều đạt giải nhất, đỗ Hội nguyên; dự thi Đình, đỗ Trạng nguyên. Làm quan được 8
năm, ông dâng sớ xin chém đầu 18 tên nịnh thần nhưng không được vua Mạc chấp
thuận. Tiếp đó lấy cớ con rể Phạm Dao cậy quyền thế làm nhiều điều bất nghĩa, ông
thác bệnh xin về trí sĩ vào thời Mạc Phúc Hải (1543).


11

Chặng thứ ba: Tính từ năm 1543 đến 1585. Trong thời gian ở ẩn, Nguyễn Bỉnh
Khiêm dựng am Bạch Vân, bắc hai chiếc cầu Nghinh Phong và Tràng Xuân, tu bổ
chùa chiền, dựng một ngôi quán gọi là Trung Tân trên bến Tuyết Giang, được học
trò tôn xưng là Tuyết Giang Phu tử. Trong Công dư tiệp kí, Vũ Phương Đề cho
rằng tuy Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn cư dạy học nhưng với tài đức cao vời vợi của
Trạng Trình, vua Mạc vẫn lấy “sư lễ” đãi ông. Những khi nhà nước có việc gì quan
trọng, triều đình đều sai sứ đến hỏi, có khi triệu ông về kinh thung dung trù liệu kế
hoạch, rồi lại trở về am chứ không ở lại. Bên cạnh đó cả những người phù Lê cũng
luôn tôn trọng, vị nể Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau 2 năm Mạc Phúc Hải gia phong cho
ông chức Trình Tuyền hầu (Hầu Tước khơi nguồn dòng suối triết học của họ Trình).
Người đời thường gọi ông là Trạng Trình.
Với một tấm lòng nhân đạo, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn mong muốn cho đất
nước được thịnh vượng, thái bình. Với sự uyên thâm vốn có, ông nhận thấy vận
mệnh của đất nước trong hoàn cảnh bi đát này không thể trao vào tay bất cứ một lực
lượng chính trị nào. Bởi vì lúc này các tập đoàn phong kiến quyết chiến với nhau
chỉ vì muốn tranh giành quyền lực. Vì vậy tương truyền để tránh những cuộc binh
đao khói lửa lan tràn đến cuộc sống của nhân dân, ông đều bày cho các phe phái
những phương sách khác nhau để giữ thế “chân vạc”. Chẳng hạn năm 1568,

Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm hãm hại, sợ mầm họa sẽ
xảy ra cho bản thân, đã ngầm cho thân cận đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm về kế an
thân. Được ông mách bảo: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Dựa vào một
dải Hoành sơn có thể lập nghiệp được lâu dài), Nguyễn Hoàng liền xin anh rể là
Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ Đèo Ngang trở vào) và sống bình
yên trong nhiều năm. Thời ấy tại kinh thành Thăng Long, chúa Trịnh cũng ra sức ức
hiếp vua Lê, làm nhiều điều bạo ngược kể cả có ý định muốn phế bỏ vua Lê. Khi
chúa Trịnh cho người đến hỏi ý kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không trả lời
mà lẳng lặng dẫn sứ giả của triều đình ra thăm chùa và nói nói với nhà sư trong
chùa: “Giữ chùa thờ phật thì ăn oản” (Ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn thờ
nhà Lê thì quyền hành sẽ nắm trong tay, nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến chiến tranh).


12

Riêng đối với nhà Mạc, sau nhiều trận đánh diễn ra liên miên, nhà Mạc phải bỏ
chạy lên Cao Bằng. Vua Mạc có ý cho người về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm,
ông đã trả lời “Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế” (Cao Bằng tuy đất hẹp nhưng có
thể giữ được vài đời). Quả nhiên mãi đến năm 1688, sau ba đời giữ đất Cao Bằng,
nhà Mạc mới bị diệt. Sở dĩ nhân dân đưa ra những truyền thuyết trên là vì muốn
chứng minh rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm có tài tiên đoán, do nắm được bí truyền của
sách Thái ất thần kinh. Ngoài ra còn có rất nhiều truyền thuyết khác về Trạng Trình
trong tập Trình quốc công sấm kí. Thực hư, có hay không có, khẳng định hay phủ
định sự việc còn là vấn đề mà các học giả Việt Nam cần phải nghiên cứu kĩ để trả
lại vị trí xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lòng dân tộc và cả trên lĩnh vực
văn học. Một điều chắc chắn là đối với nhân dân Việt Nam Nguyễn Bỉnh Khiêm
thật sự là nhà học giả “thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lí, trung tri nhân sự”. Và
trong thời gian trí sĩ ở điền viên, ông chính là một người thầy mẫu mực, cao minh
đã đào tạo biết bao danh sĩ tài năng cho đất nước như Giáp Hải, Lương Hữu Khánh,
Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quyện…

Tuy nhiên, Nguyễn Khuê khi nghiên cứu Bạch Vân am thi tập cho rằng
Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi lui về ở ẩn vẫn mang trong mình tấm lòng nhiệt huyết
của kẻ mang “tấm lòng tiên ưu đến già chưa thôi” nên vẫn tiếp tục nhận lời mời
của vua Mạc mà ra làm quan, trực tiếp tham gia những cuộc chinh phạt của triều
Mạc ở phía Tây nữa rồi mới quy lão ở tuổi 73 (1563).
Đến ngày 28 tháng 11 năm Diên Thành thứ 8 (1585) Nguyễn Bỉnh Khiêm mất
hưởng thọ 95 tuổi. Mạc Hậu Hợp sai Mạc Kính Điển đến dự tế, truy phong Thượng
thư bộ Lại, Thái phó Trình quốc công và tặng mấy chữ trước cửa ở đền thờ: “Mạc
triều Trạng nguyên Tể tướng từ”.
1.1.2. Tác phẩm
Tuyết Giang Phu Tử có nói là rất vụng trong nghề thơ, tuy nhiên khi nghiên
cứu thơ văn của ông, người viết nhận thấy sự nghiệp văn chương của Trạng Trình là
tấm gương sáng về quá trình lao động sáng tạo không ngừng. Tác giả đã để lại cho


13

đời một di sản thơ đồ sộ chứa đựng nhiều tư tưởng thâm sâu, nhiều bài học giáo hóa
rất thiết thực cho đời.
Về chữ Hán có Bạch Vân am thi tập, Trung Tân quán bi kí, Thạch khánh kí
và một số bài văn tế. Theo Bạch Vân am thi tập tiền tự do chính tác giả viết thì thơ
chữ Hán có khoảng 1000 bài. Hiện nay số còn lại chỉ khoảng hai phần ba. Tập thơ
là tiếng nói của con người nhập thế hành đạo, vừa là tiếng nói của một cao sĩ ẩn dật,
vừa là tiếng nói của một con người ưu thời mẫn thế.
Về chữ Nôm có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công
Bạch Vân quốc ngữ thi tập) với khoảng 170 bài thơ. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh
Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn. Thơ không có đề mục
cho từng bài và từng môn loại. Nội dung xoay quanh một số đề tài nhất định: sự suy
tàn của đạo đức phong kiến, cuộc đời nhàn dật, phong cảnh thiên nhiên, ý nghĩ về
bổn phận với vua, với nước.

Ở hai tập thơ chúng ta nhận thấy ở nhà thơ một tư tưởng thoát li mang đậm
dấu ấn tư tưởng Lão - Trang. Đó là tư tưởng tiêu dao, nhàn phóng coi nhẹ cuộc đời,
coi nhẹ công danh, thoát mình khỏi chốn cạnh tranh, vui chơi với thiên nhiên, với
thơ rượu.
Ngoài thơ Nôm, trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập
sấm kí Nôm thường mang tên Trạng Trình và phần lớn viết theo thể lục bát như
Trình quốc công sấm kí, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện
tượng văn học cần phải được tìm hiểu và xác minh thêm. Theo Phả kí của Vũ
Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm. Bài phú này hiện
nay vẫn chưa được tìm thấy.
Nguyễn Bỉnh Khiêm có phong cách thơ rất riêng không lẫn với các nhà thơ
cùng thời mặc dù vẫn tuân theo nguyên tắc sáng tác thơ văn trung đại. Thơ văn
Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết học nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận.
Đặc biệt là hai tập thơ chữ Hán và chữ Nôm, chất triết thể hiện rõ rệt và đậm nét
nhất - triết học đạo gia, mà đại diện tiêu biểu là Lão Tử và Trang Tử. Đọc thơ ông,
người đọc rất dễ dàng nhận ra sự ảnh hưởng ấy.


14

1.2. Lão Tử và Đạo Đức Kinh, Trang Tử và Nam Hoa Kinh
1.2.1. Lão Tử và Đạo Đức Kinh
1.2.1.1. Lão Tử
Lão Tử tức chưa rõ năm sinh, năm mất, nhưng theo ý kiến chung nhất là ông
sống vào khoảng thế kỉ thứ VI - V trước công nguyên, là một nhà tư tưởng vĩ đại
của Trung Hoa cổ đại, là người sáng lập trường phái Đạo gia (đạo Lão). Ông tên
thật là Lý Nhĩ, tên thường gọi là lão Đam, người làng Khúc Nhân, hương Lệ, nước
Sở. Ông làm chức quan giữ sách nhà Chu, học rộng biết nhiều, sau về quê ở ẩn. Về
giai thoại của Lão Tử: Tương truyền, trước khi về ở ẩn đến cửa quan, viên quan coi
cửa là Doãn Hỉ bảo: “Ông sắp đi ở ẩn, ráng vì tôi mà viết sách để lại”. Thế là Lão

Tử viết một cuốn sách chỉ gồm khoảng năm ngàn chữ bàn về “Đạo” và “Đức” (tức
Đạo Đức Kinh). Viết xong rồi bỏ đi, về sau không ai còn nghe đến, không biết sống
chết ra sao.
1.2.1.2. Đạo Đức Kinh
Cuốn Đạo Đức Kinh tổng cộng gồm có 81 chương, hơn 5000 chữ Hán gồm có
hai thiên, thiên trước bàn về Đạo (Thượng Kinh), thiên sau bàn về Đức (Hạ Kinh).
Thượng Kinh gồm 37 chương, bắt đầu bằng câu: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo”.
Hạ Kinh gồm 44 chương, bắt đầu bằng câu: “Thượng Đức bất Đức thị dĩ hữu Đức”.
Tư tưởng của Lão Tử truyền lại trong tác phẩm Đạo Đức Kinh rất phong phú và
uyên thâm, dù trải qua mấy ngàn năm người đọc vẫn có thể tiếp thu được những
điều bổ ích.
1.2.2. Trang Tử và Nam Hoa Kinh
1.2.2.1. Trang Tử
Trang Tử (369 - 286 TCN) tên là Chu, người nước Tống, huyện Mông, Ở
khoảng giữa hai tỉnh Sơn Đông và Hồ Nam ngày nay. Ông là một nhà Lão học danh
tiếng nhất trong làng Lão học cổ điển. Theo Sử ký mục “Lão Trang Thân Hàn Liệt
truyện”, ông đồng thời với vua Huệ Vương nước Lương và Tuyên Vương nước Tề,
tức là đồng thời với Mạnh Tử. Là nhà tư tưởng lớn trong phái Đạo gia, là người kế
tục tư tưởng của Lão Tử. Cũng như Lão Tử, tư liệu sớm nhất chép về Trang Tử là ở


15

bộ Sử ký của Tư Mã Thiên. Sử gia Tư Mã Thiên viết về Trang Tử khá vắn tắt:
“Trang tử, người đất Mông, tên Chu, làm quan lại ở Vườn Sơn (Tất Viên)” sau đó
sống ẩn dật cho đến cuối đời. Nhưng điều chắc chắn là Trang Tử sống cùng thời với
Mạnh Tử và Huệ Thi thời Lương Huệ Vương và Tề Tuyên Vương. Đất Mông được
xác định nằm trong đất Tống, thuộc tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) ngày nay. Trang Tử
là một trong những nhà tư tưởng đặc biệt vào loại hạng nhất thời ấy, rất giỏi kể
chuyện, có sức tưởng tượng vô cùng phong phú. Tác phẩm Nam Hoa Kinh của

Trang Tử viết theo thể văn xuôi, mang màu sắc ngụ ngôn. Ở cuốn sách này Trang
Tử có sự nhất trí về quan điểm, tư tưởng với Lão Tử. Ông và Lão Tử được xem là
hai tác giả nồng cốt của Đạo gia và làm nên học thuyết Lão - Trang, một trào lưu tư
tưởng ở Trung Quốc cổ đại có ảnh hưởng mạnh mẽ từ xưa tới nay, từ phương Đông
tới phương Tây.
1.2.2.2. Nam Hoa Kinh
Có người lý giải, sở dĩ bộ sách có tên Nam Hoa Kinh (hay còn gọi là Nam
Hoa Chân Kinh) bởi nó được viết khi Trang Tử ở ẩn tại núi Nam Hoa thuộc nước
Tống. Đây là bộ sách mà Kim Thánh Thán liệt vào hạng nhất trong lục tài tử thư
của Trung Quốc.
Bản lưu hành ngày nay gồm 33 chương, chia làm ba phần:
Nội thiên - gồm 7 thiên có tựa đề là: Tiêu dao du, Tề vật luận, Dưỡng sinh
chủ, Nhân gian thế, Đức sung phù, Đại tôn sư, Ứng đế vương.
Ngoại thiên - gồm 15 thiên có tựa đề là: Biền mẫu, Mã đề, Khư khiếp, Tại
hựu, Thiên địa, Thiên đạo, Thiên vận, Khắc ý, Thiện tính, Thu thủy, Chí lạc, Đạt
sinh, Sơn mộc, Điền tử phương, Tri bắc du.
Tạp thiên - gồm 11 thiên: Canh tang sở, Từ vô quỉ, Tắc dương, Ngoại vật,
Ngụ ngôn, Nhượng vương, Đạo chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ, Liệt ngự khấu, Thiên
hạ.
1.3. Hành trình du nhập của tư tưởng Lão - Trang vào Việt Nam
Với cốt lõi là lối hành xử thuận theo tự nhiên, tinh thần phóng khoáng, chuộng
tự do, yêu thiên nhiên, theo đuổi lối sống tiêu dao, tự tại, tư tưởng Lão - Trang có


16

một sức hấp dẫn đặc biệt đối với nhiều nghệ sĩ từ cổ chí kim trên hầu khắp các quốc
gia nằm trong vùng ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Ở Việt Nam, trong suốt thời kỳ
trung đại, biểu hiện của sự ảnh hưởng này trong văn học tuy đậm nhạt khác nhau ở
từng giai đoạn cụ thể nhưng chúng ta đều có thể tìm thấy sự có mặt tư tưởng Lão Trang trong nhiều tác phẩm của các nhà thơ, nhà văn lớn. Khi nghiên cứu “Ảnh

hưởng nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm”, chúng tôi cũng
muốn khảo sát sự ảnh hưởng của tư tưởng này trong cả tiến trình văn học trung đại
để có một cái nhìn bao quát và có hệ thống. Chúng tôi vẫn biết rằng để có được một
cái nhìn toàn diện và đưa ra những kết luận với những luận cứ xác đáng mang tính
khoa học cao cho cả một tiến trình văn học dài cả ngàn năm đòi hỏi mất nhiều thời
gian và công sức. Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi sẽ cố gắng đưa ra
những nét lớn về ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang trong tiến trình văn học trung đại
Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu thường gọi sự ảnh hưởng “tư tưởng Lão - Trang” là sự ảnh
hưởng “Đạo gia - Đạo giáo”. Tuy nhiên cũng nên có sự phân biệt ở đây. Theo
chúng tôi, khi nói đến tư tưởng Lão - Trang là nói đến hệ thống triết thuyết mà Lão
- Trang đề xướng. Nói đến Đạo gia là nói đến những người có cùng tư tưởng hoặc
theo khuynh hướng tư tưởng Lão - Trang, lấy Đạo làm hạt nhân để xây dựng triết
thuyết của mình. Những người sống gần với Lão - Trang thuộc Đạo gia có thể kể
đến như Dương Tử, Liệt Tử … Còn Đạo giáo là tổ chức tôn giáo lấy triết thuyết của
Lão - Trang làm nền tảng thuyết lý và nâng lên thành những hoạt động mang tính
chất tín ngưỡng như học cách tu tiên, xây dựng những nhân vật thần tiên trong một
thế giới thần tiên để ngưỡng vọng, luyện phép thuật, luyện thuốc trường sinh bất
lão... và tất cả đã thông qua sự tiếp nhận của nhà thơ nhà văn mà đi vào thế giới thơ
văn. Suy cho cùng tất cả đều xuất phát từ lý thuyết về Đạo mà Lão - Trang xây
dựng. Những từ ngữ, hình ảnh từ Đạo gia - Đạo giáo đi vào thơ văn cũng chính là
sản phẩm nảy sinh từ tư tưởng Lão - Trang mà thôi. Cho nên khi xem xét ảnh
hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam, chúng
tôi cũng xem xét cả những yếu tố ảnh hưởng thuộc về Đạo gia - Đạo giáo. Có xem


17

xét những yếu tố này chúng ta sẽ thấy được một quá trình vận động đi từ sự ảnh
hưởng ở phương diện tôn giáo đến phương diện triết học của học thuyết Lão Trang.

Văn học trung đại Việt Nam là cả một chặng đường dài có thể tính tròn mười
thế kỉ. Trong đó có nhiều biến cố lịch sử xảy ra làm thay đổi sâu sắc đời sống chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tất nhiên có cả văn học. Khi khảo sát ảnh hưởng của
tư tưởng Lão - Trang trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam chúng tôi nhận
thấy cần xem xét sự thâm nhập, tồn tại và tác động của các khuynh hướng tư tưởng
trong mối tương quan với bối cảnh lịch sử xã hội, chính trị của thời kỳ đó. Mỗi một
thời kỳ, một giai đoạn với bối cảnh lịch sử xã hội, chính trị khác nhau sẽ quyết định
sự tồn tại hay mức độ ảnh hưởng của từng khuynh hướng tư tưởng đối với xã hội
nói chung và văn học nói riêng. Vì vậy, chúng tôi dựa vào quan điểm phân kỳ văn
học gần đây để vừa lý giải, vừa chỉ ra sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong
tiến trình văn học trung đại Việt Nam. Theo đó văn học trung đại Việt Nam trải qua
bốn giai đọan:
-

Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV

-

Từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII

-

Từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX

-

Nửa cuối thế kỉ XIX

Nhưng do giới hạn đề tài nghiên cứu người viết chỉ tìm hiểu sự thâm nhập và
ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang ở hai giai đoạn: Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV và

thế kỷ XV đến thế kỷ XVI.
1.4. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học Việt Nam trước thế
kỷ XVI
1.4.1. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ X - XIV
Hơn một thế kỷ đất nước chúng ta chịu sự đô hộ và kiểm soát của đất nước
Trung Hoa nên việc chịu ảnh hưởng và tiếp biến văn hóa từ Trung Hoa là điều
không tránh khỏi. Và hệ tư tưởng đầu tiên ở Trung Quốc có ảnh hưởng đến Việt
Nam là Nho giáo với những nội dung chủ yếu như: mệnh trời, đức trị và chính


18

danh, đạo đức với những đại diện ưu tú bậc nhất thời bấy giờ Chu Công Đáng,
Khổng Tử, Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư… Tuy nhiên tư tưởng Nho giáo không đáp
ứng được nhu cầu đời sống chính trị, xã hội bấy giờ. Bên cạnh Nho giáo thì Phật
giáo cũng đóng một vai trò rất lớn không thể thiếu trong ý thức xã hội phong kiến
Việt Nam, ý niệm phật giáo chủ yếu xoay quanh hai vấn đề cơ bản: Đạo phật quan
niệm vạn vật không do một thượng đế nào làm ra mà do vận động của bản thân nó,
đạo phật quan niệm cuộc đời là bể khổ, và muốn giải thoát khỏi bể khổ ấy thì phải
biết tu tâm. Phật giáo có nhiều tông phái mà nổi trội lên hết ở Việt Nam là phái
Thiền Tông. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập hai học thuyết này ít nhiều đã bộc
lộ những hạn chế và thiếu sót của mình, không đủ khả năng dẫn dắt con người thoát
khỏi bể khổ nhân sinh, cho nên Đạo giáo xuất hiện. Đạo giáo chủ trương vô vi,
nghĩa là thuận theo tự nhiên mà sống, đơn giản hóa chính trị, nới lỏng pháp luật,
hình thành ở con người một lối sống tiêu dao, phóng nhiệm, không màng nhân thế,
ưa thích thiên nhiên và nhàn tản. Người sáng lập ra Đạo giáo đầu tiên phải kể đến là
Lão Tử, Trang Tử mới là người tiếp nối và phát triển tư tưởng của ông. Ở hai bậc
Đạo gia này về tư tưởng có rất nhiều điểm tương đồng và thống nhất, cho nên sau
này người ta thống nhất tên gọi Đạo gia và những tư tưởng của Đạo gia là tư tưởng
Lão - Trang hay học thuyết Lão - Trang. Ba hệ tư tưởng trên đây đều nhập vào nước

ta vào thời kì phong kiến phương Bắc thống trị nên có sự giao thoa với nhau. Đặc
biệt là ở buổi đầu từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, ba hệ tư tưởng này đều được coi
trọng theo chủ trương tam giáo đồng nguyên.
Văn học trung đại Việt Nam ra đời cùng với sự ra đời của quốc gia Đại Việt
sau chiến thắng của Ngô Quyền năm 938, chiến thắng đã mở ra một thời kỳ độc lập
tự chủ của dân tộc. Nhân dân ta giành được độc lập sau cả ngàn năm mất nước, chịu
cảnh bị đô hộ cho nên nhiệm vụ quan trọng nhất của giai đoạn lịch sử này là xây
dựng quốc gia thống nhất, độc lập, tự chủ và chống ngoại xâm. Chính vì thế, sự
kiện loạn 12 sứ quân sau khi Ngô Quyền mất đã không ngăn cản được đà phát triển
ý thức độc lập tự cường của dân tộc. Loạn 12 sứ quân bị dẹp tan, nhà Đinh và Tiền
Lê tiếp tục công cuộc của Ngô Quyền dang dở. Nhà Lý, nhà Trần tiếp nối bằng việc


19

phát triển đất nước về mọi mặt và nâng vị thế quốc gia lên một tầm cao mới. Để
khẳng định nền độc lập của mình, nhà nước phong kiến Đại Việt một mặt phải củng
cố kinh tế vững chắc, quân đội hùng mạnh, một mặt phải xây dựng nền văn hóa
riêng biệt. Bên cạnh đó, nhà nước phong kiến Đại Việt còn có ý thức sử dụng văn
hóa như một phương tiện thống trị. Do đó các vương triều Lý, Trần đã khéo kết hợp
những thành tựu văn hóa dân tộc dân gian với các hệ tư tưởng mà từ lâu giai cấp
thống trị Trung Quốc xem như nền tảng tinh thần của chế độ phong kiến như Nho,
Phật, Lão. Đầu thế kỉ thứ X khi nước nhà giành được độc lập thì Phật giáo và Đạo
giáo đang rất thịnh hành vì đã được các triều đại Trung Hoa, nhất là nhà Đường
khuyến khích, đề cao. Tuy nhiên, có đôi chỗ quan điểm của Phật giáo và Đạo giáo
tỏ ra không phù hợp với quyền lợi của nhà nước nhất là trong việc củng cố địa vị
thống trị và mở mang cơ đồ. Nho giáo đã trở thành công cụ đắc lực trong việc kiện
toàn bộ máy nhà nước và mở mang bở cõi. Ngoài việc đều đặn tổ chức các kỳ thi
Nho học, nhà nước phong kiến ở giai đoạn này còn mở trường Quốc tử giám, lập
Văn miếu để thờ các vị thánh hiền của Nho gia. Nhà nước phong kiến Đại Việt tuy

đề cao Nho giáo nhưng vẫn giữ sự dung hòa với Phật giáo và Đạo giáo. Việc tổ
chức kỳ thi Tam giáo vào thời vua Lý Cao Tông năm 1195 là một bằng chứng. Vì
thế giai đoạn này thịnh hành quan niệm “tam giáo đồng nguyên”. Có thể nói rằng,
chính bối cảnh lịch sử xã hội của thời kỳ đầu giành độc lập cùng với đường lối, sách
lược của nhà nước phong kiến Đại Việt đã tạo điều kiện cho các hệ tư tưởng khác
nhau thâm nhập vào nước ta, trong đó có tư tưởng Lão - Trang được cụ thể hóa
bằng hình thức Đạo giáo.
Dấu vết tư tưởng Lão - Trang ảnh hưởng đến văn học giai đoạn này thông qua
hình thức giáng bút, giáng thiên thư của Đạo giáo. Trong triết học Lão - Trang ta
gặp khái niệm “thiên cơ” nhằm để chỉ một guồng máy (cơ) vận hành mọi thứ trong
vũ trụ theo nguyên lý tự nhiên (thiên). Điều này được Đạo giáo xây dựng thành
đấng tạo hóa, là hóa công, là Ngọc Hoàng hay Thượng Đế, người có quyền quyết
định mọi thứ trên đời. Thiên cơ thường được tiết lộ hay báo trước một sự việc sắp
xảy ra bằng lời sấm truyền thường là một bài thơ gọi là sấm thi. Đại Việt sử ký toàn


20

thư và Đại Việt sử lược đều trích dẫn câu sấm báo trước như sau: “Đỗ Thích thí
Đinh Đinh/Lê gia xuất thánh minh/Cạnh đầu đa hoành tử/Đạo lộ tuyệt nhân
hành...”. Bài thơ được dịch là: Đỗ Thích giết hai Đinh (Đinh Tiên Hoàng và Đinh
Liễn)/Họ Lê xuất hiện bậc thánh minh (chỉ Lê Hoàn)/Tranh nhau nhiều kẻ chết oan
uổng/Đường sá vắng hẳn người qua lại. Cũng trong Đại Việt sử ký toàn thư và Đại
Việt sử lược có ghi một bài sấm thi ngầm dự báo một loạt sự kiện về sự thay đổi và
kế tiếp nhau ở các triều đại Đinh, tiền Lê, Lý, Trần. Các thiền sư như Định không,
Vạn Hạnh cũng có những bài sấm thi như thế.
Sự xuất hiện những bài sấm thi trong bối cảnh thay đổi triều đại, nhất là sự
“dọn đường” của các nhà sư có uy tín trong triều cho Lý Công Uẩn lên ngôi đã cho
ta thấy Đạo giáo được sử dụng với mục đích chính trị rõ rệt và sức ảnh hưởng lớn
của Đạo giáo đối với đời sống tinh thần của xã hội.

Đến đời nhà Trần có lẽ do hoàn cảnh xã hội đã thay đổi nên hầu như không
thấy sấm thi xuất hiện. Đến cuối đời Trần, khi Hồ Quý Ly thao túng quyền binh
trong triều và mọi người nhận thấy rằng sẽ có một cuộc soán ngôi, lúc này mới xuất
hiện bài Xích chủy hầu được cho là của Trần Duệ Tông. Theo Đại Việt Sử ký Toàn
thư, tháng 3 năm 1394, vua Trần Nghệ Tông chiêm bao thấy vua em Trần Duệ
Tông đem quân đến và đọc bài thơ báo vận mệnh của nhà Trần sẽ hết.
Các yếu tố liên quan đến Đạo giáo trong giai đoạn này còn xuất hiện ở loại thơ
hành chánh. Ở trong bài Thơ Thần (Nam quốc sơn hà), bản tuyên ngôn độc lập đầu
tiên của nước ta được cho là của Lý Thường Kiệt, ta thấy có từ “thiên thư” (“Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư”) là một thuật ngữ của Đạo giáo nhằm để chỉ việc
“giáng bút” của đấng linh thiêng tối cao. Trước đó, một bài thơ được sáng tác với
mục đích ngoại giao của một nhà sư cũng đã xuất hiện các từ ngữ có nguồn gốc Đạo
gia. Đó là bài từ có tên là Vương lang quy, được Khuông Việt thiền sư làm theo
lệnh của vua Lê Đại Hành khi tiễn sứ thần Lý Giác. Trong bài thơ có từ “thần tiên”
và “đế hương”. Từ “đế hương” ngoài nghĩa là nơi vua ở còn có nghĩa là tiên cung,
nơi tiên ở. Những từ này được dùng nhiều trong các tác phẩm thơ văn của các tác
gia Trung Hoa thuộc Đạo gia như Trang Tử, Đào Tiềm, Bào Chiếu, Lưu Hương...


×