Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

bản sắc dân tộc miền núi trong truyện tây bắc và miền tây của tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.27 KB, 56 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN PHÚ BÌNH

BẢN SẮC DÂN TỘC MIỀN NÚI TRONG
"TRUYỆN TÂY BẮC" VÀ "MIỀN TÂY" CỦA TÔ HOÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

- Thành phố Hồ Chí Minh 1996 -



MỤC LỤC
MỤC LỤC ......................................................................................................................... 3
PHẦN DẪN LUẬN ........................................................................................................... 5
I./QUAN NIỆM VỀ ĐỀ TÀI: .................................................................................................. 5
II./LỊCH SỬ VẤN ĐỀ : ........................................................................................................... 8
III./ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN: ....................................................................................... 9
IV./ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: ................................................................................. 10
1.Phương pháp phân tích - Tông hợp: ................................................................................ 10
2.Phương pháp so sánh: ...................................................................................................... 10
3.Phương pháp thống kê - hệ thống:................................................................................... 10
V./ CÂU TRÚC CỦA LUẬN VĂN: ........................................................................................ 11

CHƯƠNG 1: TÔ HOÀI VỚI ĐỀ TÀI MIỀN NÚI ..................................................... 13
1.1.Đề tài miền núi trong văn học. ........................................................................................ 13
1.2.Quá trình chiếm lĩnh đề tài miền núi của Tô Hoài và Vị trí "Truyện Tây Bắc" và
"Miền Tây" trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. ............................................................ 14


CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ BẢN SẮC DÂN TỘC ............................................................. 19
2.1.Vấn đề bản sắc dân tộc và sự thể hiện bản sắc dân tộc trong văn học: ........................ 19
2.1.1.Vấn đề bản sắc dân tộc: ............................................................................................. 19
2.1.2.Sự thể hiện bản sắc dân tộc trong tác phẩm văn học: ................................................ 20
2.2.Tây Bắc: miền núi giàu bản sắc. ..................................................................................... 24

CHƯƠNG 3: BẢN SẮC DÂN TỘC MIỀN NÚI TRONG "TRUYỆN TÂY BẮC"
VÀ "MIỀN TÂY" CỦA TÔ HOÀI............................................................................... 29
3.1.Bản chất cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc qua "Truyện Tây Bắc" và "Miền
Tây" của Tô Hoài: ................................................................................................................. 29

3


3.2.Bản sắc miền núi qua những bức tranh sinh động về cảnh đời cùng những điển hình
chân thực về số phận người nông dân miền núi trong “Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây"
................................................................................................................................................. 40
3.3.Bản sắc miền núi trong cuộc đấu tranh chống các thế lực thống trị, giành quyền sống
và vươn tới cuộc đời hạnh phúc, qua "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" ......................... 48

4


PHẦN DẪN LUẬN
I./QUAN NIỆM VỀ ĐỀ TÀI:
1. Tô Hoài là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học việt Nam hiện đại. Hơn
nửa thế kỷ cầm bút, tính đến nay, ông đã có một khối lượng tác phẩm nhiều đáng khâm phục:
hơn một trăm tác phẩm thuộc nhiều đề tài và thể loại; trong đó có nhiều trang viết khá chất
lượng, có giá trị hình thành phong cách nghệ thuật của ông, đồng thời góp phần không nhỏ
trong sự phát triền chung của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Tô Hoài bước vào làng văn khá sớm. Lúc đầu ông làm thơ, nhưng hầu như không có
thành tựu gì đáng kể. Ngoài hai bài thơ "Đan áo" và "Tiếng reo" (đăng trên Tiểu thuyết thứ
bảy) còn thì hầu hết là những vần thơ lãng mạn, rỗng và sáo.
Con đường của Tô Hoài là con đường văn xuôi. Ông viết từ năm 16 tuổi và ngay trong
giai đoạn đầu (1936-1939) đã có truyện ngắn đăng ở báo Nước Nam, Tiểu thuyết thứ bảy, Tiểu
thuyết thứ năm, Hà Nội tân văn: Nước lên, Bụi ô tô, Một đêm sáng trăng suông, Bệnh già,
Trê cóc ... Cũng trong thời gian này ông đã thực hiện "Một chuyến đi" vào miền Trung và Nam
Bộ, vừa đi, quan sát, vừa viết. Sau chuyến đi này, năm 1941, thiên đồng thoại "Dế mèn phiêu
lưu ký" ra đời, nổi lên như một hiện tượng văn học độc đáo, bộc lộ rõ thiên hướng và tài năng
văn chương ở ông, khẳng định vị trí văn học của ông trong làng văn đương thời, cũng như
trong lịch sử văn học sau này.
Điểm qua các tác phẩm chủ yếu của Tô Hoài trước Cách mạng tháng 8: Giăng thề (1941),
Dế mèn phiêu lưu ký (1941), Quê người (1942), O chuột (1942), Nhà nghèo (1942), Xóm
Giếng ngày xưa (1944), Cỏ dại (1944) V.V.... ta thấy tác giả hướng ngòi bút vào hai mảng đề
tài chính: viết về vùng quê ngoại - Nghĩa Đô với những người nông dân, thợ thủ công nghèo,
lam lũ và viết về loài vật những con vật hiền lành, bé nhỏ gần gũi với sinh hoạt của con người.
Những trang viết này thể hiện rõ nét đặc sắc của ngồi bút Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám
"Một tâm hồn gắn bó với quê nghèo, hiển hòa bình lăng, với những người áo nâu chân lấm.
Ông biết tìm cái đẹp, cái giản dị trong khung cảnh đơn sơ rất đời ở Việt Nam, trong những con
người bé nhỏ, chất phác, nghĩa tình và thông cảm với niềm vui, nỗi đau thường trực của họ" 1.
1

Trần Hữu Tá -Văn học Việt Nam 1945-1975 (Chương XII. Tô Hoài). Tập 2 NXB Giáo dục. 1990, trang 175

5


Cách mạng tháng Tám đánh dấu một bước chuyển rõ rệt trong tư tưởng và sáng tác của
Tô Hoài. So với nhiều nhà văn cùng thời, Tô Hoài sớm vượt qua thời kỳ "nhận đường" để
nhanh chóng tiếp cận các vấn đề mới của đời sống và hướng ngòi bút của mình vào sự nghiệp

cách mạng của dân tộc.
Trong giai đoạn này, nhịp độ sáng tạo nghệ thuật của Tô Hoài ngày càng tăng tiến cả về
số lượng lẫn chất lượng nghệ thuật, ông viết nhiều, viết đều tay và thành công nhiều thể loại.
Những tác phẩm của ông sau 1945 có thể kể: về truyện ngắn và tiểu thuyết có Lão đồng chí,
Núi cứu quốc, Xuống làng, Truyện Tây bắc, Khác trước, Mười năm, Vô tình, Miền Tây,
Người ven thành, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Tự truyện, Những ngõ phố, Người đường
phố, Họ Giàng ở Phìn-sa, Quê nhà ; về ký có : Đại đội Thăng Bình, Thành phố Lê-nin, Tôi
thăm Cam-pu-chia, Nhật ký vùng cao, Lăng Bác Hồ, Trái đất tên người, Hoa hồng vàng
song cửa, Mùa thu Lu-ang-pha-bang, Nhớ Mai Châu, Cát bụi Châu Ái ... và hàng loạt
truyện, kịch truyện phim, kịch múa rối, hoạt họa cho thiếu nhi : Kim Đồng, Vừ A Dính, Ông
Gióng, Con mèo lười, Trâu hóc, Đảo hoang, Sự tích Thăng Long, Chim chích lạc rừng,
Đàn chim gáy v.v...
Điểm qua quá trình sáng tác của Tô Hoài gần 60 năm qua, tôi thấy ông không chỉ là nhà
văn viết nhiều về số lượng và thể loại, mà còn là một trong những nhà văn viết nhiều đề tài;
trong đó thành tựu nổi bật nhất có giá trị khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của ông
tập trung phần lớn vào hai mảng đề tài: viết về loài vật và viết về miền núi) Nói đến phong
cách Tô Hoài, ta nghĩ ngay đến Tô Hoài của truyện loài vật và Tô Hoài của vùng cao Tây Bắc.
Đặc biệt đáng lưu ý ở Tô Hoài sau Cách mang tháng Tám là đề tài miền núi, một đề tài đã thu
hút tâm lực, tình cảm của ông nhiều hơn cả, đồng thời cũng mang đến cho ông thành công
nhiều hơn cả, một đề tài sáng tác gần hơn với tên tuổi nhà văn, hơn nửa thế kỷ qua, đã giúp nhà
văn cắm những cái mốc quan trọng trong cuộc đời sống tác. Có thể khẳng định rằng: những
thành tựu chủ yếu của Tô Hoài trong quá trình chuyển biến từ một nhà văn hiện thực phê phán
sang nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa tập trung phần lớn vào đề tài miền núi. Tìm hiểu Tô
Hoài sau Cách mạng tháng Tám, không thể không tìm hiểu quá trình sáng tác và những thành
tựu về đề tài miền núi của ông với hai tác phẩm tiêu biểu: Truyện Tây Bắc (1953) - Giải nhất
về tiểu thuyết, giải thưởng văn học 1954-1955 của Hội Văn nghệ Việt Nam và Miền Tây
(1967) - Giải thưởng Hoa Sen của Hội nhà văn Á-Phi 1971
6



2. Một đặc điểm nổi bật trong phong cách sáng tác Tô Hoài đó là nghệ thuật thể hiện bản
sắc dân tộc. Ông là một nhà văn có biệt tài về miêu tả phong tục với một cảm quan nghệ thuật
đặc biệt nhạy bén, sâu sắc, tinh tế. Những trang viết của ông ở mọi đề tài đều thấm đượm màu
sắc dân tộc, rất gần gũi với đời sống và tâm hồn dân tộc. Đúng như Hà Minh Đức nhận xét:
"Đặc điểm đầu tiên dễ nhận thấy qua những sáng tác của Tô Hoài là tính dân tộc rõ nét và
đậm sắc thái. Có thể nói rằng tất cả những cái ông viết ra đều thuộc về phần bản chất và tiêu
biểu của đời sống dân tộc”. 1
Đặc điểm này có thể thấy bàng bạc trong hàng loạt tác phẩm của ông ở nhiều đề tài: đề tài
làng quê Việt Nam (Quê người, Quê nhà, Mười năm), trong các tiểu thuyết dựa vào các
truyền thuyết cổ (Đất hoang, Nhà Chử), tiểu thuyết viết về người thật, việc thật (Hoàng Văn
Thụ, Vừ A Dính), hoặc trong các tác phẩm ký viết về nước ngoài (Thành phố Lênin, Tôi
thăm Campuchia, Trái đất tên Người, Hoa hồng vàng, Song cửa, Mùa thu Lu-ang-phabang, Kỷ niệm Ấn Độ v.v...).
Đặc biệt trong những sáng tác về đề tài miền núi, bản sắc dân tộc miền núi Tây Bắc đã
được Tô Hoài thể hiện đậm nét.
Tất nhiên, không phải ngay từ đầu ông đã có được những thành công đó. Trong tập truyện
ngắn đầu tay "Núi cứu quốc" khi đi vào miêu tả con người và cảnh vật vùng cao, Tô Hoài đã
rơi vào xu hướng tản mạn, tham lam nhiều chỉ tiết lạ. Chỉ đến "Truyện Tây Bắc" và "Miền
Tây" nhược điểm này mới được khắc phục, bản sắc dân tộc miền núi được thể hiện rõ nét, bằng
một nghệ thuật thể hiện độc đáo, khẳng định phong cách cùng những cống hiến to lớn của ông
trong đề tài này.
Từ trước đến nay, tìm hiểu Tô Hoài với tư cách là một nhà văn hiện thực XHCN, phần
căn bản nhất là tìm hiểu đề tài miền núi. Tìm hiểu đề tài miền núi trong sáng tác của Tô Hoài
căn bản là tìm hiểu giá trị "Truyện Tây Bắc” và "Miền Tây” trong đó vấn để bản sắc dân tộc
là một giá trị lớn cẩn được đi sâu nghiên cứu và thẩm định đúng mức.

1

Hà Minh Đức -Lời giới thiệu "Tuyển tập Tô Hoài", Tập I, NXB Văn học, 1987, trang 31

7



II./LỊCH SỬ VẤN ĐỀ :
Việc tìm hiểu, nghiên cứu những thành tựu và đóng góp của Tô Hoài về đề tài miền núi
không phải là công việc mới xưa nay. Riêng với "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" đến nay đã
có khá nhiều chuyên luận, bài phê bình, khảo cứu đề cập, khai thác ở nhiều phương diện phong
phú. Có thể kể trong các giáo trình đại học, tiêu biểu là các chương viết của các giáo sư Huỳnh
Lý (giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 6, Đại học Sư Phạm), giáo sư Hoàng Như Mai
(giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại 1945-1975, Đại học Tông Hợp), giáo sư Trần Hữu Tá
(giáo trình Văn học Việt Nam 1045-1975, tập 2) và trong một số bài phê bình tiêu biểu như của
Hà Minh Đức (“Tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài”)(1), của Phan Cự Đệ ("Tô Hoài với Miền
Tây”)(2).
Trong các chương viết, các bài phê bình này các tác giả tập trung phân tích, nhận định,
đánh giá những giá trị Tông quát về nội dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện của tác phẩm và
ở mức độ đậm, nhạt đều có nhấn mạnh đến đặc điểm phong cách nghệ thuật của Tô Hoài trong
việc thể hiện bản sắc dân tộc miền núi. Đơn cử một vài nhận xét:
- "Viết về đề tài miền núi, Tô Hoài đã thể hiện khá đậm nét tính chất dân tộc trong nội
dung cũng như trong hình thức miêu tả” (Hà Minh Đức)(3)
- "Tô Hoài muốn giữ cho mình một phong cách đậm đà màu sắc dân tộc, có khi rất gần
với lối kể chuyện dân gian... Lối kể chuyện đó của Tô Hoài được bổ sung bằng những trang
miêu tả trang phục, sinh hoạt đầy những chi tiết sinh động của một cây bút có óc quan sát
thông minh tinh tế” (Phan Cự Đệ).(4)
- "Tô Hoài có một nhãn quan phong tục đặc biệt nhạy bén, sắc sảo. Trước Cách Mạng
tháng Tám, viết về nông thôn, ông đã giúp độc giả biết thế nào là tục tảo hôn, nạn nặc nô đòi
nợ, tục lệ giỗ, tế ma chay ... của một vùng ngoại thành Hà Nội Sau Cách Mạng tháng Tám, Tô
Hoài đặc hiệt chú ý đến những phong tục độc đáo của các dân tộc miền núi Tây Bắc, đặc biệt
là dân tộc Mèo..." (Trần Hữu Tá).(5)

Hà Minh Đức – “Tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài" - Tạp chí Văn học, 2/1969
Phan Cự Đệ - “Tác phẩm và chân dung" - NXB Văn học, H, 1981, trang 98-108

3
Hà Minh Đức – “Tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài" - Tạp chí Văn học, 2/1969
4
Phan Cự Đệ - "Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại" - NXB ĐH-CN, H, tr.78
5
Trần Hữu Tá - Tlđd. trang
1
2

8


Ở mức độ sâu hơn khi nghiên cứu, tìm hiểu đề tài miền núi trong sáng tác của Tô Hoài,
đáng lưu ý các chuyên luận của Phan Cư Đệ trong "Nhà văn Việt Nam hiện đại. Tập 1”(1),
của Hà Minh Đức trong lời giới thiệu "Tuyển tập Tô Hoài''(2), của Vân Thang trong bài viết
"Tô Hoài với đề tài miền núi"(3). Ở các chuyên luận này, các tác giả đã dành một dung lượng
nhất định cho việc đi sâu tìm hiểu nghệ thuật thể hiện bản sắc dân tộc trong các sáng tác về
miền núi của Tô Hoài, nhất là qua hai tác phẩm "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây". Tuy nhiên
việc tìm hiểu cũng chỉ nằm trong khuôn khổ nghiên cứu những giá trị chung của tác phẩm,
những thành tựu chung của tác giả chứ chưa đưa thành vấn đề nghiên cứu có hệ thống, chuyên
sâu.
Chúng tôi nghĩ rằng, đi sâu nghiên cứu bản sắc dân tộc miền núi trong các sáng tác của
Tô Hoài, đặc biệt là ở “Truyện Tây Bắc" và “Miền Tây" là một công việc có ý nghĩa. Bởi lẽ,
tính chất dân tộc, nghệ thuật thể hiện bản sắc dân tộc là một đặc điểm lớn trong sáng tác của Tô
Hoài nói chung, đặc biệt là trong các sáng tác về đề tài miền núi. Tìm hiểu vấn đề này, sẽ thấy
hết quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật của ông, có thêm cơ sở để khẳng định những cống
hiến cùng phong cách nghệ thuật đích thực của ông trong quá trình chiếm lĩnh đề tài này.

III./ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN:
Thật khó có thể đòi hỏi ở luận văn này những phát hiện, khám phá mới. Bản thân đề tài

cũng đã nói lên điều ấy. Cái mới ở luận văn này là công phu của người viết trong việc tiếp thu
có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của người đi trước, Tông hợp, hệ thống lại thành vấn đề
chuyên sâu.
Trên phương hướng đó, từ hai tác phẩm "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây", người viết sẽ
đi sâu khắc họa bức tranh toàn diện về bản sắc của cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc:
từ trong bản chất truyền thống, trong cuộc đời cũ và trong cuộc đấu tranh giành quyền sống,
vươn tới tự do hạnh phúc; đồng thời tìm hiểu những nét độc đáo trong nghệ thuật thể hiện bản
sắc miền núi của Tô Hoài, đặc biệt đi sâu khám phá, phân tích những biểu tượng cụ thể của bút
pháp trữ tình và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của nhà văn.

Phan Cự Đệ - "Nhà văn Việt Nam biện đại, Tập I”, NXB ĐH-CN, H. 1979. trang
Tuyển tập Tô Hoài. T 1, NXB văn học. H, 1978, trang 31
3
Vân Thanh – “Tô Hoài với đề tài miền núi", TCVH, số 1/1972 trang 32 - 46
1
2

9


Thực hiện được những yêu cầu trên, bản luận văn sẽ có những đóng góp:
1.Góp phần khẳng định những cống hiến xuất sắc của Tô Hoài cho để tài miền núi nó!
riêng và cho nến văn xuôi Việt Nam hiện đại hơn nữa thế kỷ qua. Đặc biệt, góp phần làm sáng
tỏ một đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Tô Hoài là giàu tính dân tộc, đậm sắc thái dân tộc.
2.Sự thành công của luận văn sẽ góp phần khẳng định: có một phong cách Tô Hoài ở đề
tài miền núi, cũng như trong văn xuôi hiện đại Việt Nam.

IV./ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện luận văn này, người viết sử dụng hệ thống các phương pháp chung và
phương pháp chuyên ngành sau :

1.Phương pháp phân tích - Tông hợp:
Chủ yếu sử dụng kỹ năng - phương pháp phân tích tác phẩm văn học để đi sâu phân tích
sự kiện, chỉ tiết, tính cách nhân vật trong hai tác phẩm "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" và
các tác phẩm Hồn quan, trốn cơ sở đó Tông hợp, khái quát, kiến giải vấn để.
2.Phương pháp so sánh:
Cùng với phương pháp phân tích - Tông hợp, người viết kết hợp sử dụng phương pháp so
sánh loại hình - lịch sử nhằm đối chiếu, so sánh tác phẩm "Truyện Tây Bắc" và “Miền Tây"
với các tác phẩm khác của Tô Hoài, cũng như các tác phẩm của các tác giả khác viết về miền
núi, nhằm khái quát nét chung, phát hiện những nét riêng, độc đáo của Tô Hoài trong quá trình
chiếm lĩnh đề tài miền núi, làm rõ những nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật Tô Hoài.
3.Phương pháp thống kê - hệ thống:
Tìm hiểu vấn đề bản sắc dân tộc là tìm hiểu những nét đặc thù, độc đáo của dân tộc, nên
sẽ có phần phải gia công khai thác những yếu tố lặp đi lặp lại của các phương tiện biểu hiện
trong nghệ thuật chiếm lĩnh thực tại của nhà văn. Do vậy cần thiết sử dụng phương pháp thống
kê -hệ thống. Với phương pháp này, người viết đặc biệt sử dụng để đi sâu khảo sát nghệ thuật
sử dụng từ, sáng tạo từ mới của nhà văn.

10


4.Cùng với hệ thống phương pháp cơ bản trên, để thực hiện luận văn này, người viết sẽ
khảo sát, vận dụng thêm phần lớn kiến thức về lịch sử, địa lý, dân tộc học để bổ trợ làm nền soi
sáng những vấn đề kiến giải.
5.Một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận được đặc biệt lưu ý trong thực hiện luận văn
này là việc quán triệt và vận dụng một cách thấu đáo đường lối, quan điểm và các chính sách
của Đảng về vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc. Lịch sử phát triền của các dân tộc miền núi
hơn 60 năm qua luôn gắn liền với các chính sách dân tộc của Đảng. Vì vậy đây chính là điểm
tựa quan trọng để xem xét vấn đề dân tộc, bản sắc dân tộc trong văn học.

V./ CÂU TRÚC CỦA LUẬN VĂN:

PHẦN DẪN LUẬN.
I./Quan niệm về đề tài
II./Lịch sử vấn đề
III./Những đóng góp của luận văn
IV./Phương pháp nghiên cứu
V./Cấu trúc của luận văn
PHẨN NỘI DUNG.
Chương I: Tô Hoài với đề tài miền núi
I./Đề tài miền núi trong văn học.
II./Quá trình chiếm lĩnh đề tài miền núi của Tô Hoài và vị trí "Truyện Tây
Bắc" và "Miền Tây".
Chương II: Vấn đề bản sắc dân tộc.
I./Vấn đề bản sắc dân tộc.
II./Tây Bắc : miền núi giàu bản sắc.
Chương III: Bản sắc dân tộc miền núi trong "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" của Tô
Hoài.

11


I./Bản chất cuộc sống và con người Tây Bắc qua "Truyện Tây Bắc" và "Miền
Tây".
II./Bức tranh sinh động về cảnh đời cùng những điển hình về số phận người
nông dân miên núi Tây Bắc trong "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây".
III./Bản sắc dân tộc miền núi trong cuộc đấu tranh chống các thế lực thống trị
giành quyền sống và vươn tới cuộc đời hạnh phúc qua "Truyện Tây Bắc" và
"Miền Tây".
Chương IV: Nghệ thuật thể hiện bản sắc dân tộc miền núi của Tô Hoài trong "Truyện Tây
Bắc" và "Miền Tây".
I./Bút pháp trữ tình.

II./Nghệ thuật tả phong tục.
III./Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ.
KẾT LUẬN
THƯ MỰC

12


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÔ HOÀI VỚI ĐỀ TÀI MIỀN NÚI

1.1.Đề tài miền núi trong văn học.
Miền núi là một bộ phận của đất nước. Đồng bào miền núi là thành viên của cộng đồng
dân tộc. Vấn đề dân tộc miền núi từ hàng nghìn năm nay là vấn đề hiện thực của lịch sử, lẽ ra
phải được phản ánh và trở thành một đề tài có vị trí xứng đáng trong nền văn học trong các thời
đại. Thế nhưng, không phải trong bất kỳ nền văn học nào, vấn đề miền núi cũng được phản ánh
và phản ánh đúng đắn. Với chính sách áp bức, khinh miệt các dân tộc nhỏ, từ xưa đến nay,
trong nền văn học của bọn thống trị: phong kiến và đế quốc, đề tài miền núi hoàn toàn không
có chỗ đứng. Lý do đơn giản: chúng không muốn đồng bào các dân tộc thiểu số - những người
mà chúng coi là lạc hậu, đần độc, man rợ -được quyền bình đẳng về văn hóa.
Trước Cách mạng tháng Tám, văn học của bản thân các dân tộc thiểu số hoàn toàn không
phát triền, nhất là về lĩnh vực văn xuôi, trừ các sáng tác dân gian như: Khan, Mo, Hơmon,
truyện cổ, truyện thơ ... Trong văn học công khai, đề tài miền núi cũng không được quan tâm,
ngoài một hiện tượng viết về rừng núi cần lưu ý, đó là loại "Truyện đường rừng” tưởng tượng
của một số cây viết lãng mạn. Tiêu biểu có thể kể : Lan Khai với "Truyện đường rừng"
(1940), "Tiếng gọi rừng thẳm" (1939), Thế Lữ-với "Vàng và máu" (1934). Qua các truyện
này, ta thấy hiện thực miền núi bị dựng lên một cách sai lạc: Khung cảnh núi rừng lúc hiện lên
một cách thơ mộng kỳ ảo giả tạo với các cô gái Thổ đẹp mê ly, bí ẩn, lúc là những cảnh ma
thiêng, nước độc với những con người man rợ cuồng nhiệt, quái dị ... Một kiểu "Truyện đường
rừng” nhằm kích thích óc tưởng tượng viễn vỏng của tầng lớp tiểu tư sản thành thị hồi đó.

Phải đến sau Cách mạng tháng Tám, với chính sách dân tộc, chính sách phát triền văn hóa
dân tộc đúng đắn của Đảng, đề tài miền núi mới được khôi phục đúng với vị trí của nó trong
văn học.
Văn học của bản thần các dán tộc anh em được quan tâm phát triền : về thơ và truyện thơ
có các tác giả : Vương Anh (Mường), Cầm Biêu, Lò Văn Cậy, Lương Qui Nhân, Vương Trung
(Thái), Nùa A Sấu, Mã A Lềnh (H'Mông), Nô Lô Y Cla Vi (Ê Đê), Klay-lăng (Ba Na), Lò
13


Ngân Sủn (Giáy), Nông Văn Bút (Nùng), Nông Quốc Chấn (Tày) v.v... Đặc biệt văn xuôi miền
núi được hình thành và ngày càng xuất hiện nhiều cây viết: Nông Minh Châu, Vi Thị Kim
Bình, Vi Hồng, Hoàng Triều Ân, Hoàng Trung Thu, Hoàng Đình Đạt, Bế Dôn, Nông Viết
Toại, Vương Hùng, Triệu Báo, Hoàng Hạc, Chu Thanh Hùng (Tày), Lò Văn Sỹ (Thái), Nông
Trung (Giáy), Y Điêng (Ê Đê), Tu Tếch (Padí), Mã A Lềnh (H'Mông) v.v...
Bên cạnh sự phát triền văn học của bản thân các dân tộc miền núi, thành tựu đáng chú ý
trong văn học sau cách mạng là sự khôi phục và phát triền đội ngũ nhà văn miền xuôi viết về
miền núi. Hiện thực miền núi ngày càng được các nhà văn nhận thức và thể hiện đa dạng trong
các tác phẩm. Con người miền núi đã có nhưng đại biểu xứng đáng - trong nhiều tác phẩm tiêu
biểu sau cách mạng: Tập thơ việt Bắc của Tố Hữu, Nhật ký ở rừng của Nam Cao, Ký sự Cao
Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Nhật Ký lên
Mèo, Sông Đà của Nguyễn Tuân, Rừng Đông của Mạc Phi, Kan Lịch của Hồ Phương, Đồng
Bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Gió rừng, Xa phủ, Vệ sĩ của quan châu của Ma Văn
Kháng, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành v.v... và nhiều tác phẩm khác của nhà văn Đỗ
Quang Tiến, Bàng Thúc Long, Xuân Cang, Phùng Lê...
Trong những thành tựu chung đó, phải đăc biệt kể đến Tô Hoài, nhà văn có công đầu
trong việc triền khai và chiếm lĩnh đề tài miền núi, với hai tác phẩm nổi tiếng: "Truyện Tây
Bắc" giải nhất về tiểu thuyết trong giải thưởng văn học 1945-1955 của Hội Văn nghệ Việt Nam
và tiểu thuyết "Miền Tây" : giải thưởng Hoa Sen của Hội nhà văn Á - Phi, 1971.

1.2.Quá trình chiếm lĩnh đề tài miền núi của Tô Hoài và Vị trí "Truyện Tây Bắc"

và "Miền Tây" trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
Tô Hoài là một trong những nhà văn viết nhiều và viết thành công sớm nhất về đề tài
miền núi. Mấy chục năm qua, ông đã để lại cho nền văn học hiện đại nhiều tác phẩm viết về
các dân tộc thiểu số anh em, đặc biệt là các dân tộc vùng rừng núi Tây Bắc. Phải chăng nhà văn
vốn có duyên nợ với đề tài này ? Tô Hoài có tâm sự rằng hồi còn hoạt động bí mật ở Hội Văn
hóa cứu quốc, khi nghe đồng chí Bé trong đơn vị ca ngợi tinh thần dũng cảm của đội nữ du
kích ở Ba Bể, ông có ý định viết về sự kiện này, nhưng chỉ bằng tưởng tượng nền không thành
công. Sau này trong hồi ký "Một quãng đường", ông đã nhắc lại kỷ nhiệm đó: "Đội du kích Ba
Bể tưởng tượng của tôi đã thành một kỷ niệm - trong đời viết. Biết đâu nó không phải là ngọn
14


nguồn cho tư tưởng và tình cảm của tôi sau này, khi tôi đi vào cuộc sống miền núi - quê hương
thứ hai cho sáng tác của tôi” Cũng như vậy, trong dịp trả lời phòng vấn của Tạp chí văn học
nhân kỷ niệm hai mươi năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Tô Hoài nói về quá
trình viết về miền núi của mình: "Trước Cách mạng, rừng núi hoàn toàn xa lạ với tôi. Lần đầu
trong thời kỳ chuẩn bị Tông khởi nghĩa, tiếng vang của chiến khu Việt Bắc dội xuống đồng
bằng, qua sách báo bí mật của Đảng và những câu chuyện kể của cán bộ cách mạng, hình ảnh
và thực tế cách mạng ấy hấp dẫn tôi, gợi tôi suy nghĩ”(1).
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài làm phóng viên báo Cứu quốc, được cử đi vào mặt
trận phía Nam, vào Nha Trang, lên chiến trường Tây Nguyên, rồi xuống mặt trân An Khê. Hai
năm 1947-1948 ông lên công tác ở những vùng người Dao như: Cốc Phương, Vàng Kheo,
Pích-Cáy, Khuổi-Buồn trên triền núi Phia-boóc. Suốt thời gian ở đây ông đi sâu vào vùng căn
cứ địa Việt Bắc: Làm công tác báo chí, tuyên truyền, rồi làm cán bộ địa phương, cùng ăn, cùng
ở với đồng bào. Từ những chuyến thâm nhập thực tế đầu tiên ấy, Tô Hoài đã viết nhiều tác
phẩm nhằm ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của đồng bào miền núi trong những năm tháng
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, có thể kể đến: Lão đồng chí, Lên Củng Sơn
(1946), Ngược sông Thao (1949), Đại đội Thăng Bình (1950), Xuống làng (1951)... Đáng
chú ý nhất trong giai đoạn này là tập truyện ngắn "Núi Cứu quốc" (1948) gồm bốn truyện
: Đồng chí Hùng Vương, Nà-Lộc, Tào Lường.

Công tác xa và hai bút ký "Đường bí mật xuống làng" và "Qua Ba Bể", tập trung phác
họa những hình ảnh đầu tiên về cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở những triền núi
cứu quốc, căn cứ địa của cuộc kháng chiến. Tuy chỉ mới là phác họa, tập truyện đã ghi nhận
được những hình ảnh khá chân thực về hiện thực cuộc sống và con người miền núi, hoàn toàn
khác hẳn loại "Truyện đường rừng" tưởng tượng của các cây viết lãng mạn trước đây. Tác
phẩm đã cho ta hiểu con người miền núi đúng với bản chất của họ là những con người thật thà,
chất phác, thủy chung và có lòng tin tưởng mãnh liệt ở cách mạng. Những nhân vật Hùng
Vương, Bảo, Sìn đã để lại ấn tượng sâu sắc khó quên về người cán bộ miền núi nhiệt tình, tận
tụy trong công tác cách mạng.

1

Tô Hoài trả lời phỏng vấn TCHV số 10/1965, trang 60

15


Tuy có những thành công nhất định, ở "Núi Cứu quốc" cũng chỉ mới đánh dấu quá trình
chuyển biến bước đầu của Tô Hoài - một quá trình chuyển biến hãy còn dang dở. Trong Núi
Cứu quốc và những tác phẩm ngày đầu cách mạng của ông, từ nội dung phản ảnh cho đến ngôn
ngữ biểu hiện còn mang khá nhiểu dấu vết của chủ nghĩa tự nhiên. Phản ánh hiện thực miền
núi, ông thiên về khai thác, miêu tả cái đẹp tự nhiên. Nhìn người miền núi ông còn nhìn với con
mắt của một kẻ xa lạ say ngắm như để tìm kiếm trong đó một sự kỳ thú. Sau này trong "Những
kinh nghiệm viết văn của tôi" Tô Hoài đã thú nhận nhược điểm của mình hồi đó là "quả
chuông lạ, thích lạ và khoe chữ”(1). Tất nhiên đó là một hạn chế không thể tránh khỏi. Tô Hoài
chưa thể nào có được sự hiểu biết sâu sắc về các dân tộc miền núi khi chỉ mới tiếp xúc lần đầu
tiên.
Phải đến 1953, tập "Truyện Tây Bắc" ra đời mới thật sự đánh dấu bước ngoặt quyết định
của Tô Hoài trong quá trình chiếm lĩnh đề tài miền núi và chuyển biến từ một nhà văn hiện
thực phổ phán sang một nhà văn hiên thực xã hội chủ nghĩa. "Truyện Tây Bắc" là tác phẩm

đầu tiên viết về miền núi thành công nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn học sau 1945 nói
chung. Đó là kết quả của quá trình chuyến biến đến mức độ chín muồi về tư tưởng tình cảm của
nhà văn trong thực tiễn cuộc sống kháng chiến ở miền núi. Đó công là kết quả của một quá
trình nhận thức sâu sắc, thông qua hành động thực tiễn đường lối giai cấp và chính sách dân tộc
của Đảng. Tô Hoài đã kể về thực tế sáng tác "Truyện Tây Bắc" : "...Năm 1952 tôi theo bộ đội
chủ lực tiến quân vào miền Tây, tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc các đơn vị quân ta qua
sông Thao, đánh tan nhiều đạo quân và đồn bốt địch, cho đến lúc vượt sông Đà, thì đã giải
phóng được một giải đất rộng lớn phía hữu ngạn, trong đó bao gồm nhiều khu du kích của các
dân tộc anh em đã chiến đấu ròng rã nhiều năm giữa lòng địch (...) Cái kết quả lớn nhất và
trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho
tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng Ả Phủ tiễn tôi ra khỏi dốc núi làng
Tà Sua, cùng vẫy tay gọi "chéo lù!chéo lù" (trở lại!trở lại)... hai tiếng "trở lại !trở lại" chẳng
những nhắc tôi có ngày trở lại mà còn phải đem "trở lại" cho những người thương ấy một kỷ
niệm tấm lòng mình, một cái gì làm hiển hiện lại cả cuộc đời người Mèo trung thực, chí tình,
dù gian nan thế nào bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại.
Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc
1

Tô Hoài - "Những kinh nghiệm viết văn của tôi", NXB VH, H. 1979

16


trong tâm trí tôi...Ngay cho tới hôm nay tôi vẫn bổi hồi nhớ như in. Đó là một ám ảnh mạnh mẽ
thúc đẩy tôi sáng tác. Ý thức tha thiết với đề tài là một lẽ quyết định, vì thế tôi viết Truyện Tây
Bắc” 1.
Sau "Truyện Tây Bắc”, Tô Hoài vẫn tiếp tục thâm nhập thực tế miền núi trong những
chuyến đi công tác và sáng tác. Tuy nhiên trong những năm đầu sau ngày hòa bình lập lại ông
không viết được tác phẩm nào đáng kể. Nhất là trong giai đoạn miền Bắc đi vào cải tạo Xã hội
chủ nghĩa. Cuộc sống mới và những yêu cầu mới của cách mạng có làm ông bỡ ngỡ ? ông bị

phê phán là mơ hồ trước cuộc đấu tranh giai cấp. Trong bài "Tổ chức phát triển lực lượng
sáng tác trước nhất" (báo Văn số 13, 02/08/1957) và trong bài "Góp phần ý kiến về con
người thời đại" (báo Văn số 22, 04/10/1957), Tô Hoài đã nhấn mạnh việc thúc đẩy tổ chức,
phát triển sáng tác, không chú trọng đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ, "không nên dán thuốc
cao khi chưa có nhọt đấu tranh". Chính trong giai đoạn này tiểu thuyết "Mười năm" ra đời,
chịu những đòn mổ xè, phê bình quất mạnh. Sau này trong hồi ký "Cát bụi chân ai"(2) ông đã
lạnh lùng nhắc lại sư kiện này như một kỷ niệm đau xót khó quèn.
Sau cuộc đấu tranh "Nhân văn giai phẩm", tư tưởng Tô Hoài chuyển biến mạnh. Tuy
nhiên việc nhận thức cái mới trong sáng tác của ông có phần sút hẳn so với thời kỳ đầu cách
mạng và trong kháng chiến chống Pháp. Trong tình trạng đó, những sáng tác về miền núi của
ông thời kỳ này cũng không có gì nổi bật, ngoài một số bút ký được tập hợp chung trong tác
phẩm "Vỡ tỉnh" (1962).
Lại phải đến năm 1967, tiểu thuyết "Miền Tây" ra đời cắm cái mốc thứ hai, đánh dấu một
bước tiến mới của nhà văn trong quá trình chiếm lĩnh đề tài miền núi. So với những tác phẩm
trước đó, "Miền Tây" đã thể hiện một cách toàn diện và quy mô hơn chủ đề này. Viết "Miền
Tây", một lần nữa Tô Hoài thể hiện rõ tấm lòng yêu mến, thủy chung đối với đồng bào ruột thịt
ở vùng cao. Từ khi hòa bình lập lại, trở về thành thị miền xuôi, nhưng trong lòng ông luôn nhớ
về Tây Bắc. Năm 1959 Tô Hoài lại về Châu Mộc, Châu Thuận, Châu Tuần Giáo. Từ năm
1964-1966 ông lại nhiều lần trở lên Tuần Giáo, Hà Giang, lên cao nguyên Đồng Văn, Mèo
Vạc, Phó Bảng, Văn Chải thăm lại tất cả những người anh em vùng cao. Trong hồi ký "Cát bụt
chân ai" Tô Hoài đã dành trọn chương bốn, để ghi lại những ngày trở lại vùng cao yêu dấu của
1
2

Một số kinh nghiệm viết văn của tôi - Sđd, trang 70-71
Tô Hoài "Cát bụi chân ai", hồi ký, NXB Hội Nhà văn H. 1992

17



mình. "Miền Tây" chính là kết quả được ấp ủ, thai nghén trong suốt thời gian dài của những
chuyến hồi hương tình nghĩa ấy.
Sau "Miền Tây" Tô Hoài vẫn tiếp tục viết về miền núi. Nhưng những thành công chủ yếu
của ông trong giai đoạn sau này là những tác phẩm viết về người thật, việc thật, về những
người anh hùng miền núi, tiêu biểu là "Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ". "Vừ A Dính" v.v...
Điểm qua quá trình sáng tác vể miền núi của Tô Hoài, có thể rút ra một nhận xét cơ bản:
Gần năm mươi năm qua, những thành tựu chủ yếu của Tô Hoài trong sáng tác, có một phần lớn
tập trung ở đề tài miền núi, trong đó “Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" là những tác phẩm
xuất sắc nhất, có giá trị như những cột mốc đánh dấu những bước phát triền quan trọng về tư
tưởng và nghệ thuật của ông trong quá trình chiếm lĩnh phương pháp sáng tác hiện thực xã hội
chủ nghĩa.
Từ trước đến nay, tìm hiểu nhà văn Tô Hoài với tư cách là một nhà văn cách mạng, phần
căn bản nhất là tìm hiểu đề tài miền núi. Tìm hiểu đề tài miền núi trong sáng tác của Tô Hoài
căn bản là tìm hiểu giá trị "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây".

18


CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ BẢN SẮC DÂN TỘC

2.1.Vấn đề bản sắc dân tộc và sự thể hiện bản sắc dân tộc trong văn học:
Nước ta cũng như nhiều nước trẽn thế giới bao gồm nhiều dân tộc anh em. Để nhận diện,
phân biệt một cách tổng quát người ta gọi chung là dân tộc thiểu số và dân tộc đa số. Giữa các
đồng tộc người này có địa bàn cư trú, cùng những điều kiện sinh hoạt, làm ăn khác nhau. Do
vậy, trải qua quá trình lịch sử lâu dài đã dần dần hình thành nên ở mỗi dân tộc những nét bản
lĩnh, bản sắc riêng.
2.1.1.Vấn đề bản sắc dân tộc:
Xưa nay có khá nhiều quan niệm xung quanh vấn đề bản sắc dân tộc nói chung và tính
dân tộc trong văn học nói riêng ; tựu trung có mấy quan niệm lớn:
- Quan niệm thứ nhất cho rằng bản sắc dân tộc thể hiện chủ yếu ở những hình thức đặc

thù, ở những phương tiện miêu tả, diễn dạt. Nó là những cái thật độc đáo, khác biệt mà chỉ dân
tộc đó mới có, ví dụ như: trang phục - cách ăn mặc ; nhạc cụ dân tộc, nghệ thuật dân gian, đặc
biệt là ngôn ngữ: "Tính dân tộc thể hiện trước hết là ở ngôn ngữ, ngôn ngữ là đặc trưng chủ
yếu của một dân tộc” "Khái niệm về tính dân tộc ở đây gần giống như khái niệm về ngôn
ngữ”(1)
- Quan niệm thứ hai, đối lập với quan niệm thứ nhất, cho rằng bản sắc dân tộc thể hiện
chủ yếu ở các đặc thù bên trong và cũng chỉ dân tộc mình mới có: phong tục, tập quán, nếp
sống, nếp nghĩ v.v... "Dân tộc là kết quả của sự gom góp tất cả các nết hay mà dân tộc ấy sẵn
có"(2)
- Quan niệm thứ ba, phổ biến và phức tạp nhất, đi tìm bản sắc dân tộc ở tám lý dân tộc,
tức là những giá trị tinh thần của một dân tộc. "Nhưng yếu tố chính quyết định bản sắc dân tộc,
tính dân tộc nói chung cũng như tính dân tộc trong văn nghệ là tâm lý dân tộc” hoặc "Tính

1
2

Mai Thức Luân - Thử bàn về tính chất dân tộc trong văn nghệ, Tạp chí Văn nghệ số 53, 10/62
Lan Khai -Tính cách Việt Nam trong văn chương, Tạp chí Tao đàn, số 4, NXB Tân dân, 1939

19


chất dân tộc biểu hiện cấu tạo tâm lý dân tộc là tổng hợp các đặc điểm tinh thần của dân tộc,
hình thành dần trong quá trình phát triển của dân tộc” (1)
Điểm qua các quan niệm trên, ta thấy mỗi quan niệm đều có phần "hạt nhân hợp lý” của
nó. Đúc rút, tổng hợp phẩn "hạt nhân hợp lý" trong các quan niệm ấy ta có một cách hiểu hoàn
chỉnh về vấn đề bàn sắc dân tộc.
Nói đến bán sắc dán tộc là nói đến "những nét đặc sắc, những nét truyền thống, những giá
trị vật chất, tinh thần và văn hóa mà mỗi dân tộc tự xây đắp nên trong quá trình phát triển lâu
dài của lịch sử dân tộc, trong công cuộc đấu tranh bền bĩ để giành quyền sống, quyền sung

sướng, quyền tự do, chống sức thù địch của thiên nhiên và xã hội - những đức tính đúc nên cá
tính và danh dự của dân tộc”(2)
Bản sắc dân tộc bao gồm nhiều nhân tố. Có nhân tố thể hiện ra ở thế giới bên ngoài như:
cách ăn mặc, cử chỉ, dáng điệu, lời nói, phong tục, tập quán và có những nhân tố thể hiện qua
tâm lý, tính cách, qua sắc thái tình cảm: tin yêu, căm ghét, giận dữ, buồn vui ở mỗi con người.
Nói chung, bản sắc dân tộc - nói như Đồng chí Phạm Văn Đồng là: "những nét riêng biệt,
độc đáo cửa một dân tộc thể hiện trong nền văn hóa, nghệ thuật, trong phong tục, tập quán,
trong đời sống muôn màu của dân tộc đó"(3)
2.1.2.Sự thể hiện bản sắc dân tộc trong tác phẩm văn học:
Ta biết rằng trong tác phẩm văn học, tính chất dân tộc, bản sắc dân tộc luôn thể hiện
xuyên thấm trong tất cả các yếu tố từ hình thức đến nội dung. "Có thể nói có bao nhiêu yếu tố
trong tác phẩm là có bấy nhiêu chỗ để tính dân tộc thể hiện"(4) ; trong đó nổi rõ ở những yếu tố
sau:
Thứ nhất ở đề tài tác phẩm: Nhà văn vĩ đại Nga Pu-skin cho rằng "mỗi dân tộc có vô vàn
phong tục, tập quán riêng... và khí hậu, chế độ xã hội, tín ngưỡng tạo cho mỗi dân tộc một diện
mạo đặc biệt diện mạo ấy ít hay nhiều được phản ảnh trong tấm gương thơ ca"(5). Cho nên
ngay ở phạm vi đề tài nhà văn hướng tới, các yếu tố: lịch sử, địa lý, văn hóa của dân tộc ... và
1

Nguyễn Hồng Phong -Tìm hiểu tính cách dân tộc, NXB Khoa học, H, 1963, trang 20.
Nguyễn Khánh Toàn -Lời tựa "Về tính cách dân tộc trong văn học" của Thành Duy, NXB KHXH, H, 1982
3
Phạm Văn Đồng -Bài nói tại hội nghị kỷ niệm lần thứ 100 ngày thành lập Viện Dân tộc học.
4
Cơ sở lý luận Văn học. Tập 1, NXB ĐH & THCN, H, 1980, trang 246
5
Pu-Skin toàn tập, NXB Viện hàn lâm Liên Xô, M, 1949, trang 40
2

20



ngay những phong cảnh thiên nhiên, vẻ đẹp của đất nước được phản ảnh đều làm tăng thêm
tính chất dân tộc trong tác phẩm.
Thứ hai là ở hình tượng nhân vật: Hình tượng nhân vật trong tác phẩm bao giờ cũng thể
hiện rõ nết cá tính, tâm lý, tâm hồn dân tộc mình. Qua hình tượng nhân vật ta nhận ra rõ nét
những đặc trưng bản chất, những dấu ấn của dân tộc trong những điều kiện lịch sử, cụ thể.
Thứ ba là ở ngôn ngữ: Đây có lẽ là một lĩnh vực dễ nhận thấy nhất: tất cả những yếu tố
ngữ âm, từ vựng, cú pháp, biện pháp tu từ, cách thể hiện lời ăn tiếng nói của nhân vật đều có
khả năng diễn đạt, thể hiện bản sắc dân tộc trong tác phẩm văn học. Tuy nhiên cần lưu ý phân
biệt ngôn ngữ (lời ăn tiếng nói) của nhân vật và ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm. Không phải
cứ để cho nhân vật nói đúng ngôn ngữ của dân tộc mình thì tác phẩm mới có tính dân tộc (vấn
đề này đáng lưu ý trong các tác phẩm viết về miền núi).
Việc nghiên cứu, tìm hiểu bản sắc dân tộc xưa nay luôn luôn là một công việc thú vị và
hết sức cần thiết nhằm phát huy những cái hay, cái đẹp, phát huy tiềm năng và sức sáng tạo của
từng dân tộc, làm cho đời sống các dân tộc ngày được nâng cao. Đây là công việc thuộc nhiều
ngành khoa học xã hội - nhân văn : xã hội học, đến tộc học, lịch sử, địa lý, tâm lý v.v... Riêng
trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, vấn đề bản sắc dân tộc luôn được đặt ra như một yêu cầu
bức bách . Đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói!: "Ta không nói khoa học kỹ thuật dân tộc, ta cũng
không nói kinh tế dân tộc: Nhưng nói văn hóa thì phải có vấn đề dân tộc. Các dân tộc ở nước
ta có truyền thống đẹp và khả năng phát triển rất phong phú. Từ phong tục, tập quán, cho đến
đời sống vật chất, đời sống tinh thần, từ bữa cơm, cái nhà ở, quần áo, trang sức, cho đến ca,
múa, nhạc, ngôn ngữ, chữ viết, văn học, truyền thống... đều là những cái làm nên vốn văn hóa
nghệ thuật dân tộc. Từ cái vốn này, chúng ta sáng tạo nên những thành tựu mới, làm cho nền
văn hóa chung của nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng phong phú, tươi
sáng và đẹp đẽ”( 1) thực sự là một vườn hoa "muôn hương ngàn sắc".
Xưa nay đề cập đến bản sắc dân tộc miên núi là để cặp đến những nét riêng, nét độc đáo
trong đời sống, sinh hoạt văn hóa của các dân tộc thiểu số anh em.

Phạm Văn Đồng - "Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và vấn đề văn hoá các dân tộc ít người:, Tạp chí VHNT, 7/1978,

trang 63
1

21


Miền núi là một vùng quê hương thuần phác thiên nhiên. Con ngươi miền núi nói chung
là những con người hiển lành, lặng lẽ, chịu thương, chịu khó, yêu tự do, dũng cảm trong lao
động và trong đấu tranh, mộc mạc trong nếp nghĩ, cách làm.
Trong những nét đặc thù chung thống nhất đó, luôn tồn tại những nét riêng, những bản
sắc riêng đa dạng của từng dân tộc, từng vùng dân tộc khác nhau không thể lầm lẫn.
Cũng là dân tộc thiểu số miền núi, nhưng dân tộc Tây Bắc mang những nét bản sắc khác
với các dân tộc Tây Nguyên. Đặc biệt trong đời sống văn hóa, rõ ràng không thể lầm lẫn giữa
đời sống "bản, mường" Tây Bắc với đời sống "buôn làng" Tây Nguyên, càng không thể lẫn lộn
nền văn hóa Thái - H'Mông ở Tây Bắc mà tiêu biểu là sinh hoạt thơ ca trữ tình "Hạn-khuổng"
và chất nghệ thuật hổn nhiên của "xòe múa Thái" với nền văn hóa "Cồng chiềng" đầy chất anh
hùng ca của đồng bào Tây Nguyên.
Ngay trong từng dân tộc cũng thấy rõ sự khác nhau này:
Cùng nói về Tổ quốc, quê hương đổi mới, nhưng mỗi dân tộc có cách nói riêng, thể hiện
rõ bản sắc, tích cách dân tộc mình:
Người Thái biểu lộ phong thái hiền hòa, ung dung:
"Nước Việt Nam có chủ
Cây cao có chim lành đậu
Nhà to đã có cột bền
Ngựa giỏi đã có chắc yên
Đường lớn có hướng lớn
Sông Đà, sông Hồng đều có thác, có dòng”
(Lương Qui Nhân - "Biên giới lòng người")(1)
Người H'Mông đứng trên ngọn núi cao, cảm thấy đầu đội cả bầu trời, đôi chân bám chắc
từng mảnh đất thiêng liêng:

"Ôi, bầu trời ngọn núi cao ơi !
1

Hà Văn Thư, Hợp tuyển thơ văn các tác giả dân tộc thiểu số Việt Nam (1945-1980) - NXB Văn hoá, H. 1981

22


Miền núi cao một tay vỗ không kêu
Nhưng ta biết nói, họ biết làm, thì có ngày họ tìm đến, và nhiều tay vỗ
kêu
Một chân đứng lên thì không vững
Nhưng ta biết nói, họ nghe ra, thì có ngày sẽ ào ào tiến cùng một con
đường?”
(Nùa A Sấu – “Núi mọc trong mặt gương")(1)
Còn người Chơ-Ro (Tây Nguyên) thì hát trong tiếng công chiêng, đậm sắc thái hào hùng
của những người chiến thắng thời Đăm-san:
"Hãy đánh chiêng lên
Những tiếng chiêng hay nhất
Trong như hạt sương
Luồn qua sàn nhà, chui xuống mặt đất
Bò qua núi, vọng lên trời
Đánh cho tiếng chiêng lan khắp xứ, đi khắp nơi
Báo cho loài người biết
Tổ quốc ta đang thắng giặc Mỹ !”
(Prêkimala Mak - Ngày hội mừng chiến thắng)(2)
Trong "Bàn về sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa kinh tế quốc dân" V.I Lê
Nin đã từng viết: "Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không thể
tránh được. Nhưng không phải là tất cả các dân tộc đều đi đến đó bằng những biện pháp hoàn
toàn giống nhau. Mỗi dân tộc sẽ mang đặc tính của mình vào hình thức này hay hình thức khác

của chế độ dân chủ..."

(1)(2)

Hà Văn Thư, Hợp tuyển thơ văn các tác giả dân tộc thiểu số Việt Nam (1945-1980) - NXB Văn hoá, H. 1981

23


Rõ ràng cũng là đấu tranh chống thực dân, phong kiến, nhưng cuộc chiến đấu của các dân
tộc Ba-na, Hà-ro ở Tây Nguyên trong "Đất nước đứng lên" của Nguyên Ngọc mang sắc thái
riêng so với cuộc chiến đấu của các dân tộc Thái, Mèo, Dao ở Tây Bắc.
Nếu không hiểu rõ bản sắc dân tộc, sẽ không lý giải được tại sao hiện thực đấu tranh trong
tác phẩm của Tô Hoài kém góc cạnh, căng thẳng, nhân vật trong tác phẩm của Tô Hoài thiếu
chất anh hùng như trong sáng tác của Nguyên Ngọc.

2.2.Tây Bắc: miền núi giàu bản sắc.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Đại bộ phận là dân tộc Kinh (Việt) và hơn 50 dân
tộc thiểu số anh em sống rải rác từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Dân tộc Kinh sống trên khắp lãnh
thổ, tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng và đô thị, còn các dân tộc thiểu số sống tập trung chủ
yếu ở vùng trung du và miền núi. Riêng miền núi với ba phần tư diện tích cả nước, là xứ sở tự
do, trù phú của hơn năm mươi dân tộc anh em. Từ các thung lũng ruộng bậc thang, những cánh
đồng miền núi bát ngát, nên thơ: Thất Khê, Cao Bằng, Than Uyên, Nghiên Lô, Quang Huy,
Điện Biên... đến các cao nguyên xen kế núi trùng điệp : Đồng Văn, Đông bắc Lào-Cai, Sơn La,
Mộc Châu, Plâycu, Đắc Lắc, Lang-bi-ang, Gi-Rinh... quê hương miền núi được phân bố tập
trung thành nhiều khu vực: Tây Bắc, Đông Bắc, Việt Bắc và Trường Sơn, Tây Nguyên.
Tây Bắc là một trong những miền núi tiêu biểu của Tổ quốc.
Từ Hà Nội đi qua thị xã Hà Đông, rồi đến nhà máy thủy điện sông Đà, thuộc tỉnh Hòa
Bình - nơi đây vốn là vùng đất xứ Mường nổi tiếng - qua khỏi suối Rút, một địa danh tiếp giáp
với cao nguyên Mộc Châu, ta đã bước chân vào vùng Tây Bắc Việt Nam. Đây là một vùng đất

rộng lớn chiếm một phần sáu diện tích cả nước. Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ với núi non trùng
điệp tạo nên thế đứng hiểm trở, nhưng đồng thời cũng mang một vẻ đẹp diệu kỳ, tình tứ tiềm ẩn
trong những vùng đồi xanh mênh mông, lớp lớp chạy tít tắp đến tận chân trời. Nhà văn Nguyễn
Tuân từng viết về nơi đây: "Miền Tây ở đây cây to bóng cả, núi vót ngọn xanh, núi dầy đặc
lam, suối dạo đàn và rêu biếc lòng suối óng ả như tóc tuôn của mật người đàn bà biết phát
biểu bằng thơ”(1)

1

Nguyễn Tuân - Tuyển tập, NXB Văn học, H, 1982, trang 63

24


Tây Bắc gồm phần đất của hai tỉnh Sơn La (690.000 dân) và Lai Châu (438.000 dân) với
nhiều thành phần dân tộc cư trú: Tày, Mường, Thái, Nùng, Mèo (H'Mông), Dao, Lô-lô, Hà Nhì,
Lào, Lự, Phù Lá, Sila, Padí, Tudí, Sándìu, Sán Chỉ, Xá, Cao Lan v.v... Tuy nhiên, nói đến Tây
Bắc là nói đến một vùng văn hóa Thái-H'Mông lâu dời trong lịch sử nước ta. Người Thái ở Tây
Bắc chia thành hai nhóm theo màu áo ngắn của phu nữ: Thái Trắng và Thái Đen. Người Mèo
cũng chia thành nhiều nhóm tùy theo cách ăn mặc: Mèo Hoa, Mèo Trắng, Mèo Đen. Cũng
tương tự như vậy, người Dao có Dao Thanh Y, Thanh Phán, Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Đại bản,
Dao Quần Chẹt: v.v...
Mỗi dân tộc Tây Bắc tuy có khác nhau về cách ăn mặc, thói quen sinh hoạt, nhưng đều
giống nhau ở bản chất thuần phác, hiển lành, ưa sự trung thành, làm nhiều, nói ít, luôn sống lạc
quan và giàu tình yêu thiên nhiên, đất nước.
Cũng như nhiều dân tộc khác, các dân tộc Tây Bắc vốn có một truyền thống văn hóa lâu
đời, thể hiện rõ qua kho tàng văn học nghệ thuật dân gian đa dạng, phong phú. Thần thoại
truyền thuyết của các dân tộc Tây Bắc xuất hiện khá sớm cùng với thần thoại, truyền thuyết của
các dân tộc anh em thể hiện rõ ý thức về cội nguồn "một gốc nhiều cánh" của mình : cùng cha
mẹ sinh ra, cùng một làng một nước, cùng uống chung một dòng suối, trồng chung một giống

bắp, giống lúa, cùng hái chung một điệu, đắp chung một kiểu chăn ... "AI Lậc Cậc" (dân tộc
Mèo), "Qủa bầu Mường Then" (dân tộc Thái) là những thần thoại, truyền thuyết tiêu biểu.
Truyện cổ dân gian của các dân tộc Tây Bắc cũng rất phong phú, mang ý nghĩa nhân sinh,
nhân đạo cao cả, thể hiện khát vọng chiến thắng của cái tốt đối với cái xấu, của chính nghĩa đối
với gian tà: truyện "Sáu chàng trai khỏe", "Gầu-Nà", "Tujua-Tú njua", "Hòn gạch vàng"
(dân tộc Mèo), "Nàng Khao" (dân tộc Thái), "Mồ côi không chết" (dân tộc Dao) v.v...
Đặc biệt dân ca và truyện thơ là hai loại hình phổ biến, gắn với đời sống các dân tộc Tây
Bắc, dường như từ lúc thức giấc họ đã nghe tiếng hát lời ca... rồi khi đi rừng, làm nương, ra
bến, gọi lợn gà về chuồng, xay ngô, giã gạo... cho đến đêm khuya tình tự với người yêu...
dường như giờ phút nào họ cũng tắm mình trong lời ca. Thơ ca đã thực sự trở thành một bộ
phận của cuộc sống các dân tộc Tây Bắc: "Xóng chụ xon xao" (Thái), "Gầu-Plênh" (Mèo),
"Toi lol dolluy" (Dao), hay những truyện thơ "Tiếng hát làm dâu". "Nhàng nhợ-Chà tăng"

25


×