Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

biểu tượng nghệ thuật trong thơ xuân diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.9 KB, 145 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đoàn Thị Hồng Sương

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ XUÂN DIỆU

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đoàn Thị Hồng Sương

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ XUÂN DIỆU
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ từ
Giảng viên hướng dẫn là PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân. Các nội dung nghiên cứu và
kết quả của đề tài này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình
nghiên cứu nào trước đây.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian dối nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội
đồng, cũng như kết quả luận văn của mình.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 02 năm 2014
Tác giả

1


LỜI CẢM ƠN
Để quá trình nghiên cứu và hoàn tất luận văn được suông sẻ và thành công, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ từ rất nhiều phía.
Trước tiên, tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân.
Xin cảm ơn cô về những hướng dẫn và động viên của cô đối với tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin gởi lời cảm ơn đến các thầy cô trường Đại học Sư phạm đã giảng dạy
nhiệt tình và mang đến nhiều kiến thức bổ ích cho tôi trong suốt khóa học.
Tôi xin gởi lời cảm ơn đến phòng sau đại học đã tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt
chương trình học.
Cuối cùng, tôi xin gởi lời cảm ơn đến người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm,
giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học và công việc nghiên cứu của mình.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 02 năm 2014
Tác giả

2



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 5
2. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài ................................. 6
3. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 6
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 9
5. Những đóng góp dự kiến .............................................................................................. 11
6. Cấu trúc của luận văn: ................................................................................................. 11

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .............................................................. 12
1.1. Khái niệm biểu tượng ................................................................................................ 12
1.1.1. Biểu tượng .............................................................................................................12
1.1.2. Biểu tượng văn hóa ...............................................................................................16
1.1.3. Biểu tượng văn học ...............................................................................................17
1.2. Biểu tượng nghệ thuật trong thơ .............................................................................. 21
1.3. Hành trình sáng tác và những đóng góp về thơ của Xuân Diệu trong nền thơ ca
dân tộc ................................................................................................................................ 32
1.3.1. Hành trình sáng tác của Xuân Diệu .......................................................................32
1.3.2. Những đóng góp về thơ của Xuân Diệu trong nền thơ ca dân tộc ........................35

CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU TRONG
THƠ XUÂN DIỆU..................................................................................................... 37
2.1. Biểu tượng Mùa xuân ................................................................................................ 37
2.1.1. Mùa xuân trong thơ ...............................................................................................37
2.1.2. Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu .............................................................................39
2.2. Biểu tượng Hoa .......................................................................................................... 50
2.2.1. Hoa trong thơ.........................................................................................................50
2.2.2. Hoa trong thơ Xuân Diệu ......................................................................................53

2.3. Biểu tượng trái tim .................................................................................................... 63
2.3.1. Trái tim trong thơ ..................................................................................................64
2.3.2. Trái tim trong thơ Xuân Diệu ................................................................................65
2.4. Biểu tượng trăng ........................................................................................................ 79
2.4.1. Trăng trong thơ ......................................................................................................79
2.4.2. Trăng trong thơ Xuân Diệu ...................................................................................81
3


CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ
XUÂN DIỆU............................................................................................................... 96
3.1. Tính hệ thống và sự vận động của biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu 96
3.1.1. Tính hệ thống của biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu............................96
3.1.2. Sự vận động của hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu ...............99
3.2. Những đặc trưng nổi bật về nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong thơ Xuân
Diệu .................................................................................................................................. 101
3.2.1. Thủ pháp tạo nên sắc thái của biểu tượng ...........................................................101
3.2.2. Thủ pháp tạo nên độ vang của biểu tượng ..........................................................113
3.2.3. Thủ pháp tạo nên độ nén của biểu tượng ............................................................122
3.3. Sự giao hòa Đông và Tây trong biểu tượng thơ Xuân Diệu ................................ 126
3.3.1. Biểu tượng Mùa xuân ..........................................................................................126
3.3.2. Biểu tượng Hoa ...................................................................................................128
3.3.3. Biểu tượng Trăng ................................................................................................130
3.3.4. Biểu tượng Trái tim .............................................................................................132

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 136
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 139

4



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu biểu tượng ngày càng thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó nghiên cứu biểu tượng văn học chiếm một phần quan
trọng. Khi nghiên cứu thơ ca người ta không thể bỏ qua nghiên cứu về hệ thống biểu tượng
trong tác phẩm. Bởi các biểu tượng nghệ thuật ấy có vị trí to lớn trong việc giúp người
nghiên cứu dễ dàng tiếp cận với tác phẩm, dễ dàng nắm bắt thế giới nghệ thuật của nhà văn,
và tất nhiên cũng sẽ dễ dàng hiểu một cách hoàn chỉnh nhất về thông điệp mà tác giả muốn
gởi đến. Từ đó, người nghiên cứu còn hiểu thêm về phong cách của tác giả, về nét văn hóa
đặc trưng của đất nước, của dân tộc. Chính vì vậy, để nhìn nhận đúng đắn và có cơ sở khoa
học về giá trị của tác phẩm và vai trò của nhà văn trong nền văn học dân tộc rất cần sự khảo
sát, đánh giá, phân tích cấu trúc biểu tượng trong các tác phẩm thơ ca. Và trong những năm
gần đây, vấn đề biểu tượng nghệ thuật, cấu trúc biểu tượng trong tác phẩm văn chương đã
được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm. Với tư cách là một
tín hiệu của thời gian, biểu tượng nghệ thuật mang truyền thống văn hóa của dân tộc, nối kết
nhân loại và gắn liền với phong cách nhà văn. Trong văn học biểu tượng xuất hiện như một
tất yếu của tư duy sáng tạo, thủ pháp nghệ thuật và khơi gợi những ý nghĩa sâu xa. Tuy ở
Việt Nam công việc nghiên cứu biểu tượng trong thơ ca chỉ mới bắt đầu nhưng đã hứa hẹn
nhiều triển vọng.
Phong trào thơ Mới 1932 – 1945 đã gây tiếng vang và đánh dấu một bước chuyển
mình của to lớn của thơ ca dân tộc. Quả thật, văn học Việt Nam giai đoạn này đã mang đến
những thành tựu vô cùng đặc sắc. Nhất là về thơ với hàng loạt các tên tuổi để lại dấu ấn
không phai với thời gian như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên, Nguyễn Bính,… Và nhà thơ Xuân Diệu góp một phần không nhỏ vào “Một thời đại
thi ca” đó với một phong cách thơ rất riêng. Đặc biệt ở mảng thơ ca, nhất là thơ tình yêu
dường như Xuân Diệu vẫn chiếm vị trí số một trong lòng người đọc. Và giai đoạn từ sau
Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu vẫn có những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt
Nam hiện đại. Việc nghiên cứu tác phẩm thơ của Xuân Diệu cũng không phải là một vấn đề
mới mẻ. Thế nhưng việc nghiên cứu tác phẩm thơ Xuân Diệu một cách hoàn chỉnh cả giai

đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám theo hướng nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật thì
hoàn toàn còn bỏ ngỏ. Trong khi đó, với tư cách là một thành tố trong thi pháp thơ ca, biểu
5


tượng có tác động, thậm chí là có sự chi phối lớn trong việc hình thành cấu trúc chung của
tác phẩm.
Chính vì lý do đó, chúng tôi lựa chọn đề tài “Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân
Diệu” với mong muốn khảo sát, phân tích và bước đầu khái quát về hệ thống biểu tượng
trong thơ Xuân Diệu ở cả hai giai đoạn sáng tác. Từ đó, chúng tôi mong muốn góp một phần
để việc đánh giá, tiếp nhận tác phẩm thơ Xuân Diệu được ngày càng hoàn chỉnh.

2. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên những lý thuyết về đặc điểm thể loại, thi pháp học, lý thuyết phê bình mới,
lý thuyết về nghiên cứu biểu tượng, chúng tôi muốn tiếp tục nghiên cứu văn học dưới cái
nhìn của phê bình mới, của lí luận văn học. Qua đó, chúng tôi muốn góp thêm tiếng nói
nhằm khẳng định thêm về những thành công trong thơ Xuân Diệu nói riêng và dòng thơ ca
lãng mạn nói chung, đồng thời khắc họa phong cách thơ Xuân Diệu và vai trò của ông trong
phong trào Thơ mới 1932 – 1945 cũng như những đóp góp xứng đáng ở mảng thơ ca sau
Cách mạng tháng Tám.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn được đóng góp hữu ích vào việc
nghiên cứu, phân tích, giảng dạy các tác phẩm thơ ca của Xuân Diệu ở nhà trường phổ
thông.
2.2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân
Diệu. Để việc tiếp cận và khảo sát, cũng như nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật trong thơ
Xuân Diệu được tiến hành thuận lợi, về mặt cơ sở lý luận chúng tôi xin khảo sát chủ yếu các
tài liệu liên quan đến lý thuyết về biểu tượng. Và trong phạm vi giới hạn của một luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ, chúng tôi xin xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài để tránh đi lan man,

xa rời vấn đề. Phạm vi đề tài luận văn “Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu” là các
tập thơ của Xuân Diệu: Thơ Thơ, Gửi hương cho gió, Ngọn quốc kỳ, Hội nghị non sông,
Dưới sao vàng, Sáng, Mẹ con, Ngôi sao, Riêng chung, Mũi Cà Mau – Cầm tay, Một khối
hồng, Hai đợt sóng, Tôi giàu đôi mắt, Hồn tôi đôi cánh, Thanh ca.

3. Lịch sử vấn đề

6


Để biên soạn mục này chúng tôi đã khảo sát các công trình và một số bài báo nghiên
cứu về biểu tượng trong thơ ca và trong tác phẩm thơ Xuân Diệu. Trong phần bày, chúng tôi
xin trình bày theo từng vấn đề và theo trình tự thời gian như sau:
3.1. Một trong số những tài liệu có giá trị khi đề cập đến vấn đề biểu tượng nghệ
thuật là các bài viết “Các biểu tượng trong nghệ thuật”, bài “Khám phá các biểu tượng
trong văn học” của tác giả Raymond Firth, Đinh Hồng Hải dịch. Các bài nghiên cứu này đã
mang đến phần nào cái nhìn rõ hơn về biểu tượng nghệ thuật. Ở Việt Nam, có rất nhiều các
nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và không chuyên đề cập đến vấn đề biểu tượng nghệ thuật.
Vũ Ngọc Phan trong bộ sách Tục ngữ, ca dao, dân ca đã có đề cập đến vấn đề biểu tượng
trong ca dao. Ông cho rằng: “Một đặc điểm trong tư duy hình tượng của nhân dân Việt Nam
về cuộc đời: đời người với con cò và con bống”. Trong bài “Về việc nghiên cứu thi pháp
văn học dân gian” đăng trên tạp chí Văn học năm 1981, Chu Xuân Diên cho rằng: “Việc
nghiên cứu thi pháp văn học dân gian bao gồm từ việc khảo sát những yếu tố thi pháp riêng
lẻ như phép so sánh thơ ca, các biểu tượng và luật thơ…” [tr.22]. Ông đã đặt ra vấn đề
nghiên cứu thi pháp văn học dân gian nhiều góc độ trong đó có biểu tượng thơ ca.
Một số luận án triển khai liên quan đến biểu tượng nghệ thuật cũng đã khẳng định
được ý nghĩa thực tiễn của nó. Tiểu biểu là các công trình nghiên cứu của Trương Thị Nhàn.
Năm 1991, trên Tạp chí Văn hóa dân gian, Trương Thị Nhàn có bài viết về Giá trị biểu
trưng của một số vật thể nhân tạo trong ca dao. Tác giả đã tìm hiểu về ý nghĩa biểu trưng
của các vật thể như: khăn, áo, giường, chiếu, … và cho rằng khả năng biểu trưng văn hóa

nghệ thuật của các vật thể nhân tạo tạo nên nét đặc trưng rất cơ bản trong nghệ thuật của
ngôn ngữ ca dao. Tiếp đó, đến năm 1992, Trương Thị Nhàn công bố bài viết “Tìm hiểu
ngôn ngữ nghệ thuật ca dao qua một tín hiệu thẩm mĩ” đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian.
Ở bài viết này, tác giả chủ yếu nghiên cứu về biểu tượng sông và cho rằng biểu tượng này
tham gia vào hệ thống biểu hiện của ngôn ngữ nghệ thuật ca dao và có giá trị của một tín
hiệu thẩm mĩ. Đến năm 1995, luận án “Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ
không gian trong ca dao” nghiên cứu hàng loạt các biểu tượng như núi, sông, rừng, biển,
đình, chùa, cầu, thuyền, … đã góp phần đáng kể ở lĩnh vực lí thuyết và ứng dụng thực hành.
Mặc dù tác giả xem xét dưới góc độ ngôn ngữ học nhưng đã phân tích làm rõ các lớp ngữ
nghĩa tiềm ẩn trong mỗi biểu tượng đó.
Gần đây, một số biểu tượng được nghiên cứu dưới bình diện văn hóa cũng như văn
học đã đem lại nhiều hiểu biết thú vị, độc đáo. Đó là biểu tượng hoa hồng trong bài viết
7


“Hoa hồng trong ca dao” của Nguyễn Phương Châm đăng trên Tạp chí Nguồn sáng dân gian
năm 2001, biểu tượng chiếc áo trong bài viết “Biểu tượng chiếc áo trong đời sống tinh thần
người Việt qua thơ ca” của Nguyễn Thị Ngân Hoa đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ năm 2001.
3.2. Riêng về việc nghiên cứu thơ Xuân Diệu cũng khá phong phú. Nhiều nhà nghiên
cứu thơ Xuân Diệu dưới nhiều góc độ khác nhau như văn hóa, lí luận văn học, phê bình văn
học và cả ngôn ngữ học. Lê Tiến Dũng với luận án tiến sĩ “Những cách tân nghệ thuật trong
thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932 – 1945”, bài viết “Sáng tạo và đóng góp của thi sĩ Xuân Diệu
vào tiến trình thơ Việt Nam hiện đại” in trên tạp chí Trung học phổ thông đã đi sâu nghiên
cứu về thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu và chỉ ra những đóng góp to lớn của Xuân Diệu
trong nền thơ ca Việt Nam.
Trong cuốn sách “Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kì trước 1945”, tác giả Lê
Quang Hưng đã trình bày rất kĩ về hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới trong thơ Xuân
Diệu trước Cách mạng tháng Tám. Tác giả đã chú ý làm rõ các hình tượng tiêu biểu như
hình tượng Cái tôi cá nhân phân cực, hình tượng Thế giới du dương, Thế giới u sầu mù
mịt... để từ đó khẳng định vị trí cao của Xuân Diệu trong phong trào Thơ Mới ở thời kì cực

thịnh. Ông viết: “Hạt nhân của cấu trúc nghệ thuật thơ Xuân Diệu là hình tượng cái tôi cá
nhân với những quan điểm về cuộc đời, với tư thế trữ tình độc đáo…” [tr.225]. Năm 2007,
luận án “Tìm hiểu phương thức ẩn dụ trong tiếng Việt” (thể hiện qua ca cao trữ tình, thơ tình
Xuân Diệu và thơ tình Xuân Quỳnh) cũng có khảo sát một số hình ảnh làm cơ sở liên tưởng
theo phương thức ẩn dụ trong thơ tình Xuân Diệu như: hoa, tháng giêng, lá, cành, máu,…
Tác giả cũng đã chia các hình ảnh đó theo các nhóm khác nhau:
-

“Các hiện tượng tự nhiên: mây, gió, trăng, sao, trời đất, nắng mưa, ngày, đêm, …

-

Các đồ dùng như: thuyền, ghe, gương, chỉ, đàn, dây, …

-

Các loại thực vật: hoa, cỏ, cây, lá, cành, …

-

Các động vật: chim, cá, ong, bướm …

-

Các bộ phận cơ thể người: răng, chân, tay, mặc, ngực, tim, lòng, …

-

…” [tr.70].


Nhưng hướng đi của đề tài này chủ yếu là tìm hiểu phương thức cấu tạo trong mỗi
hình ảnh ẩn dụ đó chứ chưa đi vào nghiên cứu hệ thống biểu tượng thơ Xuân Diệu. Tuy vậy,
luận án cũng đã khái quát được nội dung ý nghĩa của các hình ảnh trong thơ Xuân Diệu.
Trong luận án này, tác giả còn chỉ ra tính biểu trưng của các hình ảnh đó nhưng chủ yếu là
8


nhằm làm rõ phương thức liên tưởng ẩn dụ trong thơ tình Xuân Diệu. Tác giả cho rằng
Trăng có tính biểu trưng cho người con gái còn trẻ, sự thủy chung, thời gian, một tháng,
nhân chứng cho tình yêu, vật thể nguyên vẹn, qui luật, …
Riêng việc nghiên cứu thơ Xuân Diệu từ lí thuyết biểu tượng nói chung, đặc biệt biểu
tượng nghệ thuật thơ Xuân Diệu ở cả hai giai đoạn đến nay vẫn chưa thấy một công trình
chuyên khảo cụ thể nào. Năm 2008 luận văn thạc sĩ của tác giả Đỗ Ngọc Thư với đề tài
“Khảo sát các tín hiệu thẩm mĩ Mùa xuân và Trái tim trong thơ Xuân Diệu” nghiên cứu từ
góc độ ngôn ngữ học cũng đã đề cập đến hai trong số các biểu tượng thơ Xuân Diệu. Công
trình nghiên cứu này đã khảo sát biểu tượng Mùa xuân và Trái tim và chỉ ra nội hàm của
chúng. Điều này đã góp một phần vào những bước tiếp cận hoàn chỉnh về thơ ca của Xuân
Diệu. Tuy nhiên, tác giả luận án cũng chỉ mới nêu ra hai tín hiệu thẩm mĩ và khái quát về ý
nghĩa tư tưởng của chúng theo góc độ ngôn ngữ học chứ chưa đi sâu vào ý nghĩa biểu
tượng, cũng như về tính tư tưởng và tính nghệ thuật của nó một cách cụ thể.
Nhìn chung, đây là đề tài đã và đang thu hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học
khi tìm hiểu về thi pháp thơ Xuân Diệu. Nhưng việc nghiên cứu biểu tượng một cách toàn
diện, hệ thống, nghiên cứu biểu tượng nhìn từ cảm hứng nghệ thuật và từ thủ pháp nghệ
thuật, chú ý đến tính chất động và tĩnh của biểu tượng, sự vận động của nó trong cấu trúc
bài thơ, … vẫn còn là một công việc cần bổ sung, hoàn chỉnh. Một số biểu tượng đã được
phân tích, tìm hiểu nhưng vẫn còn thiếu cái nhìn tổng quát, thật sự hệ thống về các biểu
tượng nghệ thuật thơ Xuân Diệu.
Với mục đích tiếp tục việc nghiên cứu nói trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Biểu tượng
nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu”. Bên cạnh một số thuận lợi có được từ việc tiếp thu thành
quả nghiên cứu của các công trình đi trước, chúng tôi cũng gặp khá nhiều khó khăn như: đối

tượng nghiên cứu phức tạp, khối lượng tư liệu phải xử lí khá lớn,…

4. Phương pháp nghiên cứu
Vấn đề là nghiên cứu biểu tượng thơ Xuân Diệu liên quan đến yếu tố đời sống thực
tiễn, lịch sử xã hội, quê hương tác giả. Chính vì vậy, chúng tôi nhận thấy ngoài việc sử dụng
phương pháp chuyên ngành như Thi pháp học, Phê bình mới, Phê bình cấu trúc, chúng tôi
cần sử dụng kết hợp với phương pháp liên ngành như Lịch sử, Văn hóa.
-

Phương pháp Thi pháp học: ở chương 2 và chương 3, chúng tôi sử dụng phương
pháp Thi pháp học để khám phá nội dung ý nghĩa của từng biểu tượng cũng như
9


sự hình thành các biểu tượng trong tư duy thơ Xuân Diệu. Thi pháp học cũng là
một phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thấy sự chi phối, tác động của các
biểu tượng nghệ thuật lên phong cách sáng tác của Xuân Diệu.
-

Phương pháp Phê bình mới được sử dụng vào việc tìm hiểu tính tư tưởng và tính
nghệ thuật của các biểu tượng thơ Xuân Diệu chủ yếu ở khía cạnh nghiên cứu là
những biểu tượng nghệ thuật trong thơ ca.

-

Phương pháp Phê bình cấu trúc được sử dụng trong quá trình luận văn khảo sát
cấu trúc nội tại của biểu tượng, mối quan hệ giữa các yếu tố bên trong làm nên ý
nghĩa của biểu tượng thơ Xuân Diệu.

-


Phê bình liên ngành: Xuân Diệu là một tác giả lớn của thơ ca hiện đại Việt Nam,
nghiên cứu biểu tượng thơ Xuân Diệu đòi hỏi cách tiếp cận liên ngành (Lịch sử,
Văn hóa, …). Thơ Xuân Diệu phản ánh bộ mặt xã hội, thời đại và đời sống văn
hóa của con người Việt Nam từ những năm trước cách mạng tháng Tám cho đến
giai đoạn sau này. Đặc biệt bầu không khí giai đoạn 1932 – 1945 và sự kiện cách
mạng tháng Tám thành công đã mang đến nhiều suy tư cho giới văn nghệ sĩ nói
chung và Xuân Diệu nói riêng. Vì vậy, một cách tiếp cận liên ngành là cần thiết
cho quá trình nghiên cứu biểu tượng thơ Xuân Diệu.

Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng một số phương pháp phổ thông như thống kê. Bên
cạnh đó, biểu tượng nghệ thuật là những tín hiệu thẩm mĩ tồn tại ở nhiều loại hình nghệ
thuật, nhiều bộ phận văn học, nhiều môi trường văn hóa, … Vì vậy, khi nghiên cứu chúng
tôi thấy cần thiết phải sử dụng thêm một số phương pháp khác như so sánh, phân tích, tổng
hợp.
-

Phương pháp thống kê: là phương pháp đầu tiên khi đi vào khảo sát và tìm hiểu
biểu tượng thơ Xuân Diệu. Phương pháp này cho phép xác định những chi tiết,
hình ảnh xuất hiện với tần số dày đặc, giúp nhận ra những biểu tượng nào là tiêu
biểu thể hiện thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu.

-

Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp: dựa trên kết quả đã khảo sát được
cùng với phương pháp này chúng tôi sẽ tiến hành phân tích, so sánh đối chiếu bản
thân biểu tượng với biểu tượng khác trong thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu và
biểu tượng thơ của tác giả khác. Mục đích là để tìm ra nét đặc trưng của biểu
tượng thơ Xuân Diệu bên cạnh việc xác định biểu tượng nào đóng vai trò chủ đạo,
cốt yếu làm nên phong cách thơ Xuân Diệu

10


5. Những đóng góp dự kiến
Bên cạnh việc tiếp thu thành quả của các công trình nghiên cứu đi trước, chúng tôi
mong muốn có những đóng góp mới với đề tài này nhằm góp phần làm rõ biểu tượng nghệ
thuật trong thơ Xuân Diệu:
-

Thống kê và miêu tả các biểu tượng nghệ thuật thơ Xuân Diệu.

-

Khảo sát biểu tượng ở nhiều mặt: nguồn gốc, chức năng, ý nghĩa, nghệ thuật xây
dựng biểu tượng.

-

Xác định vai trò, vị trí của biểu tượng nghệ thuật trong việc hình thành phong
cách thơ Xuân Diệu.

-

Vận dụng kết quả nghiên cứu vào việc giảng dạy tác phẩm Xuân Diệu trong nhà
trường phổ thông.

6. Cấu trúc của luận văn:
Luận văn “Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu” gồm có 159 trang, trong đó
154 trang chính văn, ngoài phần Mở đầu (8 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham khảo
(94 đề mục), được chia thành các chương sau:

Chương 1: Những vấn đề chung ( 30 trang): chúng tôi dành để giới thuyết về khái
niệm biểu tượng và giới thiệu chung về nhà thơ Xuân Diệu.
Chương 2: Những biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Xuân Diệu (66 trang):
luận văn khảo sát và đi sâu vào phân tích bốn biểu tượng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ
Xuân Diệu ở cả hai giai đoạn sáng tác.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong thơ Xuân Diệu (49 trang): luận văn
triển khai trên các phương diện: tính hệ thống, tính vận động, các thủ pháp nghệ thuật và sự
giao hòa Đông Tây trong việc xây dựng biểu tượng trong thơ Xuân Diệu.

11


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm biểu tượng
1.1.1. Biểu tượng
Biểu tượng là một phần quan trọng không thể thiếu trong đời sống tinh thần nhân
loại. Ngày nay, nghiên cứu biểu tượng đã và đang trở thành lĩnh vực được nhiều nhà khoa
học ở nhiều ngành khác nhau đặc biệt quan tâm. Thế giới biểu tượng nói chung góp phần
không nhỏ trong quá trình hình thành và phát triển của một cộng đồng, một dân tộc. Biểu
tượng mang lại những đặc sắc về văn hóa cho mỗi quốc gia. Mỗi một nền văn hóa trên thế
giới này đều là sự tổng hòa của các hệ thống biểu tượng. Jean Chevalier, tác giả của Từ điển
Biểu tượng văn hóa thế giới từng nhận xét rằng: “Nói chúng ta sống trong một thế giới
biểu tượng thì vẫn còn chưa đủ, phải nói một thế giới biểu tượng sống trong chúng ta”
[26,tr.XIV]. Như thế, vai trò của biểu tượng đã được đánh giá khá chính xác với những gì
chúng đóng góp trong đời sống của con người. Việc đi sâu vào thế giới biểu tượng và mối
quan hệ của biểu tượng với đời sống con người là một trong những phương thức giúp con
người nhận ra giá trị của chính mình trong vũ trụ. Thế giới biểu tượng vẫn còn là một thế
giới đầy kì ảo, mê hoặc và luôn có sức hấp dẫn đặc biệt. Tiếp cận và lý giải nó là mong
muốn của nhân loại trên con đường đi đến tương lai.
Trước hết, ta cần tìm hiểu: biểu tượng là gì?

Biểu tượng, theo tiếng Hán, biểu là bày ra, trình bày; tượng là hình ảnh, hình dạng.
Biểu tượng là một hình ảnh cụ thể được bày ra, được thể hiện để nhằm biểu thị một ý nghĩa
trừu tượng. Thuật ngữ chỉ biểu tượng trong tiếng Anh là symbol có nguồn gốc từ tiếng Hy
Lạp là symbollon (có nghĩa là kí hiệu, dấu hiệu để nhận ra nhau là một).
Biểu tượng (symbol) là một thuật ngữ được nhiều ngành khoa học sử dụng với những
nội hàm khác nhau. Từ xa xưa, biểu tượng đã được dùng để chỉ một vật được cắt, tách ra
làm đôi (thường là mảnh sứ, gỗ hoặc kim loại). Mỗi mảnh này được giữ bởi hai người (chủ tớ, người cho vay – người vay, tình nhân, chồng – vợ, …) Sau này, khi hai mảnh vỡ ấy có
cơ hội ráp lại với nhau thì họ sẽ nhận ra mối quan hệ cũ. Như vậy biểu tượng chia ra và kết
lại với nhau chứa đựng hai ý tưởng phân li và tái hợp. Điều này cũng đồng nghĩa rằng mọi
biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ: “Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị
đập vỡ: ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ, vừa là kết nối những phần
của nó đã bị vỡ ra” [26, tr.XXIII].
12


Sau này, khi khoa học về biểu tượng được hình thành và phát triển hơn thì có rất
nhiều quan điểm khác nhau được đưa ra nhằm lí giải về ý nghĩa của biểu tượng, mối quan
hệ và vai trò của biểu tượng trong đời sống của con người. Sau đây, xin dẫn một vài ý kiến,
nhận định của các nhà nghiên cứu:
Theo Từ điển Larousse cho rằng: “Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, bằng con
vật sống động hay bằng đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của
một sự vật hay một điều gì đó” [tr. 78]. Còn trong Dịch thuyết cương lĩnh của Chu Hy, nhà
triết học đời Tống thì giải thích về khái niệm biểu tượng như sau: “Tượng là lấy hình này để
tỏ nghĩa kia”, tức là dùng cái “có thể hiểu biết” để nói lên điều “khó có thể hiểu biết”, hay
dùng cái cụ thể để nói cái trừu tượng, dùng cái tĩnh để nói cái động, dùng cái hữu hình để
nói cái vô hình, …[68]
Theo phân tâm học Freud, biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió và ít
nhiều khó nhận ra, niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là mối liên kết thống nhất
nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, một lời nói với ý nghĩa tiềm ẩn của chúng …
[26,tr. XXIV].

Tóm lại, các ý kiến trên ít nhiều đều có sự khác nhau, song về cơ bản, tất cả đều chỉ
ra rằng, biểu tượng là những cách thức dùng hình ảnh này để bày tỏ ý nghĩa nọ, dùng hình
ảnh cụ thể để thể hiện một ý nghĩa trừu tượng. Hay nói cách khác, biểu tượng là sự thống
nhất của hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt có thể là một sự vật, một
hiện tượng, một hình ảnh, … cụ thể trong hiện thực khách quan hoặc trong tưởng tượng của
con người. Cái biểu đạt nhằm mục đích thể hiện cái được biểu đạt, tức là thể hiện những suy
nghĩ, tâm tư, tình cảm của con người về cuộc sống, xã hội, thế giới (có thể đang xảy ra hoặc
đã xảy ra nhưng còn ăn sâu trong đời sống tâm hồn con người).
Con người tồn tại, trưởng thành từ những kinh nghiệm sống của thế hệ đi trước và tự
tạo ra kinh nghiệm sống cho chính mình. Những kinh nghiệm đó thường được con người
lưu giữ trong trí nhớ, đây chính là cơ sở tạo nên biểu tượng. Và biểu tượng chính là hình
ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, thế nhưng giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện
thực khách quan và những ý nghĩa mà nó hàm chứa (dưới góc độ biểu tượng) không phải là
sự đồng nhất mà là một sự tương ứng ở nhiều khía cạnh, cấp độ, quan hệ khác nhau. Chính
điều này làm nên tính đa nghĩa của biểu tượng.
Có thể xem biểu tượng như là một sự quy ước, hay nói đúng hơn, một trong những
đặc điểm của biểu tượng là tính quy ước. Đó có thể là quy ước của một cá nhân, một cộng
13


đồng hay một dân tộc. Khi một nhà văn, nhà thơ thường xuyên sử dụng một hình ảnh nào đó
trong các sáng tác của chính mình nhằm biểu hiện một thông điệp cá nhân về con người và
cuộc sống. Độc giả tiếp xúc và nhận ra các hình ảnh quen thuộc đó, đồng thời khám phá ra
các giá trị thẩm mĩ của những hình ảnh mà nhà văn, nhà thơ đã dụng công xây dựng. Điều
này làm cho tác phẩm, tác giả có sức sống với thời gian. Đó là biểu tượng của cá nhân,
mang tính quy ước của một tác giả nào đó. Rộng hơn là những biểu tượng là quy ước của
cộng đồng. Biểu tượng sẽ chỉ tồn tại khi nó được cộng đồng hiểu, chấp nhận. Ở đây, ta phải
nhắc đến ý nghĩa ổn định của biểu tượng trong một thời kì lịch sử nào đó, trong một bối
cảnh xã hội nhất định. Đã là biểu tượng, nó sẽ chết nếu đứng yên, bất biến. Thế nhưng nếu
một sự vật, hiện tượng luôn luôn thay đổi về ý nghĩa thì khó mà tạo nên giá trị biểu tượng

cho bản thân nó. Biểu tượng phải vừa ổn định, vừa không ổn định.
“Mỗi nhóm người, mỗi thời đại có những biểu tượng của mình: rung động trước cái
biểu tượng đó, tức là tham gia vào nhóm người và thời đại ấy” [26,tr. XXXIII]. Biểu tượng
mang tính cộng đồng. Bởi chỉ những sự vật, hiện tượng, hay hình ảnh được cộng đồng chấp
nhận, đồng tình rằng nó có chứa những ý nghĩa nào đó ở bên ngoài nó, thì nó mới trở thành
biểu tượng. Sau khi trải qua thời gian, biểu tượng được hình thành, phát triển ổn định, chắc
chắn trong tâm thức cộng đồng. Cũng chính vì biểu tượng mang tính cộng đồng, tính xã hội
mà trên thế giới có vô số các cộng đồng, dân tộc khác nhau, nên các sự vật, hiện tượng dù
giống nhau cũng không bao giờ chứa các ý nghĩa biểu tượng hoàn toàn giống nhau. Trong
Luận án tiến sĩ Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt, tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Điệp đưa ra một số ví dụ về tính đa dạng của biểu tượng trong đời sống
của các cộng đồng dân tộc khác nhau trên thế giới: “Chẳng hạn, đối với người Hindu, thấm
nhuần tư tưởng Vệ - Đà, con bò cái mang một ý nghĩa tinh thần khác hẳn đối với người nuôi
bò xứ Normandie. Đối với người dân lao động Nga, trong thi ca dân gian, chim thiên nga,
con tu hú mang những ý nghĩa tượng trưng sâu sắc mà ở các dân tộc khác không có”. Mặc
dù không toàn toàn trùng khớp về những lớp nghĩa biểu tượng trong những cộng đồng, dân
tộc khác nhau, thế nhưng giữa chúng có một mối liên hệ liên kết con người lại với nhau.
Điều này thể hiện cụ thể qua một số biểu tượng mang tầm vóc quốc tế bên cạnh những nét
riêng của dân tộc mình: chim bồ câu – biểu tượng của sự hòa bình, hoa – biểu tượng chỉ
người con gái, …
Đến đây, sau khi trình bày những ý kiến, kiến giải sâu sắc về khái niệm biểu tượng,
người viết xin đưa ra sơ đồ “siêu kí hiệu” của R. Barthes để làm lời kết về khái niệm phức
14


tạp này.
R. Barthess đã tiếp thu khái niệm Ký hiệu học biểu thị và Ký hiệu học hàm nghĩa của
Hjelmslev vào hệ thống Ký hiệu học của mình. Có thể tóm tắt sơ đồ "siêu ký hiệu" của R.
Barthes như sau :
Một là, hệ thống "Ký hiệu học biểu thị" [A] ( ký hiệu - thông thường )

Hai là hệ thống "Ký hiệu học hàm nghĩa" [B] (Biểu tượng – Siêu ký hiệu).
Hai hệ thống ký hiệu này lồng ghép với nhau tạo thành “hệ thống trong hệ thống” –
hệ thống biểu tượng. (Xem sơ đồ 1.1)

Sơ đồ 1.1.1. Sơ đồ cú pháp ký hiệu học hàm nghĩa của R. Barthes [19]
Sơ đồ trên đây đã thể hiện rõ là: trong hệ thống (B) ở bình diện "cái biểu đạt" (CBĐ)
- hình thức của hệ thống (B) đã là hệ thống ký hiệu học biểu thị (A). Còn ở bình diện "cái
được biểu đạt" (CĐBĐ) - nội dung của hệ thống (B) lại là một hệ thống ký hiệu nghĩa hàm
nghĩa (ẩn dụ).
Cả hai hệ thống (A) và (B) trở thành “hệ thống"kép" tạo thành thế giới "siêu ký hiệu"
- Thế giới biểu tượng (Symbols).
Để dễ dàng hiểu được sơ đồ cú pháp "Ký hiệu học hàm nghĩa" của R. Barthes trong
quá trình tiếp cận Ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng, ta có thể chuyển đổi sơ đồ mẫu trên
đây trở thành sơ đồ giải thích. (Xem sơ đồ 1.1.2)

15


Sơ đồ 1.1.2. [19]
(A) Hệ thống Ký hiệu học biểu thị (ký hiệu biểu thị) bao gồm hai mặt: Hình ảnh,
hình tượng biểu thị và ý nghĩa biểu đạt chúng tạo thànhh một ký hiệu thông thường
(đơn nghĩa).
(B) Ký hiệu học hàm nghĩa (ký hiệu hàm nghĩa) bao hàm hai mặt: Ký hiệu biểu thị hiển ngôn, và ký hiệu ẩn dụ - mật ngôn. Chúng tạo nên thế giới của "siêu ký hiệu" - thế giới
biểu tượng (đa nghĩa). [19]
1.1.2. Biểu tượng văn hóa
Toàn thư quốc tế về phát triển văn hóa (International thesaurus on cultural
development) của UNESCO đã đưa ra lời nhận xét rằng: “Văn hóa là tập hợp các hệ thống
biểu tượng, nó, nó quy định thế ứng xử của con người và làm cho một số đông người có thể
giao tiếp với nhau, liên kết họ thành một cộng đồng riêng biệt”.
Còn C. Levy – Strauss cũng đã đưa ra một khái niệm tương tự như thế: “ Mọi nền

văn hóa đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng, trong đó xếp hàng đầu là
ngữ ngôn, các quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo” [26, tr.
XXIII].
Khi tìm hiểu về biểu tượng văn hóa ta không thể không chú ý đến khái niệm văn hóa.
Văn hóa là tổng hòa các giá trị vật chất, tinh thần của con người được tạo nên do những tác
động của chính con người lên tự nhiên và xã hội. Văn hóa thể hiện quan niệm và cách ứng
xử của con người trước thế giới. Khi nghiên cứu về biểu tượng văn hóa cũng là đang chạm
vào các yếu tố văn hóa.
Biểu tượng, như đã nói ở phần trên, là một vật được chia ra làm hai nửa, khi ghép lại
sẽ thể hiện một mối quan hệ, liên kết nào đó. Biểu tượng được hình thành lâu dài và được
16


cộng đồng chấp nhận. Nét văn hóa, bản sắc mỗi dân tộc thể hiện khá rõ nét qua hệ thống
biểu tượng của dân tộc đó. Và biểu tượng văn hóa là những thực thể vật chất hoặc tinh thần
(sự vật, hành động, hiện tượng, ý niệm, …) có khả năng biểu hiện ý nghĩa rộng hơn chính
hình thức cảm tính của nó, tồn tại trong một hệ thống đặc trưng cho những nền văn hóa nhất
định: nghi lễ, tín ngưỡng, phong tục, thần linh, …
Trong văn hóa Việt Nam và phương Đông, người ta có thể dễ dàng bắt gặp một loạt các
biểu tượng văn hóa như: nước, lửa, mặt trời, con rùa, con trâu, hoa sen, …
Những biểu tượng là dạng nguyên thủy nhất có thể được xem là cổ mẫu, mẫu gốc của
một nền văn hóa. Đó là nguồn gốc phát sinh các biểu tượng mang tính truyền thống của các
ngành văn học, nghệ thuật. Có thể nói mẫu gốc, cổ mẫu là cấp độ đầu tiên của biểu tượng.
Khi đi vào đời sống văn hóa, trải qua sự biến đổi của thời gian và quá trình phát triển của
văn minh loài người, các mẫu gốc có khả năng sản sinh ra nhiều biểu tượng văn hóa khác
nhau. Từ đấy, chúng luân chuyển, biến đổi và được bồi đắp thêm những ý nghĩa mới thông
qua tư duy phong phú của con người. Nhưng về cơ bản, mối liên hệ giữa chúng với mẫu gốc
vẫn tồn tại và in hằn dấu vết bởi những truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích, nghi lễ, phong
tục,…
1.1.3. Biểu tượng văn học

Biểu tượng văn học là một biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa. Như đã nói, các
cổ mẫu, mẫu gốc chính là những dạng biểu tượng nguyên thủy, sau này được các tác giả văn
học sử dụng để xây dựng biểu tượng văn học trong sáng tác của mình. Từ những biểu tượng
văn hóa với những nét nghĩa đã được hình thành từ xưa, nhà văn, nhà thơ lựa chọn và sử
dụng trong tác phẩm văn học. Từ đó, biểu tượng ấy được bồi đắp thêm nhiều lớp ý nghĩa
mới, chuyển tải thêm nhiều cảm xúc, tình cảm của tác giả về đời sống của con người đương
đại. Những hình ảnh, sự kiện, … của thế giới xung quanh được nhà văn, nhà thơ chắp nối,
tái tạo theo một logic mới, trật tự mới để tạo ra những biểu tượng hoàn toàn mới mẻ dựa
trên cơ sở những mẫu gốc. Và biểu tượng văn học xuất hiện. Trong văn học, khi nói đến
biểu tượng là người ta thường đề cập đến hai dấu hiệu nhận biết. Biểu tượng là những hình
ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, nhằm diễn đạt, truyền tải một thông điệp, nội dung
trừu tượng. Biểu tượng văn học được coi là kí hiệu thẩm mĩ đa nghĩa. Nó là sự mã hóa cảm
xúc, ý tưởng của nhà văn. Biểu tượng văn học chính là phương tiện diễn đạt cô đọng, hàm
súc, có sức khai mở rất lớn trong sự tiếp nhận của độc giả. Những tác phẩm sử dụng nhiều
17


biểu tượng chính là sự thể hiện cách từ chối của tác giả về cách bày tỏ tâm tư, tình cảm một
cách trực tiếp. Điều này ta thường thấy trong thơ ca.
Biểu tượng văn hóa, biểu tượng văn học (biểu tượng nghệ thuật) cũng có sự khác biệt
cơ bản. Như đã nói, biểu tượng văn học là một biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa.
Ngoài ra, biểu tượng văn hóa có xu hướng được bổ sung ý nghĩa, và sau một thời gian,
dường như ý nghĩa đó trở nên cố định và nhiều lúc trở nên khó hiểu đối với con người ở thế
hệ sau. Còn biểu tượng văn học luôn có xu hướng tái sinh về mặt ý nghĩa, không chỉ trong
sáng tác mà trong cả tiếp nhận văn học. Một vài nét nghĩa có thể vẫn được giữ nguyên
nhưng sẽ có một vài nét nghĩa của nó được bổ sung. Và như thế, khi xuất hiện trong tác
phẩm với nét nghĩa mới nó vẫn giữ trong mình những ý nghĩa từng có trong lịch sử. Lý do
cơ bản của việc vì sao biểu tượng văn hóa đôi khi lại gây khó hiểu cho con người ở thế hệ
sau đó chính là do thời đại phát sinh đã không còn hiện hữu, trái lại biểu tượng văn học,
ngoài môi trường thời đại, xã hội thì nó còn một môi trường không bao giờ có thể mất đi, đó

là chỉnh thể tác phẩm. Do đó, cho dù thời đại phát sinh có lùi xa vào quá khứ thì việc cảm
nhận, lí giải, cắt nghĩa biểu tượng văn học cũng không mấy khó khăn.
Khi những biểu tượng văn học được nhiều người thừa nhận, đồng thời chính nó có
một đời sống rộng lớn trong lòng công chúng, chứa đựng toàn vẹn nỗi niềm của con người
thì nó trở thành biểu tượng văn hóa. Sự biến dổi này đôi lúc khiến chúng ta khó nhận ra
được là biểu tượng đi từ đời sống vào văn học hay ngược lại. Văn học là một bộ phận của
văn hóa. Có thể nói, được trở thành biểu tượng văn hóa là một thành công lớn lao của biểu
tượng văn học.
Đi vào biểu tượng văn học, ta cần phải phân biệt sự khác nhau giữa biểu tượng và
những khái niệm có nội hàm gần giữ như ẩn dụ và hình tượng.
1.1.3.1. Phân biệt biểu tượng và hình tượng
Về hình tượng, Từ điển Thuật ngữ văn học ghi rằng: “Hình tượng nghệ thuật vừa có
giá trị thể hiện những nét cụ thể, cá biệt không lặp lại, lại vừa có khả năng khái quát làm bộc
lộ được bản chất của một loại người hay một quá trình đời sống theo quan niệm của người
nghệ sĩ. Hình tượng nghệ thuật không phải phản ánh các khách thể thực tại tự nó, mà thể
hiện toàn bộ quan niệm và cảm thụ sống động của chủ thể đối với thực tại… Vì những lẽ
trên, cấu trúc của hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng là sự thống nhất cao độ giữa các mặt
đối lập: chủ quan và khách quan, lí trí và tình cảm, cá biệt và khái quát, hiện thực và lí
tưởng, tạo hình và biểu hiện, hữu hình và vô hình”.[17,tr.147]
18


Như vậy, có thể thấy, biểu tượng và hình tượng đều có giá trị nhận thức cảm tính và
chủ quan trong việc phản ánh thực tại, có phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ nhưng lại khác
nhau ở điểm: Sự tồn tại của hình tượng nghệ thuật không bao giờ vượt quá giới hạn của hình
thức biểu đạt cụ thể. Tức là luôn luôn có phương tiện biểu hiện trọn vẹn nghĩa của hình
tượng. Còn sự tồn tại của biểu tượng thì lại vượt quá giới hạn của một sự biểu đạt, tức là
không có một phương tiện nào có thể biểu hiện trọn vẹn ý nghĩa của biểu tượng.
Hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng tách riêng hoặc có xu hướng tách riêng ra khỏi
một hệ thống nào đó để đảm bảo các yêu cầu của một hình tượng là: tự do, hoàn thiện, độc

đáo và khác biệt. Hình tượng nghệ thuật chứa đựng cái mới, cái bất ngờ. Nó có khả năng
phá hủy, làm biến đổi quan niệm cố định về thực tại, và đôi khi sự xuất hiện của một hình
tượng mới khó làm người đọc chấp nhận ngay lập tức. Ví dụ như hình tượng nhân vật Chí
Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao. Dường như sự xuất hiện của hình
tượng Chí Phèo đã làm thay đổi hẳn quan niệm về người nông dân Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám. Ban đầu, người đọc khó có thể chấp nhận Chí Phèo, khó nhận ra được
thông điệp của nhà văn, nhưng về sau, người đọc đã khám phá ra những giá trị độc đáo,
riêng biệt của nhân vật và chất nhân văn trong tư tưởng của nhà văn. Ngược lại, mặc dù
luôn có xu hướng mở rộng về nghĩa, nhưng biểu tượng bao giờ cũng hướng về tính cố định
của nghĩa. Bất cứ biểu tượng nghệ thuật nào, cho dù có phong phú về nghĩa bao nhiêu thì
cũng thường có một nghĩa cố định nào đó, ít nhất là trong một giai đoạn nhất định. Và mặc
dù, biểu tượng luôn được luân chuyển, bồi dắp những nét nghĩa mới nhưng không bao giờ
nó phủ nhận hoặc tự phá hủy những nét nghĩa cũ. Chính những nét nghĩa được xây dựng từ
xưa là cơ sở cho việc tiếp nhận những nét nghĩa mới trong một biểu tượng nghệ thuật. Và vì
vậy mà biểu tượng luôn luôn sống động, phong phú và tồn tại mãi mãi theo thời gian.
1.1.3.2. Phân biệt biểu tượng và ẩn dụ
Việc xác định sự khác nhau giữa biểu tượng và ẩn dụ là một vấn đề mang tính tương
đối, khó có thể xác định rạch ròi. Trong bài viết Kết cấu nghệ thuật thơ ca trữ tình dân
gian Nga, đăng trên Tạp chí Văn học số 4, năm 1999, Nhà văn Nga V. I. Eramina cho rằng:
“Ẩn dụ thơ ca được sinh ra nhất thời và mất đi rất nhanh. Biểu tượng được hình thành trong
quá trình dài và sau đó trong hàng trăm năm, ẩn dụ là yếu tố biển đổi, biểu tượng thì không
đổi, bền vững. Ẩn dụ là phạm trù thẩm mĩ và phần lớn tự do tách khỏi phong cách ước lệ.
Biểu tượng thì ngược lại, giới hạn nghiêm túc bởi hệ thống thi ca xác định”. Như vậy, ẩn dụ
và biểu tượng phân biệt nhau bởi tính biến đổi và bền vững, tự do và ước lệ. Phạm Thu Yến
19


thì cho rằng: “Có thể nói rõ thêm, biểu tượng mang tính kí hiệu, quy ước, nghĩa là chỉ cần
nêu hình ảnh biểu tượng là người đọc đã hiểu được cái mà nó biểu trưng, không cần yếu tố
giả mà vì nó đã in sâu vào tư tưởng thẩm mĩ dân gian. Còn ẩn dụ tự do hơn, không chỉ được

tạo bằng một, hai hình ảnh mà bằng vài ba hình ảnh. Vì thế các yếu tố cần dựa vào nhau để
giải mã ẩn dụ, ẩn dụ linh hoạt, trường liên tưởng rộng rãi hơn biểu tượng, số lượng nhiều
hơn nhưng không bền vững bằng […] Biểu tượng là hình ảnh ẩn dụ được sử dụng ở mật độ
cao mang tính quy ước”.
Còn Từ điển Thuật ngữ văn học nói về sự giống và khác nhau giữa ẩn dụ và biểu
tượng như sau: sự giống nhau là chúng đều được “hình thành trên cơ sở đối chiếu, so sánh
các hiện tượng, đối tượng có những phương diện, khía cạnh, những đặc điểm gần gũi, tương
đồng, nhằm làm nổi bật bản chất, tạo ra một ý nghĩa cụ thể sáng tỏ về hiện tượng hay đối
tượng đó” [17,tr. 24]. Sự khác nhau giữa chúng là: “ẩn dụ và hoán dụ đều mang ít hay nhiều
ý nghĩa biểu tượng, nhưng biểu tượng không phải bao giờ cũng là những hoán dụ, ẩn dụ
(…) ; biểu tượng không loại bỏ ý nghĩa cụ thể, cảm tính của vật tượng trưng (…) trong khi
đó, ẩn dụ và hoán dụ nhiều khi có khuynh hướng làm mờ ý nghĩa biểu vật, trực quan của lời
nói; nếu như ý nghĩa của ẩn dụ, hoán dụ trong ngữ cảnh cụ thể của từng văn bản, thì ý nghĩa
của biểu tượng tồn tại cả ngoài văn bản” [tr. 24, 25].
Đó là những ý kiến sâu sắc về sự khác nhau giữa ẩn dụ và biểu tượng. Như vậy biểu
tượng có xu hướng ổn định về nghĩa và ý nghĩa của nó luôn được số đông cộng đồng thừa
nhận, ý nghĩa của biểu tượng còn là sự phức tạp, đa nghĩa. Trong khi đó ẩn dụ thì có xu
hướng nghiêng về một ý nghĩa cụ thể riêng biệt, không ổn định. Nghĩa của biểu tượng
không chỉ được tạo nên từ văn bản tác phẩm mà còn từ sự cảm nhận, tiếp nhận của độc giả.
Nó phải thể hiện quan niệm về cuộc đời, xã hội, về thế giới, về con người qua từng giai
đoạn phát triển của lịch sử văn minh. Còn ẩn dụ chủ yếu được tạo nên từ văn bản tác phẩm,
trong nhiều tác phẩm của nhà văn hay nhiều nhà văn.
Trong Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới, các tác giả còn đưa ra sự giống và khác
nhau giữa biểu tượng với: biểu hiệu, vật hiệu, phúng dụ, tỉ dụ, loại suy, … Tất cả chúng đều
không vượt qua mức độ của sự biểu nghĩa: “Biểu tượng cơ bản khác với dấu hiệu, ở chỗ dấu
hiệu là một quy ước tùy tiện trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt vẫn xa lạ với nhau,
trong khi biểu tượng giả định có sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt theo
nghĩa một lực năng động tổ chức” [26,tr. XIX]. Nói chung, sự khác nhau giữa biểu tượng và
các khái niệm gần gũi với nó chủ yếu là ở sự phức tạp trong việc lĩnh hội ý nghĩa mà biểu
20



tượng gợi ra. Không phải lúc nào nghĩa của biểu tượng cũng rõ ràng, cụ thể và dễ nhận ra,
vì có lúc nó ẩn sâu bên trong đòi hỏi người cảm nhận phải có một bề dày kiến thức đời sống
xã hội, một năng lực cảm thụ văn chương và một sự nhiệt tình lớn lao để khám phá, tìm tòi
ý nghĩa biểu tượng.

1.2. Biểu tượng nghệ thuật trong thơ
Biểu tượng trong thơ là một loại biểu tượng nghệ thuật. Nó là dạng biểu tượng được
xây dựng bằng ngôn từ, bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, được chấp nhận và qui
ước bởi một cộng đồng. Chính vì vậy mà nó vừa mang những đặc điểm chung của biểu
tượng nói chung vừa mang những nét riêng, đặc thù của ngôn từ và thơ ca qui định. Biểu
tượng xuất hiện trong văn học dân gian như những hình ảnh ẩn dụ đã được ý thức cộng
đồng chấp nhận, sử dụng rộng rãi, phổ biến mà mang đặc điểm văn hóa truyền thống của
cộng đồng. Đến văn học viết, biểu tượng trở thành một phương tiện nghệ thuật để các nhà
thơ, nhà văn trung đại, hiện đại sử dụng trong tác phẩm của mình để nhằm chuyển tải những
quan niệm, những tư tưởng, tình cảm về cuộc sống, con người, xã hội. Biểu tượng nghệ
thuật trong thơ ở đây có thể được tạo nên chỉ bằng một từ, một cụm từ, một câu, hoặc cả văn
bản. Căn cứ vào nghĩa của từ ngữ, người tiếp nhận sẽ khám phá ra các nét nghĩa khác của
biểu tượng thông qua tính hàm súc, đa nghĩa của ngôn ngữ văn chương.
Biểu tượng trong văn học nói chung, không chỉ riêng trong thơ, là loại biểu tượng đa
nghĩa và được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật. Theo C.G.Jung: “Biểu tượng là một từ
ngữ, một danh từ hay một hình ảnh ngay cả khi chúng là quen thuộc trong đời sống hàng
ngày vẫn chứa đựng mối quan hệ liên can, cộng thêm vào đó cái ý nghĩa quy ước và hiển
nhiên của chúng. Trong biểu tượng có bao hàm một điều gì đó mơ hồ, chưa biết hay bị che
dấu đối với chúng ta” [26,tr. XXIX]. Trong lí luận văn học, mĩ học và ngôn ngữ học, biểu
tượng là một thuật ngữ đa nghĩa, có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, ta có thể
xem tác phẩm văn học như là một biểu tượng, một chỉnh thể thẩm mỹ chứa nhiều thông điệp
của chính tác giả sáng tác. Việc giải mã biểu tượng góp phần giúp cho độc giả hiểu được
những giá trị riêng biệt, độc đáo của tác phẩm. Từ đó mà nắm bắt được tư tưởng tác giả.

Theo nghĩa hẹp, biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói, là một loại hình
tượng nghệ thuật đặc biệt có sức biểu hiện lớn được tác giả sử dụng nhiều lần trong tác
phẩm của mình. Đó là một thủ pháp đặc biệt để tác giả thể hiện ý đồ sáng tạo. Biểu tượng
trong thơ cũng không nằm ngoài qui luật đó.
21


Biểu tượng trong thơ đa dạng phong phú bởi mỗi nhà thơ đều muốn khẳng định cái
tôi cá nhân và sáng tạo theo cá tính riêng, độc đáo của mình. Trong thơ ca dân gian, những
biểu tượng được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh khách quan từ thiên nhiên, cuộc sống
lao động sinh hoạt hằng ngày của người lao động. Nó được tập thể người lao động tham gia
sáng tạo, bổ sung, cải biến. Nó là sản phẩm của tập thể nên thiếu hẳn yếu tố cá nhân, phong
cách riêng của con người cá thể. Ví dụ như câu ca dao sau:
Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em trồng ké dây trầu một bên.
Mai sau trầu nọ lớn lên,
Cau kia ra trái lập nên cửa nhà. [13]
So sánh biểu tượng trầu – cau trong câu ca dao này với biểu tượng trầu - cau trong
thơ Nguyễn Bính, ta sẽ thấy rõ sự khác biệt bởi dấu ấn cá nhân trong sáng tác. Trong ca dao,
trầu cau không còn được hiểu như chính nó trong thực tại, là một loại quả, lá ăn chung với
nhau làm đẹp môi, mà nó đã trở hình thức biểu đạt chứa đựng nội dung se duyên, kết tình
của nam nữ. Nó đề cập đến tình yêu, tình duyên đôi lứa. Nó nói đến việc kết tóc se tơ của
nam nữ yêu nhau. Và biểu tượng trầu – cau trong ca dao dường như chỉ dừng lại ở đó.
Trong thơ Nguyễn Bính, biểu tượng trầu – cau cũng có cơ sở ý nghĩa như trong ca dao
nhưng bên cạnh đó nó còn mang nhiều nét nghĩa khác mà chỉ có tư duy, quan niệm sống của
chính Nguyễn Bính mới tạo ra được. Trong thơ ca dân gian, ta dễ dàng bắt gặp những biểu
tượng quen thuộc thể hiện cho tình cảm, tình yêu lứa đôi như: trầu – cau, trúc – mai, mận –
đào, thuyền – bến, sen – hồ, liễu – đào, …
Sen xa hồ, sen khô hồ cạn
Lựu xa đào, lựu ngả đào nghiêng

Gặp đây mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
(Ca dao)
22


Trong thơ bác học, hình ảnh trúc – mai không còn là biểu tượng của tình cảm trai gái,
tình yêu lứa đôi nữa mà trở thành một qui ước mang tính tượng trưng cho phẩm chất của
người quân tử, tình bạn thắm thiết, tri kỉ của nhà nho:
Trúc mai bạn cũ hợp nhau quen
(Thuật hứng, Bài I, Nguyễn Trãi)
Trúc mai làm bạn hứng thơ nồng.
(Thơ Nôm, Bài 33, Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Khi nghiên cứu về biểu tượng trong thơ không thể bỏ qua yếu tố truyền thống. Chính
nó mang lại sức sống, giá trị độc đáo cho biểu tượng. Bởi chính yếu tố truyền thống sẽ mang
đến giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật cùng với chiều sâu trong quan niệm về thế giới của con
người thời đại đó. Nó là cơ sở để tiếp nhận biểu tượng nghệ thuật. Tuy nhiên, bên cạnh
những gì kế thừa từ truyền thống, sức sống của biểu tượng trong thơ ca hiện đại phải luôn
luôn cách tân, đổi mới, bổ sung thêm cho những ý nghĩa cũ hoặc là phải biết sáng tạo cái
hoàn toàn mới. Như ở trên đã nói, trong thơ ca dân gian, biểu tượng thuyền – bến/ biển được
sử dụng với mục đích thể hiện tình cảm nam nữ, tình yêu lứa đôi. Trong đó, thuyền thường
là biểu tượng của người con trai, biển là biểu tượng của cô gái. Nhưng đến thơ Xuân Quỳnh,
thuyền lại gắn với hình ảnh người con gái:
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa em

Anh chỉ còn bão tố
(Xuân Quỳnh)
Bên cạnh việc sáng tạo ra những biểu tượng hoàn toàn mới mẻ còn có hiện tượng bổ
sung ý nghĩa cho những biểu tượng quen thuộc. Như trong các tác phẩm thuộc phong trào
Thơ mới, Con Tàu thường biểu tượng cho sự ra đi cô độc, sự chia lìa tan tác, thì trong thơ
cách mạng, Con Tàu lại là biểu tượng của sự ra đi mang tính chất khai phá, mở đường, ra đi
trong lời ca tiếng hát, ra đi trong niềm vui, niềm hạnh phúc.
Những ngày nghỉ học tôi hay tới
Đón chuyến tàu đi tới những ga
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa
(Những ngày nghỉ học, Tế Hanh)
23


×