Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

một số vấn đề cơ bản về quốc tịch việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH
-------oOo-------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 32 (2006-2010)
ĐỀ TÀI :

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUỐC TỊCH
VIỆT NAM

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

Đinh Thanh Phương
Bộ Môn Luật Hành Chính

SINH VIÊN THỰC HIỆN

Hà Văn Tài
MSSV: 5062282
Lớp: Luật Tư pháp 1 -K32

Cần thơ, tháng 4 năm 2010


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ LUẬN VĂN
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………


………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

MỤCLỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUỐC TỊCH .................................. 3
1.1 Khái niệm về quốc tịch .......................................................................... 3
1.2 Ý nghĩa về quốc tịch .............................................................................. 5
1.2.1 Ý nghĩa của quốc tịch đối với công dân ............................................... 5
1.2.2 Ý nghĩa của quốc tịch đối với Nhà nước .............................................. 6
1.3 Lịch sử hình thành và phát triển quốc tịch .................................................. 6
1.3.1 Quốc tịch thời kỳ chiếm hữu nô lệ........................................................ 7
1.3.2 Quốc tịch thời kỳ Phong kiến................................................................ 7
1.3.3 Quốc tịch thời kỳ Tư bản chủ nghĩa ..................................................... 7
1.3.4 Quốc tịch thời kỳ xã hội chủ nghĩa ....................................................... 8
1.3.5 Lịch sử hình thành quốc tịch Việt Nam................................................ 8
1.4 Các nguyên tắc xác định quốc tịch ............................................................ 12
1.4.1 Nguyên tắc xác định theo huyết thống ............................................... 13
1.4.2 Xác định theo nguyên tắc nơi sinh...................................................... 14

1.4.3 Nguyên tắc thỏa thuận quốc tế ............................................................ 15
1.5 Các nguyên tắc xác định quốc tịch theo quy định của pháp luật Việt Nam15
1.5.1 Nguyên tắc huyết thống:...................................................................... 15
1.5.2 Nguyên tắc nơi sinh....................................................................... 16
1.5.3 Xác lập quốc tịch Việt Nam theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam gia nhập hoặc ký kết ................................................... 17
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUỐC TỊCH VIỆT NAM ........... 19
2.1 Những điểm hạn chế cần sửa đổi, bổ sung của Luật Quốc tịch Việt Nam
năm 1998 ........................................................................................................... 18
2.2 Nội dung của quốc tịch Việt Nam ............................................................. 21
2.2.1 Quốc tịch của trẻ em...................................................................... 22
2.2.2 Quốc tịch của con nuôi chưa thành niên khi cha mẹ bị tước quốc tich25
2.2.3 Quốc tịch của con chưa thành niên khi cha mẹ bị tước quốc tịch hoặc
bị hủy bỏ cho nhập quốc tịch Việt Nam ...................................................... 26
2.2.4 Quốc tịch của con nuôi chưa thành niên ........................................... 27
2.3. Nhập quốc tịch Việt Nam .......................................................................... 30
2.3.1 Điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam ................................................... 30

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

2.3.2 Hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam ................................................... 33
2.3.3 Trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam ...... 35
2.3.4 Trình tự, thủ tục và hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam đối với người
không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam ......................................... 36
2.4 Mất quốc tịch Việt Nam ....................................................................... 37

2.4.1 Đương nhiên mất quốc tịch ................................................................. 38
2.4.2 Mất quốc tịch Việt Nam do xin thôi quốc tịch Việt Nam ................. 39
2.4.3 Mất quốc tịch Việt nam do bị tước quốc tịch..................................... 40
2.4.4 Mất quốc tịch Việt Nam theo điều ước quốc tế ................................. 41
2.5 Thôi quốc tịch Việt Nam...................................................................... 41
2.5.1 Căn cứ thôi quốc tịch Việt Nam ......................................................... 41
2.5.2 Hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam ..................................................... 43
2.5.3 Trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam ........ 44
2.6 Tước quốc tịch Việt Nam ..................................................................... 45
2.6.1 Căn cứ tước quốc tịch Việt Nam ........................................................ 45
2.6.2 Trình tự tước quốc tịch Việt Nam....................................................... 46
2.7 Hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam .................................... 47
2.7.1 Căn cứ hủy bỏ cho nhập quốc tịch Việt Nam .................................... 47
2.7.2 Trình tự, thủ tục hủy bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam . 47
2.8 Trở lại quốc tịch Việt Nam ........................................................................ 48
2.8.1 Các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam .............................. 48
2.8.2 Hồ sơ xin trở lại quốc tịch Việt Nam.................................................. 50
2.8.3 Trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin trở lại quốc tịch Việt Nam..... 50
2.9 Quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài .............................. 53
CHƯƠNG 3::THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT QUỐC TỊCH VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM........................ 54
3.1 Tình trạng hai hay nhiều quốc tịch ............................................................ 54
3.1.1 Nguyên nhân của tình trạng hai hay nhiều quốc tịch ........................ 54
3.1.2 Những khó khăn của tình trạng hai hay nhiều quốc tịch ................... 56
3.2 Tình trạng không quốc tịch ........................................................................ 57
3.2.1 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng không quốc tịch ............................ 57
3.2.2 Những khó khăn của tình trạng không quốc tịch ............................... 58
3.3 Một số thực trạng khi áp dụng pháp luật quốc tịch Việt Nam ................. 58
3.3.1 Thực trạng vấn đề không quốc tịch .................................................... 59
3.3.2 Thực trạng vấn đề xin nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam ................... 60


GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

3.4 Một số giải pháp hoàn thiện luật quốc tịch Việt Nam .............................. 61
3.4.1 Giải pháp về vấn đề không quốc tịch ................................................. 61
3.4.2 Giải pháp vấn đề hai quốc tịch ............................................................ 62
3.4.3 Giải pháp vấn đề xin nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam ..................... 64
PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 67

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, quốc tịch là cơ sở pháp lý cơ bản và duy nhất để xác
định một cá nhân là công dân của một Nhà nước nhất định. Nếu quyền và nghĩa
vụ là chế định trung tâm của Luật Hiến pháp về địa vị pháp lý của công dân thì
quốc tịch có tính chất tiền đề, có ý nghĩa quyết định. Chỉ trên cơ sở xác định
được quốc tịch của một cá nhân mới có thể xác định đầy đủ quyền và nghĩa vụ
công dân của họ, bởi lẽ không thể bất kỳ ai cũng là công dân của Nhà nước mà

hiện tại họ đang sinh sống. Quốc tịch của một người, được gọi là công dân của
một Nhà nước là yếu tố cơ bản để xác định người đó có được hưởng các quyền
và phải thực hiện các nghĩa vụ do pháp luật của Nhà nước đó quy định, đồng thời
phải chịu sự chi phối và quản lý mọi mặt của Nhà nước. Theo ý nghĩa nói trên,
quốc tịch Việt Nam thể hiện những quan hệ gắn bó của cá nhân đối với Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của công
dân Việt Nam đối với Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam đối với
công dân Việt Nam. Cho nên việc quy định về quốc tịch Việt Nam là hết sức cần
thiết cho công dân cũng như Nhà nước việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
Ngày nay, cùng với sự phát triển về pháp luật quốc tịch của các quốc gia
trên thế giới, pháp luật quốc tịch Việt Nam cũng có những bước phát triển ngày
càng hoàn thiện. Bên cạnh hoàn thiện về mặt lập pháp trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, Luật quốc tịch nước ta đã giải quyết được phần nào vấn đề về quốc
tịch cho kiều bào Việt Nam ở nước ngoài và bộ phận người không quốc tịch đang
cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm mà luật quốc tịch
nước ta đạt được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Xã hội ngày càng
phát triển dẫn đến nhiều trường hợp phát sinh mà luật không dự liệu trước hết tất
cả. Chính vì vậy, đã gây nhiều khó khăn cho các cơ quan quản lý Nhà nước trong
việc áp dụng Luật Quốc tịch và khó khăn cho cả người dân. Do đó, mục đích
nghiên cứu của đề tài là nhằm tìm hiểu những quy định của luật quốc tịch Việt
Nam cũng như áp dụng luật trong thực tiễn áp dụng. Từ đó, giúp bản thân nhận
thức một cách tương đối và đầy đủ về pháp luật quốc tịch Việt Nam cũng như
trong khả năng có thể giúp mọi người tìm hiểu về Luật Quốc tịch Việt Nam. Qua
đó, bằng những kiến thức hạn hẹp của mình người viết xin đưa ra ý kiến đề xuất

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
1



Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

một số giải pháp nhằm từng bước hoàn thiện các quy định của luật quốc tịch để
tháo gỡ những khó khăn trong việc áp dụng Luật Quốc tịch Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
“Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam”, là một đề tài nghiên cứu
thuộc ngành khoa học pháp lý nhưng trong tính pháp lý đó có một số vấn đề
mang tính xã hội. Do đó để tìm hiểu những vấn đề mang tính xã hội cần sử dụng
những phương pháp như phương pháp khoa học, phương pháp tư duy, thống kê,
phương pháp logic,..Đồng thời nó cũng nghiên cứu các vấn đề thuộc các khía
cạnh pháp lý nên sử dụng các phương pháp như: phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh, phương pháp đánh giá, những đề xuất của người nghiên cứu…
Ngoài ra để nghiên cứu đề tài được tốt hơn người viết cần sử dụng những
tài liệu và phương tiện như: Về tài liệu thì sử dụng những văn bản pháp luật điều
chỉnh các vấn đề có liên quan đến quốc tịch, cũng như các chính sách của nhà
nước về quốc tịch,…
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các vấn đề về quốc tịch như: Thế nào là quốc tịch, lịch sử
hình thành và phát triển quốc tịch, căn cứ xác lập quốc tịch cũng như nội dung
của quốc tịch cùng với những giải pháp hoàn thiện luật quốc tịch Việt Nam.
5. Bố cục của đề tài
Bố cục đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quốc tịch
Chương 2:Nội dung cơ bản của quốc tịch Việt Nam
Chương 3: Thực trạng áp dụng luật quốc tịch và một số giải pháp
hoàn thiện Luật quốc tịch Việt Nam
Trong quá trình nghiên cứu, bản thân người viết không tránh khỏi những
thiếu sót nhất định, nhờ sự giúp đỡ tận tình của giảng viên hướng dẫn cũng như

nhận được sự giải thích, hướng dẫn của thầy,cô Bộ Môn Luật Hành Chính. Bản
thân người viết rất mong được sự gớp ý kiến của thầy, cô để bài viết đạt được kết
quả tốt nhất cũng như bản thân có được sự nhận thức toàn diện hơn về vấn đề
quốc tịch Việt Nam.

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
2


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUỐC TỊCH

1.1 Khái niệm về quốc tịch
Theo Luật quốc tế hiện đại thì quốc tịch được hiểu là mối quan hệ pháp lý
hai chiều được xác lập giữa cá nhân với một quốc gia nhất định có nội dung là
tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đó và quốc gia mà họ là công dân. Mối
quan hệ pháp lý về quốc tịch được xác lập giữa cá nhân với quốc gia thể hiện qua
các đặc điểm như:
- Đối với từng cá nhân đây là mối quan hệ pháp luật tồn tại một cách bền
vững ổn định và ràng buộc người đó với nhà nước mà họ là công dân về quyền
và nghĩa vụ mang tính hai chiều.
- Quốc tịch vừa mang tính quốc tế vừa là đối tượng điều chỉnh của luật
trong nước, đặc thù này của mối quan hệ quốc tịch xuất phát từ mối quan hệ biện
chứng giữa quyền con người và quyền công dân của một cá nhân khi tồn tại trong
đời sống xã hội.1
Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, quốc tịch là một chế định

pháp lý bao gồm các quy định điều chỉnh hình thức và nội dung mối quan hệ
pháp luật được thiết lập giữa cá nhân với một Nhà nước, trên cơ sở đó làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Quốc tịch là căn cứ
duy nhất xác định công dân của một Nhà nước, là “sự quy thuộc của một người
vào một quốc gia nào đó”. Mỗi quốc gia có một chế định pháp lý khác nhau về
quốc tịch, do vậy, Luật quốc tịch mỗi nước quy định cụ thể vấn đề về nhập quốc
tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch của mỗi công dân phù hợp với đặc thù của
nước đó. Quốc tịch là một phạm trù chính trị - pháp lý, thể hiện mối quan hệ gắn
bó, bền vững về chính trị và pháp lý giữa Nhà nước và cá nhân, là căn cứ pháp lý
duy nhất xác định công dân của một Nhà nước và trên cơ sở đó làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Theo từ điển Oxford của
Anh: Quốc tịch là sự quy thuộc của một người vào một quốc gia nào đó. Theo từ
điển Bách khoa Luật của Liên Xô cũ thì: “Quốc tịch là sự quy thuộc về mặt pháp
lý và chính trị của một cá nhân vào một Nhà nước thể hiện mối quan hệ qua lại
giữa Nhà nước và cá nhân”. Nhà nước quy định các quyền cho cá nhân là công
1

/>
GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
3


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

dân của mình, bảo vệ và bảo hộ công dân đó ở nước ngoài. Về phần mình, công
dân phải tuân theo pháp luật của Nhà nước và hoàn thành các nghĩa vụ đối với
Nhà nước2. Hầu như các nước Châu Âu, Châu Mỹ đều có cách hiểu tương đối
giống nhau khi bàn luận đến khái niệm quốc tịch, đều cho rằng đó là sự quy

thuộc về mặt pháp lý và chính trị. Còn các quốc gia Châu Á thì cho rằng đó là
mối quan hệ, ràng buộc. Còn theo Từ điển luật của Hoa Kỳ thì cho rằng quốc tịch
là một đặc tính phát sinh từ sự kiện quy thuộc của một người vào một quốc gia
nào đó3. Ngoài ra Luật Quốc tịch Lào khẳng định: Quốc tịch Lào thể hiện mối
quan hệ pháp luật và chính trị, ràng buộc một người nào đó với Nhà nước Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào và là cơ sở xác định người đó có địa vị là công dân
Lào4. Trong khái niệm Luật quốc tịch của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào thì thể
hiện hai vấn đề:
- Thứ nhất, là mối quan hệ và sự ràng buộc cá nhân với Nhà nước;
- Thứ hai, là địa vị pháp lý của người đó, có nghĩa là khi là công dân Lào
thì người đó sẽ được hưởng những quyền và lợi ích mà Nhà nước Lào ban cho.
Ngày nay quốc tịch được hiểu theo hai nghĩa: quốc tịch theo nghĩa pháp lý
và quốc tịch theo nghĩa thông thường.
Theo nghĩa pháp lý thì: Quốc tịch là mối quan hệ chính trị pháp lý có tính
chất lâu dài, bền vững, ổn định, không bị giới hạn bởi một cá nhân với một chính
quyền Nhà nước nhất định. Đó là sự thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa cá nhân
với Nhà nước, làm pháp sinh quyền và nghĩa vụ của công dân với Nhà nước.
Đây là mối quan hệ mang tính chính trị bởi vì quốc tịch thể hiện mối quan
hệ giữa công dân với Nhà nước nhất định qua các thời kỳ. Tức là trong một thời
kỳ nhất định một Nhà nước sẽ có những quy định về quốc tịch khác nhau, những
quy định này phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Đồng thời, quốc tịch cũng thể
hiện tính pháp lý trong mối quan hệ Nhà nước và công dân được thể hiện như
sau:
- Thứ nhất, Nhà nước bằng pháp luật, quy định quyền nghĩa vụ cho công
dân;

2

Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
năm 1999, trang 157

3
Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
năm 1999, trang 157
4
/>
GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
4


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

- Thứ hai, công dân phải có nghĩa vụ tuân theo pháp luật mà Nhà nước của
mình đặt ra dù họ ở trong hoặc ngoài nước;
- Thứ ba, Nhà nước có quyền phán xét, xử lý tuyệt đối các hành vi của
công dân của mình đồng thời phải có trách nhiệm bảo hộ quyền và lợi ích của
công dân cả ở trong và ngoài nước.
Mối quan hệ chính trị - pháp lý giữa một cá nhân với một Nhà nước không
thể là sự tác động một chiều từ nhà nước đến cá nhân là công dân hay ngược lại
từ công dân đến Nhà nước mà mối quan hệ này là sự tác động qua lại lẫn nhau,
bổ trợ cho nhau đồng thời qua đó cũng thể hiện tính giai cấp rõ rệt, bằng việc
Nhà nước ban hành các chế độ pháp lý cho công dân của nước mình, đồng thời
Nhà nước cũng đề ra trách nhiệm bảo hộ quyền lợi cho cá nhân trong mối quan
hệ cộng đồng dân cư của quốc gia mà họ là công dân, cũng như trong quan hệ
quốc tế mà người đó tham gia nhân danh chính cá nhân họ. Về phía nhà nước xác
lập quốc tịch có ý nghĩa thực hiện chủ quyền quốc gia đối với dân cư, bởi về
pháp lý quốc tịch là căn cứ xác định giới hạn thẩm quyền tài phán của một quốc
gia trong các mối quan hệ pháp luật quốc tế.
Theo nghĩa thông thường thì: Quốc tịch được hiểu là tổng thể các quy

phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ xã hội phát sinh trong các điều kiện: có,
mất, thôi, tước, hủy, trở lại quốc tịch.
Mối quan hệ pháp lý này có thể thấy trong luật quốc tịch Việt Nam, quốc
tịch Việt Nam cũng thể hiện mối quan hệ pháp lý gắn bó giữa Nhà nước và công
dân, điều này được quy định cụ thể tại Điều 1 Luật Quốc tịch Việt Nam năm
2008:
“Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của một cá nhân với
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ
của công dân Việt nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam”.
Về nguyên tắc các quốc gia trên thế giới đều có quan điểm tương đối giống
nhau khi bàn luận đến khái niệm quốc tịch đều xuất phát từ điểm chung là mối
quan hệ giữa cá nhân và Nhà nước, trải qua những biến động của hệ thống pháp
luật trên thế giới cũng như những biến đổi pháp luật của từng quốc gia khác nhau
tác động mà khái niệm quốc tịch được đúc kết trên cơ sở lý luận phù hợp về mặt
pháp lý và toàn diện về mặt thực tiễn.

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
5


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

1.2 Ý nghĩa về quốc tịch
1.2.1 Ý nghĩa của quốc tịch đối với công dân
Việc xác định quốc tịch có ý nghĩa rất quan trọng, một cá nhân con người
không thể có được quyền và danh dự như công dân của một Nhà nước nhất định,
nếu như cá nhân đó không phải là công dân của quốc gia mình, khi xác định

được quốc tịch chính là việc xác định quyền và nghĩa vụ của Nhà nước với công
dân và ngược lại. Điều này mang một ý nghĩa hết sức to lớn, bởi lẽ chỉ khi xác
định được mình là công dân của một nước nào thì một người mới có thể xác định
được một cách chính xác quyền và nghĩa vụ của mình đối với một nhà nước nhất
định cũng như biết được nơi nào sẽ bảo vệ cho quyền lợi của mình khi phát sinh
tranh chấp trong mối quan hệ trong nước và quan trọng hơn là quan hệ quốc tế.
Từ chỗ xác định rõ quốc tịch cá nhân sẽ được hưởng các quyền đặc biệt của
công dân như quyền bầu cử, ứng cử ngoài ra công dân của một nước còn được
hưởng sự ưu đãi mà nhà nước dành cho công dân của nước mình mà các công
dân của quốc gia khác không thể có được cũng như được thực hiện các nghĩa vụ
mà Nhà nước quy định
1.2.2 Ý nghĩa của quốc tịch đối với Nhà nước
Quốc tịch là yếu tố xác định công dân của một quốc gia. Đây là yếu tố giúp
cho việc phân định ba dạng người trên lãnh thổ của một quốc gia là: Người mang
quốc tịch của quốc gia sở tại; người có quốc tịch nước ngoài (có hai hay nhiều
quốc tịch); người không quốc tịch.
Việc xác định một cá nhân là công dân của một quốc gia mang một ý nghĩa
hết sức quan trọng. Điều này rất cần thiết trong công tác quản lý của Nhà nước
cũng như việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội. Khi có sự xác định
rõ những ai là công dân mang quốc tịch của quốc gia mình, đồng thời dựa trên sự
phân bố dân cư, nhà nước sẽ dễ dàng hơn trong việc phân cấp quản lý. Số dân
sinh sống ở các vùng miền cũng là cơ sở cho Nhà nước phân chia địa giới hành
chính giữa các cấp quản lý. Dựa trên sự phân chia quản lý cụ thể tại các địa
phương, Nhà nước sẽ có chính sách hợp lý để phát triển kinh tế xã hội từng vùng,
miền trên đất nước, phát huy được thế mạnh của các địa phương. Thông qua việc
xác định dân số cũng như vùng tập trung dân cư, Nhà nước sẽ có phương hướng
phân bố lại dân cư để tạo nên sự phát triển đồng bộ cả đất nước. Từ việc xác định
yếu tố trên, Nhà nước ta đã có chính sách thu hút người dân chuyển đến sinh
sống ở những vùng có ít dân cư sinh sống bằng những ưu đải nhất định, một mặt


GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
6


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

giải quyết được việc làm mặt khác làm cho đất nước có mật độ dân số đồng đều,
giúp thuận lợi hơn công tác quản lý, xác định quốc tịch của công dân một mặt
nào đó làm cho các vùng miền có nền kinh tế phát triển ngang bằng nhau, giảm
bớt một phần gánh nặng cho Nhà nước. Thông qua xác định được quốc tịch của
công dân, Nhà nước cũng xác định được các quyền của mình cũng như xác định
trách nhiệm đối với công dân đang sinh sống trong nước và công dân ở ngoài
nước.
1.3 Lịch sử hình thành và phát triển quốc tịch
Quốc tịch ra đời, tồn tại và mất đi cùng với sự ra đời và mất đi của chính
quyền Nhà nước. Nguyên nhân làm xuất hiện quốc tịch là quá trình vận động xã
hội, mà kết quả của sự vận động đó chính là xuất hiện của chính quyền Nhà
nước. Như vậy, khi một chính quyền nhà nước được thành lập xuất hiện mối
quan hệ chính trị pháp lý giữa chính quyền Nhà nước và những cá nhân đang
sống trên lãnh thổ của chính quyền nhà nước đó. Về mặt lịch sử, quốc tịch là một
khái niệm ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên tư bản chủ nghĩa.
1.3.1 Quốc tịch thời kỳ chiếm hữu nô lệ
Trong chế độ chiếm hữa nô lệ, thì chỉ có những chủ nô mới được coi là
người có đầy đủ các quyền do Nhà nước ban cho, trong đó có quyền được sở hữu
và bóc lột những người nô lệ. Tuyệt đại đa số những người lao động là nô lệ. Họ
không được coi là con người mà chỉ là một thứ “công cụ lao động biết nói” và
chủ nô đã áp đặt mọi ý chí lên người nô lệ cùng với quyền sở hữu và bóc lột, dẫn
đến mối quan hệ bất bình đẳng giữa họ với giai cấp thống trị đặc biệt hơn là giữa

họ với nhà nước, hệ quả là họ không có một chút quyền gì trong xã hội. Trong
chế độ này thì vấn đề quốc tịch không được nhắc đến5.
1.3.2 Quốc tịch thời kỳ phong kiến
Trong chế độ phong kiến, địa vị pháp lý của người lao động được cải thiện
hơn so với chế độ chiếm hữu nô lệ. Tuy không còn thuộc quyền sở hữu của giai
cấp phong kiến nhưng họ vẫn bị trói buộc vào ruộng đất của lãnh chúa và địa
chủ, họ chỉ có một ít quyền cá nhân nhưng không được quyền chính trị không
được tham gia vào bộ máy nhà nước phong kiến họ chỉ có nghĩa vụ đối với Nhà
nước một cách tuyệt đối.
1.3.3 Quốc tịch thời kỳ tư bản chủ nghĩa
5

Tập bài giảng Tư pháp Quốc tế, Th.s Diệp Ngọc Dũng – Th.s Cao Nhất Linh, Khoa Luật, Trường Đại
học Cần Thơ, trang 47

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
7


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

Bước sang giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản đã đưa
ra nhiều quan điểm, tư tưởng tiến bộ trong đó có chế định về nhân quyền, về
quốc tịch để lôi cuốn quần chúng lao động làm cách mạng lật đổ chế độ phong
kiến, thiết lập và củng cố nền thống trị của giai cấp tư sản. Chế định quốc tịch
thay cho chế định thần dân trong chế độ phong kiến. Đây là bước phát triển tiến
bộ trong lịch sử, vì theo đó người dân được gọi là công dân có nhiều quyền hơn
so với trước trong đó có quyền chính trị và dân sự. Tuy nhiên trong chế độ tư bản

chủ nghĩa người dân chỉ có quyền công dân và bình đẳng về mặt hình thức, còn
trên thực tế chỉ có giai cấp thống trị tư sản mới được hưởng đầy đủ những quyền
đó6.
1.3.4 Quốc tịch thời kỳ xã hội chủ nghĩa
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, chế định quốc tịch có nội dung hoàn toàn
mới. Giữa Nhà nước và công dân đã hình thành quan hệ mới về chính trị pháp lý,
do Nhà nước đã xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân và xác lập chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, mọi công dân trong nhà nước xã hội chủ nghĩa đều bình đẳng với
nhau về địa vị kinh tế, và bình đẳng trong tất cả các lĩnh vực khác như: văn hóa,
chính trị, xã hội... Từ vị trí người bị thống trị nhân dân lao động thực sự trở thành
người làm chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
1.3.5 Lịch sử hình thành quốc tịch Việt Nam
Ở Việt Nam, trước cách mạng tháng tám năm 1945, Việt Nam là một nước
thuộc địa nữa phong kiến, không có độc lập, tự do, không có chủ quyền vì vậy ở
giai đoạn này vấn đề quốc tịch chưa được đặt ra. (Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á). Sự kiện này
khẳn định Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền và bình đẳng với các
quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế đồng thời cũng đánh dấu sự bắt đầu của
chế định “quốc tịch Việt Nam”. Pháp luật quốc tịch cũng hình thành và phát triển
gắn liền với tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam được khái quát ở
hai giai đoạn trước và sau năm 1975.
* Giai đoạn trước năm 1975

6

Tập bài giảng Tư pháp Quốc tế, Th.s Diệp Ngọc Dũng – Th.s Cao Nhất Linh, Khoa Luật, Trường Đại
học Cần Thơ, trang 47

GVHD: Đinh Thanh Phương


SVTH: Hà Văn Tài
8


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

Sau cách mạng tháng tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa còn non
trẻ đứng trước nhiệm vụ cấp thiết phải xóa bỏ hệ thống pháp luật thực dân phong kiến và nhanh chóng xây dựng hệ thống pháp luật mới để quản lý đất
nước, giữ vững nền độc lập dân tộc. Tuy nhiên, việc xây dựng hệ thống pháp luật
mới không thể một sớm, một chiều. Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng về
vấn đề quốc tịch cũng như khẳng định và thực hiện chủ quyền đất nước, để nghi
nhận về mặt địa vị pháp lý địa vị xã hội thực tế của nhân dân Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chủ trương tạm thời áp dụng những quy định của pháp luật cũ,
miễn là nội dung không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể quân chủ cộng
hòa (Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945). Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đã khẩn trương ban hành những văn bản pháp luật mới, trong đó có
những văn bản pháp luật về quốc tịch như:
• Sắc lệnh 53/SL ngày 20/10/1945 quy định ai là công dân Việt Nam (tức là
có quốc tịch Việt Nam) và những người nào bị mất quốc tịch Việt Nam; thể thức
tước quốc tịch Việt Nam của những người không sứng đáng.
• Sắc lệnh số 73/SL ngày 7/12/1945 quy định về việc nhập quốc tịch Việt
Nam.
• Sắc lệnh số 25/SL ngày 25/2/1946 bổ sung sắc lệnh số 53/SL về trường hợp
đàn bà Việt Nam lấy chồng ngoại quốc và đàn bà ngoại quốc lấy chồng Việt
Nam.
• Sắc lệnh số 215/SL ngày 20/10/1948 Sắc lệnh này ấn định những quyền lợi
đặc biệt cho những người nước ngoài đã có công giúp đỡ cuộc kháng chiến của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
• Sắc lệnh số 051/ SL ngày 14/12/1959 bãi bỏ một số điều của Sắc lệnh

53/SL.
Các sắc lệnh trên là căn cứ pháp lí để xác định và giải quyết những vấn đề
liên quan đến quốc tịch đồng thời các sắc lệnh này đóng một vai trò vô cùng
quan trọng trong việc hình thành và phát triển chế định quốc tịch Việt Nam. Nó
đã đáp ứng được yêu cầu của cách mạng, phù hợp với tình hình thực tế về chính
trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật, xã hội của nước ta trong giai đoạn 1945-1954 gớp
phần xây dựng chế độ pháp lý của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Năm 1954,
cuộc khách chiến chống thực dân pháp thắng lợi, miền Bắc tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến trường kỳ. Trong bối cảnh

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
9


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

mới, chế định quốc tịch Việt Nam vẫn được áp dụng theo sắc lệnh cũ và có sự
điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, ngày 14/12/1959, Chủ tịch nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành sắc lệnh số 51/SL và bãi bỏ Điều 5 Sắc
lệnh số 73/SL và Điều 6 Sắc lệnh 25/SL theo sắc lệnh số 73/SL, Bộ tư pháp có
thẩm quyền quyết định việc nhập quốc Tịch Việt Nam của người nước ngoài, tuy
nhiên theo Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Chính phủ năm 1960 không còn
tồn tại Bộ Tư pháp trong cơ cấu Chính phủ vì vậy ngày 18/02/1971 Ủy ban
thường vụ quốc hội đã ra Nghị quyết số 1013/NQTVQH ngày 08/12/1971 của
Ủy ban thường vụ quốc hội về việc giao cho Hội đồng Chính phủ quyền xét xử
và quyết định những trường hợp xin nhập hoặc xin thôi quốc tịch Việt Nam. Các
văn bản pháp luật về quốc tịch trên đã xác định các điều kiện để có và mất quốc
tịch Việt Nam. Phù hợp với Hiến pháp nước ta lúc bấy giờ, các quy định về quốc

tịch đã khẳng định các nguyên tắc bình đẳng nam nữ, bình đẳng dân tộc và nhân
đạo. Các văn bản pháp luật về quốc tịch đã đáp ứng một cách kiệp thời, thiết thực
yêu cầu chính trị là xác định được quốc tịch của nước ta, làm cơ sở và tạo điều
kiện đảm bảo cho công dân được hưởng quyền về mọi mặt, đồng thời làm tròn
nghĩa vụ đối với đất nước. Tuy nhiên, vì được ban hành đơn lẻ, giá trị pháp lý
thấp nên pháp luật về quốc tịch trong giai đoạn này chưa giải quyết được toàn
diện những vấn đề về quốc tịch Việt Nam, đặc biệt chưa cụ thể hóa được những
vấn đề về quốc tịch được quy định trong Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm
19597.
* Giai đoạn sau năm 1975
Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, những thay
đổi về chính trị - kinh tế - xã hội đã đòi hỏi phải có những văn bản quy phạm
pháp luật phù hợp có giá trị cao để điều chỉnh quan hệ pháp luật về quốc tịch.
Thời kỳ Pháp thuộc, rất nhiều người Việt Nam đã ra nước ngoài (chủ yếu ở Pháp
và các nước Tây Âu); giai đoạn năm 1945-1954, người Việt Nam cũng ra nước
ngoài với số lượng không nhỏ, nhất là ở Hoa Kỳ. Sau năm 1975, nhiều người
Việt Nam ra nước ngoài bằng con đường bất hợp pháp trong đó một bộ phận đã
nhập quốc tịch nước ngoài. Mặt khác, khi thực hiện chính sách đổi mới, ngày
càng có nhiều người nước ngoài đến Việt Nam đầu tư theo Luật đầu tư nước
ngoài, số lượng người nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam, nhận trẻ em
Việt Nam làm con nuôi ngày càng gia tăng… trước tình hình đó ngày 28/6/1988,
7

Tập chí Luật học tháng 6-2009 chuyên đề Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
10



Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

Quốc hội khóa VIII, kỳ hợp thứ 3 đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam, đây là
đạo luật đầu tiên điều chỉnh về vấn đề quốc tịch Việt Nam, đánh dấu một mốc
mới trong quá trình lập pháp của nước ta. Để cụ thể hóa, ngày 5/2/1990 Hội đồng
bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 37/HĐBT. Luật quốc tịch năm 1988 và Nghị
định số 37/HĐBT đã đáp ứng những nhu cầu chính trị và pháp lý quốc tịch trong
giai đoạn mới của đất nước. Xuất phát từ thực tế hội nhập cùng cộng đồng quốc
tế, đáp ứng những yêu cầu về việc giải quyết vấn đề quốc tịch và khắc phục
những hạn chế của Luật Quốc tịch năm 1988, Ngày 20/5/1998, Quốc hội khóa X,
kỳ hợp thứ 3 của nước công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ban hành luật quốc
tịch Việt Nam số 07/1998/QH10 thay thế luật Quốc tịch năm 1988 và có hiệu lực
từ ngày 01/01/1999 Luật Quốc tịch 1998 đã phát huy những hiệu quả tích cực có
tác dụng to lớn trong việc tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân,
hướng dẫn và động viên mọi người hưởng các quyền công dân, được coi là bước
tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về quốc tịch, đã quy định đường
lối cụ thể như: Chính sách của Nhà nước ta về quốc tịch, việc có và mất quốc tịch
Việt Nam, thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và con nuôi, thẩm quyền
và thủ tục giải quyết các việc về thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch.
Để triển khai thực hiện Luật Quốc tịch năm 1998, các cơ quan có thẩm
quyền đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật sau:
• Nghị định của chính phủ số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998;
• Nghị định của chính phủ số 55/2000/NĐ-CP ngày 11/10/2000 sửa đổi một
số điều của Nghị định 104/1998/NĐ-CP;
• Thông tư liên tịch của Bộ tài chính, Bộ tư pháp và Bộ ngoại giao số
08/1998/TTLT-BTC-BTP-BNG ngày 31/12/1998 hướng dẫn mức thu, nộp, quản
lý và sử dụng lệ phí giải quyết việc nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam và cấp
giấy chững nhận có quốc tịch Việt Nam, giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam;

• Thông tư của Bộ tư pháp số 09/1999/TT-BTP ngày 7/4/1999 hướng dẫn
việc cấp giấy xác nhận không có quốc tịch Việt Nam;
• Thông tư liên tịch của Bộ giáo dục và đào tạ, Bộ tư pháp số 09/1998/TTLTBGD&ĐT-BTP ngày 31/12/1998 hướng dẫn việc cấp giấy chứng nhận trình độ
tiếng việt cho người nước ngoài xin nhập quốc tịch Việt Nam;

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
11


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

• Quyết định của Bộ trưởng Bộ tư pháp số 60/1999/QĐ-TP-QT ngày 7/4/1999
về việc ban hành mẫu giấy tờ về quốc tịch Việt Nam.
Sau 9 năm thực hiện, ngày 15/2/2008 Bộ tư pháp đã tổ chức Hội nghị tổng
kết thực hiện Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998, đánh giá những mặt tích cực,
chỉ ra những mặt hạn chế cần khắc phục như việc ghi nhận nguyên tắc một quốc
tịch còn cứng nhắc; điều kiện nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam chưa thực sự phù
hợp với tình hình mới; thủ tục tiếp nhận và giải quyết các việc về quốc tịch còn
rườm rà; công tác quản lý nhà nước về quốc tịch lỏng lẻo chưa sát với thực tiễn8.
So với bối cảnh ban hành Luật năm 1998, thì hiện nay đất nước ta đã có
nhiều thay đổi quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội; uy tín và vị thế quốc tế
của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Vấn đề quốc tịch Việt
Nam cũng cần có những đổi mới cho phù hợp. Để đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới, phát triển đất nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực
hiện chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước ta về đại đoàn kết toàn dân
tộc, coi người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời
và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp
phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các

nước, do vậy Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ tư Luật Quốc tịch Việt Nam thông
qua ngày 13-11-2008 và đã được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 28-112008. Luật gồm 6 chương, với 44 điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-2009
thay thế Luật Quốc tịch năm 1998. Về tổng thể, Luật Quốc tịch Việt Nam năm
2008 có cấu trúc cơ bản như Luật Quốc tịch năm 1998 (6 chương 42 điều) nhưng
những hạn chế của Luật Quốc tịch năm 1998 đã cơ bản được sửa đổi trong luật
quốc tịch mới.
Có thể nói việc Quốc hội thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã
quán triệt và thể chế hóa đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
về quốc tịch Việt Nam. Mặt khác, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 còn đảm
bảo sự phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 1992, sự đồng bộ với các
văn bản pháp luật có liên quan cũng như tính khả thi của các quy định có tính
nguyên tắc của luật. Bảo đảm quyền có quốc tịch của mỗi cá nhân, hạn chế tình
trạng không quốc tịch ở nước ta; tăng cường và nâng cao trình độ quản lý nhà
nước về quốc tịch, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho việc bảo hộ có hiệu quả quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài. Hơn thế
8

Tập chí Luật học tháng 6-2009 chuyên đề Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
12


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

nữa, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 còn là sự kế thừa và phát triển những
giá trị của pháp luật quốc tịch Việt Nam đã được thực tế kiểm nghiệm quốc tế
trong việc điều chỉnh vấn đề quốc tịch trong những năm gần đây.

1.4 Các nguyên tắc xác định quốc tịch
Phương thức xác định quốc tịch đã hình thành từ xa xưa, và trãi qua một
quá trình phát triển. Đó là những quy tắc, phương pháp mà quốc gia trên thế giới
đã sử dụng để xác định công dân của nước mình. Mỗi một cá nhân con người
thường phải gắn với một Nhà nước nhất định. Việc cá nhân mang quốc tịch của
một Nhà nước phải phù hợp với luật do Nhà nước đó quy định. Về việc Nhà
nước quy định các điều kiện xác định và thủ tục xác định quốc tịch là dấu hiệu
chủ quyền của Nhà nước. Không một thế lực nào bên ngoài có quyền can thiệp
cũng không có quyền ép buộc một Nhà nước phải nhập quốc tịch hay tước quốc
tịch của một cá nhân nào đó. Việc xác định quốc tịch, không có quốc tịch liên
quan rất nhiều đến quyền tối thiểu của con người: Được sống được tự do, được
mưu cầu hạnh phúc. Vì vậy, giải quyết vấn đề này không đơn thuần chỉ là công
việc nội bộ thể hiện chủ quyền của một Nhà nước, mà nó còn vược ra khỏi phạm
vi của Nhà nước. Nhiều nước đã ký kết nhiều hiệp ước liên kết với nhau để giải
quyết vấn đề quốc tịch. Thậm chí nhiều vấn đề có liên quan đến việc xác định
quốc tịch còn là phạm vi điều chỉnh các công ước và điều ước quốc tế. Đây cũng
là một đòi hỏi khách quan hiện nay để đáp ứng trong điều kiện phát triển khoa
học kỹ thuật, thương mại và các lĩnh vực giao lưu khác giữa các nước.
Nội dung cơ bản của bất cứ một pháp luật quốc tịch của một quốc gia nào
đều phải quy định được những người nào có quốc tịch của nước mình, tức là quy
định những tiêu chuẩn để xác định những người được pháp luật nghiễm nhiên
công nhận là những người được mang quốc tịch của Nhà nước sở tại không cần
phải có quyết định của cơ quan đại diện Nhà nước việc Nhà nước ban hành pháp
luật nhằm xác định người có quốc tịch của nước mình và do đó là công dân của
nước mình cũng như quy định điều kiện, thủ tục nhập quốc tịch, thôi quốc tịch,
trở lại quốc tịch,...là một trong những biểu hiện cụ thể của chủ quyền quốc gia.
1.4.1 Xác định quốc tịch theo nguyên tắc huyết thống
Theo nghuyên tắc này thì mọi đứa trẻ khi sinh ra đều có quốc tịch của cha
mẹ, không phụ thuộc vào nơi sinh, cũng như không phụ thuộc vào ý chí của cha
mẹ, quốc tịch của đứa trẻ là quốc tịch tự nhiên. Đa phần các nước trên thế giới


GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
13


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

đều áp dụng nguyên tắc này như: Tây Á và Bắc Âu (Ví dụ các nước áp dụng như:
Apganixtan, Áo, Na uy, Phần Lan, Tây Ban Nha...)
Nguyên tắc huyết thống có hai dạng: Huyết thống tuyệt đối và huyết
thống tương đối
1.4.1.1 Huyết thống tuyệt đối: Là nguyên tắc theo đó được áp dụng cho trường
hợp cả cha và mẹ có cùng quốc tich. Theo nguyên tắc này thì đứa trẻ sinh ra sẽ
có quốc tịch theo cha mẹ, bất kể nơi đứa trẻ được sinh ra một số nước áp dụng
như: Rumani, Lào, Campuchia, Trung Quốc...
Ví dụ Điều 9 Luật Quốc tịch nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào không
phụ thuộc vào việc trẻ em được sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ của Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lòa thì có quốc tịch Lào9...
Đây là cách thức xác định quốc tịch truyền thống và phổ biến nhất mà luật
pháp của các nước sử dụng để xác định quốc tịch của trẻ em khi sinh ra.
1.4.1.2 Huyết thống tương đối: Là nguyên tắc theo đó được áp dụng cho
trường hợp chỉ cần có cha hoặc mẹ mang quốc tịch của một nước nào đó thì đứa
trẻ sẽ mang quốc tịch của nước mà người cha hay người mẹ đó mang quốc tịch;
hoặc trong trường hợp chỉ có cha hoặc mẹ có quốc tịch còn người kia không rõ
hay không có quốc tịch thì đứa trẻ sẽ mang quốc tịch của người cha hoặc người
mẹ đó. Các nước áp dụng như: Pháp, Ban Lan, Thái Lan, Nhật Bản...
Ví dụ: Theo Điều 17 Bộ luật Quốc tịch nước cộng hòa Pháp, trẻ em sinh ra
hợp pháp hoặc ngoài giá thú có quốc tịch Pháp nếu có cha hoặc mẹ là công dân

của Pháp; Điều 4 khoản 1 Luật Quốc tịch Vương quốc Thái Lan: một người sinh
ra có cha hoặc mẹ có quốc tịch Thái Lan không phân biệt sinh ra trong hoặc
ngoài lãnh thổ Thái Lan hoặc Điều 2 Luật Quốc tịch Nhật Bản, trẻ em sẽ có quốc
tịch Nhật Bản nếu cha hoặc mẹ có quốc tịch Nhật Bản vào thời điểm sinh ra đứa
trẻ10…
Tuy nhiên yếu điểm của nguyên tắc này là khi bố mẹ của đứa trẻ không
cùng một quốc tịch thì không cho phép xác định quốc tịch ngay cho đứa trẻ.
Nhằm mục đích vược ra khỏi sự khiếm khuyết này, một số nước quy định rằng,
trẻ em sinh ra mang quốc tịch người cha (ví dụ một số nước ở châu Á: Thái Lan,
Brunay, Indonexia). Quy định này bị nhiều nước lên tiếng phê phán là vi phạm
9

Tập chí Luật học tháng 6-2009 chuyên đề Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008

10

Tập chí Luật học tháng 6-2009 chuyên đề Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
14


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Một số nước khác giải quyết mâu thuẫn bằng
việc quy định: trong những trường hợp tranh chấp trên, đứa trẻ mang quốc tịch
của nước nào là do sự thỏa thuận giữa cha và mẹ, nếu trong trường hợp cha mẹ
không thỏa thuận được thì Tòa án giải quyết.

1.4.2 Xác định quốc tịch theo nguyên tắc nơi sinh
Theo nguyên tắc này trẻ em sinh ra trên lãnh thổ của nhà nước nào thì phải
mang quốc tịch của nhà nước đó, không phụ thuộc vào ý chí của bố mẹ chúng,
cũng như không tính đến việc bố mẹ chúng mang quốc tịch của nhà nước nào
(Một số nước áp dụng như: Cu Ba, Trung Quốc, Singabore...)
Ví dụ: Theo điểm a Điều 29 Hiến pháp của Cộng hòa Cu Ba, những người
sinh ra trên lãnh thổ Cu Ba (trừ con của những người nước ngoài đang làm việc
tại Cu Ba cho Chính phủ của họ hoặc cho các tổ chức quốc tế) có quốc tịch Cu
Ba; Theo Điều 6 Luật Quốc tịch của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung
Quốc, trẻ em sinh ra tại nước này có cha mẹ là người không quốc tịch hoặc quốc
tịch không rõ ràng định cư ở Trung Quốc thì có quốc tịch Trung Quốc11...
Nguyên tắc này hạn chế được sự bất đồng trong việc tranh chấp về quốc tịch của
đứa trẻ khi cha, mẹ có hai quốc tịch khác nhau. Nhưng cũng giống như nguyên
tắc thứ nhất việc áp dụng nguyên tắc này vào thực tiễn cho thấy có những khuyết
điểm lớn, không bao quát hết mọi trường hợp, như việc xác định quốc tịch của
đứa trẻ không rõ bố mẹ là ai, được tìm thấy trên lãnh thổ của một nước.
Như vậy hai nguyên tắc trên, dù ít hay nhiều điều có khiếm khuyết, không
thể bao quát hết những trường hợp những cá nhân trong đất nước sở tại. Nhưng
thực ra mà nói không thể có một nguyên tắc nào có thể thâu tóm hết tất cả những
trường hợp cá nhân được mang quốc tịch của quốc gia sở tại. Muốn hay không
muốn, nhiều trường hợp việc xác định quốc tịch chỉ là một thủ tục hình thức. Để
hạn chế đến mức tối đa việc các cơ quan đại diện Nhà nước phải ra quyết định
quốc tịch của cá nhân nhiều nhà nước trên thế giới áp dụng cả hai nguyên tắc trên
như: Ba Lan, Anh, Ấn Độ... Chỉ còn lại những trường hợp tranh chấp quốc tịch
mới cần đến quyết định của cơ quan Nhà nước.
1.4.3 Nguyên tắc thỏa thuận quốc tế
Công ước Liên hợp quốc về hạn chế tình trạng không quốc tịch, các nước
cam kết “hành động theo Nghị quyết 896 (IX) do Đại hội đồng Liên hợp quốc
11


Tập chí Luật học tháng 6-2009 chuyên đề Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
15


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

thông qua ngày 04/12/1954; xem xét một cách thiện chí để giảm tình trạng không
quốc tịch bằng một điều ước quốc tế”. Các quốc gia có thỏa thuận đa phương
hoặc song phương về quốc tịch, những thỏa thuận này là cơ sở xác định một bộ
phận dân cư nhất định thuộc quốc tịch nước nào12. Chẳng hạn khi thỏa thuận về
việc chuyển lãnh thổ nào đó vào quốc gia khác (ví dụ: Việc xác lập Cộng hòa dân
chủ Đức vào cộng hòa Liên bang Đức cũng phải có sự thỏa thuận giữa hai nước
về vấn đề quốc tịch của người dân hai nước, việc Trung Quốc thu hồi Hồng
Kông thì đều có thỏa thuận về quốc tịch; hay những thỏa thuận của hai quốc gia
về việc cho phép người dân của nước này có quốc tịch của nước sở tại. Những
thỏa thuận trên là cơ sở để xác định quốc tịch của một bộ phận dân cư nhất định
và được nhiều nước áp dụng13.
1.5 Các nguyên tắc xác định quốc tịch theo quy định của pháp luật Việt Nam
1.5.1 Nguyên tắc huyết thống
Theo quy định tại Điều 15 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định:
“Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Vịệt Nam mà khi sinh có cha mẹ là
công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam”, quốc tịch của con gắn liền với
quốc tịch của cha mẹ.
- Thứ nhất: Tại thời điểm đứa trẻ sinh ra có cha mẹ đều là công dân Việt
Nam (huyết thống tuyệt đối)
- Thứ hai: Không quan tâm đến việc đứa trẻ được sinh ra ở đâu, điều kiện

thứ nhất là điều kiện tiên quyết để đứa trẻ có quốc tịch Việt nam, điều kiện thứ
hai là điều kiện phủ định nghuyên tắc nơi sinh, có nghĩa là khi áp dụng nguyên
tắc huyết thống để xác định quốc tịch thì nguyên tắc nơi sinh bị triệt tiêu. Bên
cạnh đó nguyên tắc huyết thống còn được quy định tại Điều 16 Luật Quốc tịch
2008: “Trẻ em khi sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có
cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch, hoặc
mẹ là công dân Việt Nam còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam”
(Khoản 1 Điều 16 Luật Quốc tịch 2008) bản chất là nguyên tắc huyết thống
tương đối, vì chỉ cần có cha hặc mẹ là công dân Việt Nam thì con sinh ra sẽ có
quốc tịch Việt Nam. Hoặc theo khoản 2 Điều 16 Lật Quốc tịch 2008 “Trẻ em
sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước
ngoài thì có quốc tịch Việt nam, nếu có thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào
12

http:// Thong tin phap luat dan su.wordpress.com/2009/08/01/3469-3/009
Giáo trình Luật Hiến Pháp Việt Nam, Khoa Luật, Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội – NXB Đại Học Quốc gia Hà Nội năm 1999, trang 161
13

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
16


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

thời điểm đăng ký khái sinh cho con. Trường hợp trẻ em sinh ra trên lãnh thổ
Việt nam mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì
trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam”. Theo quy định này thì ngoài việc bao hàm quy

định luật quốc tịch 1998 Luật Quốc tịch 2008 đã giải quyết trong trường hợp cha
mẹ không thỏa thuận được thì đứa trẻ sẽ có quốc tich Việt Nam nếu sinh ra trên
lãnh thổ Việt Nam, điều này đã giải quyết được phần nào bất cập, hạn chế của
Luật Quốc tịch 1998, xét thấy khoản 2 Điều 16 Luật Quốc tịch 2008 là sự kết
hợp hài hòa giữa nguyên tắc huyết thống tương đối và nguyên tắc nơi sinh.
1.5.2 Nguyên tắc nơi sinh
Việt Nam cũng thừa nhận nguyên tắc nơi sinh trong các trường hợp cụ thể
nhằm đảm bảo cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quốc tịch (trừ
trường hợp có quốc tịch nước ngoài).
Theo Điều 17 Luật Quốc tịch 2008 thì “Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt
Nam mà khi sinh có cha mẹ đều là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường
trú tại Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam hoặc khi được sinh ra trên lãnh thổ
Việt Nam mà khi sinh có mẹ là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú
tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam”.
Luật quy định như vậy phần nào hạn chế được tình trạng không quốc tịch
của trẻ em khi sinh tại Việt Nam, theo quy định tại điều này thì cha mẹ phải đang
thường trú tại Việt Nam, đồng thời không mang quốc tịch của bất kỳ một quốc
gia nào khác có như vậy khi sinh con tại Việt Nam thì đương nhiên có quốc tịch
Việ Nam. Tuy nhiên nếu căn cứ vào nội dung, chỉ có thể xác định được quốc tịch
cho đứa trẻ khi cha mẹ, hoặc ít nhất là người mẹ có nơi thường trú tại Việt Nam.
Điều này có nghĩa là, trong trường hợp cha mẹ của đứa trẻ không có quốc tịch và
không có nơi thường trú tại Việt Nam nhưng sinh con trên lãnh thổ Việt Nam thì
đứa trẻ sẽ không có quốc tịch. Do đó, chúng ta nên đảm bảo quốc tịch cho đứa trẻ
bằng việc quy định:“Nếu cha mẹ là người không có quốc tịch hoặc mẹ là người
không có quốc tịch còn cha không rõ là ai thì đứa trẻ có quốc tịch Việt Nam nếu
đăng ký khai sinh tại Việt Nam”. Có như thế mới đảm bảo được chủ trương tạo
điều kiện tối đa cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quốc tịch, đảm
bảo được quyền có quốc tịch của cá nhân nói chung và của trẻ em nói riêng khi
sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật
trong nước và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như Bộ luật Dân sự


GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
17


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

Việt Nam; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Công ước của Liên hiệp
quốc về quyền trẻ em năm 1989…
1.5.3 Xác lập quốc tịch Việt Nam theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam gia nhập hoặc ký kết
Nhìn tổng thể điều ước quốc tế trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
Việt Nam hiện hành điều nghi nhận bằng một công thức chung đó là: Trong
trường hợp điều ước quốc tế mà cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc
tham gia có quy định khác với quy định của luật thì áp dụng quy định của điều
ước quốc tế trong đó có luật quốc tịch được quy định tại khoản 5 Điều 14 Luật
Quốc tịch năm 2008. Như vậy, Việt Nam đã chấp nhận quan điểm về giá trị ưu
thế của điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập hoặc ký kết so với pháp luật
trong nước và coi điều ước quốc tế là một bộ phận cấu thành của pháp luật Việt
Nam và về phương diện hiệu lực thi hành14. Tuy vậy, việc xác định vị trí cụ thể
của điều ước quốc tế là chưa được quy định một cách rõ ràng, trường hợp nào thì
áp dụng trực tiếp, trường hợp nào phải thông qua thủ tục chuyển hóa bằng việc
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong nước, cần phải được quy định rõ
và cần có cách tếp cận linh hoạt mềm dẻo. Tóm lại, về vị trí của quy phạm điều
ước quốc tế, cũng như phương thức áp dụng điều ước quốc tế cần phải được quy
định rõ ràng và chặt chẽ trong đạo luật cao nhất của nhà nước ta Hiến pháp, và
đạo luật chuyên ngành - pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Làm
được điều đó, là gớp phần tạo một hành lang pháp lý cần thiết cho công cuộc hội

nhập một cách sâu sắc và toàn diện. Trên cơ sở đó việc xác lập quốc tịch theo
điều ước quốc tế sẽ được nghi nhận một cách đầy đủ nhất trong các quy định của
luật, tạo được thiện cảm của các quốc gia trong việc xác lập quốc tịch thông qua
việc ký kết các điều ước quốc tế, đây là quy định mang tính chất hội nhập, đánh
dấu bước phát triển hội nhập sâu rộng của Việt Nam.

14

Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế thể hiện sự thoả thuận của các chủ thể pháp luật quốc tế
(trước hết là các quốc gia) trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm quy định, thay đổi, chấm dứt các quyền,
nghĩa vụ của các bên ký kết trong quan hệ quốc tế, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật
quốc tế.

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
18


Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

CHƯƠNG 2
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUỐC TỊCH VIỆT NAM
2.1 Những điểm hạn chế cần sửa đổi, bổ sung của Luật quốc tịch Việt Nam
năm 1998
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 được Quốc hội khoá X nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20/5/1998 tại kỳ họp thứ 3 (sau đây
gọi là Luật quốc tịch 1998) là bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp
luật về quốc tịch của Nhà nước ta. Luật quốc tịch 1998 đã điều chỉnh tương đối
toàn diện các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quốc tịch như: quyền của cá nhân đối

với quốc tịch, nguyên tắc một quốc tịch, hạn chế tình trạng không quốc tịch, quốc
tịch của vợ và chồng, các căn cứ xác định người có quốc tịch Việt Nam, mất
quốc tịch Việt Nam, thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con
nuôi; thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch. Sau hơn 9 năm
thực hiện, Luật Quốc tịch 1998 đã thực sự đi vào cuộc sống, phát huy vai trò là
cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định người có quốc tịch Việt Nam, cho
nhập, cho thôi, cho trở lại quốc tịch Việt Nam, thực hiện chính sách bảo hộ của
Nhà nước ta đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài... Luật Quốc tịch 1998 đã
góp phần quan trọng vào việc hình thành mối quan hệ gắn bó giữa công dân Việt
Nam với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên, Luật Quốc tịch 1998 cũng đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất
cập sau đây:
Một là, nguyên tắc một quốc tịch quy định tại Điều 3 là cứng nhắc, bất cập
so với yêu cầu hội nhập quốc tế, chưa thật phù hợp với nguyện vọng của kiều bào
ta ở nước ngoài và thực sự khó khăn trong triển khai thực hiện trên thực tế.
Nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại Điều 3 Luật Quốc tịch 1998:
“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam
có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”. Tuy nhiên, do thiếu cơ chế bảo đảm
thực hiện nguyên tắc này (cơ chế đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam khi
đương sự chọn hoặc nhập quốc tịch nước ngoài) nên trên thực tế đã nảy sinh hệ
quả là công dân Việt Nam định cư ở một số nước mà ở đó khi nhập quốc tịch
pháp luật của nước sở tại không bắt buộc phải thôi quốc tịch Việt Nam dẫn đến
một số lượng khá đông người Việt Nam định cư ở nước ngoài rơi vào tình trạng
vừa có quốc tịch nước sở tại, vừa có quốc tịch Việt Nam. Thêm vào đó, trong khi
Việt Nam quy định nguyên tắc xác định quốc tịch theo huyết thống thì luật quốc

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
19



Một số vấn đề cơ bản về quốc tịch Việt Nam

tịch một số nước lại xác định quốc tịch theo nơi sinh, sự xung đột pháp lý này
cũng là lý do làm tăng thêm số người Việt Nam định cư ở nước ngoài có hai hay
nhiều quốc tịch. Vì vậy, sự cứng nhắc của nguyên tắc một quốc tịch trong Luật
Quốc tịch 1998 đã làm cho các cơ quan nhà nước Việt Nam gặp nhiều khó khăn,
lúng túng, thậm chí bị bó tay khi giải quyết các vụ việc cụ thể có liên quan đến
quốc tịch.
Hơn nữa, nguyên tắc một quốc tịch theo Luật Quốc tịch 1998 thực sự chưa
phản ánh đúng nguyện vọng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đại đa
số kiều bào ta dù phải rời Tổ quốc do các hoàn cảnh khác nhau, nhưng vẫn có
nguyện vọng thiết tha được gắn bó với quê hương nên không muốn bị mất quốc
tịch Việt Nam khi nhập quốc tịch nước sở tại.
Từ những vấn đề đã nêu ở trên, yêu cầu bức xúc đặt ra là cần phải cân nhắc
sửa đổi nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại Điều 3 Luật Quốc tịch 1998
cho phù hợp với tình hình thực tế.
Hai là, Luật Quốc tịch 1998 chưa có cơ chế hữu hiệu, khả thi để thực hiện
một chủ trương quan trọng là hạn chế tình trạng không quốc tịch ở nước ta.
Thực tế hiện nay số công dân nước ngoài, người không quốc tịch, người
không rõ quốc tịch cư trú trên lãnh thổ nước ta là tương đối nhiều, việc giải quyết
quốc tịch cho họ gặp rất nhiều khó khăn và trong nhiều trường hợp không thể
giải quyết được. Ngoài ra, việc hoạch định lại biên giới giữa Việt Nam và các
nước láng giềng trong những năm qua cũng dẫn đến hệ quả là một bộ phận khá
lớn dân cư dọc biên giới tuy đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam nhưng
chưa được nhập quốc tịch Việt Nam. Lý do là, phần lớn trong số họ không có
giấy tờ tuỳ thân để xác định tình trạng quốc tịch, trình độ văn hoá rất thấp thậm
chí không biết chữ, điều kiện kinh tế lại khó khăn, do đó nếu cứ buộc họ làm thủ
tục nhập quốc tịch theo đúng quy định của Luật Quốc tịch 1998 là không khả thi.

Thực trạng này không những làm cho cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn, mà
còn làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trong việc quản lý dân cư dọc biên giới.
Để giải quyết vấn đề tồn đọng nêu trên về quốc tịch, cần phải quy định một
thủ tục sát với yêu cầu thực tế hơn.
Ba là, cơ chế quản lý nhà nước về quốc tịch còn bất cập, hiệu lực, hiệu
quả quản lý chưa cao.
Theo quy định của Luật Quốc tịch 1998, có nhiều cơ quan khác nhau có
thẩm quyền tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề quốc tịch, nhưng việc phân
định trách nhiệm và quyền hạn có nhiều điểm chưa cụ thể, thiếu cơ chế phối hợp

GVHD: Đinh Thanh Phương

SVTH: Hà Văn Tài
20


×