Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

cao bá quát – lương tâm và khí phách qua thơ chữ hán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (778.46 KB, 99 trang )

GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

ĐINH THỊ THÁI HÀ

CAO BÁ QUÁT – LƯƠNG TÂM VÀ KHÍ PHÁCH QUA
THƠ CHỮ HÁN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

TP. HỒ CHÍ MINH – 2003



LỜI CẢM TẠ
Chúng tôi chân thành cảm tạ sự hướng dẫn khoa học tận tình, chu đáo của thầy
Mai Quốc Liên, người trực tiếp hướng dẫn chúng tôi hoàn thành luận văn khoa học
này.
Chúng tôi chân thành cảm tạ Ban Giám Hiệu, tập thể thầy, cô khoa Ngữ văn và
Phòng khoa học công nghệ Sau đại học Trường Đại học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí
Minh, đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Chúng tôi xin chân thành cảm tạ những đóng góp quý báu của quý thầy, cô trong
Hội đồng chấm luận án đã giúp chúng tôi trong quá trình hoàn thành luận văn khoa
học.
Chúng tôi cũng xin chân thành cảm tạ quý đồng nghiệp, bạn bè đã động viên,
khích lệ chúng tôi trong thời gian học tập và viết luận văn.

Xin chân thành cảm ơn tất cả.

3




MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ.................................................................................................................. 3
MỤC LỤC ...................................................................................................................... 4
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................. 4
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: ............................................................................................. 4
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:........................................................... 5
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ: .................................................................................................... 5
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: ........................................................................... 11
5. VẤN ĐỀ VĂN BẢN: ............................................................................................... 12
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN: ........................................................................................ 12
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................... 14
CHƯƠNG I: CON NGƯỜI VÀ THỜI ĐẠI ................................................................. 14
CHƯƠNG II: KHÍ PHÁCH .......................................................................................... 27
2.1. KHÁT VỌNG TỰ DO: ..................................................................................... 27
2.2. KHÁT VỌNG CÔNG DANH: .......................................................................... 36
2.3. KHÁT VỌNG NHÂN CÁCH LÀM NGƯỜI CHÂN CHÍNH: ......................... 41
2.4. KHÁT VỌNG CHỐNG ÁP BỨC, BẤT CÔNG: ............................................... 51
2.5. KHÁT VỌNG KHỞI NGHĨA ĐỂ THAY ĐỔI MỘT XÃ HỘI TỐT ĐẸP HƠN:
.................................................................................................................................. 60
CHƯƠNG III: LƯƠNG TÂM ...................................................................................... 69
3.1. NHỮNG LO ÂU, BUỒN BÃ, CHÁN CHƯỜNG: ............................................ 69
3.2. TÌNH CẢM: ....................................................................................................... 77
3.2.1. TÌNH CẢM ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH: ............................................................ 77
3.2.2. TÌNH CẢM ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI KHÁC: ...................................... 81
3.2.3. TÌNH CẢM ĐỐI VỚI QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC: ................................. 86
PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 95



PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Cao Bá Quát (1809-1855) là một tác gia lớn của văn học trung đại Việt Nam.
Nghiên cứu về ông là một công việc cần thiết và hấp dẫn với người đi sau. Trước nay,
qua văn học đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về cuộc đời, con người và thơ văn
của ông. Nó thường được tiếp cận chủ yếu ở góc độ tiểu sử, hành trạng, về tư liệu, về
con người và nội dung thơ văn. Trong toàn bộ các vấn đề ấy, ảnh hưởng từ phía thời
đại cũng tác động rất lớn đến tính cách và thơ văn Cao Bá Quát, vì đây là một giai
đoạn lịch sử có nhiều biến động, chế độ phong kiến Việt Nam đang trên đà suy tàn và
tan rã, nông dân nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi; con người như không có chỗ dung
thân (nhất là với người tài). Với những khát vọng lớn lao, với tâm hồn rộng lớn, Cao
Bá Quát đã đứng trên tất cả để thể hiện rõ khí phách và lương tâm của một kẻ sĩ, một
con người vì dân vì nước. Tầm vóc của ông ngang tầm vũ trụ rộng lớn, tấm lòng của
ông vằng vặc với non sông. Việc tìm hiểu thơ văn của ông quả là khó vì chủ yếu là các
tác phẩm bằng chữ Hán, để hiểu hết về ngôn ngữ, về cách diễn đạt cho thấu đáo không
phải là đơn giản. Trong trường Cao đẳng, thơ văn Cao Bá Quát là một phần trong nội
dung giảng dạy. Và trong một thời lượng quy định, việc giảng dạy như thế nào để
người nghe có thể hiểu được cơ bản về nội dung, ý nghĩa của thơ văn Cao Bá Quát,
hiểu được tấm lòng và vị trí của ông trong tiến trình lịch sử văn học nước nhà quả là
một vấn đề lớn. Nếu không khéo thì chỉ là sự lặp lại một cách máy móc từ giáo trình
sách vở, từ sự hiểu biết hời hợt bên ngoài chứ không phải là sự cảm thụ thực sự. Đi
làm rõ vấn đề này nhằm phục vụ trực tiếp việc giảng dạy là mục đích và cũng là lý do
của việc thực hiện đề tài khí phách và lương tâm Cao Bá Quát qua thơ chữ Hán.
Thực ra việc đi vào vùng đất nghệ thuật mênh mông nhiều hứa hẹn này cũng là
nguyện vọng của người viết. Cái hấp dẫn của vấn đề nằm ở chỗ: nó chưa được khai
thác một cách cạn kiệt, mà nhiều vùng còn bỏ ngõ. Nó giúp cho người viết có thêm
một lượng kiến thức về Cao Bá Quát để giảng dạy được tốt hơn. Hơn nữa, đây cũng là
một tác gia đang được chú ý để nghiên cứu sâu hơn. Việc tìm hiểu vấn đề này sẽ đem
đến nhiều hiểu biết về con người cũng như thơ văn Cao Bá Quát.

4


2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Tiếp thu những thành tựu có trước, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề
sau:
Đối tượng nghiên cứu: đối tượng mà đề tài khảo sát là toàn bộ thơ văn chữ Hán
với những tác phẩm đã được phổ biến và thông dụng của Cao Bá Quát có liên quan
đến nội dung lương tâm và khí phách của ông. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng so sánh
với thơ văn của một số tác giả khác mà nội dung có liên quan để thấy được sự khác
biệt cũng như tương đồng về tư tưởng, cách thức thể hiện...
Phạm vi khảo sát, nghiên cứu: đề tài chỉ chú trọng khảo sát những vấn đề về nội
dung của thơ văn Cao Bá Quát. Cụ thể là lương tâm và khí phách của ông qua thơ chữ
Hán. Bên cạnh đó, trong quá trình làm nổi bật nội dung, người viết có sử dụng một số
tác phẩm chữ Nôm với mục đích minh họa, mở rộng vấn đề.
Khí phách của Cao Bá Quát được nghiên cứu qua các nội dung như: khát vọng tự
do, khát vọng công danh, khát vọng nhân cách làm người chân chính, khát vọng chống
áp bức bất công, khát vọng khởi nghĩa để thay đổi một xã hội tốt đẹp hơn.
Lương tâm của Cao Bá Quát được nghiên cứu qua các nội dung như: Những lo
âu, buồn bã, chán chường; những tình cảm với gia đình, với bạn bè, với học trò và với
nhân dân, với quê hương đất nước. Qua đó góp phần tìm hiểu về con người, cuộc đời
và thi nghiệp của Cao Bá Quát. Từ đó khẳng định thêm, Cao Bá Quát - một nhân vật
lịch sử kiệt xuất, một tài năng văn học lỗi lạc. Dầu sao đối với một con người có tầm
vóc lớn lao như vậy, thì việc khai thác này cũng chỉ là một phần nhỏ, chưa nói hết
được tất cả về Cao Bá Quát. Nó chỉ là một bước khởi đầu, hứa hẹn cho những công
trình lớn hơn, toàn diện hơn.

3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Cao Bá Quát là một tác gia lớn trong lịch sử văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX. Con người và tài năng văn chương lẫy lừng này được ngay người đương thời

khâm phục và coi như thần thánh. Cuộc đời Cao Bá Quát đã kết thúc bằng một cái chết
hùng tráng và triều Nguyễn xếp ông vào loại nghịch thần.
Tác phẩm của Cao Bá Quát chưa kịp được khắc in thì đã bị thiêu hủy cùng với
cái án tru di tam tộc của ông. Đương thời, không ai dám công khai lưu giữ các tác
5


phẩm và những gì liên quan đến ông. Song, tài năng và tấm lòng của ông với đất nước,
với nhân dân, hậu thế trong dân gian đã chép tay truyền nhau những tác phẩm văn
chương của ông. Nhưng vì lưu truyền bí mật, nhiều bài thơ, câu đối đã bị thay tên tác
giả dẫn đến khó khăn trong việc nghiên cứu sự nghiệp văn chương của ông sau này.
Cho đến nay, hàng nghìn bài thơ, văn của ông được sưu tầm và xác định, được công
nhận là di sản quý báu của dân tộc. Hơn nữa, ông còn là lãnh tụ của một cuộc khởi
nghĩa nông dân chống lại triều đình nhà Nguyễn thối nát nên còn có ảnh hưởng rất lớn
với lịch sử phát triển dân tộc. Vì thế, đã có rất nhiều công trình lớn, nhỏ nghiên cứu về
cuộc đời và thơ văn của ông. Tựu chung lại thì việc tìm hiểu Cao Bá Quát được chia
làm ba giai đoạn lớn:
1> Giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám - 1945.
2> Giai đoạn 1945-1975.
3> Giai đoạn 1975 đến nay.
Ở giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám, việc nghiên cứu về Cao Bá Quát còn
nhiều khó khăn. Nhìn chung, nó thiên về truy tìm tiểu sử, cố gắng dựng lại một cách
đầy đủ về cuộc đời Cao Bá Quát nhưng còn hạn chế trong việc nghiên cứu vì có những
câu truyện truyền miệng thiếu căn cứ, tạo nên những giai thoại không rõ ràng về ông.
Người đầu tiên viết và phổ biến tư liệu về Cao Bá Quát là Sở Cuồng với "Thảo Trạch
anh hùng" - Nam phong số 1963, tháng 6 - 1931. Ông viết dựa vào thư tịch của
Trường Bác cổ và sử sách của triều Nguyễn. Bên cạnh những tài liệu trước đó là
"Quốc triều hương khoa", "Đại Nam chính biên liệt truyện" và bài tựa tập thơ "Cao Bá
Quát thi tập" (bằng chữ Hán) của Trường Bác cổ vốn quá vắn tắt và xen lẫn nhiều giai
thoại với tiểu sử. Cuối tháng 11-1934, Nguyễn Tường Phượng diễn thuyết tại hội Trí

Tri Hà Nội đề tài "Một nhân vật tỉnh Bắc Ninh ông Cao Bá Quát", sau đó đăng trên
Nam Phong số 209 tháng 12-1934. Tài liệu này có nhiều tư liệu hơn. Tuy tác giả có cái
nhìn lệch lạc về cuộc đời Cao Bá Quát nhưng đã đánh giá cao sự nghiệp văn chương
của ông và cho rằng "Những tác phẩm của họ Cao đã trở thành một thứ tài liệu rất quí
hóa cho nền quốc văn". Đến tháng 3-1939, trên tạp chí Tao Đàn số 2, Phan Khôi trong
bài "Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta" cho rằng "Duy có Cao Bá Quát, là cả thi
lẫn văn đều đáng sắp ngang hàng với đệ -nhất - lưu - tác - giả ở Trung Quốc mà không
hổ mà thôi" - Một ý kiến có cơ sở. Đến 1940, Trúc Khê viết "Cao Bá Quát danh nhân
6


truyện ký" (Tân Dân xuất bản 1940). Một mặt tác giả đánh giá cao thiên tài văn
chương của Cao Bá Quát, mặt khác lại nặng lời chỉ trích đạo đức của Cao Bá Quát là
tự cao tự đại, kiêu căng, ngạo mạn cá nhân mà nổi lên làm loạn... Thậm chí thiếu sót ở
chỗ "Việc biến Mỹ Lương là việc có thật; mà việc ấy, chỉ là cái việc cuồng vọng của
nhà văn sĩ họ Cao bất đắc chí, chứ chẳng phải là việc do một cái tư tưởng cách mạng
sáng suốt đã sản sinh ra..." Nhưng Trúc Khê đã có công trong việc sưu tầm và dịch
một số tác phẩm.
Dương Quảng Hàm trong "Việt Nam văn học sử yếu" đã đánh giá Cao Bá Quát là
một văn hào có nhiều ý tứ mới lạ, lời lẽ kiêu kỳ và xếp ông vào hàng các nhà viết văn
nôm thế kỷ XIX thuộc khuynh hướng về tình cảm. Và cho rằng: ông là một bậc có tài
lỗi lạc, nhưng không được trọng dụng...
Nhìn chung, việc nghiên cứu Cao Bá Quát ở giai đoạn này chủ yếu hướng vào
việc truy tìm tiểu sử, từng bước cụ thể và ổn định về tư liệu, tác phẩm làm cơ sở cho
bước nghiên cứu tiếp sau. Việc đánh giá Cao Bá Quát còn bị nhiễu về giai thoại, thiếu
một phương pháp khoa học biện chứng nên không tránh khỏi chủ quan, võ đoán (một
mặt đề cao, một mặt hạ thấp).
Sang giai đoạn 2: 1945-1975, việc nghiên cứu Cao Bá Quát có bước tiến triển
hơn.
Ở chặng đầu: 1945-1954, do những tác động về chính trị, xã hội; do tình

hình học thuật còn thiếu ổn định nên việc nghiên cứu về Cao Bá Quát không có
gì.đáng kể. Điểm qua chỉ có công trình như: "Văn học sử Việt Nam tiền bán thế kỷ thứ
XIX" (1951) của Nguyễn Tường Phượng và Bùi Hữu Sủng nhưng lại xếp Cao Bá Quát
vào khuynh hướng hưởng lạc, không có gì mới hơn so với giai đoạn trước.
Ở chặng sau : 1954-1975 sinh hoạt học thuật ổn định hơn, việc nghiên cứu
và giới thiệu về Cao Bá Quát được quan tâm hơn (đặc biệt phát triển sớm ở Miền
Nam). Ở Miền Nam có rất nhiều những công trình khảo luận, luận đề về Cao Bá Quát
ra đời như:
+ "Luận đề về Cao Bá Quát", 1957 của Nguyễn Duy Diễn.
+ "Cao Bá Quát, thân thế- văn chương luận đề" 1958 của Bằng
Phong và Nguyễn Duy Diễn.
+ "Khảo luận về Cao Bá Quát", 1959 của Doãn Quốc Sỹ và Việt Tử.
7


+ "Giảng luận về Cao Bá Quát và Cao Bá Nhạ", 1959 của Lam
Giang.
+ "Khảo luận thi văn Cao Bá Quát" 1959 của Thuần Phong.
Bên cạnh là những bộ văn học sử đáng chú ý của giai đoạn này như:
+ "Việt Nam văn học sử giản ước tân biên" quyển II, 1963 của Phạm
Thế Ngũ.
+ "Bảng lược đồ văn học Việt Nam", 1967 của Thanh Lãng...
Đồng thời hàng loạt bài viết về Cao Bá Quát trên các tạp chí: Văn hóa nguyệt
san, Bách khoa thời đại, Giáo dục phổ thông, Văn học, Nghệ thuật, Sáng tạo... với các
tác giả Nguyễn Đức Tiếu, Hồng Liên Lê Xuân Giáo, Phạm Văn Sơn, Phan Kim, Thái
Bạch, Nguyễn Anh, Tương Huyền, Châu Hải Kỳ, Nguyễn Tử Quang... Tất cả đều xoay
quanh các phương diện sau:
Về phương diện tiểu sử - hành trạng Cao Bá Quát, cũng không có gì mới hơn.
Các tác giả chủ yếu dựa vào cuốn "Cao Bá Quát danh nhân truyện ký" của Trúc Khê
với xu hướng tiểu sử hóa giai thoại để nghiên cứu. Họ vẫn còn chịu ảnh hưởng cách

nhìn nhận về Cao Bá Quát có từ trước 1945, tách con người hành động và sáng tác thơ
văn thành hai hiện tượng riêng biệt (Phạm Văn Sơn, Bằng Phong, Nguyễn Duy Diễn),
từ đó dẫn đến việc không chú ý đúng mức đến tính tư tưởng của thơ văn Cao Bá Quát,
có cái nhìn phiến diện về thơ văn và cuộc đời của ông. về văn chương, họ nhất trí Cao
Bá Quát là một nhà thơ tài năng, độc đáo (chủ yếu đi vào khía cạnh ngông nghênh, tài
tử) để rồi lúng túng trong việc xếp Cao Bá Quát vào một khuynh hướng nào đó như: lý
tưởng, yếm thế, hưởng lạc... Một số tác giả khác lại tỏ ra có cách nhìn toàn diện về
Cao Bá Quát nhưng thật ra lại là sự lắp ghép những mảng hoặc những mảnh vụn. Như
Phạm Thế Ngũ, với cách tiêp cận khá tiêu biểu cho hướng nghiên cứu thơ văn Cao Bá
Quát thời kỳ này có nêu lên mấy vấn đề trong "Tư tưởng Chu Thần qua di văn chữ
Nôm" như: kiêu ngạo cô cùng, trào đời phẫn uất, lãng mạn thanh cao, hành lạc yếm
thế.
Về cuộc đời, tư tưởng và hành động Cao Bá Quát, các tác giả tập trung vào lý
giải, đánh giá con đường và tính chất của hành động chống triều đình của Cao Bá
Quát. Nhìn chung có hai hướng nhận định:
8


Một là coi Cao Bá Quát là người có tài lỗi lạc đến mức ngông nghênh lại
không được trọng dụng nên sinh ra chán nản, bực tức và "khởi loạn" (Hà Như Chi,
Thái Bạch, Nguyễn Anh...).
Hai là coi Cao Bá Quát là một nhà cách mạng, coi cuộc dấy binh ở Mỹ
Lương là khởi nghĩa (Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Duy Diễn, Doãn Quốc Sỹ, Việt Tử, Lam
Giang...).
Cả hai cách trên đều thiếu một quan điểm biện chứng lịch sử trong mối quan hệ
giữa thơ văn với con người Cao Bá Quát để nhìn nhận đánh giá. Mặc dù hướng thứ hai
có chú ý đến tư tưởng "cách mạng" và lý tưởng "Nghiêu Thuấn" của Cao Bá Quát
nhưng lập luận còn thiếu thuyết phục vì chưa có hệ thống nhân sinh quan tích cực của
ông dẫn đến hành động khởi nghĩa của ông. Xét về cơ bản, vấn đề Cao Bá Quát được
đặt ra liên tục và có tính thời sự ở Miền Nam giai đoạn này.

Ở Miền Bắc giai đoạn này đã có bước phát triển hơn trong việc nghiên cứu và
giới thiệu về Cao Bá Quát. Một hướng nghiên cứu mới được mở ra dựa trên quan điểm
Marxist, nó khắc phục được hướng nghiên cứu phiến diện trước đây. Đó là "xác định
được mối quan hệ vốn rất chặt chẽ giữa thơ văn và cuộc đời chìm nổi của Cao Bá
Quát" để tìm hiểu "tư tưởng thống nhất đã chi phối các quá trình khác nhau của cuộc
đời ông". Nổi bật nhất là hai công trình:
+ "Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam", 5 quyển, 1960.
+ Bài "Tìm hiểu nhân sinh quan tích cực trong thơ ca Cao Bá Quát", 1961
của Nguyễn Huệ Chi.
Chúng đã thúc đẩy quá trình nghiên cứu, xử lý tư liệu thơ văn Cao Bá Quát. Bên cạnh
là một loạt bài viết:
+ "Một số tài liệu về thơ văn Cao Bá Quát", 1963 của Tảo Trang.
+ "Cao Bá Quát và cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, 1963 của Chu Thiên.
+ "Cao Bá Quát với cuộc khởi nghĩa chống triều Nguyễn" (1854-1856),
1969 của Hoa Bằng.
+ "Một vài tìm tòi về câu đối tương truyền là của Cao Bá Quát và về bài thơ
"Thú Hương Sơn", 1972 của Hoa Bằng.

9


+ "Đọc Cao Bá Quát nhân 160 năm ngày sinh của nhà thơ", 1969 của Vũ
Khiêu.
+ "Đọc thơ Cao Bá Quát", bài nói chuyện của Xuân Diệu, 1971.
Vấn đề tư liệu được các tác giả xem xét rất kỹ càng (nhất là các giai thoại) nên những
vấn đề còn vướng mắc trước đây được giải quyết. Đó là tính tất yếu của con đường đi
theo nguyện vọng nhân dân của ông (Nguyễn Huệ Chi), khẳng định sự nổi dậy của
Cao Bá Quát là "cuộc khởi nghĩa trăm phần trăm" (Hoa Bằng). Vì thế mà lần đầu tiên
Cao Bá Quát được nhìn nhận như một nhân vật lịch sử, như một con người "thành thật
trong cuộc đời", theo như cách nói của Xuân Diệu. Đến năm 1970, một công trình có

tầm quan trọng trong việc nghiên cứu, xử lý và công bố tư liệu thơ văn Cao Bá Quát là
"Thơ Chữ Hán Cao Bá Quát" đã ra đời - Vũ Khiêu đã đánh giá cao Cao Bá Quát trên
nhiều phương diện qua lời giới thiệu 40 trang. Nó làm cơ sở cho việc nghiên cứu về
Cao Bá Quát tiếp theo.
Việc nghiên cứu về Cao Bá Quát trở nên có qui mô, nhất quán về quan điểm và
phương pháp nghiên cứu phải tính từ sau 1975. Một số những công trình văn học sử
được hoàn thành, tiêu biểu như:
+ "Lịch sử văn học Việt Nam", tập III, văn học viết, 1978 của Lê Trí Viễn,
Đặng Thanh Lê, Phạm Văn Luận, Lê Hoài Nam.
+ "Văn học Việt Nam" (nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX), tập II,
1978 của Nguyễn Lộc.
đã nghiên cứu một cách toàn diện về Cao Bá Quát từ quan niệm văn học đến những
đặc điểm về phong cách nghệ thuật của ông.
Bên cạnh là những công trình chuyên biệt như:
+ "Cao Bá Quát, con người và tư tưởng", 1980, của Nguyễn Tài Thư
+ "Cao Bá Quát, 1982, của Nguyễn Nghiệp.
đã nghiên cứu Cao Bá Quát trên bình diện sử học, văn học; chú trọng đi vào nghiên
cứu đặc trưng thơ Cao Bá Quát trên các bình diện phong cách tư tưởng, sắc thái tình
cảm và ngôn ngữ hình tượng. Tác giả đã đặt Cao Bá Quát trong tiến trình lịch sử tư
tưởng của dân tộc để xác định những nét riêng, những đóng góp mới (một cách làm

10


khoa học và có ý nghĩa phương pháp luận cho việc nghiên cứu toàn diện Cao Bá
Quát).
+ Đặc biệt là công trình "Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam", 1995 của
Trần Ngọc Vương. Tác giả đã mở ra một cách tiếp cận, đi sâu vào việc nghiên cứu Cao
Bá Quát trên nhiều bình diện, nhất là với tư cách một tác gia văn học có tính tiêu biểu
cho một loại hình, một khuynh hướng văn học bằng cách xác lập được cái nhìn khoa

học trên cơ sở khảo sát tác giả để nêu ra những đặc trưng có tính loại hình học của một
kiểu tác giả giai đoạn văn học cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX.
Không những ở trong nước mà các nhà nghiên cứu nước ngoài cũng quan tâm
đến Cao Bá Quát. N.I. Niculin - nhà Việt Nam học người Nga đã đánh giá rất cao Cao
Bá Quát, coi Cao Bá Quát là một nhân vật có tính chất tượng trưng thật sự đứng giữa
ngưỡng cửa một giai đoạn mới trong lịch sử Việt Nam.
Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp trong "Sứ Thần Việt Nam Cao Bá Quát và
nhận thức của ông qua chuyến đi công cán vùng Hạ Châu", 1996, 1997, đã tìm hiểu
nhận thức của Cao Bá Quát khi tiếp xúc với vũ trụ bao la - quá trình tự nhận thức khám phá (một bước chuyển quan trọng trong tư tưởng Cao Bá Quát).
Trên đây là những phác thảo về quá trình nghiên cứu Cao Bá Quát từ trước Cách
mạng tháng Tám - 1945 đến sau 1975. Nhìn chung việc nghiên cứu về Cao Bá Quát đã
có nhiều bước phát triển đáng kể. Những công trình lớn với nội dung phong phú đã
chứng minh Cao Bá Quát là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Song đi sâu
vào vấn đề lương tâm và khí phách của Cao Bá Quát như một công trình chuyên biệt
thì chưa có. Nó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu chung chung như tác giả Nguyễn
Ngọc Quận trước đây đã nêu ra trong các bài nghiên cứu khoa học. Nếu có cũng chỉ là
một mảng nội dung phục vụ cho những đề tài khác.
Với đề tài "Cao Bá Quát - lương tâm và khí phách qua thơ chữ Hán", người viết
đã góp phần tìm hiểu và nghiên cứu về Cao Bá Quát được sâu hơn.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Đề tài này được thực hiện qua các phương pháp nghiên cứu văn học sử, phân tích
tác phẩm, hệ thống hóa, khái quát hóa và so sánh.

11


Trước tiên là phân loại nội dung. Sau đó ở từng nội dung phân tích theo các khía
cạnh khác nhau của nó (nội dung, cách thể hiện, nêu dẫn chứng cụ thể, khái quát lại và
liên hệ đến các tác giả có cùng hoặc khác vấn đề...). Trong quá trình phân tích này,

người viết trình bày lần lượt các nội dung theo các vấn đề cụ thể, đặt nó vào trong hệ
thống văn học trung đại Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, để thấy tính độc đáo của Cao
Bá Quát. Đặc biệt, người viết có chú tâm đến hệ thống thơ văn đương thời để đối
chiếu, so sánh Cao Bá Quát với một số tác giả tiêu biểu trong văn học Việt Nam.
Sau khi khảo sát cụ thể các bài thơ tiêu biểu của Cao Bá Quát, người viết cố gắng
tìm ra điểm tương đồng và dị biệt của Cao Bá Quát và các nhà thơ đương thời, đặc biệt
là gắn liền cuộc đời và thơ văn của ông để thấy được tầm vóc của con người này cũng
như vị trí của ông trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc với tư cách là một tác gia có
những đóng góp quan trọng trong tiến trình này.

5. VẤN ĐỀ VĂN BẢN:
Các tác phẩm được khảo sát trong luận văn căn cứ chủ yếu vào tài liệu của Vũ
Khiêu giới thiệu, nhóm dịch giả (1984), "Thơ văn chữ Hán Cao Bá Quát", in lần thứ
ba có bổ sung sửa chữa (có thêm phần thơ Nôm), Nxb văn học (in lần đầu và lần thứ 2
lấy tên: Thơ chữ Hán Cao Bá Quát). Do khuôn khổ luận văn có hạn, người viết chỉ
trích dẫn phần dịch nghĩa mà không trích dẫn phần phiên âm chữ Hán nhằm tránh việc
kéo dài dung lượng của luận văn.
Trong phần dịch nghĩa các bài thơ, người viết dựa chủ yếu vào tài liệu nêu trên
mà không chú thích khi trích dẫn. Ngoài ra, người viết còn tham khảo thêm một số tài
liệu khác như: Văn học Việt Nam (Nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX), (1999), của
Nguyễn Lộc, Nxb Giáo dục; Cao Bá Quát, (1982), của Nguyễn Nghiệp, Nxb Văn hóa;
Cao Bá Quát con người và tư tưởng, (1980), của Nguyễn Tài Thư, Nxb KHXH... cùng
một số tài liệu khác có liên quan và có chú thích khi trích dẫn các tài liệu này.

6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN:
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.
12



4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
5. VẤN ĐỀ VĂN BẢN.
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN.
PHẦN NỘI DUNG:
CHƯƠNG I: CON NGƯỜI VÀ THỜI ĐẠI.
CHƯƠNG II: KHÍ PHÁCH.
II.1. KHÁT VỌNG TỰ DO.
II.2. KHÁT VỌNG CÔNG DANH.
II.3. KHÁT VỌNG NHÂN CÁCH LÀM NGƯỜI CHÂN CHÍNH.
II.4. KHÁT VỌNG CHỐNG ÁP BỨC BẤT CÔNG.
II.5. KHÁT VỌNG KHỞI NGHĨA ĐỂ THAY ĐỔI MỘT XÃ HỘI
TỐT ĐẸP HƠN.
CHƯƠNG III: LƯƠNG TÂM.
III.1. NHỮNG LO ÂU BUỒN BÃ CHÁN CHƯỜNG
III.2. TÌNH CẢM
III.2.1. TÌNH CẢM ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH
III.2.2. TÌNH CẢM ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI KHÁC
III.2.3. TÌNH CẢM ĐỐI VỚI QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC
PHẦN KẾT LUẬN.

13


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CON NGƯỜI VÀ THỜI ĐẠI
"Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường"
Lời khen của người đời quả là không sai chút nào khi đánh giá những con người

bậc nhất về thơ văn ở nửa đầu thế kỷ XIX. Đây là thời đại sản sinh ra rất nhiều người
kiệt xuất, lỗi lạc mà tên tuổi của họ trường tồn với thời gian như Nguyễn Văn Siêu,
Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương... nhưng có lẽ con người đặc biệt
nhất vẫn là Cao Bá Quát.
Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiên. Ông
sinh năm 1809 tại làng Phú Thị, huyện Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh.
Theo sử sách triều Nguyễn thì không thấy ở đâu ghi năm sinh. Chỉ đoán theo một
bài văn của ông là "Thiên cư thuyết" để khẳng định là ông sinh năm 1809, trong đó có
đoạn: "Với cái tuổi ta mới hai kỷ mà núi sông thành quách cũ, đã thấy thay đổi đến ba
lần" và cuối bài ghi là: "Tháng mạnh thu, năm Nhâm Thìn, Chu Thần Thị viết bài
thuyết này", (Nhâm Thìn là năm 1832, Cao Bá Quát đủ hai kỷ tức 24 tuổi- tính theo
âm lịch- tức là ông sinh năm 1809). Mặt khác lại có ý kiến là ông sinh năm 1808.
Làng Phú Thị quê ông vốn cách Hà Nội 17 cây số về phía đông. Nơi đây đã từng
nổi tiếng là một làng tiêu biểu cho đất Kinh Bắc trù phú văn vật xưa kia. Nó nổi tiếng
với truyền thống khoa cử và làm ăn buôn bán phát đạt. Khoa thi nào cũng có người trở
về làng với mũ áo xênh xang ông Cống, ông Nghè. Đó là những Nguyễn Huy Bá đỗ
tiến sĩ, làm quan đến chức Thượng thư. Nguyễn Huy Cận đỗ Hội nguyên đời Cảnh
Hưng. Họ Cao cũng có nhiều người nổi tiếng như Cao Dương Trạc, đỗ tiến sĩ làm
Thượng thư thời Lê Trung Hưng; Cao Huy Diệu đỗ Hương cống đời Gia Long, làm Tư
nghiệp Quốc Tử giám... Đồng thời với Cao Bá Quát, cũng có Cao Huy Tố, Cao Xuân
Nguyên đỗ cử nhân.
Ông đồ Giảng, thân sinh ra Cao Bá Quát vốn là một ông đồ nghèo không đỗ đạt
gì, nhưng là một nhà nho danh tiếng - con nhà dòng dõi. Cuộc đời ông công không
14


thành danh không toại, nên ông đã kỳ vọng rất nhiều vào những đứa con của mình.
Ngay từ nhỏ, ông đã hướng chúng vào con đường khoa cử: học, thi đỗ, làm quan, hành
đạo để trở thành một vị hiền thần lương đống dưới triều đại chính thống, thịnh trị,
vững bền chẳng kém triều đại nhà Chu ngày xưa. Ông đã dồn tất cả tâm huyết để dạy

dỗ hai con của mình. Bắt đầu bằng việc chọn hai tên trong tám đời kẻ sĩ đời Chu để đặt
tên cho hai đứa con sinh đôi là Bá Đạt và Bá Quát. Sau đó là dời cả gia đình ra Thăng
Long - đất kinh kỳ, văn hiến để con có điều kiện học hành hơn.
Do kế thừa truyền thống của quê hương và gia đình, Cao Bá Quát cùng anh là
Cao Bá Đạt đã sớm tỏ ra đáp ứng những hoài vọng của ông đồ. Các cậu học rất thông
minh, lên năm tuổi đã thuộc lòng "Tam tự kinh" rồi cứ thế thẳng tiến lên mãi, vì họ đã
được rèn luyện ngày đêm theo những giáo lý của đạo Khổng và phát triển theo hướng
nâng cao học vấn, tu dưỡng bản thân, đem tài năng giúp nước. Cha con ông cùng hoài
vọng về một chế độ phong kiến cực thịnh : Vua là minh quân, tôi là tôi trung, đất nước
thanh bình thịnh trị muôn dân no ấm yên vui (Vì vào hồi này, trong con mắt ông đồ,
triều đại mới đã tỏ ra vững vàng hơn bàn thạch. Vua Gia Long trở thành một đấng
thiên tử trị vì cả một quốc gia thống nhất rộng lớn chưa từng có, từ Lạng Sơn đến tận
Hà Tiên...).
Trên cơ sở đó và thực tế cũng đã chứng minh, Cao Bá Quát là một cậu bé có tài
năng và đức hạnh. Mới mười bốn tuổi, cậu Bá Quát đã lầu thông kinh sử và biết làm
đủ các thể văn trường ốc, điều mà các nhà nho thời ấy, nếu muốn trở thành ông Cống,
ông Nghè đều phải khổ công rèn luyện. Ông đã lớn lên trong môi trường tốt đẹp: với
tình thương yêu chăm sóc của cha mẹ, cả mến thương của bạn bè, truyền thống hiếu
học của quê hương. Tất cả đã nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp của ông để ông sớm
hướng tới đất nước và nhân dân.
Với nhận thức ngày càng trưởng thành, Cao Bá Quát đã lao hẳn mình vào con
đường học vấn. Ông đã vượt xa hẳn bạn cùng trường, tiếng tăm cũng bắt đầu bay xa
hơn cái xóm Đình Ngang hẻo lánh. Với trí thông minh và tâm hồn nhạy bén cậu bé
Quát luôn quan sát, theo dõi, suy nghĩ những gì xung quanh, nhất là những ảnh hưởng
của những ông thầy đồ dạy cậu như: Cao Huy Diệu, Phạm Dưỡng Am và đặc biệt là
ông đồ trẻ Nguyễn Văn Siêu, rồi những biến động của kinh thành Thăng Long.... Tất
cả đã được Cao Bá Quát nhào nặn lại, chắt lọc đi, biến thành một quan niệm riêng về
15



học tập và tu dưỡng. Đẻ rồi dần dần hình thành khá rõ nét trong bản thân cậu như là
hai con người khác nhau: một bên là anh nhà nho chính thống, được trang bị đầy đủ và
kỹ càng bằng những kiểu mẫu xử thế lập thân của chính nhân quân tử, cùng những qui
phạm của lối văn chương trường ốc. Một bên là con người của cuộc sống đầy tính
năng động, khát khao hiểu biết và khám phá, luôn luôn nhận xét và phê phán mọi sự
vật quanh mình, trong mình để không ngừng vươn tới một nhân cách ít nhiều độc lập,
một phẩm chất cao thượng, một tâm hồn tràn đầy cảm hứng lý tưởng cao đẹp đối với
cuộc đời và con người.
Hai nhân cách đó cứ song song tồn tại gắn với nhau nhưng đồng thời lại chống
đối nhau, đôi khi tạo nên những bi kịch nội tâm sâu sắc. Những bi kịch đó cứ phát
triển mãi lên, ngày càng mang một nội dung xã hội rộng lớn. Đến một mức độ trưởng
thành nào đó con người của cuộc sống sẽ trội hẳn lên, lấn át cả anh nhà nho chính
thống và tấn bi kịch sẽ kết thúc bằng một hành động quyết liệt vượt hẳn ra ngoài vòng
lễ giáo thông thường bởi sự hy sinh cao cả tuyệt vời vì cuộc sống, vì nhân dân, vì đất
nước.
Cuộc đời của Cao Bá Quát được người đời sau biết đến với nhiều giai thoại.
Nhưng tập trung hơn cả là những giai thoại về tài học của ông. Ông đã từng nói: "Cả
thiên hạ có bốn bồ chữ, Cao Bá Quát chiếm mất hai bồ, ông anh Bá Đạt và ông bạn
Nguyễn Văn Siêu giữ một bồ, và một bồ thì phân phát cho tất cả học trò trong thiên
hạ". Cậu học trò Cao Bá Quát đã tiếp thu tất cả những tinh hoa của nền văn hoa truyền
thống thành trí tuệ, tình cảm của chính bản thân mình. Đó là tinh thần yêu đất nước,
yêu thiên nhiên và nhất là yêu con người. Ông sống mà hay đa sầu, đa cảm. Cho đến
sau này khi bước vào đời, cọ xát với thực tế cuộc sống, va chạm với đủ mọi lớp người,
Cao Bá Quát mới nhận ra tất cả ý nghĩa lớn lao của vốn tình cảm quí báu đó. Ông mới
thật thấm thía rằng nếu không có một tình yêu lớn đối với đất nước, đối với nhân dân,
đối với con người thì sẽ không thể nào tạo ra được một sự nghiệp gì đáng kể ở trên đời
này hết.
Bản tính ông vốn hóm hỉnh, thích vui đùa. Qua thơ văn của ông chứng tỏ ông là
người biết giữ gìn phẩm hạnh, đối xử đúng mực với cha mẹ, anh em, làng xóm chứ
không phải như một số giai thoại cho ông là một đứa trẻ ngỗ ngược, không quan tâm

yêu thương con người kể cả người thân. Thậm chí cho ông là một con người thích
16


hưởng lạc, chè rượu, trai gái, kiêu ngạo, phẫn chí. Thực ra, qua thơ văn, Cao Bá Quát
có một cuộc sống trong sạch, một thái độ đứng đắn về tình yêu, một tấm lòng đằm
thắm với vợ con.
Cuộc đời và số phận của ông thật đúng với câu "có tài mà vận chẳng lai", đặc
biệt trong con đường khoa cử. Năm mười bốn tuồi, cậu bé Quát đã sắm sửa lều chõng
đi thi nhưng thi hỏng, để rồi chín năm sau mới đỗ cử nhân hạng nhì, sau bị bộ Lễ xếp
lại, ông đứng cuối bảng. Nhưng với lòng lạc quan và tin tưởng, ông cứ đến hẹn lại lên
ở các khoa thi tiến sĩ nhưng hỏng vẫn hoàn hỏng để rồi ông chán chường tự an ủi mình
theo kiểu "học tài, thi phận". Mặc dầu nhà nghèo, Cao Bá Quát vẫn chưa ra làm quan,
mà ở nhà gõ đầu dăm ba đứa trẻ, chuẩn bị lại đi thi Hội, thi Đình nữa. Thực ra thì
những lần đèn kinh, ông cũng có chầu chực ở các bộ để được bổ dụng. Nhưng với bản
tính khí khái, cương trực không chịu uốn mình như ông thì những sự tiếp xúc đó cũng
khó mà mang lại kết quả mong muốn. Vả lại trong thâm tâm, ông cũng chưa muốn vội
vàng dấn mình vào công danh bằng con đường tắt. Kể từ ngày những khoa thi Hội, thi
Đình được mở ra liên tục để chấm các ông bảng, ông thám thì cái giá của một ông cử
cũng có phần rẻ rúng đi nhiều. Hơn nữa, giữa bộ máy quan liêu đã quá đông đảo của
triều đình này thì với thân phận của một chức thuộc quan thấp kém người ta giành cho
hạng cử nhân như ông thật khó mà thi thố được việc gì cho phù hợp với những hoài
bão lớn lao ông hằng ấp ủ. Đã thế theo lệ bấy giờ, khi đã nhận chức quan thì ông sẽ
chẳng có quyền được tiếp tục đi thi nữa (mà ông lại không muốn thế). Trong thực tế,
ông đã từng nhiều lần phê phán con đường công danh nhưng ông lại tự an ủi rằng đã
theo đuổi văn chương, lẽ nào trốn được công danh. Đã từ lâu ông tưởng rằng có thể
thông qua con đường khoa cử, giành lấy một địa vị xã hội, rồi từ đó cải thiện đời sống
của nhân dân. Âu cũng là tấm lòng nặng tình của Cao Bá Quát với nhân dân. Mặc dầu
biết rằng con đường công danh mà ông đeo đuổi sẽ là một con đường đầy khó khăn,
bất trắc, nguy hiểm cho những người tài cao chí lớn như ông nhưng ông vẫn tin tưởng

ở ý chí, tài năng và phẩm hạnh của mình để đi thẳng vào cuộc đời.
Nhưng chế độ phong kiến không chấp nhận những con người như ông. Cho nên
không phải cứ có tài, có chí như ông là thành công. Cuộc đời và thực tế đã dần làm vỡ
đi những ảo tưởng, hoài bão ở ông. Bao lần đi thi, bài nào cũng hay, lời nào cũng chí
tình nhưng vẫn cứ tiếp tục hỏng. Sự bền bỉ của ông đã không được trả công xứng
17


đáng, cuối cùng mộng thi cử đã tan thành mây khói và suốt đời cũng chỉ là ông cử mà
thôi.
Để rồi năm 32 tuổi, lần đầu tiên ông được nhà nước phong kiến triệu ra làm hành
tẩu bộ Lễ - một người thư lại. Bao nhiêu chí khí ngang dọc ngày xưa nay bị gò bó,
nhàm chán và không có ích lợi gì hết. Đây cũng là thời gian giúp ông hiểu sâu thêm
những cảnh thối nát, bất công và hèn yếu của triều đình Huế.
Phải nói rằng giai đoạn đầu của triều Nguyễn, từng có một lớp sĩ phu hăm hở với
sự nghiệp công danh, Nguyễn Công Trứ trong những ngày chưa thành đạt vẫn không
quên tự nhắc nhủ mình:
Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
Không giống với tâm sự hoài cổ của bà Huyện Thanh Quan. Cũng không có thái
độ buồn nản của Nguyễn Du khi ông bất đắc dĩ phải làm quan với triều đại mới. Tầng
lớp sĩ phu mới lên thấy rõ sự nghiệp của mình chỉ có thể xây dựng trên cơ đồ vững
chắc của nhà Nguyễn. Cho nên họ tích cực ủng hộ sự nghiệp nhà Nguyễn, sẵn sàng xả
thân vì nhà Nguyễn như: Nguyễn Công Trứ đã thẳng tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa
của nông dân theo tư tưởng trung quân mà không nghĩ là đã giết hại nhân dân mình.
Họ kỳ vọng rất nhiều ở chế độ phong kiến nhà Nguyễn với những công danh, sự
nghiệp, bát cơm manh áo... và hy vọng nó trở lại giai đoạn cực thịnh trước đây.
Nhưng đấy chỉ là giai đoạn đầu, giai đoạn mà thành quách, cung điện nhà vua
vừa mới được Gia Long xây dựng sửa sang. Cao Bá Quát ra đời mấy chục năm về sau,
tình hình đã khác hẳn. Nhà Nguyễn đã đi nhanh vào suy sụp. Nhân dân đói rét cơ cực.

Cuộc sống đã tức thở vô cùng. Những cuộc khởi nghĩa nông dân bừng lên từ Gia
Long, bị dập tắt rồi đến thời Minh Mạng lại bùng lên dữ dội hơn. Và đến thời Tự Đức
nó là điều kiện làm tan rã từng bộ phận của chế độ phong kiến.
Lòng phẫn uất của quần chúng đối với giai cấp thống trị vốn đã được nung nấu
trong suốt một thế kỷ đấu tranh nên giờ đây càng biểu lộ một cách sâu sắc và mãnh
liệt. Phá vỡ khuôn khổ chật hẹp gần như đã trở thành một mong mỏi chung. Không
phải ngẫu nhiên mà tiếng nói căm giận vua chúa lại có thể hiên ngang đi thẳng vào thơ
văn, trước hết là thơ văn quần chúng:
18


Vạn Niên là Vạn Niên nào,
Thành xây xương lính hào đào máu dân.
Âm vang sảng khoái nhất của tiếng nói người nông dân khởi nghĩa là mấy câu trong
bài "phú Hầu Tạo"
"Núi Đại ngàn hai mươi tám chân tay, vang lừng chiêng bạc trống đồng, mười
mấy vạn quân triều đều lạc phách.
Khe Tình diễm bốn mươi lăm vây cánh, rực rỡ quần hồng áo tía, tám nghìn dư
binh trấn cũng kinh hồn".
Có cái khí thế cao lớn trùng trùng điệp điệp, có cái sức mạnh vững chãi như núi
Đại ngàn, đối lập với kẻ thù thống trị ngay giữa lúc một thành lũy phong kiến vừa mới
được củng cố, chính là nhờ có cả một phong trào bão táp của khởi nghĩa nông dân
trong suốt thế kỷ XVIII đã làm cho tư tưởng trung quân cơ hồ bị phá tan, trật tự xã hội
cơ đồ bị đảo lộn.
Ý thức trung quân tiếp tục tan rã trong quần chúng đã dần dần làm thay đổi khí
sắc của xã hội. Cái uất ức, cái xôn xao, cái vui mừng của nhân dân khởi nghĩa, ít hay
nhiều đã lay động đến bề sâu tâm tình một số sĩ phu phong kiến bấy giờ. Chính sách
chèn ép và ngờ vực nhân tài của nhà Nguyễn vốn đã làm cho tầng lớp sĩ phu nơm nớp
không yên. Cộng thêm những thảm họa giết chóc mà vua nhà Nguyễn gây nên đối với
một số công thần như Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường... càng làm họ giật mình

tỉnh ngộ. Khi Cao Bá Quát vào triều thì Nguyễn Công Trứ đã trở thành một bậc đại
thần. Nhưng chỉ hai năm sau, ông bị cách tuột về làm lính thú. Mấy mươi năm "công
danh sự nghiệp" của Nguyễn Công Trứ mà cuối cùng cũng bị bạc đãi như vậy thì
những người khác còn nói đến hăm hở tung hoành làm gì? Rõ ràng cho đến lúc bắt đầu
được "hành đạo", Cao Bá Quát đã phải thấm thía cái buồn nản của những tầng lớp
trước mình, bắt gặp nỗi uất ức của quần chúng quanh mình, và thấu rõ cảnh lận đận
của chính mình. Mặt khác, nguy cơ ngoại xâm đã từ lâu đe dọa đất nước. Tây Ban
Nha, Hà Lan trước đây và Anh, Pháp bây giờ làm cho ông không thể không lo lắng
cho Tổ quốc mình khi chúng đã lăm le ở cửa biển. Nó làm cho ông liên tưởng đến
hùng khí của Chu Du để đánh tan chúng.

19


Lúc này, ở ông đã bắt đầu cảm thấy bế tắc không biết đi đâu về đâu, làm gì?
Cuộc đời đang tác động vào ông để ông phải tự lựa chọn lấy một lối thoát trong bước
đường cùng.
Một thời gian sau khi về bộ Lễ, ông được cử làm sơ khảo trường Thừa-Thiên. Vì
tiếc cho những người có tài mà phạm húy nên ông đã cùng với Phan Nhạ dùng muội
đèn để chữa những bài thi đó. Việc bị bại lộ, ông bị bắt giam, từ tội trảm quyết xuống
tội giảo giam hậu. Đây là những ngày tháng buồn bực đau khổ, uất ức, căm thù nhất
của ông. Nhưng trái với lẽ thường, ở tù con người sẽ mất hết tinh thần với ông lại
nhưng tràn trề một sức sống mãnh liệt.
Sau gần ba năm bị tra tấn, giam cầm, triều đình tạm tha cho Cao Bá Quát và cho
đi xuất dương hiệu lực ở Indonexia. Ra nước ngoài, tầm nhìn của ông như được mở
rộng ra, ông học được nhiều điều mới lạ, củng cố thêm vốn kiến thức cho mình. Cuối
hè năm 1843 ông trở về, đây là thời gian ông sống gần gũi với vợ con, với nhân dân để
rồi hiểu và đồng cảm với họ nhiều hơn. Đây cũng là thời gian giúp ông hiểu hơn vấn
đề tại sao nông dân lại đứng lên khởi nghĩa nhiều như thế để rồi càng oán ghét triều
đình nhiều hơn. Tình cảnh của đất nước của nhân dân và của bản thân, cuối cùng đã

dẫn ông đến ý nghĩ, hành động mới. Đồng thời dần rõ nét trong ông tư tưởng muốn
thay đổi triều đại.
Đến năm 1847, ông lại nhận chiếu chỉ vào kinh với một tâm trạng buồn chán.
Lần này ông làm ở Viện Hàn lâm, rồi đi công cán. Không khác gì lần trước, công việc
của ông lại rất nhạt nhẽo là sưu tầm và sắp xếp các vần thơ. Đây là thời kỳ mà mọi
người thi nhau làm thơ, nhất là vua Tự Đức một người thích làm thơ, lại là thứ thơ
nhạt nhẽo. Tâm trạng của ông lúc này là tâm trạng của người "nói cười trước mặt
nhưng đau xót khi vắng người" .Nó thôi thúc ông phải chấm dứt với hoàn cảnh hiện tại
và có ý tưởng bỏ về. Vốn cương trực, không luồn cúi, ông đã bị vua quan triều Nguyễn
đày đi xa - Quốc Oai với chức giáo thụ. Ông vẫn tiếp tục mỉa mai và khinh ghét đối
với chế độ nhà Nguyễn, một lần nữa ông lại trở về tiếp xúc với đời sống của nhân dân,
với sự áp bức tàn nhẫn của vua quan đối với họ. Nhân dân đang mong thay đổi triều
đại như ngày hạn trông mưa và căm hờn bè lũ thống trị vô cùng.
Giữa năm 1853, ông xin thôi dạy học lấy cớ nuôi mẹ già, để rồi đứng lên tụ tập
nhân dân bí mật chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa tại Hà Nội. Nỗi phẫn uất của Cao Bá
20


Quát vốn ngầm ngấm từ bấy lâu nay đến đây bỗng có dịp bùng lên dữ dội. Liên lạc
được một số lãnh tụ nông dân, Cao Bá Quát liền hiệu triệu quần chúng chống lại triều
đình. Nhưng lưỡi gươm khởi nghĩa vung lên chưa lâu, "trăm dơ" chưa "khơi về dòng
cũ" thì triều đình đã kịp thời đàn áp, nghĩa quân tan rã và thất bại. Tự Đức đã nhiều lần
điều binh và treo giải cho ai giết được Cao Bá Quát. Trong một cuộc giao chiến ông đã
bị bắn chết. Quân của ông tan rã, thậm chí ông còn nhận cái án "tru di tam tộc" gây
oan khuất cho nhiều người thân thích.
Cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương của Cao Bá Quát tuy không thành công nhưng đã là
một đòn giáng vào triều đình Tự Đức bấy giờ. Cùng với những cuộc khởi nghĩa của
nông dân liên tiếp trong hai thế kỷ XVIII và XIX, nó góp phần đẩy nhanh chế độ
phong kiến đến chỗ suy sụp. Cuộc đời Cao Bá Quát là hoàn toàn nhất quán vì thường
xuyên ta thấy ở ông một cái nhìn tích cực lạc quan. Một tư tưởng thống nhất đã chi

phối các quá trình khác nhau của đời ông, giúp ông tạo nên những vần thơ bất hủ,
đồng thời cũng thúc đẩy ông biến ý thức căm thù thành hành động quyết liệt đối với
giai cấp thống trị. Ta thấy rõ điều đó qua những vần thơ chữ Hán mạnh mẽ và hùng
tráng vô cùng. Tất cả đều phản ánh tâm sự và ý chí của tác giả, rộng ra nó còn phản
ánh được phần nào tâm tình quần chúng trong khoảng giữa thế kỷ XIX.
Nhiều năm sau, cái chết của Cao Bá Quát vẫn còn gây một tiếng vang lớn khắp
nơi, nhân dân luôn dành cho ông một tình cảm đáng trọng. Vì thế nên đã xuất hiện
nhiều giai thoại về cái chết cũng như cuộc đời của ông và tồn tại đến ngày nay.
Có giai thoại cho rằng Cao Bá Quát không đứng lên khởi nghĩa mà do tổng đốc
Nguyễn Bá Nghi vì thù ghét riêng mà vu oan. Ý kiến này là của những người một mặt
là phục tài Cao Bá Quát, một mặt vẫn trung thành với triều Nguyễn nên không muốn
ông mang danh phản nghịch. Lại có giai thoại cho rằng, sau khi bị bắt giam, ông vẫn
ngang tàng, khảng khái cho đến khi chết. Hay như câu chuyện sau khi bị bắt, ông trốn
lên Lạng Sơn giả làm sư và một người có gương mặt giống ông đã thế mạng. Tất cả
đều chỉ là giai thoại, không có căn cứ xác thực và đều được dựa trên tình cảm của
người dân dành cho ông . Thật ra là ông bị tử trận (Theo Đại Nam thực lục chính
biên).
Còn vấn đề khởi nghĩa của ông cũng có nhiều chuyện để nói. Nhiều người cho
rằng động cơ khởi nghĩa của Cao Bá Quát là vì ông lận đận trong bước đường khoa cử,
21


công danh, vì bất đắc chí, vì lợi ích cá nhân. Còn Trúc Khê thì cho rằng: Cao Bá Quát
là kiêu ngạo, ngông cuồng, tài năng còn kém xa Đỗ Phủ, chỉ tự mình rước lấy cái họa
tru di. Tất cả các quan niệm ấy đều là cái nhìn phiến diện, sai sự thật và hạ thấp con
người cũng như sự nghiệp của Cao Bá Quát.
Để tìm hiểu con người Cao Bá Quát và để đánh giá đúng cuộc khởi nghĩa của
ông, chúng ta phải đi sâu vào phân tích nguồn gốc xã hội và diễn biến cuộc đời của
ông về trạng thái tâm lý, về tư tưởng và lẽ sống lý tưởng trên cơ sở mối quan hệ chặt
chẽ giữa thơ văn Cao Bá Quát và cuộc đời chìm nổi của ông.

Cuộc đời Cao Bá Quát như ta đã biết, từng trải qua không ít thăng trầm. Nhưng
bất kỳ ở trong hoàn cảnh nào , ông vẫn giữ được ý chí cứng cỏi và tinh thần tích cực.
Sống trong triều chỉ được nhận một chức quan nhỏ nhưng ông không có thái độ dửng
dưng. Bị giai cấp thống trị làm cho điêu đứng, ông vẫn một lòng khăng khái, ngay
thẳng, vẫn một "tấm lòng như sắt" vì bản thân ông là một nhà nho yêu nước, có cuộc
sống gần gũi và thân thiết với quần chúng nhân dân. Với vốn học và sự hiểu biết của
mình, những người như ông thường ở vị trí trung gian giữa nông dân và phong kiến.
Điều kiện lịch sử lúc ấy cố nhiên không thể khác. Sức nặng nghìn năm của nền tảng
phong kiến còn đè lên mọi mặt cuộc sống, nào đã cho phép Cao Bá Quát chọc thủng
vòng vây của ý thức hệ đương thời. Dù có chỗ không hợp nhau, Cao Bá Quát chỉ có
thể gắn bó với chế độ phong kiến , chỉ có thể lập thân theo kiểu một nhà nho. Việc ông
vẫn mong mỏi ở vua, vẫn "gội đầu mà mong ngóng trời xanh" là một việc dễ hiểu.
Nhưng mặt khác, ông lại dễ đồng cảm với đời sống và tâm tư nguyện vọng của nhân
dân vì vậy ông dễ dàng đứng về phía nhân dân.
Những giáo điều của tư tưởng ý thức hệ phong kiến về cơ bản là những công
thức cứng nhắc nhằm phục vụ tôn ti trật tự phong kiến. Hơn nữa chúng cũng buộc
người trí thức nho giáo có được một ý chí tự tu dưỡng bản thân, giữ gìn tâm hồn liêm
khiết, khí tiết thanh cao. Mà điều này lại giúp họ dễ dàng phản ứng lại sự bất công, tàn
bạo của vua quan và thông cảm với nỗi thống khổ của nhân dân. Với Cao Bá Quát
những cái vốn có của ông đều nghiêng hẳn về phía thân dân, từ thành phần xuất thân là
gia đình nhà nho nghèo, từ cuộc sống long đong lận đận của ông đã tạo điều kiện cho
ông gần gũi với nhân dân. Hơn nữa với tính đa cảm, ông luôn day dứt với những cảnh
sống nghèo khổ cơ hàn của người dân và muốn thay đổi nó. Hằng ngày, ông lại phải
22


đối mặt với chế độ phong kiến hà khắc, bộ mặt xấu xa, bất tài của bọn vua quan và
nguy cơ mất nước trước các thế lực phương Tây càng làm cho ông thêm chán ghét nhà
Nguyễn. Mâu thuẫn sâu sắc giữa ông với tập đoàn phong kiến sớm muộn không thể
không nổ ra. Cảm tính trung thực hướng ông sống theo những yêu ghét chân thành.

Những khuôn khổ chật hẹp của triều đình phong kiến mỗi ngày mỗi bưng bít tầm mắt
của ông, ngáng trở tình cảm của ông nhưng không làm cho ông mất khả năng vẫy
vùng. Từ chỗ phê phán và phản kháng nó, ông đã tiến tới nổi dậy để đánh đổ nó. Ông
đã hành động vì nguyện vọng của nhân dân. Con đường ông đi cuối cùng là con đường
khởi nghĩa, đó cũng vì đòi hỏi cấp thiết của nhân dân.
Về điều này cũng có rất nhiều ý kiến đề cập đến tinh thần phản kháng của ông.
Có người cho đây là sự bất phục tùng, bất mãn với chế độ bất công, bất tài, bất lực.
Cũng có ý kiến cho rằng đó là một sự "nổi loạn" của con người kiêu ngạo, ngông
cuồng.
Hơn nữa lại có ý kiến cho rằng: Cao Bá Quát nổi dậy là bị ám ảnh bởi cái mộng
đế vương. Nếu nói như vậy là không có quan điểm giai cấp và mục tiêu đúng đắn. Thật
ra đó chính là biểu hiện tất nhiên của một tấm lòng yêu nước, thương dân, là một phẩm
chất tốt đẹp của người bênh vực cho nhân dân bị áp bức mà chống lại triều đình. Nó
xuất phát từ khí phách anh hùng quyết tâm đứng lên trừ bạo cứu dân của chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam bao đời nay.
Trong thực tế cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát đã thất bại, chứng tỏ nghệ thuật
chỉ đạo khởi nghĩa của ông cũng như đường lối chính trị của ông có những sai lầm và
hạn chế. Nói về đường lối chính trị, trong lúc Nho giáo đã bất lực trước xu thế phát
triển của lịch sử mà ông còn muốn cải biên nó, sử dụng nó; trong lúc các học thuyết
khác của phương Đông đã cũ rồi mà ông còn muốn chiết trung nó, tổng hợp nó. Mặt
khác do quá chú trọng vào những học thuyết chính trị cổ đại của phương Đông mà ông
phần nào coi nhẹ những hình thức, những khẩu hiệu đấu tranh có tính chất thiết thực
và đã có hiệu quả của nông dân cuối thế kỷ trước, như "đánh đổ cường hào ác bá", "lấy
của nhà giàu chia cho dân nghèo". Vì vậy nguyện vọng xây dựng một xã hội tốt đẹp
của ông không thể thực hiện được.
Nhưng những hạn chế về mặt đường lối của ông cũng là những hạn chế của thời
đại. Lúc bấy giờ không có phong trào nông dân nào đề ra được đường lối mới mẻ, có
23



thể đáp ứng được đòi hỏi của tình hình. Bi kịch của ông là đã không tìm được một
phương hướng đúng đắn để giải quyết vấn đề xã hội của nước ta hồi giữa thế kỷ XIX.
Đó là một xã hội phong kiến với nền tảng nông nghiệp làm chủ đạo. Nó phát triển theo
vòng tròn kép kín, đặc biệt là thời Tự Đức với chính sách "bế quan tỏa cảng". Điều đó
làm cho xã hội không phát triển theo hướng mới được và chủ nghĩa tư bản không có
điều kiện để phát triển. Mặt dù bản thân Cao Bá Quát đã có dịp đi ra nước ngoài nhưng
ông chưa thể thấy được sự vận động của lịch sử sẽ như thế nào vì những nơi ông đến
đều là những nước chậm phát triển. Cho nên ông mới chỉ chống lại triều định nhà
Nguyễn để thay đổi nó bằng một triều đại khác, xây dựng một chế độ phong kiến cực
thịnh, lý tưởng chứ ông chưa có tư tưởng cách mạng để chống lại chế độ phong kiến
nói chung.
Bản thân ông cũng đã thấy rõ sự nguy hại của lối học sách vở thời bấy giờ. Nó
làm thui chột sự phát triển trí tuệ, những phát hiện mới mẻ... nhưng ông vẫn không
thoát khỏi nó. Dẫn đến suy nghĩ và hành động của ông còn dựa nhiều vào sách vở,
thiếu tính thực tế. Đối với người dân, ông luôn yêu thương, thông cảm nhưng chưa
thấy hết sức mạnh của người dân, chưa tin tưởng họ sẽ làm nên sự nghiệp vĩ đại nên
vẫn trông chờ vào sự xuất hiện của những thánh nhân, những Nghiêu Thuấn.
Hơn nữa từ một nho sĩ đi theo triều đình, Cao Bá Quát trở thành một lãnh tụ
nông dân chống lại triều đình, bước ngoặt thật lớn lao và hiếm có. Nhưng bước ngoặt
đó cũng có mặt hạn chế của nó. Địa vị lãnh tụ nông dân của ông không phải phát triển
từ một nông dân mà lên, mà là chuyển từ một sĩ phu phong kiến sang, không phải lớn
lên trong trình tự phát triển của phong trào mà từ một sự đi "tắt ngang". Điều này
khiến ông không giống Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ xuất thân từ một nông dân, từ một
người "áo vải" trải qua quá trình chiến đấu lâu dài (gần hai mươi năm) mới trở thành
lãnh tụ cao nhất của phong trào Tây Sơn. Do đó, đường lối chủ trương chính sách của
phong trào trên có nhiều tính cách mạng tiến bộ, có lợi cho nông dân. Còn cuộc khởi
nghĩa của Cao Bá Quát do hoàn cảnh xuất thân, do quá trình trưởng thành của lãnh tụ
như ta đã nói nên tính chất cách mạng không nhiều, màu sắc nông dân không đậm. Đó
cũng là nguyên nhân gây nên hạn chế trong tư tưởng chính trị xã hội của Cao Bá Quát,
cũng là hạn chế chung của các phong trào nông dân do sĩ phu lãnh đạo thời ấy. Ngay

đến những cuộc khởi nghĩa do bản thân nông dân lãnh đạo cũng chỉ có thể đi tới xây
24


×