Tải bản đầy đủ (.pdf) (191 trang)

câu hỏi tiếng việt dưới góc nhìn lý thuyết thông tin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (928.39 KB, 191 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ MAI

CÂU HỎI TIẾNG VIỆT
DƯỚI GÓC NHÌN LÝ THUYẾT THÔNG TIN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ MAI

CÂU HỎI TIẾNG VIỆT
DƯỚI GÓC NHÌN LÝ THUYẾT THÔNG TIN

Chuyên ngành: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 62.22.01.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRỊNH SÂM

Thành phố Hồ Chí Minh 2012



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong
bất kỳ một công trình nào.
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Mai


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................ 3
MỤC LỤC ........................................................................................ 4
CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN ÁN.................... 7
DANH MỤC CÁC BẢNG .............................................................. 8
MỞ ĐẦU ........................................................................................ 10
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 10
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 11
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 17
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 17
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 18
6. Nguồn tài liệu tham khảo và ngữ liệu ..................................................... 19
7. phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 19
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu............................ 21
9. Đóng góp của luận án ............................................................................... 22
10. Bố cục của luận án ................................................................................. 23

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ...................................................... 24
1.1. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ LỜI NÓI, GIỮA CÂU VÀ
PHÁT NGÔN ................................................................................................ 25

1.2. CẤU TRÚC TƯƠNG THÍCH CỦA CÂU HỎI ................................. 27
1.2.1. Vai trò của ngữ cảnh trong việc xác định nghĩa của câu ...................... 27
1.2.2. Khái niệm cấu trúc tương thích ............................................................... 29
1.2.3. Đặc điểm của cấu trúc tương thích ......................................................... 29
1.2.4. Một số hệ quả của việc sử dụng cấu trúc tương thích ............................ 34

1.3. LÝ THUYẾT NGỮ DỤNG HỌC ......................................................... 35
1.3.1. Lý thuyết hành động ngôn từ .................................................................. 35
1.3.2. Nhân tố giao tiếp....................................................................................... 36
1.3.3. Chức năng giao tiếp, các thành tố nội dung và đích của diễn ngôn...... 39
1.3.4. Lý thuyết lập luận và hội thoại ................................................................ 40

1.4. CẤU TRÚC THÔNG TIN VÀ CÂU HỎI ........................................... 43
1.4.1. Cấu trúc thông tin..................................................................................... 43


1.4.2. Mối quan hệ của câu hỏi và cấu trúc thông tin ...................................... 54

1.5. TIỂU KẾT .............................................................................................. 56

Chương 2: CẤU TRÚC THÔNG TIN CÂU HỎI TIẾNG VIỆT
......................................................................................................... 60
2.1. VAI TRÒ CỦA CÂU TRẢ LỜI TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH HAI
THÀNH PHẦN THÔNG TIN CỦA CÂU HỎI TIẾNG VIỆT ................ 61
2.1.1. Sự tương hợp về đích ngữ dụng .............................................................. 61
2.1.2. Sự tương hợp về khung tình thái ............................................................. 62
2.1.3. Sự tương hợp về nội dung mệnh đề ......................................................... 62
2.1.4. Sự tương hợp về TT TGĐ ND .................................................................. 63
2.1.5. Sự tương hợp về TT XN ND .................................................................... 63


2.2. HAI THÀNH PHẦN THÔNG TIN CỦA CÂU HỎI CHÍNH DANH
TIẾNG VIỆT ................................................................................................. 64
2.2.1. Thành phần TT TGĐ ND ......................................................................... 64
2.2.2. Thành phần TT XN ND ........................................................................... 67
2.2.3. CTTT của các kiểu câu hỏi chính danh tiếng Việt ................................. 72
2.2.4. Các kiểu TT của câu hỏi chính danh tiếng Việt ..................................... 87

2.3. HAI THÀNH PHẦN THÔNG TIN CỦA CÂU HỎI PHI CHÍNH
DANH TIẾNG VIỆT .................................................................................... 92
2.3.1. Các tầng TT của câu hỏi phi chính danh tiếng Việt ............................... 92
2.3.2. Mối quan hệ giữa các tầng TT ................................................................. 96
2.3.3. Các kiểu TT trong câu hỏi phi chính danh tiếng Việt .......................... 107

2.4. MỐI QUAN HỆ CẤU TRÚC THÔNG TIN CỦA CÂU HỎI CHÍNH
DANH VÀ CÂU HỎI PHI CHÍNH DANH TIẾNG VIỆT ..................... 119
2.5. TIỂU KẾT ............................................................................................ 127

Chương 3: SỰ ĐÁNH DẤU CẤU TRÚC THÔNG TIN TRONG
CÂU HỎI VÀ VAI TRÒ CỦA CÂU HỎI TRONG TƯƠNG
TÁC HỘI THOẠI ....................................................................... 131
3.1. VAI TRÒ CỦA PHƯƠNG TIỆN NGÔN NGỮ................................ 131
3.1.1. Phương tiện ngữ âm ............................................................................... 131
3.1.2. Phương tiện từ vựng............................................................................... 135
3.1.3. Phương tiện ngữ pháp............................................................................ 139

3.2. VAI TRÒ CỦA CÁC CẤU TRÚC THÔNG TIN CÂU HỎI TRONG
HỘI THOẠI ................................................................................................ 147


3.2.1. Câu hỏi trong quan hệ với yếu tố phi ngôn ........................................... 147

3.2.2. Các chức năng câu hỏi đảm nhận trong HT ........................................ 149

3.3. TIỂU KẾT ............................................................................................ 161

KẾT LUẬN .................................................................................. 164
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 170


CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN ÁN

CH

chủ hướng

CTTT

cấu trúc thông tin



hàm ẩn

HT

hội thoại

HV

hành vi


PT

phụ thuộc

Sp1

người nói

Sp2

người nghe

TT

thông tin



tiêu điểm

TĐ TTM (TĐM)

tiêu điểm thông tin mới

TĐ TTPT (TĐPT)

tiêu điểm thông tin pha tạp

TĐ TTTP (TĐTP)


tiêu điểm thông tin tương phản

TĐ NV

tiêu điểm nghi vấn

TGĐ ND

tiền giả định ngữ dụng

TM

tường minh

TTĐ NV

tầm tác động nghi vấn

XN ND

xác nhận ngữ dụng


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số TT

Tên bảng

1

2
3

Bảng 1.1.
Bảng 1.2.
Bảng 2.1a.

4

Bảng 2.1b.

5

Bảng 2.2.

6
7

Bảng 2.3.
Bảng 2.4.

8

Bảng 2.5.

9

Bảng 2.6.

10

11
12

Bảng 2.7.
Bảng 2.8.
Bảng 2.9.

13

Bảng 2.10.

14

Bảng 2.11a.

15
16

Bảng 2.11b.
Bảng 2.12a.

17

Bảng 2.12b.

18

Bảng 2.12c.

19

20
21
22

Bảng 2.13a.
Bảng 2.13b.
Bảng 2.13c.
Bảng 2.13d.

Nội dung

Trang

Cấu trúc TT của câu hỏi tiếng Việt
Mô tả hai thành phần TT của câu
Sự tương hợp CTTT giữa câu hỏi và câu trả
lời (câu hỏi chính danh)
Sự tương hợp CTTT giữa câu hỏi và câu trả
lời (câu hỏi phi chính danh)
Mô tả hai thành phần TT của câu hỏi chính
danh
CTTT câu hỏi có tiểu từ tình thái đứng cuối
CTTT câu hỏi có vị từ (ngữ vị từ) tình thái
mang nghĩa nghi vấn đứng đầu
CTTT câu hỏi chứa các cặp từ mang nghĩa
đối lập “có” – “không”, “đã” – “chưa”
CTTT câu hỏi có các ngữ vị từ nghi vấn đứng
cuối
CTTT câu hỏi chứa từ “hay” chỉ sự lựa chọn
CTTT câu hỏi chứa đại từ nghi vấn

Mô tả hai thành phần TT của câu hỏi phi
chính danh
Mối quan hệ CTTT giữa câu hỏi chính danh
và câu hỏi phi chính danh
TĐ TTM chuyển thành TĐ mang tính hiển
nhiên hoặc thứ yếu
TĐ TTM chuyển thành TĐ TTTP
Chuyển đổi vị trí TĐ trong thành phần TT
XN ND
Chuyển đổi vị trí TĐ NV từ thành phần TT
XN ND sang thành phần TT TGĐ ND
Chuyển vị trí TTĐ NV từ thành phần TT XN
ND
Mở rộng phạm vi TĐ bằng yếu tố đánh giá
Mở rộng phạm vi TĐ bằng yếu tố so sánh
Mở rộng phạm vi TĐ bằng yếu tố đối lập
Mở rộng phạm vi TĐ bằng yếu tố giải thích

37
44
53
54
62
65
67
69
71
74
77
95

111
112
113
114
114
115
115
116
116
117


23

Bảng 3.1.

Vai trò của câu hỏi trong hội thoại

148


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Cái hệ thống ký hiệu nhiều cấp bậc, nhiều bình diện - gọi là ngôn ngữ được hình thành và phát triển chủ yếu để phục vụ cho sự giao tiếp của con người,
vừa có mối quan hệ bên trong (cấu trúc của các thành tố) vừa có mối quan hệ bên
ngoài (với nền văn hóa mà nó là bộ phận cấu thành). Vì thế, nghiên cứu ngôn ngữ,
chúng ta không thể chỉ dừng lại ở bình diện mã tín hiệu mang tính hình thức thuần
túy mà còn phải tìm hiểu mặt nội dung của nó, xem đằng sau cái được mã hóa đó là
gì, cả nghĩa hiển ngôn lẫn hàm ngôn, trong từng hoàn cảnh cụ thể, có tính đến yếu

tố nhân vật giao tiếp. Chính ngữ pháp chức năng, dưới ánh sáng của ngôn ngữ
trong hành chức, đã đưa ngôn ngữ học vượt qua giai đoạn chỉ nghiên cứu bình diện
kết học của các đơn vị trong hệ thống, tuy không bỏ qua mặt nghĩa nhưng chỉ quan
tâm đến nghĩa biểu hiện, tức chỉ tìm hiểu mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được
biểu đạt, mà trả ngôn ngữ về đúng chức năng và môi trường hoạt động của nó.
Chúng tôi, qua đề tài này, một mặt cũng muốn làm rõ đặc điểm của câu hỏi tiếng
Việt dưới góc độ lý thuyết thông tin, mặt khác, xem đây như là cơ hội để học hỏi
các chuyên luận cùng đề tài và mở rộng vốn kiến thức về ngôn ngữ học còn hạn
hẹp của mình.
Câu tục ngữ “Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học” đã phần nào khẳng
định vai trò của HV hỏi. Theo quan niệm thông thường, hỏi là cách nhanh nhất để
tiếp nhận TT, mà từ đó là sự mở rộng và điều chỉnh bức tranh về thế giới cũng như
thiết lập và phát triển mối quan hệ của các nhân vật giao tiếp. Trước đây, người ta ít
quan tâm đến câu hỏi, bởi vì, toàn bộ lý thuyết logic hình thức chỉ lấy câu tường
thuật làm đối tượng nghiên cứu. Song, trong thời gian gần đây, câu hỏi được quan
tâm nhiều hơn, được trình bày thành những chuyên mục riêng trong sách ngữ pháp
và trở thành đề tài nghiên cứu chuyên sâu của nhiều công trình ngôn ngữ học ở tất
cả các bậc học. Đứng ở góc độ chức năng, người ta thấy rằng câu hỏi không chỉ


được dùng để hỏi mà còn dùng để thực hiện những HV khác hỏi vốn được thể hiện
bằng hình thức các câu như cảm thán, cầu khiến, … và đảm nhận một vai trò hết
sức quan trọng trong tương tác HT. Kết quả thu được từ các công trình đó đã giúp
hình thành nên một cái nhìn rất phong phú, sâu sắc và tinh tế về câu hỏi tiếng Việt.
Vì những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn câu hỏi làm đề tài nghiên cứu trong
luận án này.

2. Lịch sử vấn đề
Trước nay khi nghiên cứu về câu hỏi tiếng Việt, các nhà Việt ngữ học
thường lấy việc phân tích các bình diện làm cơ sở cho sự tổng hợp các vấn đề có

liên quan đến cách thức tổ chức, biểu hiện nội dung và giá trị sử dụng. Trong luận
án này, chúng tôi sẽ khảo sát đặc điểm của câu hỏi trên cơ sở những luận điểm cơ
bản của lý thuyết CTTT. Vì thế, nội dung luận án vừa mang tính kế thừa vừa có
tính chất mới. Trong phần lịch sử vấn đề có tính chất trường quy, chúng tôi sẽ trình
bày một cách sơ lược những công trình nghiên cứu về câu hỏi tiếng Việt và những
công trình nghiên cứu về lý thuyết TT, còn những vấn đề thuộc nội dung chúng tôi
sẽ bàn kỹ ở phần tổng quan.
2.1. Câu hỏi tiếng Việt
Bùi Đức Tịnh (1996) cho rằng công năng của câu hỏi là thu nhận TT “Ta
dùng câu nghi vấn để tỏ ý muốn biêt một việc gì.” [147, tr.79] và từ đó chỉ ra các
dấu hiệu hình thức của câu hỏi như: câu nghi vấn có chỉ định từ, câu nghi vấn có
đại từ nghi vấn, câu nghi vấn có phó từ nghi vấn giữ vai trò hạn định một động từ,
một phó từ hoặc một tính từ, … Ông cũng chú ý đến giá trị tại lời gián tiếp của câu
hỏi, tuy nhiên, chỉ là những ghi nhận về trường hợp ngoại lệ của cách sử dụng câu
hỏi “Khi đặt một câu hỏi mà muốn cho thấy mình tin rằng việc muốn hỏi là có thật
thì ta dùng hình thức phủ định nghi vấn: Anh không có làm việc ấy à?” [147, tr.7980).
Nguyễn Kim Thản (1996) cũng tiếp cận từ phương diện công năng yêu cầu
cung cấp TT và phạm vi quan sát về ảnh hưởng giữa người nói và người nghe “Câu
hỏi có mục đích thông báo cho người nghe, người đọc điều hoài nghi ở người nói,


người viết và nói chung đòi người đối thoại trả lời.” [132, tr.62] và chia câu hỏi
thành bốn loại: câu hỏi toàn bộ, câu hỏi bộ phận, câu hỏi lựa chọn và câu hỏi rộng.
Ông đặc biệt chú ý đến các yếu tố hình thức tạo nên câu hỏi: tiểu từ tình thái, đại từ
nghi vấn, từ nối “hay” (“hay là”), cụm từ “phải chăng”, “phải không”, …và cũng
chú ý nhiều hơn đến mục đích khác hỏi của câu hỏi như: câu hỏi dùng để khẳng
định, phủ định, ra lệnh và bày tỏ cảm xúc. Theo ông, ngữ điệu là một tiêu chí nhận
diện câu hỏi, chỉ cần nâng giọng cuối câu thì một câu tường thuật có thể trở thành
câu hỏi.
Diệp Quang Ban (1996) mặc dù luôn cho rằng việc nhận diện câu hỏi của

mình có sự kết hợp của hai tiêu chí hình thức và mục đích phát ngôn nhưng với
những gì đã trình bày, ông vẫn cho thấy cách tiếp cận câu hỏi của ông chủ yếu là từ
phương diện mục đích phát ngôn. Bảng phân loại của ông khá chi tiết, không
những cung cấp số lượng loại câu hỏi, diễn giải kỹ từng loại, mà còn bổ sung thêm
một số trường hợp biến dạng. Ví dụ, ông cho rằng câu hỏi “có … không”, “có …
phải không”, “đã … chưa”, “xong (rồi, xong rồi )… chưa” là biến dạng của câu
hỏi “có … (hay) không”, “có phải … (hay) không”, “đã … (hay) chưa”, “xong
(rồi, xong rồi) … (hay) chưa” trong đó từ “hay” dễ dàng được khôi phục; câu hỏi
“… có không?”, “…(có) phải không?”, “… chưa?”, “…không?” là biến dạng theo
cách dồn/ rút bớt hoặc vừa dồn vừa rút từ câu hỏi “ có … không”. Ông cũng chú ý
đến giá trị khác hỏi của câu hỏi nhưng xem đây là câu hỏi giả và vì thế mục đích
mà câu hỏi này thực hiện cũng là mục đích giả.
Cao Xuân Hạo (2006) theo quan điểm ngữ pháp chức năng, nhận diện câu
hỏi dựa vào tiêu chí có dấu hiệu riêng của tình thái hỏi “Đối với tiếng Việt, căn cứ
vào một số thuộc tính về cấu trúc ngữ pháp, có thể phân câu thành hai loại lớn:
câu trần thuật và câu nghi vấn và căn cứ vào hình thức mà coi câu mệnh lệnh như
một tiểu loại của câu trần thuật, khác với các tiểu loại khác về tình thái ” [61, tr.27].
Từ đó, dựa trên đích ngữ dụng của HV hỏi, ông chia câu hỏi thành hai loại lớn là
câu hỏi chính danh (câu hỏi có lực ngôn trung trực tiếp) và câu hỏi phi chính danh
(câu hỏi có lực ngôn trung gián tiếp). Mỗi loại như thế lại được chia thành các tiểu
loại như câu hỏi chính danh bao gồm câu hỏi tổng quát, câu hỏi chuyên biệt (bộ
phận) và câu hỏi hạn định; câu hỏi phi chính danh bao gồm câu hỏi có giá trị cầu


khiến, câu hỏi có giá trị khẳng định, câu hỏi có giá trị phủ định, câu hỏi có giá trị
phỏng đoán hay ngờ vực, ngần ngại, câu hỏi có giá trị cảm thán.
Trong thời gian gần đây, việc nghiên cứu câu hỏi theo quan điểm ngữ pháp
chức năng, dưới ánh sáng ngữ dụng học, đã mang đến một cái nhìn rất sâu sắc và
tinh tế, đặc biệt là ở bình diện hành chức, cho câu hỏi tiếng Việt.
Lê Đông (1985, 1991, 1994, 1996) đi sâu nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa,

ngữ dụng của câu hỏi chính danh từ quan điểm của lý thuyết cấu trúc thông báo.
Tác giả đã phát hiện ra trục ngữ nghĩa, ngữ dụng cơ bản của câu hỏi chính danh là
TT tiền giả định và cái chưa biết, cần biết. Trên cơ sở này, tác giả cũng đã giải
quyết thấu đáo vấn đề phân loại câu hỏi chính danh và các kiểu TT bổ trợ thường
gặp.
Nguyễn Thị Thìn (1994) cố gắng hệ thống hóa cấu trúc câu hỏi phi chính
danh. Trong luận án của mình, tác giả trình bày mười một kiểu cấu trúc hỏi, ba
trong số đó là “NP – mà/ mà lại – VP/ không VP – à/ ư/ sao?”, “Chẳng lẽ/ Không
lẽ - à/ ư/ sao?”, “Dễ thường/ Dễ - à/ chắc/ hay sao” đã cho thấy sự phong phú
trong việc thực hiện đích ngữ dụng gián tiếp của câu hỏi tiếng Việt.
Nguyễn Thị Lương (1995) có khuynh hướng nghiên cứu ý nghĩa của câu
hỏi khi tập trung miêu tả đặc điểm của các tiểu từ tình thái nghi vấn cuối câu. Tuy
các tiểu từ này được miêu tả ở cả trạng thái tĩnh lẫn động nhưng chưa được xem xét
đầy đủ ở bình diện ngữ nghĩa, ngữ dụng.
Nguyễn Đức Dân và Vũ Thị Thời (2007) từ hiệu lực ở lời gián tiếp chất
vấn bác bỏ của câu hỏi đã phát hiện ra nhiều hiệu lực ở lời gián tiếp khác như phủ
định, khẳng định, … và các biểu thức ngôn ngữ biểu đạt nó: “Có A đâu?”, “Có A
nào X?”, “X thế nào được?”, “Có A gì X?”, “A làm gì?”, “Làm gì có A?”, “Chẳng
A là gì?”, “Có A ở đâu?”, “Có A là bao?”, “Có A là mấy?”, “A sao/ làm sao/ thế
nào được?”
Nguyễn Thị Thu Hương (2003) xuất phát từ một cấu trúc hỏi (cấu trúc “có
… không”) trên cơ sở so sánh với một kiểu câu hỏi của tiếng Anh (yes – no
question), đã tìm ra tất cả các hiệu lực tại lời của nó, ví dụ như Câu hỏi có giá trị
như một lời yêu cầu, đề nghị hoặc ra lệnh, câu hỏi có giá trị như một lời mời, câu
hỏi diễn tả sự mong muốn được người khác giúp đỡ, câu hỏi nhằm có được sự đồng


tình của người nghe, câu hỏi diễn đạt sự không đồng ý, câu hỏi có giá trị phủ định,
câu hỏi có giá trị cảm thán, câu hỏi thể hiện sự nghi ngờ, câu hỏi thể hiện sự ngạc
nhiên.

Câu hỏi càng lúc càng được chú ý ở phương diện hành chức, Mai Thị Kiều
Phượng (2007) chủ yếu nghiên cứu đặc điểm của HV hỏi được thực hiện bằng phát
ngôn hỏi trong một lĩnh vực nhất định của đời sống (mua bán). Từ đó, tác giả trình
bày đặc điểm ba bình diện câu hỏi trên cả hai đích ngữ dụng chính danh và phi
chính danh.
Nghiên cứu câu hỏi nhưng Lê Anh Xuân (1999, 2000, 2001, 2006) không
khảo sát câu hỏi mà khảo sát câu trả lời. Ví dụ, để trả lời cho câu hỏi chính danh,
tác giả cho rằng người nói không nhất thiết phải sử dụng câu trần thuật hay câu cầu
khiến mà có thể sử dụng nhiều loại câu khác nhau, trong đó có cả câu hỏi. Trả lời
bằng câu hỏi nhưng người nói hoàn toàn có thể thực hiện được các HV khác hỏi
như khẳng định, phủ định, biện minh hay giải thích, … Dùng câu trả lời để khảo sát
đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của câu hỏi là một hướng nghiên cứu tuy không mới
nhưng rất có ý nghĩa.
Nhìn chung, công trình nghiên cứu của các nhà Việt ngữ học, trong một thời
gian dài, về ba bình diện kết học, nghĩa học và dụng học của câu hỏi đã đạt được
những thành tựu lớn. Trong luận án này, chúng tôi xem những thành tựu đó như
những tiền đề quan trọng, làm cơ sở để khảo sát đặc điểm câu hỏi tiếng Việt dưới
một góc nhìn còn khá mới mẻ: lý thuyết TT.
2.2. Lý thuyết TT
V.Mathesius (1929) có lẽ là người đầu tiên đề cập đến lý thuyết về phân
đoạn thực tại câu (Funtional Sentence Perpective – FSP) và những đơn vị có chức
năng chuyển tải TT của câu trong quá trình giao tiếp với sự phân định hai thành
phần TT cái đã biết/ cái chưa biết (known/ unknown) ứng với cái cũ/ cái mới
(given/ new). J. Firbas (1966) khi nói về “tỉ lực thông báo” (Communicative
Dynamism – CD) trong câu đã tóm tắt như sau “Các thành phần của câu nối tiếp
nhau theo thứ tự của tỉ lực thông báo mà mỗi thành phần đóng góp, bắt đầu từ mức
thấp nhất và dần dần chuyển thành mức cao nhất” [173, tr.240)]. Chính quan điểm
đồng nhất hai thành phần TT cũ và mới với hai thành phần trong cấu trúc nội dung



mệnh đề của câu là đề và thuyết đã dẫn các nhà ngôn ngữ học trong trường phái
Prague này đến chỗ “lẫn lộn không những giữa cấu trúc đề - thuyết với cấu trúc
thông báo, mà cả giữa cấu trúc đề - thuyết với những hiện tượng tiêu điểm hóa
(focalisation) trên trục đối vị (cường điệu – emphase) và trên trục kết hợp (tương
phản – contract)” [61, tr.79].
M.A.K.Halliday (1967, 1985, 1991) là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ
“cấu trúc thông tin” (information structure) trong một bài viết về hiện tượng ngôn
điệu trong lời nói năm 1967. Từ hai thành phần TT mà V. Mathesius và các học trò
đã phân định trước đó, M.A.K.Halliday định danh thành TT cũ và TT mới, trong đó
TT mới là cái mà người nói giả định người nghe chưa biết và cần biết, còn TT cũ là
cái giả định người nghe đã chia sẻ được từ người nói. Sự phân bố thường gặp của
hai thành phần TT này là cũ - mới. Khắc phục nhược điểm của các tác giả lý thuyết
phân đoạn thực tại câu, Halliday cho rằng không phải lúc nào trật tự hai thành
phần TT cũ mới cũng trùng với trật tự đề - thuyết trong câu. Một cái đề tương phản
hoàn toàn có thể là một TT mới.
S.Dik (1978) cho rằng sự phân chia TT trong câu không nhất thiết như một
cấu trúc lưỡng phân mà chỉ như hai thành phần rời nhau và có thể không choán hết
cả câu. Trong phần trình bày về đề (theme, topic), Dik có đề cập đến TĐ (focus) mà
theo ông đó là bộ phận có chức năng dụng pháp thể hiện thành phần TT quan trọng
nhất, nổi bật nhất trong câu.
R.Dooley (1982), tương tự như S.Dik, khi phân tích cấu trúc câu của tiếng
Guarani, cũng nêu rõ TĐ là hạt nhân dụng pháp mang thông báo quan trọng nhất
của câu và có tác dụng cơ bản đến lực ngôn trung. Chính cái lõi này sẽ cho biết cái
gì là trọng tâm thông báo của câu hỏi chính danh và thông tin nào là quan yếu trong
câu trả lời tương hợp.
N.Chomsky (1971) xác định hai thành phần TT cơ bản trong câu là TT cũ –
TT mới và thay thuật ngữ chủ đề - thuật đề ( theme – rheme), đề - thuyết ( topic –
comment) thành thuật ngữ tiền giả định - TĐ. Trong đó, TT tiền giả định tuy là TT
không bắt buộc phải hiển ngôn trong câu, tức có thể tồn tại ngoài câu, nhưng luôn
là yếu tố đóng vai trò tiền đề trong việc xác định TĐ. Cặp thuật ngữ này được rất

nhiều nhà ngữ học như R.Jackendoff (1972), M.Rooth (1985), E.Vallduvi và


R.Zacharski (1994), D.Buring (2005), S.Calhoun (2007), … sử dụng. Về sau,
M.Kriffka (1992, 2001, 2006) dùng cặp thuật ngữ khác thay thế là TT nền - TĐ
(common ground – focus).
K.Lambrecht (1994) chia hết TT trong câu thành hai phần gọi là TGĐ ND
và XN ND tương ứng với TT cũ và TT mới, cái xác định và cái cần thông báo. Dựa
trên tiêu chí quy mô vùng tiêu điểm gắn với chức năng giao tiếp cụ thể, ông đề xuất
ba mô hình CTTT tương ứng với hai phạm vi rộng và hẹp. Mỗi kiểu CTTT có cơ
cấu TT TGĐ ND và TT XN ND riêng, trong đó TT XN ND có thể được giới hạn
trong phạm vi một tham tố, nội dung sự tình mà hoặc trải dài trên phạm vi cả sự
tình. Quan điểm của Lambrecht được nhiều nhà ngữ học đồng tình và sử dụng
trong các nghiên cứu của mình như D.Bolinger (1995), R.Van Valin (1997),
E.V.Rodinova (2001), C.Breul (2004), … Mỗi tác giả có những bổ sung riêng, tuy
nhiên, về cơ bản, họ tiếp nhận quan điểm của Lambrecht.
Ngoài bình diện cú pháp, các nhà ngữ học còn khảo sát CTTT trên các bình
diện khác. M. Steedman (2002, 2003) tập trung khảo sát hoạt động của trọng âm
chỉ xuất TĐ TP thông qua hai lớp cấu trúc trong một đơn vị TT. Theo ông, lớp
ngoài cùng được biểu thị bằng ngữ điệu phân đoạn đề - thuyết có chức năng phân
đoạn đơn vị thông tin, còn lớp bên trong là khu vực hoạt động của trọng âm cường
điệu với chức năng đánh dấu TĐ TP. Như vậy, bằng việc phân tích cấu trúc đơn vị
TT, Steedman đã nêu được vai trò của các đơn vị ngữ âm trong việc đóng gói và
chuyển đích ngữ dụng của TT.
Trong lĩnh vực nghiên cứu tiếng Việt, hầu như đến nay chưa có một công
trình lớn nào bao quát được tất cả các vấn đề của CTTT. Ngoài một số bài báo
mang tính chuyên đề của các tác giả như Lý Toàn Thắng (1981), Nguyễn Hồng
Cổn (2001, 2004, 2010), Trần Hữu Mạnh (2004), Nguyễn Thị Thanh Huyền (2008,
2010), …, vấn đề này chỉ được trình bày một cách sơ lược dưới dạng một tiểu mục
trong các sách nghiên cứu của tác giả Trần Ngọc Thêm (1985), Cao Xuân Hạo

(1991), Hồ Lê (1991), Nguyễn Thiện Giáp (2000), Đỗ Hữu Châu (2001), Diệp
Quang Ban (2005), …


3. Mục đích nghiên cứu
Việc thực hiện luận án này nhằm mục đích là vận dụng một lý thuyết còn
khá mới mẻ ở Việt Nam, lý thuyết CTTT, để giải quyết một số bình diện của câu hỏi
tiếng Việt.
Nói cụ thể, nghiên cứu của chúng tôi trả lời những câu hỏi sau:
Trong câu hỏi tiếng Việt, các thành phần TT được thể hiện như thế nào, kể
cả câu hỏi chính danh và câu hỏi phi chính danh?
Các phương tiện ngôn ngữ, gồm ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, đảm nhận vai
trò gì trong việc đánh dấu TĐ câu hỏi tiếng Việt?
Câu hỏi thể hiện những TT gì trong giao tiếp và nó đảm nhiệm những chức
năng gì trong tương tác HT?
Nhìn chung, trả lời các câu hỏi này, luận án cũng chỉ nhằm góp phần giải
quyết những vấn đề rất chung của ngôn ngữ là:
Chúng ta làm gì khi chúng ta nói?
Chúng ta thật sự nói gì khi chúng ta nói?
Vì thế, theo chúng tôi, đề tài rất thiết thực và hướng giải quyết vấn đề cũng
khả thi, chẳng những có ý nghĩa về mặt lý thuyết mà còn có giá trị về mặt thực tiễn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Như tên gọi đề tài, luận án chủ yếu tập trung giải quyết những vấn đề thuộc
đặc điểm của câu hỏi tiếng Việt dưới góc nhìn lý thuyết CTTT. Đối tượng được
xác định là câu có hình thức hỏi trong bất kỳ ngữ cảnh nào của HT và phạm vi
nghiên cứu là ba bình diện của câu hỏi, đặc biệt bình diện dụng học. Từ đó, luận án
sẽ rút ra những điểm giống và khác nhau giữa hai cách sử dụng chính danh và phi
chính danh, làm cơ sở cho việc khảo sát vai trò câu hỏi trong giao tiếp. Để phục vụ
cho việc xử lý TT của các nhân vật giao tiếp cũng như đảm bảo tính phù hợp với

ngữ cảnh giao tiếp, luận án sẽ trình bày thêm đặc điểm cấu trúc tương thích, xem
đây như một yêu cầu quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ trong tương tác HT.


5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án đề ra những nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
Đi tìm và lý giải, trên cơ sở phân tích, so sánh và tổng hợp, một cấu trúc câu
hỏi phù hợp với mọi hoàn cảnh giao tiếp mà ở đây chúng tôi tạm gọi đây là cấu
trúc câu hỏi tương thích.
Miêu tả hai thành phần TT cơ bản cũng như các kiểu thông tin của câu hỏi
tiếng Việt trên cơ sở chấp nhận quan điểm ngôn ngữ học của K.Lambrecht (1994).
Việc trình bày đặc điểm câu hỏi tuy không tách bạch từng bình diện, song qua đặc
điểm CTTT, chúng tôi hy vọng sẽ làm rõ đặc điểm của các bình diện. Cách trình
bày này cũng có thuận lợi riêng, vì giải quyết được mối quan hệ rất mật thiết giữa
ba bình diện ở cấp độ câu, cụ thể là câu hỏi.
Khảo sát mối quan hệ và các bước chuyển từ câu hỏi dùng để hỏi, sang
câu hỏi không dùng để hỏi xét ở góc độ cấu trúc thông tin, xem tại sao một câu
như thế này là dùng để hỏi:
(1)

a- Anh có mệt không?

Trong khi một câu khác cũng có cấu trúc như thế nhưng không dùng để hỏi:
b- Anh có rảnh không?
Và một câu cũng hoàn toàn là cấu trúc ấy song chỉ dùng để đe dọa:
c- Con có muốn ăn đòn không?
Hay như hai câu hỏi sau đây:
(2)

a- Anh nói gì?


Và:
b- Anh nói gì mà kỳ vậy?
mà theo những trải nghiệm thông thường, các câu hỏi (1)a, (2)a dùng để hỏi,
còn các câu (1)b, (2)b không dùng để hỏi.
Trình bày vai trò của câu hỏi trong tương tác HT để thấy hết tầm quan
trọng trong giao tiếp của HV hỏi. Nhân việc khảo sát đặc điểm của câu hỏi, chúng
tôi cũng muốn góp một tiếng nói làm phong phú thêm bức tranh về tương tác HT.


6. Nguồn tài liệu tham khảo và ngữ liệu
Để thực hiện luận án này, chúng tôi đã sử dụng một nguồn tài liệu và ngữ
liệu khá phong phú.
Về tài liệu tham khảo:
- Đó là các công trình nghiên cứu trong nước được công bố dưới dạng báo
hoặc sách, không chỉ về các vấn đề trình bày trong luận án mà còn về các vấn đề
liên quan.
- Đó là các công trình nghiên cứu nước ngoài, chủ yếu là các công trình
mang tính lý thuyết cơ sở được dịch sang tiếng Việt
- Và cả các công trình nước ngoài chưa được dịch sang tiếng Việt, chủ yếu
là sách tham khảo tiếng Anh.
Về ngữ liệu:
- Ngữ liệu trích lại của các tác giả đi trước
- Ngữ liệu sưu tập trong hội thoại hàng ngày
- Ngữ liệu sưu tập trên báo chí và một số tác phẩm văn chương

7. phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiếp cận, khảo sát, phân tích và lý giải đối tượng, luận án
tuân theo những nguyên tắc và sử dụng những phương pháp vốn có hiệu lực trong
khoa học nói chung cũng như trong ngành ngôn ngữ học nói riêng.

Về nguyên tắc, trước hết, phải kể đến nguyên tắc bao quát tối đa về nguồn
tài liệu, trong chừng mực có thể có được. Chúng tôi cố gắng tìm đọc, càng nhiều
càng tốt, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, từ những công trình viết
về CTTT đến những công trình nghiên cứu về đặc điểm câu hỏi tiếng Việt.
Sau nữa là nguyên tắc điều tra thực tế cách sử dụng câu hỏi tiếng Việt
trong giao tiếp.
Hai công việc này tuy được tiến hành cùng một lúc nhưng độc lập nhau: việc
bao quát tài liệu tham khảo cho cái nhìn bước đầu về đối tượng còn việc xử lý tư
liệu giúp nắm rõ hơn những đặc điểm của đối tượng. Trên cơ sở đó, luận án thống
kê, phân tích, lý giải và rút ra các đặc điểm phổ quát về câu hỏi.


Về phương pháp, vì đối tượng nghiên cứu là đơn vị tập hợp đủ ba bình diện
của ngôn ngữ nên hệ phương pháp được lựa chọn một mặt phải đảm bảo các tiền đề
lý thuyết, mặt khác phải có giá trị thực hành.
Có thể hình dung công việc nghiên cứu như sau: xuất phát từ những luận
điểm cơ bản về CTTT theo quan điểm ngôn ngữ học của K. Lambrecht (1994), trên
cơ sở xử lý tư liệu về cách sử dụng của câu hỏi trong thực tế, chúng tôi tiến hành
khảo sát và sau đó miêu tả các thành phần TT trong câu hỏi, xem trong câu hỏi, kể
cả chính danh và phi chính danh, hai thành phần TT được thể hiện như thế nào, TĐ
NV có đặc điểm gì. Tiếp theo, chúng tôi so sánh, đối chiếu để tìm ra những điểm
giống và khác nhau cũng như các bước chuyển dưới góc độ CTTT của câu hỏi
chính danh và câu hỏi phi chính danh. Bên cạnh đó, chúng tôi còn phân tích các
kiểu thông tin mà câu hỏi có thể thể hiện, vai trò của các phương tiện ngôn ngữ
trong việc đánh dấu TĐ câu hỏi và vai trò của câu hỏi trong tương tác hội thoại.
Cuối cùng, tổng hợp những kết quả thu được, chúng tôi cố gắng rút ra một cái nhìn
khái quát về đặc điểm của câu hỏi dưới góc độ lý thuyết TT. Như vậy, ngoài một số
thủ pháp mà bất cứ công trình nghiên cứu nào cũng phải sử dụng như sưu tập, xử lý
tư liệu, phân loại, thống kê, tổng hợp, cách tiếp cận của luận án dựa vào ba phương
pháp chính:

Phương pháp miêu tả, phân tích ngữ cảnh
Vì chú ý đến bình diện hành chức của câu hỏi nên khi nghiên cứu, luận án
không trừu xuất đối tượng ra khỏi hoàn cảnh giao tiếp, chẳng những thế, còn cố
gắng miêu tả và phân tích cả ngữ cảnh hẹp lẫn ngữ cảnh rộng. Đối với ngữ cảnh
hẹp, luận án chú ý đến sự tương tác của các yếu tố ngôn ngữ; Đối với ngữ cảnh
rộng, luận án chú ý đến sự chi phối của các yếu tố phi ngôn.
Phương pháp so sánh - đối chiếu
Khi khảo sát đặc điểm CTTT của câu hỏi chính danh và phi chính danh, luận
án tiến hành so sánh, đối chiếu để tìm những điểm tương đồng và dị biệt giữa
chúng. Đặc biệt, từ những điểm tương đồng và dị biệt ấy, luận án phát hiện ra mối
quan hệ cũng như những bước chuyển từ cách sử dụng để thu nhận TT sang cách
sử dụng để truyền đạt TT của câu hỏi.
Phương pháp hệ thống hóa


Luận án tôi tiến hành phân loại, sắp xếp, lý giải mối quan hệ, … của đơn vị
khảo sát làm cơ sở tổng hợp và khái quát những đặc điểm chung. Trên cơ sở của
đặc điểm chung, luận án hệ thống hóa thành những luận điểm cụ thể. Đây cũng là
căn cứ để luận án trình bày những nhận xét, kết luận của mình về đối tượng nghiên
cứu.

8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Luận án chẳng những có ý nghĩa về mặt lý thuyết mà còn có giá trị về mặt
thực tiễn.
Về lý thuyết, luận án muốn góp phần làm rõ thêm một số đặc điểm của câu
hỏi tiếng Việt dưới góc độ lý thuyết TT, cụ thể là các vấn đề sau:
Lấp đầy một số ô trống mà các công trình khác còn để lại. Đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu về đặc điểm câu hỏi tiếng Việt ở cả ba bình diện, đặc biệt là
câu hỏi chính danh, tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề mà do nhiều nguyên nhân
khác nhau, các công trình ấy không đề cập hoặc đề cập một cách không đầy đủ và

thiếu tính hệ thống, ví dụ như sự chuyển đổi của câu hỏi từ cách dùng để hỏi sang
cách dùng không hỏi, ...
Sử dụng một lý thuyết còn khá mới mẻ, lý thuyết CTTT, thuộc ngành ngữ
dụng học để xử lý một vấn đề không mới. Lý thuyết CTTT tuy đã được quan tâm
nhưng hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu về câu hỏi tiếng Việt nào lấy lý
thuyết này làm cơ sở và trình bày vấn đề một cách có hệ thống. Sử dụng lý thuyết
này luận án xem như là một cách đóng góp vào những vấn đề mang tính lý luận của
ngôn ngữ học hiện nay.
Từ việc nghiên cứu câu hỏi, chúng tôi cho rằng có thể mở rộng phạm vi sang
các loại câu khác. Nhìn chung, khi thực hiện chức năng giao tiếp, ngôn ngữ được
hiện thực hóa thành những câu nói cụ thể và mỗi câu như thế được xem là một cách
thức truyền đạt những nhận định mà nội dung là thông báo những sự thế của thế
giới khách quan (hoặc có thật hoặc tưởng tượng) theo cách tri giác và tư duy của
người nói. Nói chung, cái cuối cùng người ta trao đổi và tác động vào nhau, qua
ngôn ngữ, chính là TT. Tổ chức một câu hay một diễn ngôn như thế nào đó, biểu
hiện nghĩa ra sao, phản ánh sự tình gì, đặt trong ngữ cảnh giao tiếp nào, mục đích


cuối cùng vẫn là phục vụ cho việc truyền đạt và tiếp nhận TT của các nhân vật giao
tiếp.
Về thực tiễn, những kết luận của luận án có thể vận dụng vào một số lĩnh
vực hoạt động của tiếng Việt sau:
Vận dụng vào việc giảng dạy tiếng Việt với tư cách là một ngoại ngữ, giúp
người nước ngoài hiểu hơn về sự phong phú và tinh tế của tiếng Việt.
Vận dụng vào việc dạy tiếng Việt trong nhà trường phổ thông, giúp học sinh
giải quyết một số vấn đề thuộc phạm vi câu hỏi theo hướng xử lý TT, ví như xác
định hai thành phần TT của câu hỏi chính danh và câu hỏi phi chính danh, giải
thích tại sao có thể sử dụng một cấu trúc hỏi cho hai đích ngữ dụng khác nhau trong
những hoàn cảnh giao tiếp khác nhau, … Từ câu hỏi, học sinh sẽ tìm hiểu sang các
loại câu khác và các em có thể thấy được sự giàu đẹp của tiếng Việt để thêm yêu

quý tiếng Việt.
Góp thêm một tiếng nói có ý nghĩa vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt.

9. Đóng góp của luận án
Luận án một mặt làm rõ đặc điểm của câu hỏi tiếng Việt dưới góc nhìn của
lý thuyết TT ở cả hai đích ngữ dụng thu nhận và truyền đạt TT, mặt khác, tìm hiểu
mối quan hệ giữa câu hỏi được sử dụng chính danh với câu hỏi được sử dụng phi
chính danh. Đề tài của luận án không phải là đề tài mới nhưng chúng tôi hy vọng sẽ
trình bày được một cách nhìn mới, xem câu hỏi tổ chức như thế nào, biểu hiện nội
dung gì, được sử dụng ra sao trong cái trục ngữ nghĩa – ngữ dụng cơ bản là hai
thành phần TT, TGĐ ND và XN ND, của nó. Chúng tôi theo quan điểm của
K.Lambrecht (1994), trên cơ sở tiếp cận từ bình diện hình thức, sẽ làm rõ mối quan
hệ giữa các thành phần TT và đích ngữ dụng của câu hỏi, từ đó khẳng định sự chi
phối của CTTT đến sự lựa chọn thể hiện của các yếu tố ngôn ngữ và khẳng định sự
tồn tại tự nhiên của CTTT ở mọi dạng biểu đạt trong ngôn ngữ.


10. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án bao gồm ba chương:
Chương 1 giới thiệu tổng quan về mối quan hệ của CTTT và câu hỏi tiếng
Việt.
Chương 2 trình bày đặc điểm CTTT của câu hỏi, kể cả câu hỏi chính danh
và câu hỏi phi chính danh, có chú ý đến các kiểu TT mà câu hỏi thể hiện.
Chương 3 khảo sát vai trò của các phương tiện ngôn ngữ, bao gồm ngữ âm,
từ vựng, ngữ pháp, trong việc đánh dấu TĐ của câu hỏi tiếng Việt và vai trò của
câu hỏi trong tương tác HT.


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN


Ngữ pháp truyền thống tiếp cận câu hỏi từ phương diện mục đích phát ngôn
và tuy chưa hình dung một cách sáng rõ nhưng thực chất ít nhiều đã đụng chạm đến
bình diện dụng học. Các nhà nghiên cứu đã định nghĩa, phân loại, xác định hình
thức câu theo cái mục đích đó. Kết quả của việc làm này là câu hỏi được nhận diện
như một phương tiện thực hiện công năng đặc trưng hỏi và yêu cầu được trả lời.
Đến khi quan sát câu hỏi trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, nhận thấy nó không chỉ
có cái công năng đặc trưng đó mà còn rất nhiều công năng khác, nhiều tác giả đã
lúng túng và thêm vào một phần như ghi chú: câu hỏi nhưng không thực hiện mục
đích hỏi (câu hỏi giả). Ngữ pháp chức năng và ngữ pháp chức năng hệ thống luôn
cố gắng đẩy mạnh việc nghiên cứu câu hỏi theo hướng ngữ nghĩa, ngữ dụng với các
yếu tố như lực ngôn trung, tiền giả định, hàm ý, HT, lập luận, tính liên nhân, phép
lịch sự, chiến lược giao tiếp, …. Theo quan điểm của trường phái này, câu trả lời
được xem là một trong những nhân tố quan trọng xác định nghĩa của câu hỏi: tất cả
các câu trả lời có thể có được cho một câu hỏi chính là nghĩa của câu hỏi đó. Ngôn
ngữ học tri nhận tiếp cận câu hỏi ở bình diện ngữ nghĩa. Câu hỏi được xem là một
phương tiện thực hiện việc thu nhận tri thức, là cơ sở hình thành nên kinh nghiệm
và sau đó là các cách ý niệm hóa. Để thực hiện HV hỏi, người bản ngữ tạo ra một
số khuôn mẫu lời nói nhất định. Có thể xem câu hỏi như một phạm trù tri nhận gồm
có nhiều tiểu loại phạm trù khác nhau. Mỗi phạm trù có một điển dạng và các hiện
tượng mờ mà các hiện tượng mờ này rất dễ trở thành thành viên cho các phạm trù
khác.
Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày những lý luận như mối quan hệ
giữa ngôn ngữ và lời nói, lý thuyết CTTT và mối quan hệ giữa CTTT với câu hỏi,
cấu trúc câu hỏi tương thích, … làm cơ sở cho việc triển khai nội dung khảo sát là
đặc điểm câu hỏi tiếng Việt ở hai đích ngữ dụng thu nhận và truyền đạt TT dưới
góc nhìn của lý thuyết TT. Trong luận án, chúng tôi một mặt vẫn đặt đối tượng
khảo sát của mình trong mối quan hệ với những thành tựu chung của ngôn ngữ học



hiện đại nhưng mặt khác giải pháp cho đề tài luận án là theo định hướng của ngữ
pháp chức năng.

1.1. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ LỜI NÓI, GIỮA CÂU VÀ
PHÁT NGÔN
Chúng tôi lấy việc giải quyết mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói, giữa câu
và phát ngôn làm cơ sở lý thuyết chung là vì đối tượng nghiên cứu của đề tài vừa là
câu (thuộc hệ thống, ngôn ngữ) vừa là phát ngôn (thuộc thành phẩm, lời nói). Hai
yếu tố này, trong một thời gian dài (ở thời kỳ tiền ngữ pháp chức năng), được phân
chia thứ bậc và ranh giới xác định trong ngôn ngữ học: ngôn ngữ là đối tượng
chính, đối tượng duy nhất, đích thực; lời nói là bộ phận ngoại vi. Phải đến khi ngữ
pháp chức năng ra đời, cùng với nó là sự xuất hiện của khuynh hướng ngữ dụng
học, thì mối quan hệ mang tính logic hệ thống- sản phẩm này mới được giải quyết
thỏa đáng, như Cao Xuân Hạo từng nói “Lời nói là sự hiện thực hóa ngôn ngữ, là
ngôn từ trong hoạt động thực sự của nó. Trong toàn bộ những sách vở và những
phát ngôn về ngôn ngữ không thể có lấy một nhận định nào, một ý kiến nào có liên
quan đến ngôn ngữ mà không được rút ra từ một câu nói cụ thể” [61, tr.26]. Cho
đến nay thì phần lớn các nghiên cứu về ngôn ngữ đều hướng vào lời nói, dùng
thành tựu của lời nói để soi sáng đặc điểm ngôn ngữ.
Theo J.Lyons (2006), việc phân biệt giữa ngôn ngữ và lời nói, mà sau đó là
những ảnh hưởng sâu sắc đến ngành ngôn ngữ học, có lẽ bắt đầu từ tính nước đôi
về quy loại (categorially ambivalent) xét theo đặc trưng ngữ nghĩa quan yếu về số
tính (countability) của từ “language” trong tiếng Anh “Biểu thức chứa nó có thể
dùng để chỉ không phải là tập hợp các ngôn ngữ mà mỗi thành viên là (hoặc có thể
miêu tả như là) một hệ thống của các từ và các quy tắc ngữ pháp, mà là để chỉ
những sản phẩm (cái được sử dụng) ở dạng nói hay dạng viết của một tập hợp các
hệ thống cụ thể” [87, tr.36]. Để làm giảm sự mơ hồ và lẫn lộn về tính lưỡng nghĩa
hệ thống – sản phẩm này, một số nhà ngôn ngữ học đã đặt ra các thuật ngữ để thay
thế, F.d.Saussure (1916) với ngôn ngữ và lời nói, N.Chomsky (1965) với ngữ năng
và ngữ thi, J.Lyons (1977) với hệ thống và sản phẩm, .v.v. Dĩ nhiên, các thuật ngữ

này không có sự trùng khớp hoàn toàn về nội hàm và ngoại diên.


×