Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

chính sách của vua minh mạng đối với các dân tộc thiểu số ở miền trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.85 MB, 167 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thanh Hòa

CHÍNH SÁCH CỦA VUA MINH MẠNG
ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
MIỀN TRUNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thanh Hòa

CHÍNH SÁCH CỦA VUA MINH MẠNG
ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
MIỀN TRUNG
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ HUỲNH HOA

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ
từ phía nhà trường, thầy cô, đơn vị công tác, đồng nghiệp, bạn bè và người thân.
Lời đầu tiên, tôi xin được tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Lê Huỳnh Hoa,
người đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và động viên tôi trong suốt thời gian thực
hiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô khoa Lịch sử trường đại học Sư Phạm
thành phố Hồ Chí Minh, trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn và GS. Nguyễn
Phan Quang đã truyền đạt những kiến thức, những kinh nghiệm thực tiễn cũng như
những ý kiến quý báu để tôi có thể hoàn thiện luận văn của mình.
Xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô, các anh chị đang công tác tại phòng Sau
đại học và Thư viện trường đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh, thư viện Khoa
học tổng hợp đã hỗ trợ và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thu thập tài liệu để
thực hiện luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn trường Trung học phổ thông Phan Bội Châu (Cam
Ranh - Khánh Hòa), gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã hỗ trợ, động viên tôi học tập,
công tác và hoàn thành luận văn.

Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thanh Hòa


3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả được trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong

bất kì công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Hòa


4

MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng, chữ viết tắt
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 7
1.

Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 7

2.

Mục đích nghiên cứu vấn đề.............................................................................................. 7

3.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề và nguồn sử liệu ..................................................................... 8

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 15


5.

Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 15

6.

Đóng góp của đề tài ......................................................................................................... 16

7.

Bố cục luận văn ............................................................................................................... 16

PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................................. 17
CHƯƠNG 1 ............................................................................................................................ 17
TỔNG QUAN VỀ TRIỀU NGUYỄN VÀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC THIỂU SỐ TRƯỚC KHI
VUA MINH MẠNG LÊN NGÔI ........................................................................................... 17
1.1. Sự thành lập triều Nguyễn ............................................................................................... 17
1.1.1. Hoàn cảnh quốc tế và khu vực .................................................................................. 17
1.1.2. Sự thành lập triều Nguyễn và tình hình Việt Nam thời Gia Long ............................ 19
1.2. Những nét chính về thân thế và sự nghiệp của vua Minh Mạng ..................................... 23
1.2.1. Thân thế và tư tưởng của vua Minh Mạng ................................................................ 23
1.2.2. Sự nghiệp của vua Minh Mạng ................................................................................. 29
1.2.2.1. Công cuộc cải cách hành chính .......................................................................... 30
1.2.2.2. Việc tuyển chọn quan lại .................................................................................... 38
1.2.2.3. Những thay đổi về quân đội và luật pháp ........................................................... 40
1.2.2.4. Phát triển kinh tế ................................................................................................. 41
1.2.2.5. Mở mang văn hóa - giáo dục .............................................................................. 44
1.2.2.6. Quan hệ đối ngoại ............................................................................................... 46
1.3. Vấn đề dân tộc thiểu số trước và trong thời Gia Long..................................................... 49

1.3.1. Từ thế kỉ XI đến trước năm 1802 .............................................................................. 49
1.3.2. Vấn đề dân tộc thiểu số thời Gia Long ...................................................................... 54
CHƯƠNG 2 ............................................................................................................................ 59


5

MIỀN TRUNG VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA VUA MINH MẠNG (TỪ
NĂM 1820 ĐẾN NĂM 1840) ................................................................................................ 59
2.1. Vùng đất miền Trung dưới thời Nguyễn.......................................................................... 59
2.1.1. Thiên nhiên và dân cư ............................................................................................... 59
2.1.2. Kinh tế - Văn hóa ...................................................................................................... 61
2.2. Khái quát chính sách dân tộc của vua Minh Mạng ở miền Bắc và miền Nam ................ 66
2.2.1. Chính sách dân tộc của vua Minh Mạng ở miền Bắc................................................ 66
2.2.2. Chính sách dân tộc của vua Minh Mạng ở miền Nam .............................................. 72
2.3. Chính sách dân tộc của vua Minh Mạng ở miền Trung ................................................... 74
2.3.1. Chính sách đối với Thuộc Man ................................................................................. 74
2.3.1.1. Phủ dụ và cai quản Thuộc Man .......................................................................... 74
2.3.1.2. Những qui định về thuế khóa và tiến cống ......................................................... 81
2.3.1.3. Phổ biến văn hóa người Kinh cho các dân Thuộc Man ...................................... 85
2.3.2. Những chính sách đối với Thuộc quốc (Thủy Xá và Hỏa Xá).................................. 89
2.3.2.1. Định lệ ban thưởng và tiến cống......................................................................... 91
2.3.2.2. Ban mũ áo, tên họ và đào tạo thông dịch viên, tiến tới đồng hóa văn hóa Thuộc
quốc ................................................................................................................................. 94
2.3.3. Chính sách của vua Minh Mạng đối với người Hoa ở miền Trung .......................... 96
2.3.3.1. Các qui định về nhập cảnh, cư trú và chuyển đổi quốc tịch ............................... 97
2.3.3.2. Những ưu đãi và cấm đoán về kinh tế ................................................................ 99
2.3.3.3. Những chính sách về văn hóa - xã hội.............................................................. 102
CHƯƠNG 3 .......................................................................................................................... 106
ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

Ở MIỀN TRUNG DƯỚI THỜI MINH MẠNG ................................................................... 106
3.1. Đặc điểm ........................................................................................................................ 106
3.2. Tác động......................................................................................................................... 112
3.1.1. Giữ yên biên giới và mở rộng lãnh thổ ................................................................... 112
3.1.2. Mở rộng giao lưu kinh tế giữa các dân tộc .............................................................. 115
3.1.3. Mở rộng giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ............................................................ 121
3.1.4. Phong trào đấu tranh của các dân tộc thiểu số dâng cao ......................................... 133
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................... 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................... 145
PHỤ LỤC.............................................................................................................................. 151


6

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Thống kê những loại thuế các dân tộc thiểu số tỉnh Khánh Hòa phải đóng
hằng năm dưới triều Nguyễn………………………………………………………82

CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Hội điển:

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ


7

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
 Lý do khoa học
Chính sách đối với các dân tộc thiểu số là một chính sách lớn và quan trọng

của mọi nhà nước trong lịch sử Việt Nam. Cũng như các triều đại trước, ngay sau khi
nhà Nguyễn được thành lập (năm 1802), vua Gia Long đã quan tâm đến vấn đề dân
tộc thiểu số. Tuy nhiên, vua Gia Long chủ yếu quan tâm đến các dân tộc thiểu số ở
phía Bắc vì đây vừa là khu vực tiếp giáp với biên giới Việt - Trung, vừa là địa bàn
hoạt động của các lực lượng nổi dậy chống lại triều Nguyễn.
Sang thời Minh Mạng, vấn đề dân tộc được chú trọng hơn và mở rộng trên
phạm vi cả nước, đặc biệt đối với khu vực miền Trung - một địa bàn cư trú của nhiều
dân tộc thiểu số và cả những nước nhỏ tồn tại riêng biệt với chính quyền trung ương.
Đây là điều ảnh hưởng đến sự thống nhất quốc gia cũng như công cuộc cai trị của
triều Nguyễn, nhất là đối với cuộc cải cách hành chính dưới thời Minh Mạng.
Trước tình hình đó, vua Minh Mạng đã có những chủ trương và biện pháp gì
để giải quyết vấn đề dân tộc thiểu số trên cả nước, đặc biệt là đối với khu vực miền
Trung; kết quả ra sao và nó tác động như thế nào đến kinh tế - văn hóa - xã hội của
khu vực này? Đó là lí do thúc đẩy tôi nghiên cứu đề tài “ Chính sách của vua Minh
Mạng đối với các dân tộc thiểu số ở miền Trung”.
 Lý do thực tiễn
Việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần đánh giá về triều Nguyễn trên nhiều
mặt, đặc biệt là chính sách dân tộc dưới thời Minh Mạng. Đồng thời giúp ích cho quá
trình giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường trung học phổ thông.

2. Mục đích nghiên cứu vấn đề
-

Phục dựng lại có hệ thống những chính sách của vua Minh Mạng đối với
các dân tộc thiểu số ở miền Trung.

-

Rút ra được những điểm tiến bộ và hạn chế trong các chính sách này.


-

Trên cơ sở đó có nhận thức đúng đắn và khách quan hơn về triều Nguyễn.


8

-

Đồng thời rút ra những bài học bổ ích cho công tác xây dựng và thực hiện
chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay.

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề và nguồn sử liệu
 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua tham khảo thư mục về triều Nguyễn, đặc biệt là về chính sách của triều
Nguyễn đối với các dân tộc thiểu số ở miền Trung, có một số công trình liên quan đến
đề tài đã được công bố như sau:
-

Công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam và Chánh sách cai trị

các sắc dân thiểu số dưới triều Nguyễn của tác giả Nguyễn Ngọc Du, là
Luận án Phó tiến sĩ được tác giả hoàn thành vào năm 1970 ở Học viện Quốc
gia Hành chánh. Trong công trình, tác giả đã dựng lại một cách khái quát công
cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam và chính sách của các vua Nguyễn đối
với các dân tộc thiểu số. Sự gợi mở của tác giả trong các chính sách này là cơ
sở để tác giả luận văn tiếp tục nghiên cứu đề tài của mình.
-

Miền Thượng cao nguyên của Cửu Long Giang - Toan Ánh, xuất bản


năm 1974 ở Sài Gòn. Tác phẩm có ba phần: trình bày về vùng đất Tây Nguyên
trên các mặt tự nhiên, địa lý, dân cư, lịch sử và văn hóa. Trong chương thứ Ba
của phần thứ nhất, tác giả có đề cập đến lịch sử miền Thượng từ thời nguyên
thủy đến sau cách mạng Tháng Tám, sự ra đời của hai vương quốc Thủy Xá và
Hỏa Xá cũng như chính sách của các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt
là triều Nguyễn đối với vùng đất này.
-

Thư tịch cổ Việt Nam viết về Chiêm Thành, Thủy Xá - Hỏa Xá,

Miến Điện, Chà Và do Nguyễn Lệ Thi sưu tập và được in năm 1978 tại Hà
Nội. Đây là công trình tập hợp những tư liệu thư tịch cổ Việt Nam viết về các
nước Đông Nam Á. Mặc dù không phải là tài liệu gốc nhưng công trình có thể
rút ngắn thời gian tìm kiếm cho người nghiên cứu và giúp công tác tra cứu tư
liệu cổ được dễ dàng hơn.
-

Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt

Nam (Thế kỉ X - XIX) của tác giả Phan Hữu Dật và Lâm Bá Nam do nhà xuất


9

bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2001. Nội dung chủ yếu của sách đề cập
đến chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam.
Trong phần triều Nguyễn, các tác giả có đề cập đến chính sách của vua Minh
Mạng đối với các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
-


Chính sách của các vương triều Việt Nam đối với người Hoa của tác

giả Huỳnh Ngọc Đáng. Đây là luận án Tiến sĩ lịch sử được bảo vệ tại trường
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn năm 2005. Công trình đề cập khá hệ
thống và chi tiết về chính sách của các vương triều Việt Nam đối với người
Hoa. Trong đó có chính sách của các vua Nguyễn đối với thành phần dân tộc
này. Những khái niệm về người Hoa mà tác giả Huỳnh Ngọc Đáng đưa ra
trong luận án giúp người đọc hiểu thêm về nguồn gốc người Hoa ở Việt Nam
và phần nào giải thích được sự khác nhau trong chính sách của triều Nguyễn
đối với các nhóm người Hoa ở Việt Nam.
-

Tây Nguyên những chặng đường lịch sử văn hóa của tác giả Nguyễn

Tuấn Triết được nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 2007. Tác phẩm
bao gồm 7 chương đề cập đến địa lí, lịch sử và văn hóa của vùng đất Tây
Nguyên từ trước công nguyên cho đến sau cách mạng Tháng Tám. Trong đó
có chương IV: Tây Nguyên từ thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XIX, có một phần
cung cấp những chính sách của các vua Nguyễn đối với vùng đất này. Tuy
vậy, phần nói về triều Nguyễn không nhiều và không sâu nên người đọc khó
nắm bắt.
-

Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam (thế kỉ XI

- đến giữa thế kỉ XIX) của Tiến sĩ Đàm Thị Uyên được nhà xuất bản Văn hóa
Dân tộc xuất bản năm 2007. Trong chương hai, tác giả đã trình bày khái quát
chính sách của các vương triều phong kiến Việt Nam đối với các dân tộc thiểu
số. Trong đó phần V của chương II có trình bày về chính sách của triều

Nguyễn đối với các dân tộc thiểu số. Từ đó cũng đưa ra những nhận xét về
những chính sách này.
-

Rừng người Thượng (Les Jungles Moi) của Herri Matre. Maitre là một

nhà thám hiểm người Pháp. Dưới sự tài trợ của chính phủ Bảo hộ (thời gian
Pháp cai trị Đông Dương), ông đã thực hiện cuộc thám hiểm vào rừng Trường


10

Sơn và Tây Nguyên trong những năm cuối thế kỉ XIX. Trong chuyến thám
hiểm của mình, ông đã ghi chép lại khá tỉ mỉ về rừng núi và những dân tộc
sống ở Trường Sơn - Tây Nguyên. Năm 1912, tác phẩm Les Jungles Moi được
công bố ở Pháp, đây là “công trình lịch sử - dân tộc đầu tiên được viết về vùng
cao nguyên Việt Nam, Cambodge và Lào. Công trình “Những người con của
núi” (Sons of the Mountains) của Gerald Cannon Hickey xuất bản năm 1982,
được giới phê bình Hoa Kỳ hoan nghênh đều dựa nhiều vào nội dung và
phương pháp của Henrri Maitre. Năm 2008, tác phẩm Les Jungles Moi được
tác giả Lưu Đình Tuân dịch sang tiếng Việt và được hiệu đính bởi nhà văn
Nguyên Ngọc. Bên cạnh những hạn chế về mặt tư tưởng, thời đại, tác phẩm
Les Jungles Moi thực sự là một công trình khoa học có giá trị lớn về mặt lịch
sử, đặc biệt đối với việc nghiên cứu về lịch sử - kinh tế - văn hóa các dân tộc
thiểu số ở Trường Sơn - Tây Nguyên.
-

Dân tộc và chính sách dân tộc ở Việt Nam của tác giả Lê Đại Nghĩa

và Dương Văn Lượng được nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản năm

2010. Tác phẩm này bao gồm 9 chương. Trong chương hai: Dân tộc Việt Nam
và chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam, tác giả đã đề cập
đến chính sách của triều Nguyễn đối với các dân tộc thiểu số. Tuy vậy phần đề
cập này còn quá ít ỏi, chưa đủ để hình dung hết các chính sách dân tộc dưới
triều Nguyễn.
 CÁC BÀI VIẾT
-

“Chính sách đối với các dân tộc ít người của nhà Nguyễn thời Minh

Mạng (1820 - 1840)” của tác giả Phan An được in trong Những vấn đề văn
hóa - xã hội thời Nguyễn vào năm 1992. Trong bài viết, tác giả đã khái quát
tình hình các dân tộc và chính sách dân tộc dưới thời vua Minh Mạng. Đồng
thời, bài viết cũng đưa ra những nhận xét, đánh giá về chính sách dân tộc của
vua Minh Mạng. Những gợi mở của tác giả trong bài viết là cơ sở ban đầu định
hướng cho việc xây dựng đề tài “Chính sách của vua Minh Mạng đối với các
dân tộc thiểu số ở miền Trung”.
-

“Chính sách đối với các dân tộc ít người ở miền núi của nhà

Nguyễn (1802 - 1863)” của tác giả Nguyễn Văn Diệu được in trong Những


11

vấn đề văn hóa - xã hội thời Nguyễn năm 1992. Bên cạnh việc khái quát những
điểm tiến bộ trong chính sách đối với các dân tộc ít người dưới triều Nguyễn,
tác giả còn chỉ ra một số nguồn tư liệu gốc phục vụ cho công tác nghiên cứu về
chính sách dân tộc dưới triều Nguyễn.

-

“Chính sách đối với dân tộc thiểu số của triều Nguyễn nửa đầu thế

kỉ XIX” của tác giả Nguyễn Minh Tường được in trong tạp chí Nghiên cứu
lịch sử năm 1993. Bài viết này đã trình bày khá đầy đủ về chính sách dân tộc
của triều Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX, đặc biệt là chính sách đối với các dân
tộc thiểu số ở phía Bắc và phía Nam Việt Nam. Còn ở miền Trung, phần trình
bày của tác giả khá sơ lược. Đó là một trong những nguyên nhân thúc đẩy tôi
tìm hiểu về chính sách dân tộc của triều Nguyễn, cụ thể là của vua Minh Mạng
đối với khu vực này.
-

“Triều Nguyễn với các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam thế

kỉ XIX” của tác giả Châu Hải được in trong Những vấn đề lịch sử và văn
chương triều Nguyễn do Trần Hữu Duy và Nguyễn Phong Nam chủ biên, xuất
bản năm 1997 bởi nhà xuất bản Giáo dục. Trong bài viết, tác giả đề cập khá hệ
thống về chính sách của triều Nguyễn đối với các nhóm người Hoa ở Việt
Nam, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như hành chính, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Mặc dù chỉ dừng lại ở mức độ khái quát nhưng những gợi mở của tác giả
trong bài viết này giúp người đọc có cái nhìn toàn diện hơn về chính sách của
triều Nguyễn đối với các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
-

“Tĩnh man trường lũy” và những cuộc nổi dậy của “Thạch Bích

Man” dưới triều Nguyễn” của Nguyễn Hữu Thông, Nguyễn Phước Bảo Đàn
được đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử năm 2001. Bài viết giới thiệu khá
chi tiết về tổ chức hành chính ở Trường lũy Quảng Ngãi và những cuộc nổi

dậy của các dân tộc thiểu số ở núi Đá Vách. Đồng thời tác giả cũng đưa ra
những nhận xét khá chân thực về công trình Trường lũy cũng như về chính
sách của triều Nguyễn đối với các dân tộc thiểu số ở khu vực này.
-

“Tây Nguyên dưới thời Nguyễn” của Phan Văn Bé, được in trong Lịch

sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới do Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm thành
phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2005. Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến


12

tình hình các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên từ thời các chúa Nguyễn đến thời
các vua Nguyễn. Trong đó có phần đề cập đến sự tham gia của các đồng bào
dân tộc ở Tây Nguyên trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Đồng thời, tác giả cũng
đưa ra những gợi mở cho công tác nghiên cứu chính sách cai trị của các vua
Nguyễn đối với vùng đất này.
-

“Chính sách giáo dục của nhà Nguyễn đối với các dân tộc ít người ở

Việt Nam vào nửa đầu thế kỉ XIX” của tác giả Phạm Thị Ái Phương được
đăng trên tạp chí Dân Tộc học số 3 năm 2005. Bài viết đề cập khá hệ thống và
chi tiết chính sách giáo dục của triều Nguyễn đối với các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX. Trong bài viết, tác giả cũng đưa ra những nhận
xét khách quan về thành công cũng như hạn chế của chính sách giáo dục được
thi hành dưới triều Nguyễn.
-


“Quan hệ Việt Nam - Khu vực Bắc Tây Nguyên trước thế kỉ XIX”

của tác giả Vũ Ngọc Bình được in trong Kỷ yếu Hội thảo Nam bộ và Nam
Trung bộ - Những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII - XIX năm 2005. Trong bài viết,
tác giả đã đề cập khái quát về quan hệ của Việt Nam với khu vực Bắc Tây
Nguyên từ thời các chúa Nguyễn cho đến đầu thời Nguyễn. Đặc biệt là quan
hệ giữa triều Nguyễn với Thủy Xá và Hỏa Xá giúp cho người đọc có thể hình
dung một phần chính sách của triều Nguyễn đối với các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên.
-

“Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn với các dân tộc thiểu số ở

miền Nam nước ta” của hai tác giả Phan Hữu Dật và Lâm Bá Nam được in
trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong
lịch sử Việt Nam” năm 2008. Bài viết đề cập đến quá trình mở mang lãnh thổ
về phương Nam của người Việt và chính sách của họ Nguyễn đối với các dân
tộc thiểu số ở miền Trung. Sách cung cấp cho người đọc cái nhìn khách quan
và chân thực hơn về vai trò của các chúa Nguyễn và vua Nguyễn trong lịch sử
Việt Nam.
-

“Chính sách “giáo hóa” của triều Nguyễn đối với vùng núi miền

Trung (1802 - 1883)” của tác giả Bùi Tiến Huân được in trong Tạp chí Khoa
học xã hội và Nhân văn trường đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh năm


13


2011. Bài viết trình bày khái quát về chính sách “giáo hóa” của triều Nguyễn
tại vùng núi miền Trung và chỉ ra những thành công cũng như hạn chế của
chính sách này. Tuy nhiên, phần đưa ra dẫn chứng còn thiếu chính xác vì
những người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận sống chủ yếu ở đồng bằng
chứ không phải ở vùng núi.
Tóm lại, những công trình trên đều đề cập ít nhiều đến tình hình miền Trung
dưới thời Nguyễn cũng như chính sách dân tộc của triều Nguyễn đối với khu vực này.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể và hệ thống về chính sách dân
tộc của vua Minh Mạng đối với khu vực miền Trung. Điều đó đã thúc đẩy tôi nghiên
cứu đề tài “Chính sách của vua Minh Mạng đối với các dân tộc thiểu số ở miền
Trung”.
 Nguồn sử liệu
Nguồn tư liệu chính được khai thác phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài là các
bộ sử của nhà Nguyễn, bao gồm:
-

Đại Nam thực lục do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Đây là bộ

sử được biên soạn trong vòng 88 năm (1821 - 1909) mới hoàn thành. Sách
gồm hai phần: Tiền biên và Chính biên. Phần được sử dụng chủ yếu để nghiên
cứu đề tài này thuộc phần Chính biên Đệ nhị kỷ, thực lục về Thánh Tổ Nhân
Hoàng đế (tức Vua Minh Mạng).
-

Minh Mệnh chính yếu do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, gồm

26 quyển, chia làm 22 thiên, ghi chép những chỉ dụ, những việc làm chủ yếu
dưới triều vua Minh Mạng từ chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục cho đến ngoại
giao. Đây là một trong những tư liệu chính được khai thác để nghiên cứu đề
tài. Đặc biệt, phần liên quan đến chính sách dân tộc của vua Minh Mạng thuộc

phần Phủ biên và Nhu viễn.
-

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách do Nội các triều

Nguyễn biên soạn theo thể Hội điển. Thể loại này được đặt ra nhằm ghi chép
các loại điển pháp, quy chuẩn và các dữ kiện liên quan đến tổ chức và hoạt
động của một triều đại, một nhà nước. Bộ sử này được biên soạn vào giữa thế
kỉ XIX, ghi chép lại đầy đủ các chiếu chỉ, các tấu sớ, phiếu dụ của triều đình


14

nhà Nguyễn về các việc đem ra thi hành, nhiều khi sửa đổi các lệ cũ thuộc cả
sáu bộ và các ty. Bộ sử này bao gồm 262 quyển. Nội dung được khai thác chủ
yếu để phục vụ đề tài thuộc phần Nhu viễn, bao gồm từ quyển 133 đến 136.
-

Phủ man tạp lục của Ôn Khê Nguyễn Tử Vân. Sách này được các tác

giả Lê Sơn Phương Ngọc, Nguyễn Hữu Quý, Hoài Chi Hạ Miễn dịch sang
tiếng Việt với nhan đề “Trường lũy Quảng Ngãi”. “Phủ man tạp lục” (ghi
chép về chuyện phủ dụ người Thượng) là tập sách ghi lại những hiểu biết và
các hoạt động của Nguyễn Tử Vân với tư cách của một viên quan triều đình
nhà Nguyễn được phái đi chiêu dụ các dân tộc ít người ở miền thượng du
Trung Bộ, mà chủ yếu là vùng phía Tây Quảng Ngãi (nay thuộc một phần
Trường Sơn - Tây Nguyên). Nguyễn Tử Vân nghiên cứu về người Thượng
Quảng Ngãi tương đối kỹ, tác phẩm Phủ Man tạp lục của ông đề cập đến: núi
sông, cương vực, đường sá, thổ nghi, ngôn ngữ, phong tục của người Thượng
Quảng Ngãi, cũng như vấn đề thuế má, sách lược cai trị, phương cách phòng

ngừa, hình hình kiến thiết Trường lũy qua các triều vua, các vị tướng nổi tiếng
trong công tác người Thượng tại Quảng Ngãi.
Bên cạnh những hạn chế bởi tư tưởng phong kiến, những ghi chép trong
sách Phủ man tạp lục có giá trị như những tài liệu quí giá, hoặc tài liệu “gốc”,
đóng góp thiết thực cho công tác nghiên cứu về lịch sử và các dân tộc miền
Trung, Tây Nguyên.
-

Bản triều bạn nghịch liệt truyện của Kiều Oánh Mậu được Trần Khải

Văn biên dịch và được xuất bản ở Sài Gòn năm 1963. Sách ghi lại những việc
phản nghịch chống triều đình và mọi cuộc xung đột giữa Việt Nam với các
nước lân cận từ khi vua Gia Long lên ngôi cho đến gần cuối thế kỉ XIX (1882 1885). Trong tác phẩm, tác giả đề cập đến những cuộc khởi nghĩa nổ ra dưới
thời Minh Mạng. Mặc dù phần lớn nội dung trình bày theo thể biên niên và ảnh
hưởng khá nặng của tư tưởng phong kiến nhưng công trình vẫn là một tư liệu
đáng tin cậy, có giá trị lớn phục vụ cho việc nghiên cứu về triều Nguyễn.
-

Đai Nam chính biên liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn. Đây

là công trình ghi chép lại những câu chuyện về các vua, hoàng tử, hậu cung,
chuyện các quan, các trung thần và nghịch thần của triều Nguyễn. Trong đó có


15

đề cập đến các vị đại thần từng cai quản khu vực miền Trung cũng như các thủ
lĩnh dân tộc ít người, thủ lĩnh các cuộc nổi dậy chống lại nhà Nguyễn. Ở phần
nước ngoài, sách đề cập đến nước Thủy Xá và Hỏa Xá, là những tư liệu cần
thiết cho công tác nghiên cứu về khu vực miền Trung dưới thời Nguyễn.

Những bộ sử này là nguồn tư liệu gốc, phục vụ đắc lực cho công tác nghiên
cứu về triều Nguyễn nói chung và chính sách dân tộc của vua Minh Mạng nói riêng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đề tài tập trung nghiên cứu về chính sách của vua Minh Mạng đối với

các dân tộc thiểu số ở miền Trung.
-

Thời gian: từ năm 1820 (năm vua Minh Mạng lên ngôi) cho đến hết

năm 1840 (năm vua Minh Mạng qua đời).
-

Không gian: khu vực miền Trung Việt Nam dưới thời Nguyễn, bao gồm

các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Quảng
Nam, Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi), Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình
Thuận và phần cao nguyên của miền Trung, bao gồm hai nước Thủy Xá và
Hỏa Xá.

5. Phương pháp nghiên cứu
Hai phương pháp chính được sử dụng trong đề tài là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic. Hai phương pháp này đã được vận dụng như sau:
-

Thứ nhất, trình bày những chính sách của vua Minh Mạng đối với các


dân tộc thiểu số ở miền Trung theo từng vấn đề và theo trình tự thời gian.
-

Thứ hai, từ những vấn đề đã trình bày, rút ra bản chất của những chính

sách dân tộc được ban hành dưới thời Minh Mạng đối với khu vực miền Trung
và những tác động của nó đối với khu vực này.
Ngoài hai phương pháp trên, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như
phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp. Các phương pháp này được sử dụng trong
quá trình thu thập, xử lý tư liệu cũng như trong việc so sánh các chính sách dân tộc
của vua Minh Mạng đối với vua Gia Long và các thời kì trước đó. Từ đó rút ra những


16

điểm tiến bộ và hạn chế trong chính sách dân tộc được ban hành dưới thời Minh
Mạng.

6. Đóng góp của đề tài
-

Việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần tham gia vào mối quan tâm

nghiên cứu về các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, đặc biệt là các dân tộc thiểu số
ở miền Trung, cụ thể là dưới thời Minh Mạng.
-

Kết quả nghiên cứu của đề tài góp thêm cơ sở khoa học và tư liệu để

nhận thức đầy đủ và khách quan hơn về triều Nguyễn nói chung, triều Minh

Mạng nói riêng trong lịch sử dân tộc.

7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về triều Nguyễn và vấn đề dân tộc thiểu số trước khi vua
Minh Mạng lên ngôi
Chương 2: Miền Trung Việt Nam và chính sách dân tộc của vua Minh Mạng (Từ
năm 1820 đến năm 1840)
Chương 3: Đặc điểm và tác động của chính sách đối với các dân tộc thiểu số ở
miền Trung dưới thời Minh Mạng


17

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TRIỀU NGUYỄN VÀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRƯỚC KHI VUA MINH MẠNG LÊN NGÔI
1.1. Sự thành lập triều Nguyễn
Triều Nguyễn là vương triều được thành lập trong bối cảnh quốc tế và trong
nước có nhiều biến động.
1.1.1. Hoàn cảnh quốc tế và khu vực
Đầu thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển và giành thắng lợi trên phạm vi
toàn thế giới. Châu Âu và Bắc Mỹ đã tiến hành cách mạng tư sản từ thế kỉ XVI và
đến những năm 50 của thế kỉ XIX thì hoàn thành. Chủ nghĩa tư bản trở thành hệ
thống thế giới, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị - có quyền lực vô hạn về
kinh tế. Để phát triển và tăng lợi nhuận về kinh tế, giai cấp tư sản đã tiến hành cải tiến
kỹ thuật, tiến tới thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp từ thế kỉ XVIII đến giữa thế
kỉ XIX, đưa lại những thay đổi lớn lao trong sản xuất. Lao động bằng máy móc ra đời

thay thế cho lao động thủ công bằng chân tay đã đưa năng suất lao động lên cao chưa
từng có.
Thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đã kéo theo sự phát triển của chủ nghĩa thực
dân và hoạt động giao lưu quốc tế. Do những tiến bộ vượt bậc về khoa học kĩ thuật
thời cận đại, giai cấp tư sản phương Tây đã có thể tiến xa hơn trong hành trình tìm
kiếm và khám phá những vùng đất mới. Lợi dụng những thành tựu về phát kiến địa
lý, những tiến bộ về khoa học kỹ thuật - đặc biệt là kỹ thuật hàng hải, giai cấp tư sản
phương Tây đã tăng cường tìm kiếm, xâm lược thuộc địa nhằm đáp ứng cho sự phát
triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản ở chính quốc. Cuộc cách mạng công nghiệp đầu
tiên của chủ nghĩa tư bản trong các thế kỉ XVIII, XIX đã tạo điều kiện cho việc mở
mang đất đai của chủ nghĩa thực dân. Những đế quốc dần hình thành với nhiều vùng
đất, nhiều dân tộc khác nhau. Đồng thời cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên này
cũng tạo điều kiện cho sự giao lưu buôn bán quốc tế được thuận lợi và dễ dàng hơn.


18

Như vậy, vào đầu thế kỉ XIX, các nước tư bản phương Tây đã lớn mạnh và đã
xâm chiếm hầu hết các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ Latinh. Thuộc địa là
nơi cung cấp nguyên liệu, thị trường, nhân công cho chính quốc. Vì vậy có thể nói,
thuộc địa chính là vấn đề sống còn của các nước tư bản. Do tầm quan trọng của thuộc
địa như vậy nên giai cấp tư sản phương Tây đã bất chấp mọi luật lệ, quyền lợi của các
dân tộc phương Đông để xâm nhập vào các nước này.
Vào thế kỉ XIX, hầu hết các quốc gia ở châu Á, Phi và Mĩ Latinh đang ở trong
giai đoạn phát triển của chế độ phong kiến. Một số nước ở châu Phi còn ở trong tình
trạng bộ lạc, thậm chí còn đang tồn tại chế độ cộng sản nguyên thủy. Đầu thế kỉ XIX,
châu Phi đã tự làm suy yếu mình bởi những cuộc xung đột, nội chiến liên miên và trở
thành đối tượng cho tham vọng của các nước tư bản Tây phương.
Cùng với số phận của châu Phi và khu vực Mĩ Latinh. Bước vào thế kỉ XIX,
châu Á đang ở trong giai đoạn phát triển của chế độ phong kiến. Nếu nhìn riêng lẻ

từng quốc gia, có thể thấy có sự phát triển nhất định. Nhưng so với các nước phương
Tây đã tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp thì châu Á có “trình độ phát triển chậm
chạp và kém hơn” [15, tr.16]. Đa số các vương quốc phong kiến châu Á đều có nền
kinh tế nông nghiệp, kĩ thuật canh tác lạc hậu, năng suất lao động thấp, chế độ sở hữu
ruộng đất phong kiến phần nào triệt tiêu động lực sản xuất của người lao động, đời
sống nông dân, nhân dân lao động nói chung vô cùng khổ cực. Công thương nghiệp
cũng chẳng khá hơn. Mọi hoạt động thương mại đều bị trở ngại, chính là do chính
sách bế quan, một chính sách mà hầu như nước châu Á nào cũng áp dụng như một
cách tự vệ của mình trước nguy cơ xâm nhập của chủ nghĩa tư bản phương Tây.
Nhưng hàng rào bế quan của châu Á phong kiến không ngăn được bước chân
của thực dân phương Tây. Từng nước châu Á đã rơi vào ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân. Đông Nam Á cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó. Sau khi tìm được
đường biển sang phương Đông, người châu Âu đã lần lượt đến Đông Nam Á. Năm
1511, Bồ Đào Nha chiếm Malacca, đánh dấu một mốc quan trọng trong việc chinh
phục vùng Đông Nam Á. Năm 1790, Anh chiếm Pênang, mở đầu cho việc xâm chiếm
Malaysia, một năm sau Malaysia lần lượt bị Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh xâm chiếm.
Philippin cũng dần dần bị Tây Ban Nha thôn tính từ giữa thế kỉ XVI. Inđônêxia cũng
bị Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan xâu xé và đến năm 1811, Hà Lan độc chiếm


19

được nước này. Singapo bị Anh chiếm vào năm 1824 và sáp nhập vào lãnh thổ của
Anh. Tại Mianma, thực dân Anh đã tiến hành ba cuộc chiến tranh vào các năm 1824 1826, 1826 - 1853 và 1885 để thôn tính đất nước này. Sau khi chiếm Mianma, Anh
tiếp tục thôn tính Brunei.
Cùng lúc đó, thực dân Pháp cũng tìm mọi cách để thôn tính khu vực Đông
Dương, gồm ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Mặt khác, Việt Nam còn phải
đối mặt với âm mưu bành trướng từ phía Bắc của Trung Quốc cũng như sự quấy
nhiễu của Xiêm ở phía Nam. Tình hình này buộc các vua triều Nguyễn đưa ra những
đối sách phù hợp để vừa giữ ổn định tình hình trong nước cũng như quan hệ đối với

bên ngoài.
1.1.2. Sự thành lập triều Nguyễn và tình hình Việt Nam thời Gia Long
Họ Nguyễn là một dòng họ phong kiến lớn ở huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung
(Thanh Hóa). Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Ông tổ họ Nguyễn là
Nguyễn Kim đã có công tập hợp lực lượng chống nhà Mạc, khôi phục quyền lực cho
nhà Lê. Nhờ vậy, thế lực của họ Nguyễn ngày càng lớn mạnh.
Năm 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc đầu độc chết, con rể là Trịnh
Kiểm thay Nguyễn Kim nắm toàn bộ binh quyền. Với âm mưu thâu tóm quyền lực,
Trịnh Kiểm đã cho người giết hại Nguyễn Uông, con trưởng của Nguyễn Kim. Người
con thứ là Nguyễn Hoàng lo lắng và tìm cách thoát khỏi mối đe dọa đó. Được sự gợi
ý của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hoàng đã nhờ chị (vợ Trịnh Kiểm) xin cho vào
trấn đất Thuận Hóa. Nhận thấy Thuận Hóa đang gặp nhiều khó khăn, Trịnh Kiểm đã
chấp nhận. Trịnh Kiểm cho Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa với ý đồ loại bỏ một cái
gai trước mắt và hi vọng vùng “Ô châu ác địa” sẽ thay mình trừ khử Nguyễn Hoàng.
Nhưng đây là “một nước cờ sai” của Trịnh Kiểm, vùng đất Thuận Hóa đã trở thành
nơi dấy nghiệp của họ Nguyễn và chính nơi đây đã cung cấp tiềm lực cho các chúa
Nguyễn trong những lần đối đầu với quân Trịnh. Có thể nói chính Trịnh Kiểm đã
“cho không Nguyễn Hoàng một vương quốc” [32, tr.15].
Từ đó, con cháu họ Nguyễn thế tập giữ tước quận công do vua Lê ban cho
Nguyễn Hoàng. Về danh nghĩa, con cháu họ Nguyễn vẫn tôn phù vua Lê và chịu sự
khống chế của chúa Trịnh, nhưng trên thực tế hoàn toàn cai quản vùng Thuận -


20

Quảng và nhân dân gọi là chúa Nguyễn. Các chúa Nguyễn một mặt xây dựng hệ
thống thành lũy kiên cố, như lũy Trường Dục, lũy Nhật Lệ (lũy Thầy), lũy Trường Sa,
lũy Trấn Ninh, lũy Sa Phụ để gia tăng phòng thủ, đánh lui các cuộc tiến công của
quân Trịnh, mặt khác mở rộng dần lãnh thổ về phía nam đến tận đồng bằng sông Cửu
Long. Trong gần nửa thế kỷ từ năm 1627 đến 1672, hai bên đánh nhau 7 lần mà

không có kết quả, dân tình quá khổ cực, chán nản, hai họ Trịnh - Nguyễn phải ngừng
chiến, lấy sông Gianh làm ranh giới chia cắt lãnh thổ, phân chia Đàng Trong - Đàng
Ngoài, Đàng Ngoài thuộc quyền cai quản của vua Lê và chúa Trịnh, Đàng Trong
thuộc quyền cai quản của các chúa Nguyễn.
Năm 1777, trước sức mạnh của phong trào Tây Sơn, chính quyền chúa Nguyễn
bị sụp đổ. Chúa Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương bị quân Tây Sơn giết.
Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát, vượt biển trốn ra đảo Thổ Chu. Được sự giúp đỡ của
nước ngoài, Nguyễn Ánh đã nhiều lần đem quân chiếm lại đất Gia Định. Năm 1790,
Nguyễn Ánh làm chủ Gia Định. Năm 1792, Nguyễn Ánh đem quân đánh ra Bình
Thuận, Quy Nhơn. Lợi dụng sự suy yếu của quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh đem quân
tấn công ra Phú Xuân. Tháng 6 - 1801, Phú Xuân rơi vào tay Nguyễn Ánh.
Một năm sau (tháng 6 - 1802), Nguyễn Ánh lên ngôi, đặt niên hiệu là Gia
Long, triều Nguyễn được thành lập. Cuộc tấn công ra Bắc được tiếp tục, Nghệ An,
Thanh Hóa và các trấn phía Bắc rơi vào tay Gia Long. Tháng 7 - 1802, Gia Long xa
giá ra Thăng Long, triều đại Tây Sơn đã bị đánh đổ, đất nước hoàn toàn thuộc về tay
triều Nguyễn.
Sau khi lên ngôi, vua Gia Long ra sức xây dựng và bảo vệ những thành quả
vừa đạt được. Ở trung ương, nhà vua xây dựng chính quyền theo mô hình thời Lê:
đứng đầu là vua, dưới vua có 6 bộ (Lại - Bộ - Lễ - Binh - Hình - Công) và các cơ
quan chuyên môn khác. Ở địa phương, để khắc phục tình trạng bộ máy quản lý còn
yếu kém, vua Gia Long đã chia cả nước làm ba phần là Bắc thành, Gia Định thành và
các Trấn Trực doanh. Nhà vua chỉ cai quản ở các Trấn Trực Doanh, còn Bắc thành và
Gia Định thành thì giao cho các vị Tổng trấn cai quản.
Vì chưa kịp đào tạo đội ngũ văn quan nên hàng ngũ quan lại đầu triều Gia
Long phần lớn là võ quan. Chính đặc điểm này làm cho bộ máy quản lí hành chính
trở nên cứng nhắc, mang tính áp đặt, không linh hoạt trong phát triển kinh tế - xã hội.


21


Ngoài ra, vua Gia Long cũng khuyến khích một số cựu thần nhà Lê ra làm quan
nhưng thực chất cũng chỉ cho giữ chức vụ thừa hành mà thôi. Sự khủng hoảng này
được khắc phục chỉ sau 5 năm triều Nguyễn được thành lập. Năm 1807, kì thi Hương
đầu tiên đã được tổ chức.
Để khôi phục và bảo vệ chính quyền của dòng họ, vua Gia Long đã ý thức xây
dựng một lực lượng quân đội hùng mạnh. Quân lính được chia theo phiên, được trang
bị các loại vũ khí như: gươm, giáo, mã tấu. Ngoài ra còn có súng đại bác, súng tiểu
thương.
Cùng với việc xây dựng bộ máy nhà nước và lực lượng quân đội, vua Gia
Long còn cho biên soạn bộ Hoàng Triều luật lệ (luật Gia Long). Mặc dù tham khảo
luật nhà Lê và nhà Thanh, nhưng luật Gia Long vẫn có “chú ý tới từng chi tiết để qui
định cụ thể hơn, chặt chẽ hơn và có sự cân nhắc để lược bỏ, bổ sung hoặc sửa đổi cho
phù hợp với thực tế tình hình nước ta thời bấy giờ” [65, tr.49].
Về kinh tế - tài chính, vua Gia Long cho lập địa bạ để kiểm kê ruộng đất, lập
đinh bạ để nắm nguồn nhân lực ở các làng. Vua còn cho đào sông, đào kênh, mở
đường nhằm phục vụ cho lợi ích kinh tế và quốc phòng; hệ thống đo lường, tiền tệ
được thống nhất, các loại thuế cũng được qui định lại. Buôn bán với các nước phương
Tây có hạn chế nhưng luồng mậu dịch với Trung Quốc với các nước láng giềng
thường xuyên đã đem lại một nguồn thuế đáng kể.
Về xã hội, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp cả nước, đặc
biệt là ở miền Bắc và một số địa phương ở miền Trung như Nghệ An, Quảng Ngãi,
Bình Định. Mặc dù triều đình đã dùng nhiều biện pháp cả đàn áp lẫn phủ dụ nhưng
chỉ giải quyết được một phần nhỏ, số còn lại vẫn tiếp tục nổi dậy chống lại triều đình.
Những cuộc khởi nghĩa này nổ ra liên tục và kéo dài cho đến giữa thế kỉ XIX.
Văn hóa - giáo dục thời kì này cũng được chú ý phát triển. Các kì thi tuyển
chọn quan lại được tổ chức đều đặn hơn. Nhà vua đã cho lập Văn miếu ở Kinh đô và
nhà thờ Khổng Tử ở các doanh trấn để tỏ lòng trọng Nho học. Quốc tử giám được đặt
ở kinh đô để dạy con các quan và các sĩ tử xuất sắc trong cả nước. Vua còn đặt thêm
chức đốc học ở các trấn, sử dụng các nhân sĩ thời Lê làm đội ngũ thầy giáo. Ngoài ra,
nhà vua còn cho biên soạn bộ “Quốc triều thực lục”, cho lập cơ quan Khâm thiên

giám để theo dõi thời tiết và biên soạn lịch.


22

Về ngoại giao, triều Nguyễn có những chính sách khác nhau với từng đối
tượng. Đối với nhà Thanh, vua Gia Long giữ một thái độ hòa hảo nhằm giữ vững độc
lập và tính chính thống của mình. Tháng 11 - 1802, nhà vua cử phái bộ do Thượng
thư Lê Quang Định dẫn đầu sang Trung Quốc xin phong vương và đặt tên nước là
Nam Việt 1. Nhà vua cũng thường xuyên cho sứ thần sang triều cống nhà Thanh. Việc
làm này đã trở thành quy tắc và kéo dài đến thời Tự Đức. Không chỉ vua Gia Long
mà cả triều Nguyễn nói chung xem Trung Hoa là mẫu mực ở phương Đông nên các
thiết chế về chính trị, tư tưởng, văn hóa… đều được học tập và tổ chức.
Đối với các nước láng giềng như Ai Lao, Chân Lạp và Xiêm La, vua Gia Long
thực hiện chính sách ngoại giao nước lớn, tìm cách phát triển thế lực, tranh giành ảnh
hưởng ở Ai Lao và Chân Lạp, gây ra những vụ tranh chấp với Xiêm.
Với các nước phương Tây, trong bối cảnh các nước phương Tây đang tăng
cường tấn công vào các nước Đông Nam Á, vua Gia Long đã tìm cách tránh né mối
quan hệ chính thức với các nước này. Nhà vua đã chủ trương một đường lối đối ngoại
“khép kín”, mang tính chất “không phương Tây”. Tuy nhiên, dưới triều Gia Long,
quan hệ với các nước phương Tây chưa bị cắt đứt như các triều vua sau.
Bên cạnh đó, còn một vấn đề gắn chặt với các nước phương Tây mà đặc biệt là
Pháp, đó là vấn đề đạo Thiên Chúa. Dưới thời Gia Long, đạo Thiên Chúa vẫn hoạt
động bình thường. Tuy nhiên, nhà vua luôn giữ thái độ dè chừng đối với các giáo sĩ.
Vì hơn ai hết, ông sớm thấy rõ mối liên hệ mật thiết giữa những người này với các
chính phủ thực dân.
Điểm qua quá trình thành lập triều Nguyễn và tình hình Việt Nam dưới thời
Gia Long không chỉ giúp có cái nhìn bao quát hơn về bối cảnh lịch sử trước khi Minh
Mạng lên ngôi mà còn xem nó tác động như thế nào khi Minh Mạng lên nắm quyền.
Nhìn chung, vua Minh Mạng đã được thừa hưởng từ vua cha nhiều thuận lợi

nhưng cũng không ít khó khăn. Vua Gia Long là vị vua có vai trò rất lớn trong việc
khôi phục cơ đồ của dòng họ Nguyễn. Lần đầu tiên trong lịch sử, ông đã cai trị một
đất nước trải rộng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, làm cho nước ta lúc bấy giờ trở
thành “một nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy” [29, tr.416].
1

Vì sợ trùng tên với nước Nam Việt của Triệu Đà nên vua Thanh đã cho đổi quốc hiệu Nam Việt thành Việt

Nam. Nước ta có tên là Việt Nam từ lúc đó.


23

Nhà vua bước đầu tổ chức chính quyền, quân đội, pháp luật, kinh tế, văn hóa, giáo
dục, ngoại giao làm nền tảng cho các thời kì sau.
Nhưng bên cạnh đó, những khó khăn mà vua Gia Long để lại cho vua Minh
Mạng cũng hết sức nặng nề. Đó là một tổ chức nhà nước chưa thống nhất, tình trạng
phân quyền ở cấp thành đã hạn chế sự quản lí tập trung của triều đình trung ương;
thêm vào đó là chính sách đối ngoại với các nước phương Tây, đặc biệt là Pháp đã
gây nên một sức ép khiến vua Minh Mạng có phần hơi vội vã trong việc cự tuyệt với
Pháp và cấm đoán đạo Thiên Chúa một cách gắt gao. Đặc biệt là những mâu thuẫn xã
hội không được giải quyết triệt để đã làm bùng nổ thêm ngọn lửa phản kháng của
nhân dân. Chính điều này đã làm giảm sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc khi đối
đầu với giặc ngoại xâm.
Tóm lại, tình hình quốc tế và trong nước trước khi Minh Mạng lên ngôi thực
sự rất khó khăn. Điều này đòi hỏi ông phải đưa ra những chính sách đối nội, đối ngoại
đúng đắn và kịp thời để vừa giải quyết những mâu thuấn xã hội, vừa giữ vững độc lập
và ngai vàng của dòng họ. Liệu vua Minh Mạng có hoàn thành được trách nhiệm
nặng nề này hay không? Việc tìm hiểu khái quát về thân thế và sự nghiệp của vua
Minh Mạng sẽ giúp làm rõ vấn đề này.


1.2. Những nét chính về thân thế và sự nghiệp của vua Minh Mạng
1.2.1. Thân thế và tư tưởng của vua Minh Mạng
Vua Minh Mạng sinh ngày 25 tháng 5 năm 1791 tại làng Tân Lộc (Gia Định),
tên húy là Phúc Đảm, còn có tên là Hiệu. Ông là con trai thứ tư của vua Gia Long,
anh em cùng cha khác mẹ với Hoàng tử Phúc Cảnh. Mẹ của ông là Trần Thị Đang,
con gái của Thọ quốc công Trần Hưng Đạt (tham tri bộ Lễ thời Gia Long), quê ở
Hương Trà, phủ Thừa Thiên.
Khi Phúc Đảm bước vào tuổi đi học, Nguyễn Ánh đã làm chủ toàn vùng Gia
Định. So với ba người anh của mình, Phúc Đảm có điều kiện ăn học đến nơi đến chốn
hơn. Thầy dạy của Phúc Đảm là Đặng Đức Siêu, một Nho sĩ nổi tiếng được bổ vào
Hàn lâm viện, sau đó làm thượng thư bộ Lễ dưới thời Gia Long. Đây là người chịu
ảnh hưởng của tư tưởng Minh Nho nên khá cởi mở, không bị giam hãm trong những
tín điều của Tống Nho. Tư tưởng của ông có ảnh hưởng lớn tới Hoàng tử Đảm - vua


24

Minh Mạng sau này. Vua Minh Mạng thường nói với các cận thần rằng: “Thượng thư
bộ Lễ Đặng Đức Siêu, trước đã phụng mệnh Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta, dạy
ta đọc sách, mấy năm dẫn dụ hiểu biết được nhiều, thực là không thẹn với chức phận”
[58, tr.113].
Khi còn là Hoàng tử và ngay cả lúc là Hoàng thái tử, Nguyễn Phúc Đảm luôn
hiểu rõ chức trách của mình. Ông từng có ý thức chuẩn bị, bồi dường tài năng để sẵn
sàng gánh vác trách nhiệm lớn. Vì vậy, ông luôn cần mẫn đọc nhiều sách vở, nhất là
các sách dạy về trị quốc, yên dân.
Năm 1820, vua Gia Long qua đời, Hoàng tử Đảm lên nối ngôi, lấy hiệu là
Minh Mệnh (Minh Mạng). Việc chọn Hoàng tử Đảm lên nối ngôi Gia Long là một
quá trình “giằng co” giữa vua Gia Long và các đại thần triều Nguyễn như Nguyễn
Văn Thành và Lê Văn Duyệt. Đến tháng 3 năm 1816, vua Gia Long đã quyết định

chọn Hoàng tử Đảm nối ngôi. Việc vua Gia Long chọn Hoàng tử Đảm nối ngôi không
chỉ xuất phát từ những nguyên nhân thuộc về đối nội mà còn xuất phát từ lý do đối
ngoại, đặc biệt là quan hệ đối với người Pháp.
Vua Gia Long không chọn con Hoàng tử Cảnh vì Hoàng tử Cảnh cùng vợ và
con đều chịu ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo thông qua giám mục Bá Đa Lộc. Đây là
một điều khó chấp nhận đối với một nước quân chủ Nho giáo phương Đông. Mặt
khác, Gia Long vốn là người từng trải nên luôn thận trọng và cảnh giác trước hành
động truyền giáo của các giáo sĩ. Nhà vua linh tính rằng các giáo sĩ không chỉ dừng
lại ở việc truyền đạo. Mặc dù trong thời gian dài, Gia Long đã dựa vào các giáo sĩ
người Pháp để đánh bại Tây Sơn. Nhưng sau khi lên ngôi, nhà vua luôn lo sợ và
muốn rũ bỏ ơn huệ đó. Việc chọn Hoàng tử Đảm là sự chuẩn bị của Gia Long để từng
bước triều đình nhà Nguyễn rời xa người Pháp. Hay nói cách khác là để giải quyết
dứt điểm “món nợ” mà ông đã trót vay của người Pháp. Chính ông cũng từng nói
rằng: “Khi người ta chết mà còn để lại những món nợ trên đời thì chủ nợ thường tìm
đến con mình chứ không phải cháu mình. Vì vậy, Trẫm không thấy sai trái khi chọn
một đứa con mà không chọn một đứa cháu” [47, tr.329]. Cẩn thận hơn, trong giờ phút
hấp hối, ông còn trối lại với Thái tử Đảm rằng: “Việc khủng bố tín ngưỡng bao giờ
cũng tạo cơ hội cho những cuộc biến động và gây thù oán trong nhân gian, lại thường
khi làm sụp đổ ngôi vua” [46, tr.110].


×