Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi nghệ thuật nguyên ngọc sau 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.6 KB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Cẩm Tú

CẢM HỨNG VỀ NGƯỜI ANH HÙNG
TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT
NGUYÊN NGỌC SAU 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Cẩm Tú

CẢM HỨNG VỀ NGƯỜI ANH HÙNG
TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT
NGUYÊN NGỌC SAU 1975
Chuyên ngành: Văn Học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Bạch Văn Hợp

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Bạch Văn Hợp đã tận tình
hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi trong quá trình làm luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong khoa Ngữ Văn
đã có những ý kiến đóng góp quý báu cho tôi trong quá trình thực
hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng Sau Đại Học, gia đình và
bạn bè đã ủng hộ và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Dù đã nỗ lực và cố gắng rất nhiều, nhưng sẽ không tránh khỏi
có sai sót, rất mong sự đóng góp ý kiến chân thành của Quý Thầy
Cô trong Hội đồng chấm luận văn để luận văn hoàn thiện hơn.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 29/3/2013
Tác giả

Nguyễn Thị Cẩm Tú


1

MỤC LỤC
MỤC LỤC ......................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 11
3.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 11
3.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 12
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 12
4.1. Phương pháp lịch sử .......................................................................... 12

4.2. Phương pháp so sánh – đối chiếu ...................................................... 12
4.3. Phương pháp thi pháp học ................................................................. 13
4.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp ...................................................... 13
5. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 13
6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................... 13
Chương 1 ......................................................................................................... 15
NGUYÊN NGỌC – NHÀ VĂN LUÔN TÌM KIẾM NHỮNG...................... 15
TÍNH CÁCH ANH HÙNG, NHỮNG SỰ TÍCH ANH HÙNG ..................... 15
1.1. Khái niệm cảm hứng và cảm hứng anh hùng trong văn học Cách mạng
Việt Nam ...................................................................................................... 15
1.1.1. Về khái niệm cảm hứng .................................................................. 15
1.1.2. Cảm hứng anh hùng trong văn học Cách mạng Việt Nam giai đoạn
1945 – 1975............................................................................................... 20


2

1.2. Cảm hứng anh hùng trong hành trình nghệ thuật của Nguyên Ngọc ... 24
1.2.1. Giai đoạn trước 1975 ...................................................................... 24
1.2.2. Giai đoạn sau 1975 ......................................................................... 31
1.3. Cội nguồn cảm hứng anh hùng của Nguyên Ngọc ............................... 34
1.3.1. Tâm lý xã hội, ý thức nghệ thuật thời chiến ................................... 34
1.3.2. Hoàn cảnh gia đình và môi trường sống ......................................... 40
1.3.3. Cá tính nhà văn ............................................................................. 43
Chương 2: ........................................................................................................ 49
CẢM HỨNG VỀ NGƯỜI ANH HÙNG TRONG VĂN XUÔI NGHỆ
THUẬT CỦA NGUYÊN NGỌC SAU 1975 - MỘT SỰ TIẾP NỐI LIỀN
MẠCH, NHẤT QUÁN ................................................................................... 49
2.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam sau 1975 ..................................................... 49
2.2. Đề tài, chủ đề nhất quán, tính cách anh hùng đa diện .......................... 51

2.2.1. Đề tài ............................................................................................... 51
2.2.2. Chủ đề ............................................................................................. 56
2.2.3. Tính cách anh hùng đa diện ............................................................ 58
2.3. Thái độ, tình cảm của nhà văn đối với người anh hùng ....................... 69
Chương 3 ......................................................................................................... 76
BÚT PHÁP THỂ HIỆN CẢM HỨNG VỀ NGƯỜI ANH HÙNG TRONG
VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT NGUYÊN NGỌC SAU 1975 .......................... 76
3.1. Cách tiếp cận gián cách mang đầy hoài niệm ....................................... 76
3.1.1. Không gian thời gian tâm tưởng ..................................................... 76
3.1.2. Nghệ thuật trần thuật....................................................................... 79
3.2. Nghệ thuật miêu tả ấn tượng ................................................................. 89


3

3.1.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật ........................................................... 89
3.1.2 Miêu tả không gian – thời gian ........................................................ 92
3.1.3. Ngôn ngữ ........................................................................................ 99
3.3. Kết cấu lồng ghép đan xen hiện tại và quá khứ, truyện lồng truyện .. 104
3.3.1. Về khái niệm kết cấu – kết cấu lồng ghép đan xen ...................... 104
3.3.2. Kết cấu lồng ghép đan xen hiện tại và quá khứ, truyện lồng truyện
trong văn xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc sau 1975 ................................ 105
KẾT LUẬN ................................................................................................... 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 114
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 116


4

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sau năm 1975, đất nước đã bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, trong
đó có văn học. Trong cuộc sống thời bình, con người trở về với cuộc sống đời
thường, với những cái bình thường mà muôn thuở, tất cả những mối quan hệ
phức tạp của cuộc sống bị che lấp trong chiến tranh bây giờ thức dậy, vây
quanh con người từng giờ. Đời sống xã hội đã thay đổi rõ rệt. Do đó, văn học
cũng phải thay đổi theo cho phù hợp với tình hình mới, với cái nhìn toàn diện
và đa diện hơn.
Nguyên Ngọc là nhà văn nổi tiếng trước năm 1975 với những tác phẩm
viết về người anh hùng như: Đất nước đứng lên, Rừng xà nu, Đất Quảng
(tập 1), Rẻo cao. Sau năm 1975, cảm hứng về người anh hùng được tác giả tô
đậm với Trở lại Mèo Vạc, Người hát rong giữa rừng, Cát cháy, Có một con
đường mòn trên biển Đông, Tháng Ninh Nông. Ở những tác phẩm này,
Nguyên Ngọc vẫn viết về những người anh hùng. Một mặt, họ vẫn là những
người anh hùng kiên cường sắt thép, mặt khác còn là những con người của
tình yêu, đẹp và anh hùng trong tình yêu. Trong chiến tranh, họ sống và chiến
đấu vì đất nước, hòa bình họ lại tiếp tục những hành động đẹp của mình để
dựng xây xã hội. Những người anh hùng ấy tuy đời sống hiện tại còn nhiều
khó khăn nhưng bản lĩnh của người cách mạng đã rèn luyện cho họ, vững
vàng hơn, kiên cường hơn đối mặt với mặt trận không tiếng súng, vì thế càng
làm đẹp hơn những hình ảnh của họ trong sự phồn tạp của xã hội hôm nay.
Họ là những tấm gương sáng về sự hy sinh cho ta học tập và noi theo. Vì vậy,
tác phẩm của ông không những có tác dụng giáo dục sâu sắc thế hệ trẻ hôm
nay mà nó còn giúp chúng ta có cái nhìn trung thực hơn về người anh hùng.
Có thể khẳng định rằng Nguyên Ngọc là một cây bút văn xuôi hiện đại


5

có nhiều đóng góp xuất sắc cho nền văn học cách mạng Việt Nam. Ông là

một trong những nhà văn – chiến sĩ đi tiên phong cùng các phong trào của
cách mạng Việt Nam từ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đặc biệt ngòi
bút của ông càng sâu sắc, chiêm nghiệm hơn, nhiều suy tư trăn trở hơn trong
thời kì đổi mới ngày hôm nay.
Tìm hiểu Cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi nghệ thuật
Nguyên Ngọc sau 1975 là một việc làm cần thiết. Ngoài việc giúp hiểu thêm
về phong cách sáng tác của nhà văn Nguyên Ngọc và sự thay đổi cách nhìn về
người anh hùng của ông, thì việc nghiên cứu đề tài cũng góp thêm vào cái
nhìn toàn diện về sự chuyển biến của văn học Việt Nam sau năm 1975 – nhất
là mảng sáng tác về đề tài chiến tranh, về người chiến sĩ cách mạng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong suốt quá trình sáng tác của mình, Nguyên Ngọc vẫn nhất quán
trước sau như một là viết về người anh hùng. Điều đó đã trở thành nguồn cảm
hứng chủ đạo làm nên sự nghiệp sáng tác của ông. Những sáng tác của
Nguyên Ngọc thường đậm chất anh hùng, đề cập đến những con người của
thời đại, của đất nước anh hùng, những người thật việc thật. Và trong cuộc
sống ngày hôm nay, họ là những người anh hùng đã hy sinh tuổi xuân của
mình cho ngày vui chiến thắng, nhà văn viết về họ như một sự chia sẻ, cảm
thông cho những mất mát của họ, đồng thời trăn trở với chính cuộc sống hiện
tại còn nhiều thiếu thốn của họ. Điều này đã được nhiều nhà văn, nhà nghiên
cứu, nhà phê bình văn học giới thiệu, phân tích và chọn làm đề tài khoa học.
2.1. Những ý kiến đánh giá chung về Nguyên Ngọc
Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Nguyên Ngọc – Con người lãng mạn đã
có một đánh giá tổng quát về con người và phong cách của nhà văn Nguyên
Ngọc, một cảm nhận trực cảm về nhà văn Nguyên Ngọc như sau: “…chuyện


6

của Nguyên Ngọc thường là những trải nghiệm khác thường, dữ dội, gây ấn

tượng mạnh…tâm hồn Nguyên Ngọc bắt rất nhạy những gì dữ dằn, quyết liệt
và có một vẻ hoang dã như sự sống thời nguyên thuỷ” [55;329]. Và ông kết
luận: “…Vì anh viết bằng lý tưởng, vì anh nhìn đời bằng lý tưởng” [55;339].
“Trong sử thi cổ đại, lấy nguồn ở thần thoại và truyền thuyết lịch sử, là những
tác phẩm lớn, đưa ra một bức tranh toàn cục về đời sống nhân dân thông qua
câu chuyện về người anh hùng qua khứ” [3;83]. Vì thế người anh hùng trong
sử thi là những con người vĩ đại, phi thường, con người chiến đấu vì cộng
đồng, bộ tộc. Theo ông, cái tạo nên phong cách riêng của nhà văn Nguyên
Ngọc là “người thực nhìn qua con mắt đầy lãng mạn của Nguyên Ngọc.
Nguyên Ngọc không phải chỉ viết sử thi, viết văn lãng mạn. Anh thật sự sống
trong không khí sử thi và mang hẳn trong máu mình chất lãng mạn” [55;337].
Phan Tứ người bạn cùng học, người chiến sĩ, là nhà văn cùng thời với
Nguyên Ngọc trong bài Nguyễn Trung Thành cuộc sống và tác phẩm đã
nhận định như sau: “Trong cuộc sống miền Nam muôn màu muôn vẻ, anh
chọn và xoáy sâu vào cái vấn đề sinh tử ấy. Tất cả suy nghĩ và cảm xúc của
anh xói vào hướng ấy như những mũi chông thép song song, có thể nói rằng
toàn bộ những gì anh đã viết – ký tên Nguyễn Trung Thành hoặc vài ba tên
khác, tùy lúc…anh trả lời bằng hình tượng văn học. Anh viết về những con
người gan góc và thông minh đã đánh thắng Mỹ, về chủ nghĩa anh hùng cách
mạng Việt Nam”[90;120]. Như vậy, ở bài viết này, tác giả đã khẳng định
rằng, Nguyên Ngọc luôn viết về người anh hùng bằng chính lý tưởng của
mình, ngòi bút của ông tập trung vào những vấn đề sinh tử của đất nước, vào
những phẩm chất anh hùng để ngợi ca về những chiến công của họ, người anh
hùng luôn là những con người phi thường như những mũi chông mũi thép,
sẵn sàng xông pha lửa đạn chiến tranh.
Lê Trí Viễn trong bài Theo anh Núp trích trong “Đất nước đứng lên”


7


của Nguyên Ngọc, ông khẳng định: “Bài văn nhỏ nhưng ý nghĩa thật không
nhỏ. Nó là một câu chuyện anh hùng. Câu chuyện anh hùng ấy lại là của
những người bình thường” [95;302]. Từ đó ông đi đến kết luận: “Cho đến
nay, nó vẫn còn là bài học đích đáng và thấm thía về sự trung thành với đất
nước, với Tổ quốc, với độc lập tự do với dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
giai đoạn cách mạng hiện tại” [95;302].
Trần Đăng Khoa trong bài Nguyên Ngọc – chân dung văn đã nhấn
mạnh một đặc điểm riêng biệt của nhà văn Nguyên Ngọc trong sáng tác là
viết về người tốt, việc tốt: với những trang văn của Nguyên Ngọc người đọc
cứ như đi dự một Đại hội Chiến sĩ Thi đua “từng con người, từng nhân vật là
có thật, ông viết bằng tất cả hồn mình và cái hồn ấy thuộc về cách mạng. Bắt
đầu từ Đất nước đứng lên, tiếp nối mạch cảm xúc lãng mạn anh hùng,
Nguyên Ngọc lại đưa người đọc đến với vùng rừng núi. Ở đây, người đọc lại
có dịp gặp được Tnú trong Rừng xà nu” [65;92].
Trung Trung Đỉnh trong bài Nhà văn Nguyên Ngọc, con đẻ của cách
mạng, cho rằng tất cả các sáng tác của nhà văn Nguyên Ngọc đều là những
sáng tác về người thật, việc thật. Tây Nguyên qua ngòi bút của Nguyên Ngọc
“...không còn là Tây Nguyên chỉ có trong huyền thoại, không còn là Tây
Nguyên chỉ có trong truyền thuyết huyền bí mà là Tây Nguyên của một đất
nước có những con người cụ thể...Hình tượng Núp và bà con làng Kông Hoa
của dân tộc Bah Nar từ đây gần gũi hơn, máu thịt hơn” [61;487]. Về mặt
nghệ thuật, tác giả cũng khẳng định rằng: “Đất nước đứng lên đã nhanh
chóng tách đàn vượt lên, ào vào đời sống một cách hồn nhiên nhờ sức mạnh
của cảm hứng sáng tạo giàu chất thơ với một bút pháp trữ tình, lãng mạn,
hào hùng...” [61;488].
Phong Lê trong bài Con đường sáng tác của Nguyên Ngọc đã khẳng
định rằng: “...trong Đất nước đứng lên chan chứa một chất thơ say người. Ở


8


đây bút pháp hữu tình và anh hùng ca luôn luôn cất lên những cung bậc anh
hùng cao, phù hợp với khung cảnh cuộc sống và con người miền núi gần gũi
với thiên nhiên bao la, rộng rãi, tươi thắm các sắc màu; phù hợp với tính
cách con người chuộng cuộc sống phóng khoáng, tự do” [39;149].
Trong luận văn Thạc sĩ Cảm hứng lãng mạn – anh hùng trong văn
xuôi Nguyên Ngọc 1945 – 1975 [83], tác giả đã khẳng định được phong cách
nghệ thuật của nhà văn Nguyên Ngọc là cảm hứng lãng mạn anh hùng trong
văn xuôi giai đoạn trước 1975. Người anh hùng trong sáng tác của Nguyên
Ngọc ở giai đoạn trước 1975 là thủ lĩnh, người anh hùng mang màu sắc bi
tráng, oai hùng trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, với những hành
động gan dạ, dũng cảm, căm thù giặc ngùn ngụt, sẵn sàng hy sinh, xả thân vì
tổ quốc. Chiến đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Về mặt nghệ thuật: luận văn cũng khẳng định trong các sáng tác trước 1975
của Nguyên Ngọc là giọng văn hào hùng, ngợi ca, đậm sắc thái anh hùng. Kết
hợp một cách nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ miền núi và ngôn ngữ địa phương
trong sáng tác. Với luận văn này, đã góp thêm hướng nghiên cứu mới, là tiền
đề, là điều kiện cho các nghiên cứu về văn xuôi Nguyên Ngọc ở giai đọan sau
1975.
2.2. Những ý kiến bàn riêng về Cảm hứng anh hùng trong văn xuôi
nghệ thuật Nguyên Ngọc sau 1975
Sau 1975, nhiều cây bút lại thể hiện mình trên nhiều thể loại khác nhau,
có người không thể viết tiếp được nữa cũng có người thay đổi cách viết cho
phù hợp với cuộc sống mới, duy chỉ có Nguyên Ngọc, dòng chảy ấy vẫn tiếp
tục và còn mạnh mẽ hơn trước. Ông vẫn viết theo lối cũ. Trần Đăng Khoa
trong bài Nguyên Ngọc – chân dung văn có nhận xét rất xác đáng, như sau:
“Truyện của Nguyên Ngọc hầu hết là thế. Ông ca tụng chủ nghĩa anh hùng
cách mạng.... Bút pháp ông nhất quán trước sau như một, không thay đổi,



9

không quay quắt. Trong khi đó có rất nhiều cây bút chuyển hướng hoặc thay
đổi theo cách tiếp cận hiện thực để thu hút sự chú ý của bạn đọc. Trước viết
người tốt việc tốt thì sau viết người xấu việc xấu. Nguyên Ngọc không thể,
suốt đời dường như ông chỉ viết truyện người tốt việc tốt. Ngay cả khi dựng
nhân vật tiểu thuyết, ông cũng dựa trên những con người có thật, những sự
kiện có thật ở ngoài đời” [65;96]. Cảm hứng về người anh hùng là cảm hứng
chủ đạo mà Nguyên Ngọc theo đuổi bởi “Văn Nguyên Ngọc là một dạng văn có
ma lực. Giản dị, chắt lọc và trong veo. Đó cũng là dòng văn chủ đạo rất cần có
trong đời sống chúng ta hiện nay” [65;100].
Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Nguyên Ngọc – nhà văn lãng mạn đã
khẳng định như sau: “Nguyên Ngọc vẫn tiếp tục hướng về đối tượng cũ, vẫn
viết về người anh hùng, với giọng văn càng sôi nổi hơn, với những hình ảnh
càng chói lọi hơn, lãng mạn hơn....Giờ đây cũng vẫn những người anh hùng
kiên cường sắt thép ấy, nhưng họ còn là những con người của tình yêu, đẹp
và anh hùng trong tình yêu”[55;335].
Huỳnh Như Phương trong bài Nguyên Ngọc – Người ở tuyến đầu đã có
những nhận định rất tinh tế về mặt nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên
Ngọc: “Một trong những đặc điểm của văn chương Nguyên Ngọc chính là sự
kết hợp kỳ lạ giữa hiện thực và lãng mạn, giữa thực tế và lý tưởng, giữa văn
phi hư cấu và văn hư cấu. Ai cũng biết hầu hết tác phẩm của Nguyên Ngọc
đều bắt nguồn từ sự thật lịch sử, từ những con người và sự kiện có thực….Là
hiện thực mà cũng là huyền thoại…” Cùng bài viết ấy, tác giả khẳng định
“Những tác phẩm văn xuôi phi hư cấu gần đây của Nguyên Ngọc thể hiện sự
quan tâm ngày càng lớn đến tính chất xác thực của tư liệu, ngày càng thường
xuyên hướng đến những sự kiện không thêu dệt, từ đó mở ra dòng cảm xúc
của mạch văn. Đồng thời, chính trong các văn bản phi hư cấu đó, yếu tố ngày
càng trở nên quan trọng không chỉ là những chứng từ được bảo chứng về mặt



10

tư liệu mà còn là sự chính xác của ấn tượng, sự trải nghiệm qua các sự kiện,
sự suy tưởng và trầm tư thế sự ghi dấu sự hiện hữu của cá tính nhà
văn”[71;106,107].
Thúy Nga trong Nỗi lòng của nhớ và quên đã thừa nhận rằng: “Nguyên
Ngọc đã tìm thấy cái lớn lao đằng sau những điều bình thường, nhỏ nhặt, và
kể về điều đó bằng một giọng văn vừa dịu nhẹ vừa nóng bỏng, đã như là
“mảnh đất” của riêng Nguyên Ngọc....Điện Bàn viết năm 1971, Cát cháy viết
năm 1998, và bây giờ 2005, mà câu chuyện dữ dội về người và đất Điện Bàn
những ngày “nung bão”, hay ngọn nguồn của cái sức mạnh kỳ lạ như huyền
thoại của vùng cát trắng Bình Dương (Thăng Bình, Quảng Nam) ba lần được
tuyên dương anh hùng, vẫn đủ sức lay động người đọc. Nhất là với bút ký Có
một con đường mòn trên biển Đông, với khúc ca bi tráng của những người
quyết quên đi cái chết của mình vì sự sống còn của miền Nam ruột thịt”
[57;518].
Nhìn chung, các bài nghiên cứu về Nguyên Ngọc ở giai đoạn trước 1975
và những bài nghiên cứu về Nguyên Ngọc ở giai đoạn sau 1975 của Nguyễn
Đăng Mạnh, Phan Tứ, Lê Trí Viễn, Trần Đăng Khoa, Trung Trung Đỉnh,
Phong Lê, Thúy Nga, Ngô Thảo, Huỳnh Như Phương... chỉ mới dừng lại ở
một số bài báo hay những nhận định, đánh giá, khái quát về phong cách nghệ
thuật của Nguyên Ngọc. Riêng luận văn của tác giả Vũ Thị Thu phần nào đã
khái quát rõ phong cách nghệ thuật của Nguyên Ngọc là viết văn với cảm
hứng anh hùng ở giai đoạn trước 1975, còn giai đoạn sau 1975 thì tác giả vẫn
để ngỏ. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những người đi trước, chúng tôi xác lập
hướng nghiên cứu có hệ thống hơn. Xuyên suốt hành trình nghệ thuật của
mình Nguyên Ngọc đều nhất quán với cảm hứng anh hùng nhưng người anh
hùng trong sáng tác sau 1975 là người anh hùng được phục dựng lại, vẫn là
cảm hứng ngợi ca nhưng cách nhìn người anh hùng đa diện hơn, với thái độ



11

chia sẻ, cảm thông cho những mất mát, đau thương của họ. Đồng thời, qua tác
phẩm tác giả cũng thể hiện những ray rứt, trăn trở và xót xa cho cuộc sống
còn nhiều thiếu thốn và bất hạnh của người người anh hùng trong hiện tại.
Viết về họ, tác giả không chỉ ca ngợi những hành đồng anh dũng trong chiến
tranh mà còn chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống đời thường với sự giản
dị, trong sáng trong tính cách và hành động của họ. Đồng thời, khẳng định
những đóng góp to lớn của nhà văn Nguyên Ngọc cho sự phát triển của văn học
Việt Nam đương đại trong giai đoạn đổi mới của văn học chặng đường sau 1975
đến nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát của luận văn là Cảm hứng về người anh hùng trong
văn xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc sau 1975. Tuy nhiên để thực hiện mục
tiêu nghiên cứu, luận văn sẽ phải khảo sát một số sáng tác tiêu biểu của
Nguyên Ngọc thời kì trước 1975 để thấy được sự nhất quán, liền mạch trong
cảm hứng của nhà văn khi viết về người anh hùng.
Các tác phẩm viết trước 1975:
- Đất nước đứng lên (tiểu thuyết) (1955)
- Rừng xà nu (truyện ngắn) (1965)
- Đất Quảng (tiểu thuyết) (1971)
Các tác phẩm viết sau 1975:
- Trở lại Mèo Vạc (bút ký) (1990)
- Tháng Ninh Nông (truyện ngắn) (1999)
- Người hát rong giữa rừng (truyện ngắn) (1996)
- Cát cháy (bút ký) (1998)



12

- Có một con đường mòn trên biển Đông (bút ký) (1998)
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nhằm khẳng định những đóng góp của nhà văn Nguyên Ngọc
ở lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật sau 1975 với sự tiếp nối cảm hứng về người
anh hùng trong một hoàn cảnh mới. Từ đó, khẳng định sự nhất quán, liền
mạch trong phong cách của nhà văn. Với cảm hứng ngợi ca, trân trọng cùng
những chia sẻ với cuộc sống của người anh hùng trong hiện tại, nhà văn
Nguyên Ngọc đã có cái nhìn mới về họ. Luận văn góp tiếng nói khẳng định vị
trí xứng đáng của nhà văn trong nền văn học đương đại Việt Nam sau 1975.
Để thấy rõ sự nhất quán trong phong cách của Nguyên Ngọc, người viết sẽ
tiến hành so sánh các tác phẩm trước và sau 1975 để thấy được cảm hứng
trong sáng tác của ông là cảm hứng anh hùng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng nghiên cứu, xuất phát từ mục đích
của đề tài, trên cơ sở phương pháp luận trong nghiên cứu văn học, người viết
sử dụng các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp lịch sử
Khi nghiên cứu các sáng tác của Nguyên Ngọc phải gắn liền với hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam những năm trước và sau 1975 để thấy được
sự tác động của hoàn cảnh đối với hoạt động sáng tác của nhà văn từ việc
hình thành cảm hứng, lựa chọn đề tài, xác định chủ đề đến tổ chức kết cấu tác
phẩm, xây dựng hình tượng, sử dụng ngôn từ, chọn điểm nhìn trần thuật và
lựa chọn giọng điệu.
4.2. Phương pháp so sánh – đối chiếu
Để thấy rõ sự khác biệt trong phong cách nghệ thuật của Nguyên Ngọc
với những nhà văn cùng thời cũng như cảm hứng về người anh hùng ở hai giai



13

đoạn sáng tác trước và sau 1975, người viết tiến hành so sánh những sáng tác của
Nguyên Ngọc với các sáng tác của các tác giả cùng thời, đồng thời so sánh với các
tác phẩm của chính nhà văn Nguyên Ngọc ở giai đoạn trước và sau 1975.
4.3. Phương pháp thi pháp học
Thi pháp học là một phương pháp nghiên cứu văn học. Để thực hiện đề
tài này, luận văn sẽ tìm hiểu cách tiếp cận về người anh hùng ở giai đoạn sau
1975. Do đó, việc tìm hiểu nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật miêu tả, kết cấu
tác phẩm là việc làm cần thiết để hiểu được phong cách sáng tác của tác giả
cũng như giúp người đọc có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn về người anh
hùng trong quá khứ và hiện tại.
4.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phân tích, tổng hợp là một trong những thao tác không thể thiếu đối với
mọi công trình nghiên cứu. Trên cơ sở những tư liệu đã được thống kê, phân
loại, luận văn sẽ tập trung vào những điểm cần thiết, tìm ra những điểm đặc
sắc và độc đáo trong cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi nghệ thuật
của Nguyên Ngọc sau 1975.
5. Đóng góp của luận văn
Thực hiện đề tài này, luận văn sẽ khẳng định lại lần nữa những đóng góp
to lớn của nhà văn cả về nghệ thuật lẫn nội dung trong giai đoạn sáng tác sau
1975 khi viết về người anh hùng. Nghiên cứu cảm hứng về người anh hùng
trong sáng tác của Nguyên Ngọc sau 1975 một lần nữa khẳng định được
phong cách nhất quán của nhà văn – một cây bút sử thi tràn đầy cảm hứng
lãng mạn – anh hùng. Qua đó, người đọc có cái nhìn toàn cảnh về sáng tác của ông
cũng như đóng góp của Nguyên Ngọc đối với nền văn học Việt Nam đương đại.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, luận văn gồm 3



14

chương được trình bày như sau:
Chương 1 - được trình bày từ trang 15 đến trang 48. Ở chương này,
người viết tập trung làm rõ nội hàm khái niệm cảm hứng, cảm hứng anh hùng
trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn trước 1975. Từ đó thấy được
cảm hứng trong sáng tác của Nguyên Ngọc sau 1975 cũng vẫn là cảm hứng
anh hùng với những trăn trở, chiêm nghiệm về cuộc đời, đặc biệt là về cuộc
đời người anh hùng trong hiện tại. Đồng thời ở chương này, người viết cũng
trình bày khái quát hành trình nghệ thuật qua hai giai đoạn sáng tác trước và
sau 1975 của Nguyên Ngọc để thấy được sự nhất quán trong cảm hứng của
nhà văn. Từ đó, lí giải cội nguồn của cảm hứng anh hùng trong sáng tác của
Nguyên Ngọc.
Chương 2 – được trình bày từ trang 49 đến trang 76. Ở chương này,
người viết sẽ trình bày sự tiếp nối và bổ sung cảm hứng về người anh hùng
trong văn xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc giai đoạn sau 1975 tìm hiểu về bối
cảnh xã hội Việt Nam sau 1975. Từ cách chọn đề tài, chủ đề thể hiện đến cách
xây dựng tính cách anh hùng đa diện. Tất cả những yếu tố đó đã cho thấy
được sự nhất quán trong phong cách nghệ thuật của nhà văn. Từ đó, tìm hiểu
về thái độ, tình cảm của nhà văn đối với người anh hùng.
Chương 3 – được trình bày từ trang 77 đến trang 108. Ở chương này,
người viết tập trung làm rõ bút pháp nghệ thuật của Nguyên Ngọc thể hiện
trong các sáng tác sau 1975. Từ cách tiếp cận nhân vật anh hùng gián cách
mang đầy hoài niệm với những cảm thông sâu sắc và chia sẻ những mất mát
của chính họ. Thể hiện kết cấu lồng ghép đan xen quá khứ, hiện tại là cách tác
giả đưa người đọc trở về với quá khứ để có cái nhìn nhiều chiều về người anh
hùng của hôm qua và cuộc sống hiện tại của họ hôm nay. Đồng thời thấy
được sự thay đổi điểm nhìn trần thuật cũng như cách miêu tả giàu ấn tượng để
làm bộc lộ tính cách chân thật, giản dị, đời thường của nhân vật.



15

Chương 1
NGUYÊN NGỌC – NHÀ VĂN LUÔN TÌM KIẾM NHỮNG
TÍNH CÁCH ANH HÙNG, NHỮNG SỰ TÍCH ANH HÙNG
1.1. Khái niệm cảm hứng và cảm hứng anh hùng trong văn học Cách
mạng Việt Nam
Cảm hứng là sự kết hợp hài hòa giữa tình cảm và tư tưởng trong một tác
phẩm nghệ thuật, đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo văn học của nhà
văn. Chính cảm hứng là động lực thôi thúc nhà văn sáng tác để bày tỏ tư
tưởng và tình cảm của mình về thế giới mà mình phản ánh trong tác phẩm.
Tìm hiểu cảm hứng sáng tác của một tác giả, đồng nghĩa với việc tìm hiểu tư
tưởng sáng tạo của tác giả đó. Đây là một việc làm cần thiết, vì nắm bắt được
tư tưởng sáng tạo của tác giả, ta sẽ hiểu và lý giải được cách lựa chọn đề tài,
xây dựng nhân vật, sắp xếp các chi tiết…trong tác phẩm.
1.1.1. Về khái niệm cảm hứng
Sáng tạo văn học nghệ thuật thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần và theo
phương thức chiếm lĩnh riêng của từng nghệ sĩ. Văn học nghệ thuật phản ánh
đời sống xã hội bằng hình tượng nghệ thuật, do đó đời sống xã hội chính là
nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà văn thỏa sức sáng tạo. Có thể khẳng định
rằng sự dồi dào về cảm xúc của tác phẩm nghệ thuật là một đặc điểm cơ bản
của việc tái tạo hiện thực bằng hình tượng, là một đặc điểm của sự thể hiện
những tư tưởng sáng tạo, sự phát triển của các tính cách. Cảm hứng chỉ hình
thành và xuất hiện ở nhà văn khi trong anh ta có vốn sống đầy ắp và được
nuôi dưỡng bằng sự sống, bằng tinh thần, được nghiền ngẫm kĩ và khi bắt gặp
những sự kiện, những cảnh đời, thì cảm hứng ấy được bộc lộ ra và thôi thúc
sự sáng tạo của nhà văn, nó kêu gọi nhà văn, kêu gọi anh ta lao động để tạo
dựng hình thức cho nó. Không những vậy, nhà văn phải luôn mang một tấm



16

lòng rộng mở, biết ngạc nhiên dù là với một vẻ đẹp bình dị của cuộc sống, rất
nhạy cảm với những thay đổi chung quanh “nhà văn hiện thực, hoàn toàn
không phải là chiếc máy hát cần mẫn tái hiện lại những khúc nhạc được ghi
trên đĩa hát”[37;88] mà là người phải biết thể hiện những vẻ đẹp của cuộc
sống bằng chính trái tim của mình, tức là thể hiện cuộc sống khách quan qua
lăng kính chủ quan của mình.
Khái niệm cảm hứng được đề cập đến từ lâu trong lý luận nghệ thuật ở
châu Âu. Có lẽ Hegel là nhà mỹ học đầu tiên đưa ra một lý luận tương đối
hoàn chỉnh về cảm hứng và đưa nó vào một trong các phạm trù mỹ học. Hegel
cho rằng cảm hứng là trung tâm của vương quốc nghệ thuật. “Tình cảm tạo
nên trung tâm thực sự trên vương quốc chân chính của nghệ thuật; thể hiện
tình cảm là cái chủ yếu trong tác phẩm nghệ thuật, cũng như trong cảm thụ
của công chúng” [28;244]. Hegel xem cảm hứng là “sức mạnh của tâm hồn
tự thể hiện trong chính nó, là nội dung chủ yếu của lý tính và ý chí tự do”
[28;299]. Hegel cho rằng cảm hứng thực sự có được khi có một nội dung đã
được quy định. Đồng tình với quan điểm của Hegel, nhà phê bình Nga
Bêlinski cũng đề cao vai trò của cảm hứng. Ông xác định vai trò và nguồn
gốc tư tưởng trong tác phẩm: “Trong những tác phẩm nghệ thuật chân chính
tư tưởng đâu phải là một khái niệm trừu tượng được thể hiện một cách giáo
điều mà nó là linh hồn của chúng, nó chan hòa trong chúng như ánh sáng
chan hòa trong pha lê. Trong những tác phẩm nghệ thuật, tư tưởng là cảm
hứng chủ đạo của chúng. Cảm hứng chủ đạo là gì? Đó là sự thâm nhập say
mê và sự ham thích một tư tưởng nào đó, mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là kết
quả chủ đạo phải thấm đượm. Thiếu cảm hứng chủ đạo thì không thể hiểu
được là cái gì đã buộc nhà thơ cầm bút và cung cấp cho anh ta sức lực và khả
năng khởi đầu và kết thúc một tác phẩm đôi khi khá đồ sộ” [7;111].

Cảm hứng cũng không phải tự nhiên mà đến, cảm hứng là một trạng thái


17

hưng phấn tột độ và khi bắt gặp hiện thực khách quan thì chính nó – cảm
hứng được nhà văn chuyển thành cái chủ quan của mình, cảm hứng ấy được
kết tinh từ sự lao tâm khổ tứ của nhà văn, từ sự thai nghén đứa con tinh thần,
suy tư, cấu tứ, tưởng tượng trước đó và nói cho đúng hơn là nhà văn đã cảm
thấy đau ở đâu trên chính cơ thể của mình nên buộc nhà văn cầm bút, cảm
hứng được nuôi dưỡng bằng lao động miệt mài, sự khổ công của nhà văn và
chỉ khi người nghệ sĩ làm việc và sáng tạo thì lúc đó cảm hứng mới đến. Nói
như Traicốpki: Cảm hứng là một khách hàng không ưa đến thăm những kẻ
lười […]. Khi đã có một khách thể thẩm mỹ và cảm hứng chính là cái trạng
thái hoạt động tích cực ở trong thế giới bên trong của nhà nghệ sĩ. Theo Hegel
thì yêu cầu quan trọng nhất đối với người nghệ sĩ là khi người nghệ sĩ ấy quan
tâm nghiêm túc tới một đối tượng mà đối tượng ấy trở thành một cái gì sinh
động trong tâm hồn người nghệ sĩ và lúc đó cảm hứng sẽ tự đến và “một nghệ
sĩ dồi dào thực sự nhờ cái sức sống này sẽ tìm thấy hàng ngàn điều kích thích
hoạt động và cảm hứng, những kích thích mà người khác sẽ bỏ qua và chẳng
hề chú ý tới” [27;229].
Trong tác phẩm nghệ thuật nếu như tình cảm bao giờ cũng phải chứa
đựng tư tưởng thì tư tưởng bao giờ cũng thấm đượm tình cảm. “Tư tưởng của
tác phẩm không thể là tư tưởng khô khan thuần tuý mà phải biến thành khát
vọng, thành cảm hứng” [87;15]. Nói khác đi, thì tư tưởng nghệ thuật phải
vượt lên trên mọi trở ngại, nó chính là sự nung nấu là tình yêu, là sự dằn vặt
trong chính tâm hồn của tác giả, là tình cảm chân thành nhất mà tác giả dành
cho đứa con tinh thần của mình. Tình cảm là một trong những động lực thúc
đẩy cảm hứng sáng tạo. Tư tưởng sẽ không thể chuyển hóa được vào hình
tượng một cách nhuần nhuyễn nếu thiếu đi nguồn cảm hứng. Chính cảm hứng

đã tạo nên linh hồn của hình tượng, làm cho hình tượng trở thành một chỉnh
thể nghệ thuật sinh động. Chính nhà văn là người thâm nhâp vào đối tượng


18

với một trạng thái tràn đầy cảm hứng để chuyển hóa cái khách quan ấy thành
cái chủ quan. Vì vậy, tác phẩm văn học không chỉ là khách thể được phản ánh
mà còn là chủ thể được biểu hiện. Người đọc đến với tác phẩm là đến với
cuộc sống đã được tái tạo đồng thời còn khai phá tâm hồn của nhà văn, đến
với tư tưởng, thái độ của nhà văn đối với hiện thực cuộc sống. Công việc của
một nhà văn cả đời thực ra chỉ có thể làm một việc: đem máu thịt và cả tâm
hồn mình vào trong tác phẩm. Và người đọc chính là người chia sẻ cảm xúc
với chính tác giả, người đọc đồng sáng tạo với tác giả.
Riêng với Pospelov, ông chủ yếu quan tâm đến những yêu cầu đối với
cảm hứng. Đối với ông, cảm hứng phải là “sự đánh giá sâu sắc và chân thực
– lịch sử đối với các tính cách được miêu tả vốn nảy sinh từ ý nghĩa dân tộc
khách quan của các tính cách ấy là cảm hứng tư tưởng sáng tạo của nhà văn
và của tác phẩm của nhà văn” [74;152]. Ở đây, Pospelov đã quan tâm đến
tính chân lí lịch sử của tác phẩm văn học. Cảm hứng ấy chính là trạng thái
hưng phấn cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc
sống mà nhà văn miêu tả. Tức là nhà văn phải yêu những cái đáng yêu, ghét
những cái đáng ghét, ca ngợi những cái đáng ca ngợi. Nếu nhà văn ca ngợi
hành động chiến đấu dũng cảm của một tên giặc ngoại xâm hay đề cao vai trò
của một giai cấp thống trị mục ruỗng thì sự ca ngợi ấy, đề cao ấy không trở
thành cảm hứng hoặc đó chỉ là thứ cảm hứng giả tạo vì nó mất tính khách
quan lịch sử. Ông viết tiếp: “Ở những tác phẩm không có chiều sâu của hệ
vấn đề, sự lí giải và đánh giá các tính cách sẽ không được nâng lên thành
cảm hứng. Ở những tác phẩm mang tư tưởng giả tạo, cảm hứng chỉ được tạo
nên do ý chí chủ quan của nhà văn và vì vậy cảm hứng sẽ mang tính chất

gượng gạo, cố tình” [74;153].
K. Paustovsky lại có cách nhận định riêng của mình ông cho rằng cảm
hứng không phải là cái gì khó hình dung mà đó là “sự cao hứng của tâm hồn,


19

sự thoải mái, sự tiếp nhận hiện thực một cách sinh động, khi trong người tràn
đầy ý nghĩ và tri thức về sức mạnh sáng tạo của mình” [74;45]. Chính trong
quá trình sáng tạo của mình, nhà văn thấy lóe lên một tia chớp sáng tạo, thấy
mình bỗng nhiên bị cuốn hút vào một cảm giác, một hình ảnh, một âm điệu
hay một ý nghĩ nào đó và muốn bắt tay vào sáng tác là nhà văn đang có cảm
hứng. Và như thế “cảm hứng là một trạng thái phấn chấn về tinh thần giúp
cho người ta thấy rõ, thấy nhanh nhiều vấn đề theo một hướng tập trung, phát
hiện được nhiều điều mới, thực hiện được công việc một cách thích thú và đạt
kết quả cao” [26;116].
Tác phẩm văn học nghệ thuật khác với các ngành lao động nghệ thuật
khác vì nó chứa đựng tình cảm chủ quan của chủ thể sáng tạo, cho nên cảm
hứng sáng tạo của văn nghệ sĩ vốn phải dạt dào, phải mãnh liệt. Cảm hứng là
một trạng thái tâm lí căng thẳng nhưng say mê khác thường. Sự căng thẳng
của ý chí và trí tuệ, sự dồi dào về cảm xúc khi đã đạt đến sự hài hòa, kết tinh
sẽ bùng cháy trong tư duy nghệ thuật của nhà văn dẫn dắt họ đến những mục
tiêu da diết bằng con đường gần như trực giác, bản năng. Cảm hứng chính là
những mạch cảm xúc đạt đến đỉnh cao và bắt buộc nhà văn phải cầm bút để
viết ra những điều nhà văn cảm thấy để từ đó nhận được sự chia sẻ đồng cảm
từ độc giả. Sự chiếm lĩnh ấy bao giờ cũng bắt nguồn từ lí tưởng xã hội của
nhà văn nhằm phát triển và cải tạo lại thực tại.
Như vậy, từ những quan niệm của các nhà mỹ học, các nhà nghiên cứu
và phê bình văn học, chúng tôi đi đến kết luận cảm hứng là nhiệt tâm, là say
mê một tình cảm mạnh mẽ mang tư tưởng của nhà văn hướng về đối tượng.

Cảm hứng trong tác phẩm nghệ thuật không phải là một thứ tình cảm giả tạo
hay hời hợt mà phải là một thứ tình cảm sâu sắc mãnh liệt. Đó phải là một nỗi
đau xé lòng, một tình yêu tha thiết…Cảm hứng trong tác phẩm phải là thứ
tình cảm nghiêng về lẽ phải, gắn liền với những tư tưởng lành mạnh, tiến bộ,


20

cao đẹp. Nói đúng hơn, “đó là niềm say mê khẳng định chân lý, lí tưởng, phủ
định sự giả dối và mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực, là thái độ ngợi ca, đồng
tình với những nhân vật chính diện, là sự phê phán, tố cáo các thế lực đen tối,
các hiện tượng tầm thường ” [26;268].
1.1.2. Cảm hứng anh hùng trong văn học Cách mạng Việt Nam giai
đoạn 1945 – 1975
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một thời kì phát triển mới
của đất nước trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa – giáo dục…Đi
cùng với sự phát triển đó, văn học nghệ thuật chuyển sang một bước ngoặt
mới và thu được nhiều thắng lợi. Năm 1951, trong thư gửi các anh chị em
nghệ sĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Văn hóa nghệ thuật cũng là một
mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Vì Tổ quốc, vì Chủ nghĩa xã
hội là phương châm lớn của văn nghệ trong suốt thời kì dài lịch sử. Đường lối
văn nghệ đó đã xác định cho người viết lập trường nhân dân, phát huy truyền
thống dân tộc, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Nhân dân là cội
nguồn khơi gợi mọi hoạt động sáng tạo nghệ thuật và nhân dân cũng là đối
tượng thưởng thức, tiếp nhận. Nhà văn phải đứng trên lập trường nhân dân,
lấy quan điểm của nhân dân để nhận thức và giải quyết mọi vấn đề. Đồng
thời, nền văn học mới phải biết phát huy và khai thác những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Tính nhân đạo và tính dân tộc luôn là phương châm
và chuẩn mực cho các tác phẩm văn chương.
Khuynh hướng sử thi là đặc điểm bao trùm nền văn học kháng chiến, nền

văn học phục vụ cách mạng. Sử thi trong văn học 1945 – 1975 không phải là
khái niệm thể loại như sử thi cổ đại, mà là một khái niệm để chỉ đặc điểm của
văn học được sáng tạo trên nền tảng của ý thức cộng đồng toàn dân, xuất hiện
vào thời kì có đấu tranh chống giặc ngoại xâm, có phong trào xã hội bảo vệ
các lợi ích toàn dân. Trong đó, xung đột có tính sử thi là xung đột của dân tộc


21

ta với kẻ thù xâm lược, của cộng đồng toàn dân ta với giặc ngoại xâm. Chủ đề
có tính sử thi là dân tộc, nhân dân, Tổ quốc. Nhân vật là những người anh
hùng đại diện cho phẩm chất, ý chí và sức mạnh của dân tộc. Đặc biệt, là hình
tượng người lãnh tụ, người chiến binh, hình tượng người mẹ được thể hiện
bằng giọng điệu ngợi ca, khẳng định, cổ vũ nhân dân. Chất sử thi không đối
lập với hiện thực mà có khả năng hòa hợp, gắn bó với chất hiện thực, từ đó
nảy sinh chất trữ tình trong sáng tác.
Vì thế, chất trữ tình thể hiện khá đậm nét trong nhiều truyện ngắn. Các
nhà văn thường nhạy cảm với cái đẹp của thiên nhiên, đất nước, nhất là vẻ
đẹp của tâm hồn con người, thiên về khai thác các mối quan hệ tình cảm,
những rung động tâm hồn, nhưng không vượt ra ngoài mạch sử thi – anh
hùng. Đồng thời, mỗi tác giả lại có cách thể hiện riêng, có sự kết hợp riêng
tùy theo cá tính của mỗi nhà văn. Tiêu biểu cho văn xuôi giàu chất trữ tình,
đậm chất lãng mạn là Hòn đất của Anh Đức, nhân vật trong tác phẩm của
Anh Đức là những con người hoàn hảo, mang lí tưởng với tình cảm trong
sáng, đậm nét truyền thống và thời đại. Phong cảnh thiên nhiên đẹp, phóng
khoáng mang nét đặc trưng của Nam Bộ. Một số truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu cũng thể hiện nổi bật chất trữ tình và cảm hứng lãng mạn của thời
đại. Đến với Tô Hoài, ta bắt gặp chất thơ của thiên nhiên và tâm hồn của
người miền núi. Tất cả được tác giả cảm nhận bằng sự thâm nhập, quan sát
phong cảnh, và gắn với những phong tục sinh hoạt, được thể hiện trên trang

viết bằng một phong cách riêng.
Văn xuôi giai đọan 1945 – 1975 có nhiều biến đổi khá rõ về hình thức
thể loại, về phương thức trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ, tạo nên những
đặc điểm về thi pháp của thể loại tự sự trong giai đoạn này. Trong các truyện
ngắn, quan điểm trần thuật của người trần thuật xích gần và tiến tới hòa nhập
với quan điểm của nhân vật quần chúng. Không gian đặc trưng nhất trong văn


22

học thời kỳ kháng chiến là con đường, mặt trận và chiến khu. Văn xuôi giai
đoạn này đã phát huy được ưu thế của thể loại, bám sát các sự kiện và diễn
biến cuộc kháng chiến, dựng lại bức tranh nhiều vẻ về cuộc kháng chiến toàn
dân, toàn diện ở mọi miền đất nước. Nguyễn Tuân thâm nhập vào đời sống
kháng chiến trên mọi nẻo đường. Hăm hở, nhiệt tình từ khu Năm trở ra khu
Bốn, xuống khu Ba vào sâu vùng địch hậu và lọt cả vào vùng địch tạm chiếm,
rồi theo bộ đội lên sông Thao, lại vượt sông Thao vào Tây Bắc theo chân các
đoàn quân giải phóng. Đọc truyện và ký kháng chiến, chúng ta có thể hình
dung một khung cảnh rộng lớn từ tiền tuyến, hậu phương, trong vùng chiến
khu và cả trong vùng địch tạm chiếm, từ Việt Bắc đến chiến trường Nam
Bộ...để phản ánh kịp thời các sự kiện của cuộc kháng chiến, thể ký có điều
kiện phát triển mạnh mẽ. Một trong những cây bút viết ký chiến tranh xuất
sắc nhất là Trần Đăng. Những ký sự tuy ngắn nhưng vẫn nổi bật tài năng
dựng cảnh, phác họa chân dung và do đó, tạo được không khí sôi động và giữ
được tính khách quan của tác phẩm.
Thời kì đầu kháng chiến, văn học hướng tới một đối tượng mới là quần
chúng cách mạng, truyện ngắn đã thu được một số thành tựu đáng kể. Một lớp
nhà văn đã chuyển hướng sáng tác, họ mạnh dạn đặt ra lập trường mới. Nhiều
truyện ngắn ghi lại được những hình ảnh về cuộc sống, về nét đẹp tâm hồn
trong tâm trạng của người kháng chiến ở nhiều vùng trên cả nước.

Vợ nhặt của Kim Lân đã lên ác tội ác của bọn thống trị Nhật – Pháp
cùng bè lũ tay sai. Chúng đã đẩy nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp năm
1945 đến nỗi cái giá của con người như cái rơm, cái rác có thể dễ dàng nhặt
được. Tác phẩm cũng phản ánh được khí thế sôi sục của cách mạng trong
những ngày dân tộc ta cùng đứng lên chống giặc.
Với tập Truyện Tây Bắc, Tô Hoài đã đóng góp vào sự phát triển của
truyện ngắn kháng chiến. Truyện Tây Bắc tập trung thể hiện cuộc sống tủi


×