Tải bản đầy đủ (.pdf) (191 trang)

đặc điểm thơ nguyễn quang thiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.15 MB, 191 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH


Nguyễn Thị Bích Phụng

ĐẶC ĐIỂM THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012




1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH


Nguyễn Thị Bích Phụng

ĐẶC ĐIỂM THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU


CHUYỂN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS PHÙNG QUÝ NHÂM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012



1

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn tất chương trình Cao học và hoàn thành luận văn tốt nghiệp chuyên
ngành Văn học Việt Nam, tôi đã nhận được sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của
quý thầy cô trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cám ơn đến Ban giám hiệu, khoa Ngữ văn,
phòng Sau đại học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều
kiện tốt nhất để tôi có thể học tập và thực hiện luận văn trong thời gian cho phép.
Nhân đây, tôi xin được cảm ơn nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, nhà thơ Mai
Văn Phấn, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp tài liệu cho
tôi hoàn thành luận văn.

Tôi xin cảm ơn Lãnh đạo Phòng Giáo dục quận Tân Bình, Ban giám hiệu,
quý thầy cô, bạn bè đồng nghiệp trường Tiểu học Yên Thế quận Tân Bình đã giúp
đỡ, động viên và tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành chương trình Cao học
trong thời gian hai năm.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, những người thân yêu đã
thường xuyên giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận
văn.
Với tôi, “Đặc điểm thơ Nguyễn Quang Thiều” là một đề tài hay, thú vị và
tương đối mới. Để thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận tâm,
nhiệt tình và chu đáo của PGS. TS. Phùng Quý Nhâm. Nhân dịp này, cho phép tôi
được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy.
Dẫu đã cố gắng hoàn thành luận văn bằng tất cả năng lực và tâm huyết, song,

chắc chắn luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp chân thành của quý thầy cô và các bạn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 09 năm 2012
Người thực hiện
Nguyễn Thị Bích Phụng


1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................4

2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................6
3. Đối tượng nghiên cứu............................................................................................11
4. Phạm vi nghiên cứu ...............................................................................................12
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................12
6. Đóng góp đề tài .....................................................................................................12
7. Cấu trúc luận văn ..................................................................................................13
NỘI DUNG ...............................................................................................................15
CHƯƠNG 1: THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG
THƠ CỦA ÔNG .......................................................................................................15
1.1. Cuộc đời và sáng tác của Nguyễn Quang Thiều ............................................15
1.1.1. Cuộc đời ...................................................................................................15
1.1.2. Tác phẩm..................................................................................................17

1.1.3. Những nguồn ảnh hưởng đối với thơ Nguyễn QuangThiều ....................19
1.1.4. Quan niệm thơ của Nguyễn Quang Thiều ...............................................22
1.2. Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều .............................................26
1.2.1. Cái tôi và cái tôi trữ tình ..........................................................................26
1.2.2. Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều… ..................................28
1.2.2.1. Cái tôi đa cảm luôn hướng về quê hương cội nguồn ........................29
1.2.2.2. Cái tôi buồn, trăn trở về con người ...................................................34
1.2.2.3. Cái tôi chiêm nghiệm về cuộc sống ..................................................44
1.2.2.4. Cái tôi khát khao, hy vọng tự do và đầy dự cảm .............................47
Chương 2: NHỮNG SUY CẢM TRONG THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU ........51
2.1. Thơ Nguyễn Quang Thiều từ những cơn mơ tưởng tượng ............................51
2.1.1. Thế giới “Bên này” của những cơn mơ hoang dại ..................................51

2.1.2. Thế giới “Bên kia” ánh sáng của trí tưởng tượng ....................................58


2

2.2. Các biểu tượng trong thơ Nguyễn Quang Thiều. ...........................................70
2.2.1. Khái niệm biểu tượng ..............................................................................70
2.2.2. Những biểu tượng sinh ra từ những cơn mơ............................................73
2.2.2.1. Cánh đồng - nơi ngọn nguồn ký ức...................................................73
2.2.2.2. Nét đẹp thô vụng của người đàn bà trong thơ Nguyễn Quang Thiề76
2.2.2.3. Bóng tối biểu tượng cho thế giới hỗn mang bí ẩn, lầm lụi ...............80
2.2.3. Những biểu tượng phía “Bên kia” toà lâu đài tâm thức ..........................84

2.2.3.1. Biểu tượng cái cây phục sinh ............................................................84
2.2.3.2. Ánh sáng của ngôi sao xa mang đến khát vọng sống, phục sinh ......89
2.2.3.3. Trẻ em - người cầm hạt giống đi gieo ...............................................95
Chương 3: HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT TRONG THƠ NGUYỄN QUANG
THIỀU. ....................................................................................................................101
3.1. Thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Quang Thiều .................................102
3.1.1. Thời gian quá khứ trong thơ Nguyễn Quang Thiều ..............................104
3.1.2. Thời gian được tính bằng mùa, tháng trong tâm thức ...........................105
3.1.3. Thời gian đêm - vùng ký ức cái tôi buồn ...............................................107
3.1.4. Thời gian được tính bằng con số cụ thể. ................................................110
3.2. Không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Quang Thiều ..............................113
3.2.1. Không gian làng Chùa - sông Đáy - nơi bình yên thấm đẫm chất thơ ..114

3.2.2. Không gian sinh hoạt - không gian cánh đồng thấm đẫm phong vị văn
hóa dân gian……. ............................................................................................118
3.3. Thể thơ trong thơ Nguyễn Quang Thiều ......................................................124
3.3.1. Thể thơ như là một hình thức bộc lộ tâm thức hướng về cội nguồn .....124
3.3.2. Nguyễn Quang Thiều đi từ những thể thơ truyền thống........................125
3.3.3. Thơ văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều ................................................127
3.3.3.1. Xu thế thơ văn xuôi hiện đại và thơ văn xuôi Nguyễn Quang
Thiều………………………………………………………………..

127

3.3.3.2. Tính liên kết ý trong thơ văn xuôi Nguyễn Quang Thiều ...............129

3.3.3.3. Chất trữ tình tự sự trong thơ văn xuôi Nguyễn Quang Thiều .........133


3

3.4. Hình ảnh, ngôn ngữ thơ Nguyễn Quang Thiều ...........................................138
3.4.1. Nghệ thuật tạo dựng hình ảnh trong thơ Nguyễn Quang Thiều ............138
3.4.1.1. Hình ảnh siêu thực ..........................................................................138
3.4.1.2. Sức tưởng tượng, liên tưởng trong thơ Nguyễn Quang Thiều ........142
3.4.2. Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Quang Thiều ............................................146
3.4.2.1. Ngôn ngữ được lựa chọn và kết hợp tạo thành những thanh âm trầm
và gai sắc trong thơ. .....................................................................................147

3.4.2.2. Ngôn ngữ cặp đôi đối lập nâng tầng xúc cảm trong thơ. ................148
3.5. Nhịp thơ ........................................................................................................149
3.5.1. Nhịp của điệu nói ...................................................................................149
3.5.2. Nhịp của suy nghĩ logic liền mạch. .......................................................150
3.5.3. Nhịp miêu tả, ngắt câu thơ nhanh chậm, tự do trong thơ. .....................151
KẾT LUẬN .............................................................................................................154
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................158
PHỤ LỤC


4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sự phát triển của nền thơ ca hiện đại (sau 1975) là một mảnh đất dành cho
những ai muốn cày xới kiếm tìm thử nghiệm. Tác giả là người đi gieo chữ, là người
tiên phong, khẳng định phong cách trên địa hạt mới mẻ để làm nên đặc điểm riêng,
cho thơ mình.
Có thể nói đến những cây bút tiên phong, dám đổi mới, dám thử nghiệm,
thực sự là những câu bút khẳng định được dấu ấn của mình trong dòng văn học này.
Đây là dòng thơ ca mà những tác giả ấy đã đem đến cho thi đàn sự mới mẻ về nội
dung, hình thức thể hiện và thực sự đã làm nên một kiểu tác giả với những đặc điểm
thơ góp vào dòng chảy văn học Việt Nam. Ví như thơ Chế Lan Viên, thơ ông giàu
chất triết luận, với những đăm chiêu trầm luân của một thời rên riết điêu tàn cùng

với bóng ma hời. Thơ Lưu Trọng Lư lãng đãng mộng mơ với con nai vàng ngơ
ngác, đạp trên lá vàng khô suốt cả một chiều dài của thời kỳ văn học lãng mạn. Thơ
Hàn Mặc Tử điên loạn gào xé siêu thực với trăng, khát khao cháy bỏng với cuộc
đời, tình yêu. Cả một chặng dài những năm 30 - 45, thi ca Việt Nam đi tìm cái tôi
khát khao, cái tôi nghệ sĩ, muốn bứt phá chính mình, giải đáp cho chính mình với
bao nhiêu lời tự hỏi: củi một cành khô lạc mấy dòng (Huy Cận).
Sau năm tháng mơ mộng trong văn học lãng mạn, thi ca Việt Nam bước ra
hào sảng với cuộc chiến thần thánh của cả dân tộc. Thi ca cũng trở mình, biến
chuyển, thức dậy với dáng vóc to lớn với tinh thần quật cường cách mạng, hào sảng
mang tính sử thi ngợi ca ra đời phục vụ cách mạng. Những tác giả như Hữu Thỉnh,
Thu Bồn, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Khoa Điềm, Tố Hữu, Lê Anh Xuân, đã làm nên
một diện mạo mới cho thi ca và hình thành nên một kiểu tác giả biết hòa cái tôi vào

cái ta chung vĩ đại của thời kỳ ngợi ca Cách mạng mang dáng dấp sử thi.
Sau 1975, văn học đã thức dậy với gương mặt nhiều khía cạnh của hiện thực
đời sống. Ở đấy, văn nghệ sĩ đã đi tìm lại chính mình trên con đường cá nhân tự đổi
mới, khẳng định cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Đây là kiểu nhà thơ mang cái


5

tôi cá nhân trong thơ rất phức tạp. Một mặt, cái tôi giải phóng cá nhân đến mức cao
nhất. Mặt khác, cái tôi phủ nhận chủ nghĩa hiện thực, phủ nhận xã hội. Cảm giác về
đời sống là sự cô đơn, bất lực, mệt mỏi chán chường, thiếu niềm tin, đầy hoài nghi,
thiếu sinh khí như thơ của Đuynh Trầm Ca có viết Hôm qua tôi bỗng chết hai lần,

té ngửa bên bờ dĩ vãng xanh/ Hôm nay bỗng chết thêm hai lần nữa, té ngửa trên
đường tương lai đen. Tuy nhiên xét từng mặt thì kiểu nhà thơ hiện đại này đã
chuyển tải đuợc hết các cung bậc tình cảm, những suy cảm cá nhân rộng lớn phổ
quát nhất. Đó là triết lý về cuộc đời, về con người, về nhân dân, về xã hội, môi
trường tự nhiên. Với nhiều tác gia như Lê Đạt, Trần Dần, Ý Nhi, Hoàng Cát, Hồng
Ngát, Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ, Đỗ Minh Tuấn, Ngô Văn Phú, Hoàng Hưng,
Dương Tường, Nguyễn Quang Thiều, Vi Thùy Linh…họ đã làm nên diện mạo mới
cho thi đàn thơ ca. Giai đoạn này, ở các tỉnh phía Bắc, các nhà thơ trong nhóm
Nhân văn - Giai phẩm lần lượt xuất hiện trở lại, gây được không khí cởi mở trên thi
đàn, qua đó tạo ảnh hưởng không nhỏ đến các sáng tác trẻ. Dương Tường - Lê Đạt
với tập 36 bài thơ tình (1989), Hoàng Hưng với Người đi tìm mặt (1993). Sau Ngựa
biển (1988), Bến lạ của Đặng Đình Hưng được xuất bản năm 1991, Lê Đạt xuất

hiện với Bóng chữ (1994) và Ngỏ lời (1997). Trần Dần xuất hiện qua Cổng tỉnh
(1994). Tất cả như đang dọ dẫm tìm hướng bứt phá, cả trong lối viết lẫn cách xuất
hiện.
1.2. Cùng với kiểu tác giả đang hình thành trong lớp thế hệ thứ tư. Mỗi cái tôi đi
và đi, mãi miết nhặt và ươm mầm trên cánh đồng thi ca bằng giọng thơ khác nhau
để khẳng địmh mình. Nguyễn Quang Thiều là tác giả sớm nhận ra cần thay đổi để
có lối đi riêng, khác biệt sáng tạo và lạ lẫm. Ông nhẫn nại đi, với quan niệm, tình
yêu dành cho thi ca không hề biết mệt mỏi. Cái tôi luôn trăn trở và tự cảm bằng
giọng thơ gọi gào khác lạ, độc đáo. Ở đấy, trong suốt cuộc hành trình gieo chữ trên
cánh đồng thi ca của mình, ông để cái tôi suy cảm, đa diện nhiều chiều của ký ức
tâm thức và lối tư duy đứt quãng do liên tưởng và suy lí, nhất là trong tuyển thơ
Châu thổ. Thơ Nguyễn Quang Thiều có nỗi cô đơn, có nỗi day dứt, nỗi trăn trở suy

tư nhưng không hề có nỗi chán chường, tuyệt vọng. Thơ ông luôn khao khát sống,


6

khao khát yêu thương mãnh liệt và chiêm nghiệm triết luận về cuộc đời, thân phận,
về xã hội, nhằm gìn giữ cái tốt đẹp truyền thống, đồng thời lĩnh hội, bắt kịp được
với cái văn minh, tiến bộ. Trong tuyển tập Châu thổ, một tuyển tập “sáu trong một”,
mới nhất của ông (2010), do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, tập hợp được hầu
hết những bài thơ đặc sắc được lựa chọn theo tiêu chí riêng của tác giả trên lộ trình
sáng tác của ông.
1.3. Thơ Nguyễn Quang Thiều đã là một hiện tượng lạ xuất hiện trên thi đàn

Văn học hiện đại. Với đề tài tìm hiểu “Đặc điểm thơ Nguyễn Quang Thiều”, chúng
tôi hy vọng rằng với cách soi rọi dưới nhiều góc độ: nội dung, hình thức nghệ thuật,
so sánh với các nhà thơ cùng thời, trước và sau, để đặc điểm thơ Nguyễn Quang
Thiều, sẽ rõ hơn, góp thêm một tiếng nói, một cái nhìn về một tác giả sớm thành
công trên nền thi ca hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Trong luận văn này, phần lịch sử vấn đề, chúng tôi đi tìm hiểu nghiên cứu
bám sát vào những công trình khoa học của những tác giả đã làm về thơ Nguyễn
Quang Thiều và những bài báo, bài viết về ông theo mốc thời gian quan trọng
trong lộ trình cách tân thơ của Nguyễn Quang Thiều. Mốc thứ nhất, kể từ tập
Ngôi nhà 17 tuổi trở về trước. Mốc thứ hai từ tập Sự mất ngủ của lửa ra đời và
đạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1992) cho đến những tập thơ sau

này. Chúng tôi đi tìm hiểu theo hai luồng dư luận trái chiều về thơ ông.
Đã có nhiều tác giả viết về hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều kể từ khi sự
xuất hiện của tập thơ Sự mất ngủ của lửa như Nguyễn Đăng Điệp, Trần Mạnh Hảo,
Trần Đăng Khoa, Hồ Thế Hà, Lê Vũ, Đông La, Đỗ Hoàng, Đỗ Ánh Dương, Lê
Thiếu Nhơn, Phạm Xuân Nguyên, Phạm Khải, Chu Văn Sơn, Mai Văn Phấn,
Nguyễn Quyến …Và họ viết nhiều vấn đề, nhiều phương diện thơ trong Nguyễn
Quang Thiều như: về thi pháp (Cấu trúc Châu thổ, không - thời gian, thể loại, cách
tân…), về tư duy (nội dung), về hình thức nghệ thuật (nhịp điệu, ngôn từ, các thủ
pháp nghệ thuật…)


7


Có thể nói, kể từ tập thơ Ngôi nhà 17 tuổi của Nguyễn Quang Thiều trở về
trước, tuy không nhiều lắm những nhận định, nhận xét, nhưng cũng đủ để minh
chứng rằng, các tác giả, nhà phê bình đã nhận ra đặc điểm thơ Nguyễn Quang Thiều
là một giọng thơ đã đổi giọng đã cách tân. Ví như bài Đổi mới thơ Việt Nam đương
đại nhìn từ trường hợp Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Đăng Điệp đã làm một phép
loại suy, xét từ trường hợp Nguyễn Quang Thiều sáng tác Ngôi nhà 17 tuổi trở về
trước đến những tập thơ sau này của Nguyễn Quang Thiều. Bài Hiện tượng thơ
Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân, Mai Văn Phấn đã lấy điểm mốc tập Sự
mất ngủ của lửa để nhận định rằng Nguyễn Quang Thiều có một cuộc cách tân,
cuộc vượt thoát ngoạn mục. Bài Thơ Nguyễn Quang Thiều trong dòng chảy thi ca
cách tân sau 1975, Nguyễn Việt Chiến cũng đi từ dòng thơ hậu chiến (1975-2005),

đến trường hợp Nguyễn Quang Thiều sau 1975. Người viết cũng đi tìm nguyên cớ
và lấy mốc tập Sự mất ngủ của lửa làm điểm xuất phát để xét sự chuyển giọng, cách
tân của Nguyễn Quang Thiều…và đi đến nhận định rằng: tập Sự mất ngủ của lửa là
tập thơ đánh dấu, là điểm mốc, là khúc rẽ ngoặc trên lộ trình hình thành nên một đặc
điểm thơ Nguyễn Quang Thiều.
2.2. Kể từ sau tập Sự mất ngủ của lửa, Nguyễn Quang Thiều đã thực sự trỗi
dậy như một hiện tượng lạ lẫm, luôn dịch chuyển mang theo một thứ ánh sáng vừa
trắng lạnh khát khao, vừa rực ánh lửa của sự bức bối, phá vỡ, để đi tiếp, để vượt
biển, vượt qua sa mạc thơ. Và nó đã tạo ra luồng dư luận nhiều chiều. Song có thể
phân định thành hai luồng dư luận như sau:
Thứ nhất: Luồng dư luận lại cho rằng thơ của Nguyễn Quang Thiều là một
kiểu tác giả cách tân hiện đại, đáng để nghiên cứu, học tập, là tiếng nói góp vào

dòng chảy của Văn học Việt Nam.
Đỗ Minh Tuấn cho rằng thơ Nguyễn Quang Thiều phát lộ tâm thức thời đại
[125]; Đông La nhận xét: Nguyễn Quang Thiều là thi sĩ viết nhiều, có tầm bao quát
rộng, thay đổi được cách viết [55]; Nguyễn Đăng Điệp lại khẳng định Nguyễn
Quang Thiều với những thành công và những vần thơ đang ở mức thể nghiệm đã để
lại dấu ấn của mình trong tiến trình đổi mới thơ ca, góp phần đưa thơ Việt Nam tiến


8

thêm một bước nữa trên con đường hiện đại [18]. Ông khái quát những nét đổi mới
trong thơ Nguyễn Quang Thiều: Thực ra, Nguyễn Quang Thiều đổi mới thơ ca bằng

cách làm rất “cổ điển”. Với anh, đổi mới thơ ca trước hết là đổi mới về cảm xúc
[18]. Phạm Xuân Nguyên thì nhận ra chất giọng lạ trong thơ Nguyễn Quang Thiều
và cho đó là một khúc nhạc cất lên từ đồng quê, vọng lên từ kiếp người với một
giọng điệu rất hiện đại. Nguyễn Quyến nhận định rằng: Sự đóng góp lớn lao nhất
của tập thơ Sự mất ngủ của lửa không chỉ đối với thơ ca hiện đại nói riêng mà còn
tác động nhiều đến mỹ cảm của người Việt hiện đại [78]. Trần Vũ Khang thì xem
thơ Nguyễn Quang Thiều như một cái đỉnh bất ngờ nhô lên giữa những ngọn
đồi…đây là giọng thơ lần đầu có mặt tại Việt Nam. Nó tác động mạnh tới những
cây bút thế hệ mới phía Bắc đến nỗi có thể vạch ra một ranh giới giữa nhóm làm
thơ theo Thiều với nhóm làm thơ khác Thiều [50].
Như vậy có thể thấy, từ khi xuất hiện tập Sự mất ngủ của lửa có nhiều bài
viết về thơ Nguyễn Quang Thiều, xem đó là hiện tượng lạ lẫm về một giọng thơ

hiện đại. Tuy nhiên, thời gian càng về sau này (từ năm 2000 - đến nay), nhất là sau
Hội thảo khoa học Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều do Hội Nhà văn
tổ chức thì những nhận định về thơ Nguyễn Quang Thiều càng rõ và sâu hơn về mặt
nội dung và nghệ thuật. Nhiều nhà phê bình đã tìm hiểu kỹ về thơ Nguyễn Quang
Thiều với nhiều nhiều góc độ, phương diện, và họ thấy thơ Nguyễn Quang Thiều
lấp lánh ánh sáng của những mảnh vụn vàng từ Châu thổ… như Đào Duy Hiệp
nhận xét: Nguyễn Quang Thiều đã hoàn thành sứ mệnh của thi sĩ tiên phong trong
thời đại thi ca còn dày đặc sương mù. Tập thơ đầu tay Ngôi nhà 17 tuổi, đặc
biệt Sự mất ngủ của lửa là cánh cửa để Nguyễn Quang Thiều lên đường. Ông đã
đem đến cho thơ Việt một cấu trúc [36].
Khi nói về tư duy trong Châu thổ, Thiên Sơn nhận xét : Thơ anh sinh ra từ
những dòng nham thạch nóng bỏng, ngổn ngang, hỗn độn của tâm linh. Nó phá bỏ

cái khuôn thức thường thấy và mang một tiềm thức khác, hoặc một tiềm thức bị
khuất lấp đã quá lâu đến mức người ta có cảm giác ngỡ ngàng…một thứ thơ khởi
phát từ nội lực mạnh mẽ chất chứa những trầm tích bí mật, những huyền thoại bị


9

vùi lấp, những gấp khúc của tư duy và sự hoang thẳm của những cơn mơ
[84,tr.118]. Còn Đông La - người có nhiều bài viết, nhiều nhận xét về thơ Nguyễn
Quang Thiều đã viết: Ngọn lửa trong thơ Nguyễn Quang Thiều là ngọn lửa của tình
yêu, ngọn lửa của lương tri, sự “mất ngủ” chính là sự thao thức, sự trăn trở nghĩ
suy về toàn bộ đời sống con người [54], và Đông La kiểm chứng Châu thổ, xác tín

rằng: đối với Nguyễn Quang Thiều, không có ranh giới của sự sống và cái chết.
Tràn ngập trong thơ anh là hình ảnh những linh hồn của những người thân yêu,
linh hồn của những con vật, linh hồn của cây cối và của cả đồ vật [54]. Hồ Thế Hà
lại đi tìm căn cớ để nói rằng Nguyễn Quang Thiều làm thơ là đi từ “mẫu gốc” văn
hóa: Nguyễn Quang Thiều đã lưu giữ hồn quê và văn hóa làng quê, làm hiện lên
những trầm tích văn hóa vừa tâm linh, vừa phong tục vừa xã hội mà không phải lúc
nào, ở đâu, con người cũng nhận ra một cách day dứt, nhất là quá khứ lại là quá
khứ nhọc nhằn, lam lũ... [32,tr.212] và ông cắt nghĩa: trong thơ Nguyễn Quang
Thiều có một nỗi ám ảnh mang tên làng Chùa, quê hương tác giả. Từ mẫu gốc làng
Chùa ấy phát sinh nhiều cổ mẫu như dòng sông, những người phụ nữ ( bà, mẹ,
người đàn bà gánh nước sông…). Đó chính là căn nguyên để tạo ra một thế giới
hình ảnh đa phân, biến ảo trong thơ Nguyễn Quang Thiều [32]. Theo nhà thơ Hữu

Thỉnh: Nguyễn Quang Thiều cũng là “phù thủy” của liên tưởng tạo ra một ám ảnh
trong thơ; Và cuối cùng, mỗi bài thơ đều được dán tem. Nó là sự cộng hưởng của
những đối lập nhưng lại ban bố sự bình đẳng của chi tiết, và đó là một hiện tượng
thơ tiêu biểu cho giai đoạn hội nhập [114]. Hoặc khi đi sâu nhìn nhận lối thơ tự do
và thơ văn xuôi chảy tràn trên giấy như vậy, Nguyễn Đăng Điệp đã nói: Với Nguyễn
Quang Thiều, văn bản thơ là sự hiển thị tươi ròng những chuyển động trong cõi
mộng mị. Nó vừa tiếp nối vừa đứt quãng, vừa logic vừa phi logic, và phi logic là
chính. Nó miên man và lạ lẫm. Thiều không có ý định gói lại mà để những hồi
tưởng kia hiện lên như những thước phim không đầu không cuối [17]. Nguyễn Việt
Chiến sau một thời gian dài bảo Nguyễn Quang Thiều là con lạc đà cõng thơ trên sa
mạc thì đến nay ông vẫn nói thế nhưng sâu sắc hơn: Thiều như một con lạc đà thơ,
đang cõng một cơn khát thơ trên lưng, đi qua bóng đêm của một cơn khát lớn hơn



10

có tên là sa mạc thơ…Với các bài thơ văn xuôi mang vẻ đẹp của những cơn giông
lớn kiểu này, anh xứng đáng là một giọng thơ lực lưỡng, một nông phu thật sự vạm
vỡ trên cánh đồng chữ nghĩa [08].
Bên cạnh luồng dư luận cho rằng thơ Nguyễn Quang Thiều mang tâm thế
của tầm đón đọc, thì có một luồng dư luận lại cho rằng thơ Nguyễn Quang Thiều
không phải là thơ, là thứ thơ lai căng, mất gốc. Trần Đăng Khoa một mặt thừa nhận
Nguyễn Quang Thiều đã phá bỏ lối đi quen, mở ra con đường mới chưa hề có
nhưng mặt khác lại cho rằng thơ Nguyễn Quang Thiều Tây đặc sản của thơ Thiều

là cái giọng lơ lớ tây [51]. Riêng Trần Mạnh Hảo với bài viết Hát lên bằng nọc độc
trong mình (1994) đã cho rằng thơ Nguyễn Quang Thiều là thứ thơ non kém về mặt
nghệ thuật, thơ giả cầy, thơ dịch xổi [34]. Ngoài ra trên một số trang văn học mạng
cho rằng thơ anh chưa phải là thơ, nó rối rắm, làm thơ như vậy thì ba ngày là xong
một tập thơ, hoặc nhận định Nguyễn Quang Thiều viết truyện ngắn thì hay hơn làm
thơ. Tuy nhiên, thời gian là độ lùi hữu dụng cho việc thanh lọc, tẩy trần tác phẩm.
Cho đến thời điểm này, giới phê bình, nghiên cứu cũng như bạn đọc đã đón nhận và
tìm kiếm nét đẹp tiềm ẩn trong thơ ông.
Dưới những luồng dư luận thuận và trái chiều như vậy, thì hẳn nhiên thơ của
Nguyễn Quang Thiều trong những năm 80, 90 của thế kỷ trước và đầu thế kỷ 21
này vẫn còn nhiều điều ngổn ngang đáng tìm hiểu. Và thực sự đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu về thơ ông. Nhiều công trình khoa học lớn nhỏ như luận án thạc sĩ,

khóa luận tốt nghiệp lấy đối tượng nghiên cứu cho mình là thơ Nguyễn Quang
Thiều. Nguyễn Thị Hiền trong luận án Nguyễn Quang Thiều trong tiến trình đổi
mới thơ Việt Nam sau 1975 (2003 - Hà Nội) đã tiếp cận thơ Nguyễn Quang Thiều
trong bối cảnh thơ đương đại Việt Nam, từ đó rút ra những cách tân thi ca của thơ
anh đối với nền thơ ca hiện đại. Với đề tài Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Quang
Thiều(2000 - Hà Nội), Chu Thanh Hằng đi tìm hiểu về thế giới nghệ thuật, cái tôi
trữ tình, hệ thống biểu tượng, sự vận động giữa chúng trong thơ Nguyễn Quang
Thiều. Lưu Thị Kim với khóa luận tốt nghiệp Tạo hình trong thơ Nguyễn Quang
Thiều(2001 - Hà Nội) đã làm rõ bản chất và vai trò của tạo hình trong thơ hiện đại,


11


những cách tân đổi mới trong bút pháp tạo hình của Nguyễn Quang Thiều như màu
sắc, đường nét, bố cục, ý nghĩa của cách tân trong tạo hình thơ của tác giả. Lê Thị
Bích Hợp, với đề tài Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến
2000(2005- Hà Nội), đã đi tìm hiểu về tư duy, những thay đổi tư duy, cái mới lạ,
độc đáo trong tư duy thơ và hệ thống biểu tượng, trong thơ Nguyễn Quang Thiều.
2.3. Như vậy, chúng ta có thể thấy, thơ Nguyễn Quang Thiều là một hiện tượng
lạ và đã có nhiều nhà nghiên cứu phê bình đánh giá, nhiều bài viết của tác giả báo
chí có tên tuổi, bạn đọc yêu thơ đón nhận, những người nghiên cứu khoa học cũng
đã lấy thơ ông làm đối tượng nghiên cứu. Song, đâu đó, chúng tôi nhận thấy vẫn
còn lẻ tẻ ở mỗi khía cạnh, mỗi góc độ, khi nhận định về thơ ông. Với đề tài “Đặc
điểm thơ Nguyễn Quang Thiều”, chúng tôi sẽ góp thêm một tiếng nói mang tính

riêng biệt trong quá trình đi tìm hiểu về nội dung và phương diện nghệ thuật, tổng
hợp và khái quát về đặc điểm của thơ Nguyễn Quang Thiều.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tuyển tập Châu thổ của Nguyễn Quang Thiều.
Trong tuyển tập có các tập thơ được chính nhà thơ tuyển chọn như:
- Ngôi nhà 17 tuổi, 1990, NXB Thanh niên
- Sự mất ngủ của lửa, 1992, NXB Lao động (Giải thưởng Hội Nhà văn
1993)
- Những người đàn bà gánh nước sông, 1995, NXB Văn học
- Nhịp điệu châu thổ mới, 1997, Hội VHNT Hà Tây
- Bài ca những con chim đêm, 1999, NXB Hội Nhà văn
- Cây ánh sáng, 2009, NXB Hội Nhà văn



12

4. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu về đặc điểm thơ Nguyễn Quang Thiều qua hai phương
diện: Nội dung và hình thức nghệ thuật.
Ngoài ra, chúng tôi có tìm hiểu thêm những cứ liệu khác liên quan hoặc bổ
sung cho việc nghiên cứu về đặc điểm thơ Nguyễn Quang Thiều trong trường
hợp có thể như hội hoạ, truyện ngắn, đời tư…
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp loại hình: phương pháp cần thiết để căn cứ tìm ra sự biến thể,
phá cách, cách tân của thơ Nguyễn Quang Thiều.
Phương pháp thống kê - hệ thống: chúng tôi thống kê số các số liệu cần phục
vụ cho luận văn và hệ thống chúng làm tư liệu nhất định cho luận văn.
Phương pháp so sánh: phương pháp cần thiết nhằm làm nổi rõ đặc điểm thơ
Nguyễn Quang Thiều so với đặc điểm thơ của các nhà thơ cùng thời khác.
Phương pháp tâm lý - xã hội học: phương pháp cần thiết tìm và giải mã được
những suy cảm và ẩn ức tâm linh, tâm lý, phồn thực xuất hiện trong thơ Nguyễn
Quang Thiều.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: phương pháp để chúng tôi sử dụng phân
tích, tổng hợp từ góc độ nội dung đến nghệ thuật trong lộ trình sáng tác của Nguyễn
Quang Thiều.

Phương pháp tiếp cận thi pháp học: tìm ra những hình thức nghệ thuật biểu
đạt trong thơ Nguyễn Quang Thiều
6. Đóng góp của đề tài
Với đề tài “Đặc điểm thơ Nguyễn Quang Thiều”, chúng tôi mong rằng sẽ
góp cái nhìn tổng hợp mang tính hệ thống cho một giọng thơ, một phong cách, một
lối đi mới của Nguyễn Quang Thiều trên thi đàn đương đại. Đề tài với hy vọng sẽ
giải đáp được những điều còn vướng mắc, khó hiểu, hoặc cung cấp phần tư liệu


13

đáng kể cho những đối tượng muốn tìm hiểu kỹ về thơ Nguyễn Quang Thiều. Bên

cạnh đó, đề tài cũng chỉ ra một - Nguyễn Quang Thiều với một số tác giả cùng thời
mang đặc điểm sáng tác của luồng gió mới thi ca, nhận diện nó, phát triển nó, trên
dòng chảy thi ca hiện đại bấy giờ.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, gồm ba
chương:
Chương 1: Thơ Nguyễn Quang Thiều và cái tôi trữ tình trong thơ.
Trong chương này, chúng tôi tiến hành giới thiệu chung về cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác của tác giả Nguyễn Quang Thiều. Bám sát vào hai giai đoạn sáng
tác của tác giả để thấy sự chuyển biến, cách tân theo chiều hướng thơ hiện đại cả về
nội dung và hình thức nghệ thuật trên thi đàn lúc bấy giờ. Sau đó chúng tôi đi tìm
hiểu cái tôi trữ tình của tác giả được thể hiện trong Châu thổ. Cái tôi đa diện nhiều

chiều được triển khai qua nhiều khía cạnh thể hiện trong tuyển tập. Đó cũng là
duyên cớ để chúng tôi triển khai Những suy cảm và hệ thống biểu tượng cũng như
những phương diện nghệ thuật mà chúng tôi tìm hiểu ở hai chương sau.
Chương 2: Những suy cảm trong thơ Nguyễn Quang Thiều.
Ở chương này, chúng tôi đi tìm hiểu về những suy cảm trầm tích được thể
hiện trong Châu thổ. Căn cứ và xác thực từ những tư liệu về cuộc đời và những tài
liệu như ký, truyện ngắn và tản văn của tác giả Nguyễn Quang Thiều để minh
chứng rằng những suy cảm trầm tích từ vô thức của ông là bắt nguồn từ hiện thực
cuộc sống, từ vốn sống, trải nghiệm được nhà thơ tái tạo vào tác phẩm bằng cơn mơ
và trí tưởng tượng phong phú giàu chất siêu thực. Ở đó, Châu thổ đã hình thành một
hệ thống thi ảnh biểu tượng về những con người, sự vật, con vật nơi làng Chùa sông
Đáy, mà tác giả là người luôn chủ động hướng tìm đến với khát khao và hy vọng.



14

Chương 3: Hình thức nghệ thuật trong thơ Nguyễn Quang Thiều
Ở chương này, chúng tôi đặc biệt đi tìm hiểu về nghệ thuật không - thời gian
trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Chúng tôi nghiên cứu thành hai mảng rõ rệt: Thời
gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật. Ở thời gian nghệ thuật, chúng tôi tìm
thấy những nét đẹp cũng như những cách biểu đạt thời gian trong thơ của tác giả và
lý giải duyên cớ vì sao trong thơ Nguyễn Quang Thiều lại thường xuất hiện dạng
thức thời gian đó. Với không gian nghệ thuật, chúng tôi đi tìm hiểu hai mảng không
gian tiêu biểu ( không gian làng Chùa - sông Đáy và không gian sinh hoạt trên cánh

đồng Châu thổ) để thấy không gian nghệ thuật gắn liền với con người, biểu tượng
đã được triển khai ở chương hai. Sau đó, chúng tôi đi nhấn mạnh thể loại thơ tự do
và thơ văn xuôi. Với hai thể thơ này, chúng tôi đã thống kê và vẽ biểu đồ ( Phụ lục )
để minh chứng rằng: Nguyễn Quang Thiều là nhà cách tân, nhà thơ hiện đại và đó
cũng là hai thể loại thuộc sở trường của ông trong sáng tác. Ngoài ra, chúng tôi có
tìm hiểu thêm một số hình thức nghệ thuật khác, nhằm biểu đạt được phần nội dung
đã triển khai ở hai chương trên.
Tóm lại, với ba chương về đề tài “Đặc điểm thơ Nguyễn Quang Thiều”
chúng tôi đã cố gắng làm rõ một phong cách sáng tác, một lộ trình cách tân thơ đầy
thi vị và cũng đầy cam go thử thách trên thi đàn của tác giả Nguyễn Quang Thiều.
Bên cạnh đó, cùng với cách so sánh đối chiếu với các nhà thơ cùng thời, cùng xu
hướng cách tân hiện đại với Nguyễn Quang Thiều để thấy rằng thơ ca Việt Nam

hiện đại đang có những ngã rẽ mang xu hướng tích cực.


15

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ
1.1. Cuộc đời và sáng tác của Nguyễn Quang Thiều
1.1.1. Cuộc đời
Là nhà văn tâm huyết, nhà báo dày dạn, nhà viết kịch bản, nhà dịch thuật, và
với nhiều vai trò, trách nhiệm khác như phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, biên

tập viên báo chí nhưng Nguyễn Quang Thiều vẫn nặng nợ với thơ. Có thể nói, đó là
cái “duyên ngầm” của một kỹ sư ngành điện rẽ hướng, “chuyển tông”. Nguyễn
Quang Thiều chấp bút làm thơ từ những năm đầu thập niên 80 và sớm thành công.
Năm 1983 - 1984, anh đạt giải ba cuộc thi thơ của tạp chí Văn nghệ Quân đội, năm
1989 đạt giải thơ hay. Tập thơ Ngôi nhà 17 tuổi xuất bản năm 1990 và sau đó một
năm thì được bình chọn là tác phẩm hay nhất của năm. Những âm hưởng ban đầu
của tập thơ đầu tay, chính là nguồn cảm hứng thôi thúc ông tiến tục cuộc hành trình
dấn thân với thi ca. Trong sự trở về với tiềm thức, miền vô thức võ não mặc định
bằng kí ức tuổi thơ, bằng niềm thương nhớ xóm làng, quê hương, cha mẹ và con
người vùng Châu thổ đã trở thành nhân chứng, thành là tài sản quý giá cho gia tài
thơ ông:
Tôi như con sáo mỏ gà/ Bay về triền đất bãi/ Tôi của triền sông hai mươi tám

tuổi/ Những dấu chân trên phù sa rong ruổi/ Của hoa ngô cuối vụ khô giòn/ Của
hoa cải rưng rưng lòng không cầm được / Của bồn chồn mùa tu hú kêu mau (Trở về
bờ bãi - Tập Ngôi nhà 17 tuổi).
Đối với làng quê, có thể Nguyễn Quang Thiều là người con đã mạnh dạn dứt bỏ
ra đi để bắt đầu cho sự trở về. Ông trở về trong tâm thức của chính mình, trong trái
tim luôn thao thức để giữ “một ngọn lửa” không bao giờ tắt. Mọi người vẫn gọi ông
là người luôn giữ lửa trong thơ mình. Nhất là trong hoàn cảnh xã hội như hiện nay,


16

cuộc sống công nghiệp hiện đại, và đầy bất trắc thì việc “giữ lửa” cho thơ mình là

một điều không dễ.
Từ nhỏ, tuổi thơ của Nguyễn Quang Thiều đã gắn bó với gia đình, quê hương,
con người nơi đây. Sống trong tình yêu thương gia đình, Nguyễn Quang Thiều
chứng kiến, trải nghiệm tuổi thơ với quê hương - cái nôi thơ ca làng Chùa - sông
Đáy. Nhà thơ luôn giữ trong trái tim mình nỗi nhớ thương, nỗi đau đớn, nỗi khát
khao đến độ đầy dự cảm, để đi kiếm tìm, khám phá, ngưỡng vọng và thành kính cội
nguồn đến tha thiết.
Nguyễn Quang Thiều nhận thấy cần dũng cảm, bước những bước lạc nhịp, ra
khỏi “dàn đồng ca”, bứt phá một lối đi mới, vượt qua phương thức cũ (phương thức
thể hiện truyền thống với những câu thơ đèm đẹp như bài Mưa đêm: Sợi mưa đan
nối nỗi tâm tình/ Tôi ở trong mưa tươi mát quá/ Trong ngần ý nghĩ tới bình minh),
để nỗ lực tìm kiếm một phương thức thể hiện mới. Bắt đầu từ thế giới tập thơ Sự

mất ngủ của lửa, ông đã đưa ra một quan niệm mới về thơ Làm mới lại những gì đã
cũ và làm sống lại những gì đã chết [101]. Thơ Nguyễn Quang Thiều bấy giờ không
còn là những cảm xúc dìu dịu, những câu thơ vần điệu, ngắn gọn, những hình ảnh
trong sáng của một thoáng hè thị xã/ chợt nghiêng mình sang thu/ Con về thăm
ngoại ngoại ơi/ Làng xưa chiều nắng trong mưa; hay là cảm xúc của chàng trai đa
tình trong bài thơ Chiều mưa đầu tay mà tác giả viết về cô gái đẹp vừa thoáng qua
dưới giàn bông giấy: Chiều nay trời đang mưa/ Đợi em hoài chẳng thấy/ Trước
thềm giàn bông giấy/ Vẫn nở màu nhớ thương/ Em đi đâu về đâu/ Con đò không
bến đợi/ Chiều mưa ướt mái đầu/ Trời hoàng hôn vời vợi [113]. Ở đó, hiển hiện
trong thơ ông là thế giới của những bụi bặm, tiếng ồn, hỗn mang, trần trụi, với cảnh
đời sống nhiều bất trắc, xô bồ, bằng những câu thơ tự do dài, trúc trắc, hình ảnh
không ăn nhập, đầy ứ sự vô tình. Nó như một lời thống thiết gọi gào mà nhà phê

bình Phạm Xuân Nguyên gọi đó là tiếng hú gào của trường phái thơ Beat của Mỹ.
Yêu thơ ông, đọc chậm, như khi nhấm nháp một mẩu thuốc bắc, đắng rồi sẽ
ngọt, cái ngọt dìu dịu, thấm sâu và như có thể chữa được nhiều bệnh. Đọc thơ ông,
thẩm thấu thơ ông, là yêu quý cả phong cách ông, tính cách ông, đạo đức và con


17

người ông. Con người luôn lấy đạo nghĩa, chữ tính, chữ tâm, chữ tài, chữ trọng, làm
phương châm sống. Thơ Nguyễn Quang Thiều cho chúng tôi một ấn tượng đặc biệt.
Ông góp nhặt cho đời, sản sinh cho đời, cho thơ những tinh túy, đúc kết từ chiêm
nghiệm, từ trải nghiệm và sự thổn thức từ cuộc sống mà thành.

1.1.2. Tác phẩm
Đến nay Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã xuất bản 10 tập thơ, ngoài sáu tập
tuyển trong Châu thổ gồm có: Ngôi nhà tuổi 17 (1990); Sự mất ngủ của lửa (1992);
Những người đàn bà gánh nước sông (1995); Những người lính của làng(1996);
Thơ Nguyễn Quang Thiều (1997); Nhịp điệu châu thổ mới (1997); Bài ca những
con chim đêm (2000), và tập Cây ánh sáng (2009). Còn có các tập như: Tập thơ The
Women Carry Water (bản Anh ngữ của cuốn Những người đàn bà gánh nước sông)
được University of Massachusetts Press xuất bản năm 1997, được The National
Translation Association of America trao giải thưởng vào năm 1998. Ngoài ra, ông
còn được mời tham gia đọc thơ mình trên nhiều đất nước như Hội thảo thơ: Năm
nhà thơ nổi tiếng tại Hàn Quốc, và dịch thơ mình trên nhiều tập san trên thế giới
như Mỹ, Úc, Ailen, Na-uy, Nhật Bản, Thụy Điển, Ailen, Colombia, Vênêzuêla,

Thái Lan, Đài Loan. Ông đã xuất bản 2 tiểu thuyết, 5 tập truyện ngắn, 3 tập truyện
cho thiếu nhi, và 1 tập tiểu luận. Hai tập truyện ngắn của ông đã được dịch và xuất
bản tại Pháp: La Fille Du Fleuve (Cô gái của dòng sông - 1997), và La Petite
Marchande De Vermaicelles ( Người đàn bà bán bún - 1998). Ông còn tham gia vào
lĩnh vực sân khấu - điện ảnh, nhiều kịch bản của anh đã được dựng thành phim.
Ngoài giải thưởng Hội Nhà văn năm 1993, Nguyễn Quang Thiều còn nhận được
nhiều giải thưởng văn học trong nước ở nhiều thể loại như tiểu thuyết, thơ, truyện
ngắn, sách thiếu nhi, kịch bản phim…
Hiện tại ông đang viết ba tác phẩm lớn: Một là, Trường ca Lò Mổ, đã được
16 chương. Xuyên suốt trong 16 chương ấy, hiển hiện một cảm hứng chủ đạo: tình
yêu, tự do và khát vọng. Hai là, Trường ca Bí mật thành Cổ Loa. Ba là, Trường ca
thơ văn xuôi Hồ sơ về một thị xã bị mất tích. Ở đó, nó dựng lại một vẻ đẹp đã biến



18

mất của một vùng văn hóa, của một miền quê. Mỗi một bài thơ là một câu chuyện
về đời sống đô thị, là vấn đề để phục sinh lại đời sống con người, kêu gọi, thức dậy
giấc mơ lớn về cuộc sống tốt đẹp, những điều hoàn hảo trong đời sống.Trên con
đường đi tìm kiếm và xây đắp lại những gì đã mất, tác phẩm sẽ cho chúng ta cảm
giác như bắt gặp sự cô đơn trống vắng kinh hoàng, ít tìm thấy sự chia sẻ của con
người với thiên nhiên. Hồ sơ về một thị xã bị mất tích, không hề có tên bài mà được
đánh số. Mới đọc, có thể bạn sẽ nghĩ rằng đó là những ghi chép rời rạc, (hồ sơ về hồ
nước), trên vùng đất đã đánh mất dần nét đẹp văn hóa truyền thống Bắc Bộ, (vùng

thị xã Hà Đông), nhưng điều có được từ tác phẩm, xuyên suốt cấu trúc tư duy tác
phẩm, là những điều tác giả muốn gửi gắm, là thông điệp cho toàn cầu.
Có thể nói, sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Quang Thiều không thể gọi là
nhiều là ít, mà là sự đóng góp đáng kể trong thi đàn, tạo được từ trường mạnh, thu
hút được lực lượng sáng tác ở nhóm thể nghiệm trẻ (nhóm thứ hai - sau Nguyễn
Quang Thiều như Vi Thùy Linh, Nguyễn Quyến, Đinh Thị Như Thúy) thay đổi cách
thể hiện, bứt phá cho cả một kiểu sáng tác, một luồng tranh luận đáng nể trong thời
kỳ văn học thi ca thời bấy giờ. Điều đó, càng rõ hơn khi chúng ta có thể tìm hiểu
thơ ông qua chặng đường cơ bản, xem như là hai mốc lớn, đánh dấu sự chuyển biến
trong tư duy thơ, trong phong cách thể hiện của Nguyễn Quang Thiều. Đó là, giai
đoạn đầu từ bài Lạc nhịp (1987) trong tập Ngôi nhà 17 tuổi, với cảm xúc cá nhân
ngu ngơ của chàng trai xuất thân từ làng Chùa, tình cảm chân thành, trong sáng,

cũng là cái mốc biến chuyển trong tư duy của ông. Trăn trở băn khoăn, về cách viết,
cách thể hiện, phải bước lạc nhịp ra ngoài sự vận động “ êm ả”, truyền thống của thi
ca lúc ấy, Nguyễn Quang Thiều suy nghĩ, cần phải tìm lại đúng là mình, đúng với
những gì mình muốn nói. Ông mạnh dạn tách ra khỏi dàn đồng ca thi ca, viết tập
Ngôi nhà 17 tuổi (1990). Một năm sau khi tập thơ được lọt vào vòng chung khảo
cuối cùng của Hội Nhà văn thì dư luận về một Nguyễn Quang Thiều đã “dấy” lên.
Mốc thứ hai, trong sự nghiệp sáng tác của ông, đó là sự ra đời và đoạt giải của tập
Sự mất ngủ của lửa (1992) của Hội Nhà văn Việt Nam. Cột mốc thứ hai này thực sự
tạo dựng được một Nguyễn Quang Thiều trong mắt của người đọc, tạo luồng dư


19


luận nhiều chiều trong giới phê bình và thi ca. Kể từ đây, thơ ông đã có thể nói là có
một bước đi mới hoàn toàn khác hẳn. Nó khẳng định một phong cách, một tầm
nhìn, tầm đón đọc, một cái tâm vì thi ca, vì sự giữ lấy không muốn đánh mất mình
của đội ngũ sáng tác.
1.1.3. Những nguồn ảnh hưởng đối với thơ Nguyễn Quang Thiều
Nguyễn Quang Thiều sinh ngày 3 tháng 2 năm 1957 tại làng Chùa ven bờ
sông Đáy, thuộc địa phận tỉnh Hà Tây, nay là Hà Nội. Nhà thơ chịu nhiều ảnh
hưởng của làng quê. Tần số thi ảnh về cố hương ông bà tổ tiên, dòng sông, cánh
đồng, bến bãi, dày đặc trong cõi mộng mị hoang tưởng ám ảnh thơ ông, được gắn
kết với “cuống nhau” văn hóa cộng đồng văn hóa chiêm trũng Bắc bộ.
Làng quê, xứ sở là nơi đi về trong tâm thức, là khắc khoải hy vọng của người

con xa quê, chịu ơn quê, nơi đã nuôi dưỡng hồn thơ, cho ông nguồn cội, mạch
nguồn xúc cảm cho thơ. Cứ ba năm một lần, vào ngày 12 và 13 tháng giêng âm lịch
làng Chùa có truyền thống mở hội thơ. Dù ai đi đâu về đâu, cũng nhớ ngày hội thơ
của làng mà về thưởng thức, góp mặt, lắng nghe. Đây là dịp để người làng Chùa
sống trong lễ hội làm thanh sạch tâm hồn. Tâm hồn người làng Chùa yêu thơ bằng
con tim, bằng cái tâm biết nói Một chữ có Ân thì nở hoa/ Vạn chữ có Oán thì sinh
sâu bọ [110,tr. 21], mặc dù cuộc sống hiện tại còn khó khăn, vất vả, với bộn bề lo
toan và kể cả những đắng cay, mất mát… Người làng Chùa tâm niệm Người làng
Chùa làm thơ vì niềm vui, làm thơ vì nỗi buồn, làm thơ vì tuyệt vọng và có lúc làm
thơ vì cái chết, nhưng không bao giờ làm thơ vì lòng thù hận [109], cùng với một
niềm tin vào cuộc đời, cuộc sống và con người nơi đây, thì thơ là nhân tố để họ gửi
gắm niềm tin ấy Người yêu thơ, ta yêu người/ Nhưng người không yêu thơ, ta phải

yêu người hơn [110, tr.141].
Sống trong một gia đình nền nếp và tràn ngập tình thương, người cha nghiêm
khắc, người mẹ dân dã mà thâm trầm tinh tế, Nguyễn Quang Thiều như được bắt
đầu từ nguồn mạch ấy. Cha là người truyền cho ông ý chí, lý lẽ, chân lý làm người,
mẹ là người gieo vào lòng ông sự tinh tế, dịu dàng và sự hài hước. Người bà gieo


20

trong thơ Nguyễn Quang Thiều nguồn cội, những rung cảm giàu liên tưởng đến phá
vỡ hiện thực. Cảm hứng văn chương của ông được khơi nguồn từ mẹ, phát sinh và
lớn mạnh từ những câu chuyện của người bà. Từ những lời thủ thỉ, không dứt trên

giường bệnh của bà, với mái tóc dài không chịu cắt ngắn của bà, cậu bé Thiều đã
mộng mị đi trong kí ức, mộng mị đi trong tâm thức.
Có thể nói, quê hương, cha mẹ, những con người của làng quê thân thuộc đó
đã trở thành những tiếp biến mang tính biểu tượng, những ám ảnh vừa gai góc, vừa
dịu vợi trong thơ ông.
Bên cạnh đó, những năm sau 1975, với sự ảnh hưởng, xâm nhập của văn học
phương Tây, và văn học châu Mỹ Latin, Văn học Việt Nam đã chịu sự chi phối,
điều tiết trên diện rộng. Có thể kể đến cả một thế hệ văn nghệ sĩ lúc bấy giờ. Mỗi
nghệ sĩ là một phong cách. Trong màn sương còn mờ ảo về phương pháp lý luận
của nghệ thuật thơ ca, nhưng tất thảy đều dấn bước lần tìm hướng đi cho thơ mình.
Có người bộc phát, đột biến chuyển dịch ( Trần Dần), có người kế thừa từ truyền
thống qua hiện đại ( Mai Văn Phấn, Đồng Đức Bốn), cùng với thế hệ nhà thơ

trưởng thành sau cuộc kháng chiến chống Mỹ oanh liệt (Thái Thăng Long, Trương
Nam Hương …), Nguyễn Quang Thiều càng không phải là một ngoại lệ. Nhận diện
xu thế tiếp biến của văn học trên thế giới và trong nước, cùng với sự am hiểu, tiếp
cận nền văn minh văn hóa từ đất nước Cuba khi ngồi trên ghế nhà trường trong
những năm du học, từ những đất nước, có những nền văn hóa khác nhau mà ông đã
có dịp đi qua và trải nghiệm. Nó đã ảnh hưởng đến nhãn quan đổi mới nghệ thuật
thi ca của ông sau này. Có người bảo thơ ông giống trường phái thơ Beat của Mỹ,
có người bảo thơ ông lai căng, thơ dịch, mang âm hưởng của thơ Tây Ban Nha,
song đối với ông, điều ảnh hưởng, có thể kể đến đó là bản dịch nghĩa của thơ
Đường, thơ J.Brodsky và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo phương Tây. Những tác giả
như Kafka, W.Falkner, A.Camus, G.Marquez... Trong đó, chúng tôi chú ý đến ảnh
hưởng của J.Brodsky, nhà thơ đạt giải Nobel năm 1987, được sinh ra tại Nga nhưng

sang Mĩ định cư. Nhà dịch giả Hoàng Ngọc Biên có tâm sự rằng, mỗi khi dịch thơ J.
Brodsky lại nghĩ đến thơ Nguyễn Quang Thiều.


21

Hoặc có thể thấy, trong phong cách thể hiện thơ, nhất là những tập sau này,
phảng phất hình ảnh, con người từ đất nước Tây Ban Nha, Cuba, xa xôi, Nguyễn
Quang Thiều đã liên kết các hình ảnh “lạnh” không ăn nhập nhau như những chú
bò, những sọ người những ngón tay, những vũng máu, những thây chết, tạo thành
trường nghĩa của kết cấu mang cảm giác gai rợn, bằng nhiều động từ lấn át những
tính từ vốn có trong thơ trước đây của ông. Nhưng dẫu thế nào, thì cảm hứng về

cuộc sống, con người vẫn là tâm điểm điều ông muốn nói:
Những con cá ngủ và trôi nghiêng trong dòng nước chảy ấm/ dọc bờ sông, những
bông hoa đầu tiên của mùa hạ tỏa sáng bởi những ngôi sao tháng Năm/ .. Thế gian
những dòng sông chảy, những cây thông thì thầm, những đứa trẻ khóc, những
chàng trai chết, những đàn bà/ sợ hãi, những ô cửa chạy trốn vào hốc mắt/ … Xa
xôi. Một con đuờng ngập máu một bàn tay nhỏ bám chặt những ngọn cỏ như bám
tóc người mẹ [110,tr. 286]
So với đoạn thơ của nhà thơ của đất nước Tây Ban Nha như sau:
Hoặc có thể thấy, thơ ông giống với giọng thơ của xứ Tây Ban Nha với cách
liên kết các hình ảnh “lạnh” không ăn nhập nhau tạo thành trường nghĩa của kết cấu
mang cảm giác gai rợn.
Với những chiếc rễ,những ngón tay gân guốc/ Rêu và cỏ sẽ mở bong hoa cái –

sọ đầu anh/ Nhưng máu anh vẫn còn vui vẻ/ đến vang ca trên những bãi cỏ/ đến
nhỏ giọt từ những chiếc sừng nhọm run sợ/ đến bảng lảng không tâm hồn trong
sương mờ/ đến vấp phải hàng nghìn những móng chân/ Máu anh đến tựa một chiếc
lưỡi dài,buồn, u tối/ tạo thành một cái hồ hấp hối.
Như vậy, từ những dẫn chứng trên chúng tôi thấy có sự tương đồng về ý, cấu
trúc của ý, cách tạo hình ảnh trong câu thơ của Nguyễn Quang Thiều. Từ đó có thể
khẳng định rằng thơ Nguyễn Quang Thiều là một sự tiếp biến từ nền tảng thi ca dân
tộc.


22


1.1.4. Quan niệm thơ của Nguyễn Quang Thiều
Sau bao năm bôn ba trải nghiệm thực tế cuộc sống một cách đầy bản lĩnh,
Nguyễn Quang Thiều đã thành công và khẳng định vị trí trên nhiều lĩnh vực. Nhưng
đối với thi ca, ông vẫn dành niềm ưu ái nhiều nhất, xem đó là tâm niệm, là phương
châm để sống, với phong cách của một nhà thơ đích thực. Niềm đam mê nghệ thuật
với tiềm năng giàu nội lực thay đổi cách thể hiện thơ theo quan niệm thẩm mỹ
riêng, Nguyễn Quang Thiều đã làm nên một cuộc cách tân hiện đại đầy sóng gió.
Chữ “riêng” này, có thể hiểu và xét rộng hơn trên thi đàn đối với quan niệm về thơ
ca của các nhà thơ. Chẳng hạn như đối với các nhà thơ trung đại (Nguyễn Du,
Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương), thì quan niệm thơ ca là chí người quân tử, dùng
thơ ca để thể hiện sự ẩn dật lòng yêu nước thương dân, cái tôi đòi quyền cá nhân
thỏa mãn giải phóng, gò bó khắc khe đối với phận người của xã hội phong kiến.

Nhà thơ của phong trào thơ mới (Thế Lữ, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử),
thì quan niệm thơ ca là sự giải tỏa, là cách thể hiện cái tôi cá nhân buồn quay ngược
lại với hiện thực. Các nhà thơ Cách mạng (Trần Mai Ninh, Nguyễn Đình Thi, Tố
Hữu), lại quan niệm thơ ca là vũ khí sắc bén phục vụ công cuộc cách mạng, mang
tính chiến đấu. Những nhà thơ hiện đại sau 1975 lại có quan niệm về thơ ca theo
từng cách riêng của mình, điều đó cũng thể hiện ở phong cách sáng tác của họ. Trần
Dần, ông quan niệm sáng tác thơ ca là cách làm nên chữ Tôi giản dị đồng nhất vào
chữ, với nhà thơ Lê Đạt thì quan niệm Nhà thơ là phu chữ, nhà thơ Thanh Thảo cho
rằng: chữ nghĩa cũng không là chữ nghĩa, là ý thức mà không phải ý thức, là vô
thức mà không hẳn vô thức. Thơ đúng là sự bộc lộ tận cùng của nhà thơ. Nguyễn
Trọng Tạo - người luôn có khát vọng cách tân thơ ca đã quan niệm: Nhà thơ không
chỉ là công dân của một quốc gia mà phải là công dân của thời đại… Nhà thơ phải

biết biến hiện tại, tương lai thành quá khứ để tạo ra kinh nghiệm sống và cảm xúc
mới [95]; thì Nguyễn Quang Thiều - một nhà thơ của thập niên 80 có một quan
niệm riêng, một phong cách riêng, không phải là ngoại trừ. Trong cuốn Nhà văn
hiện đại do nhà thơ Hữu Thỉnh giới thiệu, trong đó có viết về tác giả Nguyễn Quang
Thiều. Khi bộc bạch, nhà thơ đã khẳng định ông: viết bởi khát vọng được giải tỏa.


×