Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

đặc điểm tiểu phẩm lê thị liên hoan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thi Thơ

ĐẶC ĐIỂM TIỂU PHẨM
LÊ THỊ LIÊN HOAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
i


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thi Thơ

ĐẶC ĐIỂM TIỂU PHẨM
LÊ THỊ LIÊN HOAN
Chuyên ngành : Lí luận văn học
Mã số

: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN HOÀI THANH



Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
ii


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lí luận văn học với đề tài Đặc
điểm tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan, tôi đã nhận được sự quan tâm của Ban chủ nhiệm khoa
Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, của quý thầy cô giảng dạy chuyên
ngành Lí luận văn học (Cao học khóa 22 – Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh). Đặc biệt, tôi
còn nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của TS. Nguyễn Hoài Thanh, người trực tiếp hướng
dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến TS. Nguyễn Hoài Thanh, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, quý
thầy cô, các phòng ban của trường Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh (Phòng Sau đại học,
Thư viện trường) cũng như gia đình và bạn bè đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi
trong suốt thời gian vừa qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Người thực hiện

Nguyễn Thị Thi Thơ

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào khác.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Thi Thơ


2


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Lí do lựa chọn đề tài ....................................................................................................... 5
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 5
3. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................................... 7
4. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 7
6. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................................ 8
7. Bố cục luận văn ............................................................................................................... 8
8. Đóng góp của luận văn ................................................................................................... 9

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THỂ LOẠI TIỂU PHẨM VÀ TIỂU PHẨM LÊ
THỊ LIÊN HOAN ...................................................................................................... 10
1.1. Thể loại tiểu phẩm ..................................................................................................... 10
1.1.1. Một số quan niệm về tiểu phẩm ............................................................................ 10
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của tiểu phẩm trên thế giới ............................ 13
1.1.3. Một số dạng thức cơ bản của tiểu phẩm ............................................................... 15
1.2. Thể loại tiểu phẩm trong nền văn học Việt Nam hiện đại ..................................... 16
1.2.1. Nguyên nhân ra đời thể loại tiểu phẩm ở Việt Nam ............................................. 16
1.2.2. Những giai đoạn phát triển của tiểu phẩm Việt Nam ........................................... 18
1.2.3. Vai trò của tiểu phẩm trong nền văn học và báo chí Việt Nam hiện đại .............. 21
1.3. Tác giả Lê Thị Liên Hoan và tiểu phẩm của Lê Thị Liên Hoan ........................... 23
1.3.1. Vài nét về tác giả Lê Thị Liên Hoan ..................................................................... 23

1.3.2. Tiểu phẩm của Lê Thị Liên Hoan trên các báo và tạp chí .................................... 25
1.3.3. Một số cách phân loại tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan ............................................ 27

CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM ĐƯƠNG
ĐẠI TRONG TIỂU PHẨM LÊ THỊ LIÊN HOAN ............................................... 31
2.1. Đề tài “Tình yêu – Hôn nhân – Gia đình” ............................................................... 31
2.1.1. Đề tài tình yêu ....................................................................................................... 31
2.1.2. Đề tài hôn nhân ..................................................................................................... 33
2.1.3. Đề tài gia đình ....................................................................................................... 37
2.2. Đề tài kinh tế thị trường và mặt trái của kinh tế thị trường ................................. 40
3


2.2.1. Đề tài kinh tế thị trường ........................................................................................ 41
2.2.2 Tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí thời kinh tế thị trường ................................... 44
2.2.3 Vấn đề hội nhập và vấn đề gìn giữ bản sắc dân tộc trong thời kinh tế thị trường . 47
2.3. Đề tài văn hóa – nghệ thuật ...................................................................................... 50
2.3.1. Những giá trị ảo trong nền nghệ thuật Việt Nam hiện nay ................................... 50
2.3.2. Sự bùng nổ của các cuộc thi và những đợt bình chọn .......................................... 52
2.3.3. Vai trò của người thưởng thức đối với văn hóa – nghệ thuật ............................... 54

CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT VIẾT TIỂU PHẨM CỦA LÊ THỊ LIÊN HOAN59
3.1. Thủ pháp lạ hóa trong tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan ............................................. 59
3.1.1. Lạ hóa thông qua so sánh cường điệu ................................................................... 59
3.1.2. Lạ hóa theo lối tạo sự kiện bất ngờ ....................................................................... 62
3.1.3 Lạ hoá theo lối dựng hoàn cảnh phi thực tế ........................................................... 64
3.2. Sự tương tác của các thể loại trong tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan ........................ 67
3.2.1 Sự tương tác giữa tiểu phẩm và phỏng vấn ........................................................... 67
3.2.2 Sự tương tác giữa tiểu phẩm – thư/nhật kí............................................................. 71
3.2.3. Sự tương tác giữa tiểu phẩm và kí chân dung ...................................................... 75

3.3. Chất đa thanh trong giọng điệu tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan .............................. 78
3.3.1. Giọng trào phúng – giễu nhại ............................................................................... 79
3.3.2 Giọng triết lí ........................................................................................................... 82
3.3.3. Giọng trung tính .................................................................................................... 84

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 92
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 96

4


MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Xã hội đang ngày càng phát triển với xu hướng hiện đại hóa và bùng nổ thông tin. Chính
vì vậy, văn học cũng cần thay đổi để phù hợp với xu hướng chung đó. Bên cạnh những thể
loại văn học ra đời từ lâu như truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ…, trong thời gian gần đây chúng
ta còn được tiếp xúc với rất nhiều những dạng thức khác nhau của văn học. Một trong
những hình thức ấy chính là tiểu phẩm.
Ra đời từ khoảng đầu thế kỉ XX, nhưng phải đến sau này tiểu phẩm mới có được vị trí
xứng đáng của nó trong nền văn học Việt Nam. Từng bị nhầm lẫn là một thể loại thuần túy
báo chí, nhưng hiện nay, tiểu phẩm đã tự khẳng định và đứng vững như một thể loại không
thể thiếu của văn học.
Những đóng góp quan trọng của tiểu phẩm đã hoàn thiện bức tranh chung của nền văn
học Việt Nam hiện đại. Vì vậy, nhìn nhận và đánh giá đúng vai trò, chức năng, đặc trưng
của tiểu phẩm trong nền văn học Việt Nam là điều nên làm, nếu như không muốn nói là hết
sức cần thiết. Khám phá tiểu phẩm có thể xem là công việc không hoàn toàn mới nhưng khá
thú vị bởi địa hạt này còn nhiều điều bỏ ngỏ và chưa dành được sự quan tâm xứng đáng của
giới nghiên cứu. Nhu cầu đọc và thưởng thức tiểu phẩm của độc giả Việt Nam là hoàn toàn
có thật. Và thực tế cũng cho thấy hiếm có thể loại văn học nào có thể theo sát dòng thời sự

như tiểu phẩm. Tìm hiểu tiểu phẩm, người viết có thể nhận ra trong đó nhiều chuyển biến về
văn hóa, tư duy, ý thức của cả một dân tộc trong môt giai đoạn nhất định.
Trong khoảng hai mươi năm trở lại đây, có một cây bút chuyên viết tiểu phẩm đã thu
được nhiều thành công cũng như nhiều sự quan tâm của bạn đọc, đó là Lê Thị Liên Hoan
(tức đạo diễn – nhà biên kịch – nhà báo Lê Hoàng). Với gần năm trăm tiểu phẩm các loại,
Lê Thị Liên Hoan đã định hình một phong cách viết tiểu phẩm mới mẻ, có bản sắc riêng, tạo
được nhiều dấu ấn trên các trang báo. Việc tìm hiểu đặc điểm tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan
là một trong những bước cần thiết để đánh giá tiểu phẩm Việt Nam đương đại nói chung.
Đó là lí do chúng tôi chọn vấn đề Đặc điểm tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan làm đề tài luận
văn cao học thuộc chuyên ngành Lí luận văn học.

2. Lịch sử vấn đề
So với truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ ca…tiểu phẩm chưa có được một bề dày phát triển
thực sự mạnh mẽ cũng như chưa phải là thể loại thu hút được nhiều sự quan tâm của giới
5


nghiên cứu. Bởi vậy, việc nghiên cứu tiểu phẩm nói chung và tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan
nói riêng vẫn chỉ dừng lại ở mức độ sơ khởi.
Về tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan, đa số tài liệu tham khảo mà chúng tôi có được chỉ là
những bài viết, bài báo nhỏ lẻ (ở dạng cảm nhận, nhận xét) được đăng tải ở một số trang
điện tử trên Internet. Có thể kể ra một số bài tiêu biểu như: “Tiểu phẩm báo chí của Lê
Hoàng – Hiệu quả từ một cách đi riêng” (Bài của Nguyễn Bùi Khiêm trên
), “Nhà báo Lê Thị Liên Hoan – Gã Chí Phèo không chửi
đổng” (Bài đăng ngày 19 tháng 6 năm 2005 trên ), “Đạo diễn Lê Hoàng
và “vai diễn” Lê Thị Liên Hoan (Bài đăng ngày 27 tháng 7 năm 2009 trên
)...
Ngoài ra, về luận văn – luận án, chúng tôi nhận thấy chỉ có hai luận văn thuộc chuyên
ngành Báo chí – Truyền thông nghiên cứu một phần về Lê Thị Liên Hoan. Thứ nhất là luận
văn thạc sĩ Tìm hiểu về phong cách báo chí hài hước của Lý Sinh Sự, Lê Thị Liên Hoan và

Thảo Hảo (Khảo sát trên báo Lao động, An ninh thế giới cuối tháng, Thể thao & Văn hóa từ
năm 2002 đến 2005) của tác giả Trần Xuân Thân (Đại học Khoa học xã hội và nhân văn –
ĐH Quốc gia Hà Nội). Trong luận văn này, tác giả chủ yếu nhìn nhận tiểu phẩm Lê Thị
Liên Hoan dưới góc nhìn của báo chí, luận văn chỉ tập trung vào những điểm hài hước trong
tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan mà không mở rộng ra một hướng nghiên cứu nào khác. Trong
khi đó, luận văn Sự vận động và phát triển của tiểu phẩm trong báo chí Việt Nam hiện đại
của tác giả Trần Ngọc Hà (Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội) lại đề cập đôi nét đến dạng phỏng vấn phiếm chủ của tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan như
một trong những biến thể của tiểu phẩm Việt Nam đương đại. Trước một lịch sử vấn đề như
vậy, chúng tôi nhận thấy việc thực hiện luận văn có những thuận lợi và khó khăn nhất định.
Về mặt thuận lợi, chúng tôi cho rằng đây là công trình đầu tiên nghiên cứu cụ thể nội
dung và nghệ thuật viết tiểu phẩm của Lê Thị Liên Hoan một cách có hệ thống. Chính vì
vậy, luận văn có cơ hội được trình bày rất nhiều vấn đề vẫn chưa được nghiên cứu trong tiểu
phẩm của tác giả này.
Tuy vậy, với số lượng không nhiều các công trình và sách viết về tiểu phẩm nói chung và
tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan nói riêng, chúng tôi gặp khó khăn trong quá trình tìm kiếm tài
liệu tham khảo. Bên cạnh đó, số lượng tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan là tương đối nhiều (gần
năm trăm tiểu phẩm), nên trong một khoảng thời gian ngắn, việc khảo sát số lượng tiểu
phẩm này là điều không đơn giản, chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót.
6


3. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi chọn đối tượng nghiên cứu là tiểu phẩm của Lê Thị Liên
Hoan được in trên các báo và tạp chí từ năm 1992 đến nay. Những tiểu phẩm này được tập
hợp và tuyển chọn trong bảy tuyển tập (được liệt kê ở phần Phạm vi nghiên cứu). Chúng tôi
sử dụng văn bản tiểu phẩm từ bảy tuyển tập này để tiện cho việc khảo sát, nghiên cứu, trích
dẫn. Những tiểu phẩm của các tác giả khác, nếu được nhắc đến chỉ với mục đích so sánh,
không phải là đối tượng nghiên cứu của luận văn.


4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu những đặc điểm của tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan (các dạng
tiểu phẩm, đặc trưng kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu, sự tương tác thể loại..v..v.). Từ đó,
chúng tôi đưa ra nhận định về phong cách viết tiểu phẩm của tác giả cũng như những ưu –
nhược điểm trong tiểu phẩm của ông.
Luận văn này không nằm ngoài mục đích tìm hiểu tiểu phẩm của một tác giả cụ thể dựa
trên những hiểu biết về lí thuyết tiểu phẩm nói chung. Vì vậy, có thể xem đây là sự kết hợp
giữa việc nghiên cứu lí thuyết thể loại và việc ứng dụng lí thuyết ấy vào thực tiễn đời sống
văn học.
Chúng tôi còn mong muốn luận văn sau khi hoàn thành và chỉnh sửa có thể trở thành
một nguồn tham khảo về thể loại tiểu phẩm nói chung và tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan nói
riêng.

5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng những phương pháp sau đây:
-

Phương pháp hệ thống: Đặt tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan trong tiến trình chung
của tiểu phẩm Việt Nam

-

Phương pháp loại hình: Phân chia tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan thành các dạng
thức cụ thể về mặt nội dung và hình thức.

-

Phương pháp thống kê: Thống kê tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan qua những tiêu chí
nhất định, rút ra những số liệu xác thực góp phần vào việc đánh giá tiểu phẩm của
tác giả này.


-

Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phân tích những trường hợp điển hình trong
tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan và tổng hợp lại để rút ra đâu là đặc điểm tạo nên
phong cách của tác giả.
7


-

Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Vận dụng những hiểu biết về văn hóa học,
xã hội học để tiếp cận thế giới nghệ thuật trong tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan.

6. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi khảo sát và nghiên cứu tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan trong bảy tuyển tập
được xuất bản trong khoảng thời gian gần đây:
-

Nhà nhân tướng học (Nxb Văn nghệ, 2006)

-

Phỏng vấn một anh hề (Nxb Văn nghệ, 2008)

-

Thư của bà vợ gửi cho bồ nhí (Nxb Trẻ, 2009)

-


Thư của trứng gà gửi cho chứng khoán (Nxb Trẻ, 2009)

-

Phỏng vấn con bò (Nxb Hội nhà văn, 2011)

-

Xuất khẩu cười (Nxb Thanh niên, 2011)

-

Sao trong mắt Lê Hoàng (Nxb Hội nhà văn, 2013)

Đây là bảy tuyển tập tập hợp gần như đầy đủ tất cả tiểu phẩm của tác giả kể từ khi ông
bắt đầu sáng tác tiểu phẩm trên các báo cho đến nay. Thiết nghĩ, đây là số lượng tiểu phẩm
khá đầy đủ và đáng tin cậy để chúng tôi hoàn thành luận văn. Ngoài ra, chúng tôi còn
nghiên cứu tiểu phẩm của một số tác giả khác như Đồ Bì, Lí Sinh Sự, Dave Barry…Những
tiểu phẩm này sẽ góp phần hỗ trợ thêm cho việc nhận định, đánh giá về tiểu phẩm Lê Thị
Liên Hoan.

7. Bố cục luận văn
Luận văn gồm những phần sau đây:
-

Phần mở đầu

-


Phần nội dung (gồm ba chương)

-

Phần kết luận

-

Phần phụ lục

-

Phần tài liệu tham khảo.

Cụ thể, ở phần nội dung, chúng tôi trình bày ba chương sau đây:
Chương 1. Khái quát về tiểu phẩm và tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan
Trong chương này, chúng tôi giới thiệu những nét cơ bản về thể loại tiểu phẩm ở những
khía cạnh như: Quan niệm về tiểu phẩm, sự ra đời và phát triển của tiểu phẩm và một số
dạng thức tiểu phẩm chính. Sau đó, chúng tôi giới thiệu tiểu phẩm ở Việt Nam nói chung
qua các thời kì, giai đoạn và tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan nói riêng.
8


Chương 2. Những vấn đề nổi bật của xã hội Việt Nam đương đại trong tiểu phẩm Lê
Thị Liên Hoan
Trong chương 2, chúng tôi lần lượt khai thác đặc điểm của những đề tài lớn trong tiểu
phẩm Lê Thị Liên Hoan (bao gồm ba đề tài: Tình yêu – Hôn nhân – Gia đình, Kinh tế thị
trường, Văn hóa – Nghệ thuật). Qua đó, chúng ta có thể thấy được sự phong phú trong cách
tiếp cận của tác giả đối với những vấn đề của xã hội Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Nghệ thuật viết tiểu phẩm của Lê Thị Liên Hoan

Ở chương 3, trước hết chúng tôi tập trung làm rõ thủ pháp lạ hóa. Tiếp theo, luận văn
cũng chứng minh sự tương tác có hiệu quả giữa thể loại tiểu phẩm với những thể loại văn
học và ngoài văn học. Cuối cùng, chúng tôi khai thác chất đa thanh trong giọng điệu tiểu
phẩm Lê Thị Liên Hoan.

8. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu và đánh giá về cả hai mặt nội dung và hình
thức của tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan một cách khá đầy đủ và có hệ thống. Thông qua luận
văn, người đọc có thể có được cái nhìn khái quát hơn về tiểu phẩm Lê Thị Liên Hoan nói
riêng và tiểu phẩm Việt Nam đương đại nói chung. Đây còn là một tư liệu tham khảo cho
những ai muốn tìm hiểu sâu hơn về tiểu phẩm.
Luận văn còn giúp người đọc tiểu phẩm định hướng cách đọc tiểu phẩm sao cho hợp lí,
tránh đọc một chiều, đọc cực đoan.
Với những đóng góp đó, chúng tôi tin tưởng đây sẽ là một công trình có được tính ứng
dụng nhất định cho việc nghiên cứu tiểu phẩm hiện nay.

9


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THỂ LOẠI TIỂU PHẨM VÀ TIỂU
PHẨM LÊ THỊ LIÊN HOAN
1.1. Thể loại tiểu phẩm
1.1.1. Một số quan niệm về tiểu phẩm
Tiểu phẩm là một trong những thể loại năng động nhất của văn học, có khả năng phản
ánh nhiều vấn đề xã hội cũng như đi sâu khai thác thế giới nội tâm tình cảm của con người.
Tuy vậy, để đi tới một quan niệm toàn vẹn và thống nhất về tiểu phẩm không phải là điều
đơn giản. Cách hiểu về tiểu phẩm ở mỗi thời kì, mỗi châu lục lại có điểm khác biệt rõ nét,
cho thấy tiểu phẩm chịu sự chi phối của văn hóa và lịch sử.
Theo tiếng Latin, tiểu phẩm là “sarita” có nghĩa là châm biếm, hài hước, trào phúng.
Nhà nghiên cứu J.A.Cuddon trong cuốn Thuật ngữ văn học và Lí thuyết văn học (Tiếng

Anh: Literary terms and literary theories) nhấn mạnh:“Đó là một loại phụ lục được in ở cuối
trang báo hoặc được đính kèm”. [40; trang 319]
Trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, tiểu phẩm được định nghĩa với ba tiêu
chí: ngắn, thời sự, có tính chất châm biếm.
Tiểu phẩm: d. 1 Bài báo ngắn viết về vấn đề thời sự có tính chất châm biếm.
2 Màn kịch ngắn mang tính châm biếm, đả kích ( 1) [31; trang 1025]
F
0

Theo tổng thuật của Dương Xuân Sơn trong cuốn Các thể loại kí báo chí chính luận nghệ
thuật (Nxb Giáo dục Việt Nam, 2012) thì ở Trung Quốc, người ta “xem các loại văn như
bạt, kí, truyện, văn tế, thư tín…có ngôn ngữ trau chuốt, tình cảm phong phú đều là tiểu
phẩm” [32; trang 119]. Như vậy, có thể nói “tiểu phẩm” (trong tiếng Hán) là tác phẩm được
viết bằng thể loại tản văn ngắn gọn, xinh xắn, giàu chất trữ tình. Tiêu biểu cho tiểu phẩm
phương Đông là tiểu phẩm của Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Chu Tự Thanh, Băng
Tâm...Như vậy, người Trung Quốc cho rằng tiểu phẩm có xu hướng thiên về kiểu văn
chương biểu cảm, trữ tình.
Trong khi đó, người phương Tây xem tiểu phẩm “là thể loại văn xuôi nhỏ, kết cấu tự do,
thường thể hiện các ấn tượng và ý kiến cá nhân trước các sự việc và vấn đề cụ thể, không
(1)

Tiểu phẩm được hiểu với hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất: Tiểu phẩm văn học. Nghĩa thứ hai: Tiểu phẩm sân

khấu (được dàn dựng như một vở kịch ngắn mang tính châm biếm, diễn ra trên sân khấu). Trong luận văn
này, chúng tôi chỉ tìm hiểu và khảo sát nghĩa thứ nhất (tiểu phẩm văn học).

10


nhằm đưa ra cách lý giải bao quát, điều cốt yếu là có cách kiến giải mới mẻ, gây ấn tượng

sâu đậm. Văn tiểu phẩm có loại thiên về triết lý, có loại thiên về tiểu sử, phong cảnh, phong
tục, có loại nghiêng về phần văn học, có loại thiên về phổ biến khoa học. Phong cách chung
của văn tiểu phẩm là tính hình tượng, cô đọng, tính ngụ ý, ngữ điệu trò chuyện, tâm tình bộc
lộ trực tiếp nhân cách, cá tính của tác giả, để lại ấn tượng mạnh mẽ với người đọc” [32;
trang 119]. Tiêu biểu cho thể loại văn tiểu phẩm ở phương Tây có thể tìm thấy qua các tập
tiểu phẩm của Monten, những bài tiểu phẩm của Vontaire, Diderot, Letxin, Herde, Puskin,
Gherxen…
Theo Phan Cự Đệ trong cuốn Văn học Việt Nam 1900 – 1945 (Nxb Giáo dục, 1999) thì
“loại văn châm biếm này – tức tiểu phẩm – phù hợp với yêu cầu kịp thời gọn nhẹ, súc tích
của thể loại văn học chiến đấu trên báo chí hàng ngày. Khuôn khổ của nó phù hợp với điều
kiện thì giờ của người viết lẫn người đọc”. [12; trang 63]
Tác giả Mai Hương – Tôn Phương Lan trong Ngô Tất Tố - Về tác gia và tác phẩm (Nxb
Giáo dục, 2000) dẫn ra ý kiến của Trương Chính: “Văn tiểu phẩm thì phải ngắn, sắc, xoay
chuyển nhanh, câu thường đặt theo lối phá cách” [25; trang 43]
Cho đến thời điểm hiện nay, vấn đề xếp tiểu phẩm vào báo chí hay văn học vẫn còn gây
ra những băn khoăn nhất định. Tiểu phẩm vốn là một thể loại của văn học nhưng xuất hiện
và sống được là nhờ báo chí. Chính môi trường báo chí đã tạo ra và đưa đến một điều kiện
phát triển hết sức thuận lợi cho tiểu phẩm. Bởi vậy, thế nào là tiểu phẩm, câu hỏi này cần
được trả lời dưới nhiều góc độ. Trong thực tế, thuật ngữ “tiểu phẩm” được cả những người
nghiên cứu văn học, nhà báo và bạn đọc sử dụng, nhưng cách hiểu lại không giống nhau,
thậm chí gây ra những nhầm lẫn. Có những tác phẩm, nếu đứng trên bình diện báo chí, rõ
ràng là tiểu phẩm, nhưng đứng trên quan điểm văn học thì lại không.
Từ trước đến nay có thể thống kê một số quan niệm sau về tiểu phẩm:
Quan niệm thứ nhất: Tiểu phẩm là một thể loại văn học đặc biệt, rất gần gũi với báo chí.
Nó có những đặc điểm nổi bật là: Hình thức ngắn gọn, nội dung có tính chiến đấu cao, năng
động và linh hoạt do bám sát những con người, sự việc, vấn đề, tình huống có thật trong đời
sống; thường sử dụng bút pháp châm biếm, đả kích. Đây là quan niệm khá phổ biến trong
giới nghiên cứu lí luận văn học nước ta. Theo cách hiểu này, những tác giả viết tiểu phẩm
nổi tiếng thường được nhắc tới là Lỗ Tấn, Nguyễn Ái Quốc, Ngô Tất Tố…
Quan niệm thứ hai: Xuất phát từ một trong những đặc điểm của tiểu phẩm là phản ánh

những sự thật của đời sống và có thể đáp ứng yêu cầu tuyên truyền thời sự, quan niệm này
11


cho rằng tiểu phẩm là một thể loại tác phẩm báo chí ngắn gọn, được diễn đạt bằng một ngôn
ngữ châm biếm hoặc hài hước về một sự việc có thực, cụ thể hoặc khái quát mà thông qua
đó tác giả biểu hiện quan điểm của mình trước sự việc hoặc hiện tượng đó. Như vậy, cách
hiểu này đã cho rằng tiểu phẩm là thể loại báo chí nhưng ít nhiều mang tính chất văn học
với ngôn ngữ sinh động, giọng điệu châm biếm, hài hước. Đây là quan niệm của nhiều
người làm báo nói chung.
Quan niệm thứ ba: Tiểu phẩm là thể loại trung gian giữa văn học và báo chí. Những
người tán thành quan niệm này cho rằng trong từng tác phẩm cụ thể, do tính chất văn học
hay tính chất báo chí mạnh hơn sẽ quyết định tác phẩm đó thuộc vào văn học hay báo chí.
Theo ý kiến của Tạ Ngọc Tấn trong cuốn Từ lý luận đến thực tiễn báo chí (Nxb Văn hóa –
Thông tin, 1999), chỉ đến cuối những năm 1930 của thế kỷ trước, báo chí Xô viết mới chính
thức thừa nhận tiểu phẩm là một thể loại đặc biệt - Một thể loại châm biếm nằm trong loại
tác phẩm chính luận - nghệ thuật. So sánh tiểu phẩm với các thể loại báo chí, ông cho
rằng“một đặc trưng cơ bản của tiểu phẩm là sự kết hợp những phương pháp thể hiện của
báo chí và thủ pháp nghệ thuật của văn học, giữa ngôn ngữ thông tin chính luận với ngôn
ngữ hình tượng nghệ thuật. Sự kết hợp này rất phong phú, sinh động tuỳ theo tài liệu về sự
kiện khách quan và tài năng của người viết” [34; trang 200].
Sự khác biệt trong những ý kiến nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân xuất phát từ chính sự năng động và linh hoạt của tiểu phẩm. Và trên thực tế,
thể loại đặc biệt này cho thấy nhiều biểu hiện rất sinh động của sự giao thoa giữa văn học và
báo chí. Vì vậy, có thể nhận định rằng việc xác định tiểu phẩm thuộc văn học, thuộc báo chí
hay cả hai lĩnh vực trên là một trong những những điểm then chốt trước khi đi sâu hơn trong
việc nhận diện những đặc trưng khác của nó.
Như vậy, tuy có nhiều ý kiến ý kiến xung quanh việc “thế nào là tiểu phẩm”, nhưng
chung quy lại, chúng tôi tổng kết được một số quan niệm sau đây:
-


Tiểu phẩm là một thể loại ngắn gọn, súc tích.

-

Tiểu phẩm có mặt thường xuyên trên báo chí nhưng theo chúng tôi, về bản chất,
tiểu phẩm là một thể loại văn học.

-

Tiểu phẩm mang tính chính luận rõ rệt. Thông qua các thủ pháp trào phúng, châm
biếm, tiểu phẩm đề cập đến nhiều vấn đề của xã hội.

-

Tiểu phẩm thể hiện rất rõ lập trường, qua điểm, thái độ của người viết đối với đối
tượng được đề cập.
12


-

Trong tiếng Việt, từ “tiểu phẩm” là từ Hán Việt, tuy nhiên nội hàm khái niệm của
“tiểu phẩm” in đậm quan niệm của phương Tây. Có thể nói, người Việt đã dịch từ
“feuilleton” thành “tiểu phẩm” để tiện sử dụng, chứ không dịch luôn nghĩa “tiểu
phẩm” theo cách nhìn của người Trung Quốc (như đã nêu ở trang 8 của luận văn
này). Thuật ngữ “tiểu phẩm” mà chúng tôi sử dụng trong luận văn là được nhìn
nhận dưới quan niệm của phương Tây nói chung.

Tóm lại, có thể khẳng định rằng tiểu phẩm là một thể loại văn học rất năng động, phát

huy năng lực phản ánh hiện thực trong môi trường báo chí. Đây cũng là một trong những
thể loại cho thấy sự kết hợp hiệu quả những tính chất của văn học và báo chí trong quá trình
phản ánh hiện thực đời sống đang vận động phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Điểm nổi bật
của tiểu phẩm là ở tiếng cười có ý nghĩa được tạo ra thông qua hàng loạt những thủ pháp
nhằm tác động vào nhận thức, tình cảm của công chúng. Tiểu phẩm tạo ra những phản xạ
thẩm mĩ được biểu hiện trước hết bằng tiếng cười. Tất nhiên tiếng cười chỉ là phương tiện
để người viết đạt được những mục đích cao hơn như nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ v.v.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của tiểu phẩm trên thế giới
Tiểu phẩm đã manh nha ra đời từ hơn hai trăm năm trước. Khoảng những năm 60 – 70
của thế kỉ XVIII, những bài báo của Novicov và Gherxen được xem là sự khởi đầu cho thể
loại tiểu phẩm ở châu Âu. Tuy chỉ bước đầu thể hiện tính chất của tiểu phẩm, nhưng những
bài báo này đã gây được sự chú ý đối với người đọc.
Cuối thể kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, cha cố đạo Julien Louis Geoffroy có những bài báo
ngắn về văn hóa, chính trị với giọng văn châm biếm nhẹ nhàng, phản ánh được nhiều vấn đề
về xã hội. Vào năm 1800, lần đầu tiên trên tạp chí Journal des débats, chính ông đã đặt tên
cho thể loại này là “feuilleton” mà ngày nay chúng ta gọi là tiểu phẩm. Từ “feuilleton” có
nghĩa là “mảnh giấy”, “tờ giấy nhỏ” (ý chỉ những bài báo có dung lượng ngắn) bắt nguồn từ
một từ cổ trong tiếng Pháp (foillet). Thể tiểu phẩm chính thức ra đời từ đó.
Ở châu Âu nói riêng và các nước phương Tây nói chung, từ lúc ra đời, tiểu phẩm đã là
một trong những mảng chủ lực của báo chí. Trong một xã hội công nghiệp năng động,
phương Tây đẩy mạnh quyền tự do cá nhân và quyền tự do ngôn luận; chính vì vậy, tiểu
phẩm càng làm tăng thêm tính chất tự do hóa cho các tờ báo. Trong những năm đầu khi mới
xuất hiện trên báo chí, tiểu phẩm phương Tây chủ yếu đi vào khai thác những vấn đề liên
quan trực tiếp đến đời sống dân sinh, đồng thời phản ánh mặt trái của Thế chiến thứ nhất,
Thế chiến thứ hai. Khoảng giữa thập niên 50 – 60 của thế kỉ trước, người đọc nồng nhiệt
13


đón nhận sự xuất hiện của loại tiểu phẩm giả tưởng, tiểu phẩm có kết thúc mở để người đọc
tham gia vào câu chuyện. Đây là bước tiến trong việc làm mới hình thức của tiểu phẩm.

Trong rất nhiều tờ báo lớn của Anh, Mỹ và các quốc gia phương Tây khác, tiểu phẩm
được đặt ở một vị trí khá quan trọng. Tiểu phẩm được phép nói thẳng hoặc “ẩn dụ hóa” tất
cả những vấn đề xã hội mà người viết muốn đề cập. Nhiều nhà văn đã chuyển hẳn từ viết
tiểu thuyết sang viết tiểu phẩm và có không ít tên tuổi các tác giả thành công ở thể loại này.
Ở các nước phương Tây, nhiều quốc gia có những tờ báo chuyên viết về châm biếm, đả
kích được nhiều bạn đọc quan tâm. Tất cả các sự kiện từ bầu cử, ô nhiễm môi trường đến
việc sa thải công nhân v.v… đều có thể trở thành đề tài nóng hổi của tiểu phẩm trên các tờ
báo( 2). Nhìn chung, với một môi trường báo chí khá rộng mở như hiện nay, tiểu phẩm đang
F
1

chứng tỏ được sức ảnh hưởng của nó đến nhận thức của đông đảo người đọc. Cùng thuộc
một thể loại tiểu phẩm nhưng sự phân hóa các mảng đề tài tiểu phẩm khá đa dạng, mỗi quốc
gia lại chọn cho mình một tiêu điểm riêng để thể hiện trong tiểu phẩm.
Có thể rút ra một vài kết luận sau đây về tiểu phẩm trên thế giới:
Trước hết, tiểu phẩm là một trong những thể loại chính của mảng văn chương và báo chí
trào phúng, châm biếm. Sự tác động của tiểu phẩm đến bạn đọc là không nhỏ, nhất là ở thời
điểm bùng nổ thông tin như hiện nay. Tiểu phẩm về chính trị được xem loại là tiểu phẩm
khá nhạy cảm (thường đi kèm với tranh biếm họa). Khi mới ra đời, tiểu phẩm chính trị ít khi
xuất hiện trên mặt báo, nhưng về sau, nó lại trở thành một trong những nội dung đắt giá của
tiểu phẩm (nhất là ở Hoa Kỳ).
Không thể phủ nhận rằng chính thái độ thẳng thắn của tiểu phẩm trước những vấn đề tiêu
cực của xã hội đã giúp tiểu phẩm tiến xa hơn trong việc tiếp cận nhiều đối tượng độc giả
khác nhau. Thái độ này xuất phát từ chính đặc trưng thể loại. Tiểu phẩm dung nạp lối nói ẩn
dụ nhưng không vòng vo, chấp nhận sự cường điệu nhưng không dối trá. Điều này tạo nên
sức biến hóa to lớn của tiểu phẩm.
Qua quá trình hình thành và phát triển, tiểu phẩm đóng góp cho ngôn ngữ của mỗi quốc
gia thêm những sắc thái. Nhiều từ ngữ mới xuất phát từ tiểu phẩm đã trở nên phổ biến trong
đời sống thường ngày, được đông đảo người dân chấp nhận và sử dụng. Hiện tượng này
đang được các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu ở Hoa Kỳ, Anh, Pháp…

Như vậy, có thể nói rằng, tiểu phẩm với tất cả tính bất biến và khả biến của nó đang ngày
càng thâm nhập sâu hơn vào đời sống con người. Ngày nay, người ta ít có thời gian để đọc
2

Xem Phụ lục 4 của luận văn này

14


những tác phẩm quá dài hoặc quá trừu tượng. Chính vì vậy, tiểu phẩm đã và đang là sự lựa
chọn hợp lí cho nhu cầu giải trí và thu nhận thông tin của bạn đọc. Với một dung lượng
ngắn và hình thức nhiều màu sắc, tiểu phẩm là một thể loại văn học đặc biệt mà ở đó văn
học và đời sống gắn bó với nhau không thể tách rời.
1.1.3. Một số dạng thức cơ bản của tiểu phẩm
Tiểu phẩm được thể hiện rất đa dạng, gồm nhiều phương pháp khác nhau: văn xuôi, văn
vần. Đề tài của các Tiểu phẩm cũng vô cùng phong phú, chúng đề cập đến mọi mặt của đời
sống kinh tế- chính trị – văn hoá - xã hội ở bất kì quốc gia nào, dân tộc nào.
-

Văn xuôi

Là loại tác phẩm chiếm phần lớn, có thể chia thành ba loại:
+ Tác phẩm là một câu chuyện hoàn chỉnh
+ Tác phẩm bao gồm các câu thoại giữa hai hay nhiều người
+ Tác phẩm là tin có lời bình
Tiểu phẩm văn xuôi đều viết được bằng văn chính luận - nghệ thuật mang đậm tính hài
hước thể hiện bởi các dạng đả kích, châm biếm. Đầu đề có thể là một từ hay nhiều từ nhưng
đều có đặc điểm là chứa đựng toàn bộ nội dung hoặc quan điểm của tác giả về sự kiện, hiện
tượng, mà tác giả đề cập tới.
Tiểu phẩm báo chí ở dạng câu thoại phải gồm từ hai câu thoại trở lên, có đầu đề hoặc

không có đầu đề và thường được dùng trong mục vui cười. Tác phẩm loại này đưa công
chúng vào thẳng vấn đề có tính bức xúc của xã hội nhưng được đặt trong tình huống hài
hước, trái với suy nghĩ thông thường và lý giải nó bằng cách này hay cách khác để tạo nên
tiếng cười có ý nghĩa giáo dục, đem lại những nhận thức mới mẻ, tích cực cho người đọc
Tiểu phẩm dạng tin có lời bình chủ yếu đề cập những thông tin nóng của xã hội, trong đó,
lời bình ở cuối tin mang tính bình luận, đánh giá, tổng kết, định hướng cho người đọc. Hình
thức thường được sử dụng lời đối đáp, bài thơ châm biếm hoặc một câu chuyện trào phúng
có liên quan đến tin tức kể trên.
-

Văn vần

Với lối thể hiện bằng văn vần, tiểu phẩm thường được viết dưới dạng những bài thơ
mang tính chất hài hước, trào lộng.
Tùy theo mỗi ngôn ngữ mà tiểu phẩm viết bằng văn vần có cách thể hiện khác nhau.
Trong các tác phẩm thuộc tiểu phẩm văn vần, tác giả đôi khi vận dụng tục ngữ, cao dao
hoặc biến tấu để gây cười và tăng sức phê phán.
15


Ví dụ, câu ca dao:
“Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình”
được biến đổi thành:
“Còn duyên xe đón dù đưa
Hết duyên già móm lưa thưa vài người”
Tính hài hước, kết cấu, dễ thuộc, dễ truyền miệng ngắn gọn là những đặc điểm đó có tác
dụng hữu hiệu trong cuộc đấu tranh bài trừ các tệ nạn xã hội, lối sống không lành mạnh và
những tư tưởng đi ngược lại sự tiến bộ, văn minh của nhân loại. Văn vần có một lợi thế là
dễ nhớ và đi trực tiếp vào vấn đề cần bàn luận nên được sử dụng khá hiệu quả trong nhiều

tiểu phẩm.
Đây có thể xem là hai dạng tồn tại phổ biến nhất của tiểu phẩm. Ngoài ra, một số ý kiến
còn cho rằng thậm chí có thể xếp tranh biếm họa có lời đối thoại vào tiểu phẩm. Nếu nhìn từ
góc độ báo chí, sự phân chia này có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, trên phương diện văn
học, chúng tôi cho rằng tranh biếm họa tuy cũng có một vài lời đối thoại mang tính hài hước
châm biếm, nhưng chất “họa” (sự tác động về mặt mĩ thuật) là chủ yếu, không nên xếp vào
tiểu phẩm văn học nói chung.

1.2. Thể loại tiểu phẩm trong nền văn học Việt Nam hiện đại
1.2.1. Nguyên nhân ra đời thể loại tiểu phẩm ở Việt Nam
Việc tiểu phẩm ra đời ở Việt Nam có những nguyên nhân khách quan từ lịch sử - xã hội
đồng thời cũng có những nguyên nhân chủ quan từ chính môi trường văn học và môi trường
báo chí mang lại.
-

Về mặt lịch sử - xã hội

Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, sự xuất hiện của báo chí ở Việt Nam đã trở thành một
động lực không thể thiếu dẫn đến việc ra đời của thể loại tiểu phẩm hiện đại. Báo chí du
nhập vào Việt Nam thông qua sự phổ biến (một cách hạn chế) của chính quyền thực dân
Pháp tại Đông Dương. Tiểu phẩm xuất hiện lần đầu tiên trên những tờ báo tiếng Pháp (do
người Pháp và cả người Việt biết tiếng Pháp viết) về sau mới lan dần sang những tờ báo in
bằng chữ quốc chữ.
Cuộc cách mạng của văn học Việt Nam, giai đoạn chuyển mình từ văn học trung đại sang
văn học hiện đại, có một sự đóng góp rất lớn từ báo chí. Báo chí chính là mảnh đất màu mỡ
16


để văn học phát triển và có thêm nhiều đóng góp cho đời sống tinh thần của nhân dân. Nhu
cầu phê phán, châm biếm là nhu cầu tất yếu và có thật của mọi quốc gia, mọi thời đại. Và

Việt Nam không phải là một ngoại lệ.
Tạm chưa bàn đến chất lượng, chỉ riêng về số lượng, đây có thể xem là một thể loại có
tầm ảnh hưởng nhất định đến đông đảo bạn đọc.
-

Về mặt văn học

Những năm đầu thế kỉ XX, xã hội thực dân nửa phong kiến càng lúc càng phơi bày bản
chất của nó. Nhiều văn nghệ sĩ rất muốn vạch trần những thói hư tật xấu và bộ mặt của một
xã hội mưa Âu gió Mỹ nhưng rất khó có thể lên tiếng trực tiếp. Thực dân Pháp phong tỏa và
áp chế về mặt in ấn, lưu hành báo chí cũng như các đầu sách. Chính vì vậy, viết tiểu phẩm
cũng là một cách phản ứng lại với đời sống. Có tiểu phẩm mang tính mua vui thuần túy,
nhưng đa số đều ẩn chứa nhiều vấn đề sâu xa bên trong. Nói đến đây, chúng ta có thể nghĩ
tới việc “tác phẩm mang mặt nạ”, dùng câu chuyện có vẻ ngoài bông đùa để châm biếm, đả
kích một đối tượng nhất định. Sứ mệnh lịch sử của tiểu phẩm đôi khi không nằm ở việc phát
minh ra một sự cách tân nghệ thuật lớn lao, mà nó chủ yếu tạo ra sự bất ngờ ngay trong
chính lời văn tưởng như đơn giản nhất, nhằm mục đích tấn công vào những đối tượng xấu,
những hành vi đi ngược lại các quy chuẩn đạo đức.
Tiểu phẩm ra đời cũng đánh dấu một bước chuyển trong quan niệm của người sáng tác,
khi họ nhận thấy những vấn đề bức thiết của xã hội đương thời không thể chỉ được phản ánh
qua tin tức, truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự…Cần có một thể loại mới hơn, linh động
hơn. Người đọc lúc bấy giờ cũng bắt đầu hình thành thói quen theo dõi những chuyên mục
thường kì trên báo, cho nên, báo nào có chuyên mục thường kì hay, hấp dẫn sẽ thu hút được
nhiều người đọc. Tiểu phẩm, với dung lượng nhỏ gọn, đề tài phong phú, lập tức trở thành
một trong những sự lựa chọn phù hợp. Đến khi tiểu phẩm xuất hiện nhiều trên các tờ báo,
một vấn đề khác lại được đặt ra với người cầm bút. Họ cần sáng tạo nhiều hơn, viết hay
hơn, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của độc giả và của chính tờ báo mình cộng tác.
Như vậy, tiểu phẩm ra đời đáp ứng được cả nhu cầu của người sáng tác lẫn người đọc,
thúc đẩy quá trình hiện đại hóa và xã hội hóa của báo chí. Ý thức, trình độ, đội ngũ các cây
bút ngày càng được nâng cao; đồng thời thị hiếu của người đọc cũng khác trước. Sự thay

đổi cùng lúc đó đã tạo nên một cơ hội lớn để tiểu phẩm khẳng định được vị trí của mình.
Tóm lại, xét cả hai mặt lịch sử - xã hội lẫn văn học, việc tiểu phẩm có mặt trên báo chí
Việt Nam có thể được xem là sự xuất hiện tất yếu. Hơn một trăm năm mươi năm qua, báo
17


chí có nhiều thay đổi, dĩ nhiên, sự thay đổi đó ảnh hưởng nhiều đến tiểu phẩm. Nhưng cơ
bản, tiểu phẩm vẫn giữ được tinh thần của nó, nghĩa là, góp phần chỉ ra đúng “chỗ đau” của
xã hội và con người để chúng ta nhận ra và sửa chữa. Nhưng sứ mệnh nghệ thuật của tiểu
phẩm không đơn thuần chỉ nằm ở nội dung tư tưởng mà toát ra từ chính những biểu hiện
nghệ thuật trong tác phẩm. Một số quốc gia không đề cập đến tiểu phẩm trong danh mục các
thể loại văn học hay thể loại báo chí. Chính điều này cho thấy không phải dân tộc nào, đất
nước nào cũng chọn một cách thể hiện tương tự nhau cho cùng một vấn đề. Tiểu phẩm có
lợi thế và chắc chắn cũng có những điểm yếu của nó. Tiểu phẩm khả dụng đến đâu còn phụ
thuộc vào người sáng tác và người tiếp nhận.
1.2.2. Những giai đoạn phát triển của tiểu phẩm Việt Nam
Tiến trình phát triển của tiểu phẩm ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung không
thể đồ sộ bằng những thể loại có bề dày hình thành trước đó như truyện ngắn, tiểu
thuyết…Tuy nhiên, nếu nhìn nhận một cách công bằng, tiểu phẩm đóng một vai trò rất quan
trọng trong tiến trình chung của văn học Việt Nam.
-

Giai đoạn từ đầu thế kỉ đến năm 1930

Ở dòng báo chí công khai, ngay từ rất sớm, các dạng trào phúng, tiểu phẩm đã xuất hiện
vào đầu thế kỉ XX trên các báo Đông Tây, Duy Tân, Phong hóa, Vịt đực, Con ong… Nhiều
chuyên mục ra đời như Mỗi ngày một chuyện, Nói mà chơi, Thực hay bỡn, Câu chuyện ban
mai, Câu chuyện hàng ngày, Guồng trần xoay máy, Trước vành móng ngựa, Bùn lầy nước
đọng…gắn liền với tên tuổi của Tản Đà, Lãng Nhân, Phùng Tất Đắc…Những bài báo xuất
hiện vào thời gian này có tính châm biếm, kèm theo cả tranh hí họa, biếm họa. Tuy về mặt

nội dung lẫn hình thức thể hiện tiểu phẩm thời kì này còn khá đơn giản, chủ yếu vui cười và
châm biếm nhẹ nhàng, nhưng bước đầu nó đã giúp cho việc định hình một thể loại trong đời
sống văn học lấy bấy giờ.
Về đề tài, đa số các tác giả khai thác đề tài nông thôn, làng xã với những mối quan hệ gia
đình – xóm giềng quen thuộc. Tiểu phẩm thường hướng đến việc phê phán những hủ tục,
thói hư tật xấu, có tiểu phẩm còn ghi chú lời khuyên ở dưới. Điều này chứng tỏ một số cây
bút chưa thoát khỏi cách sáng tác đạo đức học, dùng tiểu phẩm với mục đích giáo huấn
nhiều hơn là sáng tác mang tính nghệ thuât.
Về thể loại, tiểu phẩm vẫn chưa được xem trọng và đánh giá đúng mức cả trong tư tưởng
của người viết lẫn sự tiếp nhận của người đọc. Nó vẫn chỉ là một kiểu chuyện vui tạp phẩm,
đôi khi còn vô thưởng vô phạt.
18


Ở dòng báo chí cách mạng, trong khoảng thời gian này, trên tờ Thanh Niên (tờ báo đầu
tiên của nền báo chí cách mạng Việt Nam, ấn bản số đầu tiên vào ngày 21 tháng 6 năm
1925, do Nguyễn Ái Quốc sáng lập) xuất hiện nhiều tiểu phẩm phản ánh cuộc sống bần
cùng của người dân Việt Nam dưới sự cai trị của chế độ thực dân nửa phong kiến cũng như
vạch trần sự giả hiệu của cái gọi là khai hóa Đông Dương. Những tiểu phẩm chính trị này
xác định rõ đối tượng và mục đích hướng đến, chủ yếu mang tính đả kích mạnh mẽ thực dân
Pháp và những kẻ bán nước cầu vinh.
-

Giai đoạn Mặt trận dân chủ 1936 – 1939

Trong giai đoạn này, báo chí của cách mạng vô sản có cơ hội được xuất bản công khai
hoặc bán công khai. Tiểu phẩm nhờ vậy có cơ hội phát triển mạnh và chuyển mình sang một
giai đoạn mới với sự góp mặt của nhiều cây bút tên tuổi trong làng văn, làng báo lúc bấy giờ
như Tam Lang, Thông Reo, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan...Tiểu phẩm
lúc này thường gọn nhẹ, súc tích, vạch trần sự xấu xa, đê tiện, đớn hèn của quân cướp nước

và bè lũ bán nước cầu vinh; phê phán mê tín dị đoan, hủ tục, ca ngợi ý chí tự do, dân chủ,
bình đẳng….Sự tiến bộ vượt bậc của tiểu phẩm ở giai đoạn này đã mang lại nhiều hiệu ứng
tích cực.
Cây bút tiểu phẩm nổi bật nhất trong thời gian này chính là Ngô Tất Tố. Nổi tiếng với
tiểu thuyết Tắt đèn, Ngô Tất Tố bước chân vào làng văn với diện mạo của một cây bút viết
tiểu thuyết có lực. Tuy vậy, người ta vẫn không quên đây là một cây bút viết phóng sự và
tiểu phẩm có tài nhất nhì trong làng văn, làng báo lúc bấy giờ. Không viết tiểu phẩm theo lối
đùa cợt, mua vui bình thường; Ngô Tất Tố hướng ngòi bút của mình vào việc đả kích những
kẻ cướp nước và bán nước. Phan Cự Đệ nhận định: “Văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố dường
như làm thành một bộ sử biên niên của xã hội Việt Nam những năm từ trước sau 1930 cho
đến hồi Đại chiến lần thứ hai. Như một chứng nhân trung thành của thời đại, bằng nghệ
thuật tiểu phẩm, Ngô Tất Tố ghi lại cho chúng ta những sự kiện chính trị quan trọng thời kì
đó”. [19; trang 390]. Tiểu phẩm Ngô Tất Tố đạt đến mức độ đả kích sâu cay. Tiếng nói
mạnh mẽ này góp phần quan trọng trong việc khẳng định quan điểm, lập trường của những
trí thức tiến bộ lúc bấy giờ.
-

Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) và kháng chiến chống Mĩ
(1955 – 1975)

Vì nhiệm vụ cấp thiết của giai đoạn lịch sử này, tiểu phẩm chủ yếu mang tính bút chiến,
vạch trần thủ đoạn độc ác của của quân thù. Các tác giả nổi bật của thời kì này là Lê Kim,
19


Lã Vọng, Hoàng Trung Thông, Tú Mỡ…
Giai đoạn kháng chiến chống Pháp ghi dấu những bước đi đầu tiên của tiểu phẩm cách
mạng khi các tác giả tìm tòi đề tài và cách thức thể hiện tiểu phẩm sao cho gần gũi với cán
bộ chiến sĩ và nhân dân. Tiểu phẩm được dùng như một phương tiện tuyên truyền, phương
tiện đả kích. Đến giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, tiểu phẩm có được nhiều bước phát triển

mới mẻ hơn, nghệ thuật viết tiểu phẩm được chú trọng sao cho tính văn học mạnh mẽ hơn
trước.
Tác giả tiểu phẩm được chú ý nhất trong ba mươi năm kháng chiến là Tú Mỡ. Tú Mỡ
sáng tác tiểu phẩm dạng văn vần với giọng châm biếm, đả kích trong đó có những tập tiểu
phẩm như: Giòng nước ngược (3 tập, 1934 – 1945), Nụ cười kháng chiến (1952), Nụ cười
chính nghĩa (1958), Bút chiến đấu (1960), Đòn bút (1962)…để lại nhiều ấn tượng tốt cho
nhiều thế hệ độc giả.
Nhìn chung, tiểu phẩm 1946 – 1975 đã phần nào đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của
người đọc, tuy những tiểu phẩm này còn mang nặng tính chính trị.
-

Giai đoạn từ năm 1975 đến nay

Khoảng những năm 1975 đến năm 1986, tiểu phẩm phản ánh thời kì bao cấp và những
hạn chế của thời kì này. Nhiều tiểu phẩm hướng đến việc phê phán những thói hư tật xấu,
những tệ nạn (tham nhũng, cửa quyền, làm ăn mánh lới…), thói ỷ lại, thói quan liêu…đã
nhận được sự đồng tình từ phía người đọc. Trên nhiều tờ báo, có nhiều chuyên mục sử dụng
tiểu phẩm như: Chuyện lớn…Chuyện nhỏ (Báo Nhân dân), Nói hay đừng, Xả xú páp (Báo
Lao động), Chuyện cũ – Chuyện mới (Báo Giáo dục & Thời đại), Câu lạc bộ (Báo Tiền
phong), Câu lạc bộ chiến sĩ (Báo Quân đội nhân dân). Và Tiểu phẩm trở thành mục riêng
trên các báo: Nhà báo và Công luận, Người làm báo, Tin tức cuối tuần, Thể thao – Văn hóa,
Sức khỏe và Đời sống…
Đặc biệt, chuyên san Tuổi trẻ cười ra đời từ năm 1984 là nơi nhiều cây bút tiểu phẩm
cống hiến cho bạn đọc những trang viết đặc sắc. Tuổi trẻ cười là tờ bán nguyệt san duy nhất
ở Việt Nam chuyên về mảng châm biếm, trào phúng. Từ năm 1986 đến nay tiểu phẩm đào
sâu hơn các đề tài đã có trước đó và có thêm nhiều đề tài mới. Những cây bút chuyên viết
tiểu phẩm như: Lý Sinh Sự, Đồ Bì (Nhạc sĩ – Nhà báo Vũ Đức Sao Biển), Thảo Hảo (Nhà
văn Phan Thị Vàng Anh), Đông Phương Sóc (Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh), AST (Nhà

20



nghiên cứu Trần Bạch Đằng), Phì Tiểu Tử (Nhà văn – Nhà báo Nguyễn Đông Thức)( 3)…trở
F
2

nên quen thuộc với độc giả.
Nhìn lại toàn bộ quá trình phát triển của tiểu phẩm Việt Nam, có thể rút ra một số kết
luận như sau:
-

Về mặt văn học: Tiểu phẩm đã đi từ hình thức còn gần gũi với chuyện cười dân
gian (những năm đầu thế kỉ XX) đến một hình thức hiện đại và năng động hơn ở
thời điểm hiện nay. Sự phát triển đó trải qua một quá trình tự thích ứng, tự điều
chỉnh. Tiểu phẩm, với đặc trưng gắn bó chặt chẽ với những vấn đề thời sự, những
tâm điểm chú ý của xã hội đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của bạn đọc, tạo ra
được một chỗ đứng riêng của thể loại này. Tiểu phẩm vận dụng nhiều nghệ thuật
liên ngành để làm phong phú thêm cho cách thức biểu hiện của nó. Đồng thời,
chính bản thân tiểu phẩm cũng tự sáng tạo cho mình những thủ pháp riêng, không
lẫn với các hình thức khác.

-

Về mặt văn hóa – xã hội: Có thể xem tiểu phẩm là một thể loại đại chúng, hầu
như không kén người đọc. Chính yếu tố này đã giúp tiểu phẩm xuất hiện đều đặn
trên mặt báo. Nói như vậy không có nghĩa tiểu phẩm đơn giản, dễ hiểu theo kiểu
bình dân học vụ. Chính tính chất trào phúng, châm biếm sẽ mang lại nhiều tầng
nghĩa cho tiểu phẩm. Tiếp cận đến tầng nghĩa nào lại phụ thuộc vào bản thân
người đọc.


1.2.3. Vai trò của tiểu phẩm trong nền văn học và báo chí Việt Nam hiện đại
Như đã đề cập ở trên, tiểu phẩm đóng một vai trò không nhỏ trong việc hiện đại hóa văn
chương Việt Nam.
Trước hết, đúng như Hoài Thanh nhận định, văn chương hiện đại khác với văn chương
trung đại ở một chữ “tôi”. Cái tôi cá nhân được thể hiện rõ nét qua phong trào thơ Mới
(1932 – 1945) hay qua những tác phẩm văn xuôi xuất sắc của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Công Hoan…Tiểu phẩm cũng góp phần vào việc khẳng định cái tôi trên văn đàn
những năm đầu thế kỉ và cho đến tận hôm nay. Tiểu phẩm giải phóng được suy nghĩ và cá
tính sáng tạo của nhà văn ở chỗ cho phép sự linh hoạt đạt đến một giới hạn rất cao. Một tiểu
phẩm khoảng một trăm đến hai trăm từ đã có thể nói rất nhiều về tình hình xã hội, chính trị,
kinh tế…
(3)

Xem thêm Phụ lục 3 của luận văn này

21


Vai trò thứ hai chính là vai trò kết nối văn học và báo chí. Cùng với kí văn học, phóng sự
văn học, tiểu phẩm cho thấy quá trình văn chương đến với bạn đọc có thể được thực hiện
bằng nhiều con đường. Trong đó, báo chí là một phương thức truyền tải hết sức hữu hiệu.
Mỗi ngày một số báo, đó chính là lợi thế rất lớn của báo chí. Sự thành công của Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Công Hoan…có nhiều sự đóng góp của các tờ báo. Sự kết nối văn học – báo
chí diễn ra theo hai chiều, có sự tác động qua lại lẫn nhau. Tiểu phẩm, vì được đăng trên
báo, mà phải đảm bảo tính thời sự, cập nhật, nói ít nhưng phải đúng, phải trúng vào vấn đề.
Vì vậy, tiểu phẩm vừa mang bản chất văn học, vừa mang tinh thần báo chí. Ngược lại, báo
chí, một khi đã chấp nhận tiểu phẩm như một thể loại thường kì, thì bản thân báo chí sẽ thúc
đẩy quá trình sáng tạo của những người viết tiểu phẩm (tìm những đề tài mới, góp ý xây
dựng nội dung tiểu phẩm theo hướng dân chủ hóa, tích cực hóa…). Quá trình này liên tục
diễn ra, có cả tự phát và tự giác, nhưng chung quy lại, sẽ giúp cả báo chí và tiểu phẩm cùng

nhau phát triển. Tiểu phẩm đưa ra những phương thức tiếp cận, phương thức phản ánh, lối
đối thoại và khả năng tư biểu hiện phù hợp với từng trường hợp cụ thể.
Một đặc điểm khác không kém phần quan trọng chính là tính chất cởi mở đối thoại của
tiểu phẩm. Điều này đã góp phần làm cho tiểu phẩm trở thành thể loại có thể dùng để đối
đáp được, nghĩa là mỗi tác giả có thể dùng tiểu phẩm của mình để ủng hộ hoặc phản biện
quan điểm của một tiểu phẩm khác. Tất nhiên, điều này chỉ diễn ra trong một giới hạn nhất
định, tôn trọng luật ngôn quyền báo chí và những quy luật nội tại của tiểu phẩm nói riêng,
văn học nói chung.
Lúc mới xuất hiện, hầu như tiểu phẩm không được xem như một thể loại. Nhưng qua một
trăm năm phát triển, tiểu phẩm đã góp thêm vào tiến trình lịch sử văn học Việt Nam một thể
loại thực thụ, có những đặc trưng riêng không thể lẫn. Đây không phải là sự phát triển tất
yếu sẽ có, mà phụ thuộc rất nhiều vào những người sáng tác tiểu phẩm và sự đón nhận của
đông đảo bạn đọc.
Như vậy, trong tương lai, triển vọng phát triển của tiểu phẩm Việt Nam sẽ như thế nào?
Chúng tôi đã khảo sát một số ấn phẩm báo điện tử chuyên về trào phúng và châm biếm ở
các quốc gia như Mĩ, Anh, Scotland, Australia…và nhận thấy rằng: Tiểu phẩm (Bao gồm
các thể loại châm biếm chính trị, trào phúng xã hội…) là một phần không thể thiếu trong đời
sống tinh thần của người dân tại các quốc gia này. Ở nước ta hiện nay, tờ báo duy nhất dành
cho tiểu phẩm và các thể loại châm biếm khác chính là Tuổi trẻ cười, còn lại, chủ yếu tiểu

22


phẩm chỉ là một phần, một mục trên các báo. Từ thực tế đó, có thể dự đoán rằng, mảnh đất
dành cho tiểu phẩm vẫn còn rất nhiều cơ hội và chưa bị bão hòa.
Tuy vậy, có một thực tế cần phải được xem xét: Hầu hết lực lượng sáng tác tiểu phẩm ở
nước ta hiện nay đều đã quen thuộc với độc giả. Những nhân tố mới vẫn chưa xuất hiện, nếu
có, cũng chỉ là bước đầu thử sức với công việc viết tiểu phẩm. Để có được đam mê, sức
sáng tạo và sự nhiệt tình dành cho tiểu phẩm, với nhiều cây bút hiện nay không phải là điều
đơn giản. Muốn tiểu phẩm tiếp tục đóng góp cho văn học và báo chí nước nhà, cần tìm được

nguồn sáng tác mới. Sự nối tiếp không đứt quãng sẽ giúp cho tiểu phẩm tránh được những
khoảng lặng không cần thiết, tiếp tục khám phá những hình thức thể hiện mới mẻ và cung
cấp cho bạn đọc những cái nhìn đa chiều hơn về đời sống. Đó cũng chính là một trong
những nhiệm vụ mà tiểu phẩm đương đại Việt Nam phải làm được trong thời gian sắp đến.

1.3. Tác giả Lê Thị Liên Hoan và tiểu phẩm của Lê Thị Liên Hoan
1.3.1. Vài nét về tác giả Lê Thị Liên Hoan
Trong những năm gần đây, nền văn học Việt Nam đương đại đã chứng kiến sự ra đời của
nhiều cây bút. Họ là một thế hệ sáng tác mới, hướng đến những đề tài mới, nóng bỏng hiện
nay với cách tiếp cận riêng, không giống những người đi trước. Đó có thể xem là một tín
hiệu đáng mừng khi lực lượng sáng tác đã bắt đầu có những chuyển dịch theo hướng tích
cực hóa và đa dạng hóa các phương thức sáng tác. Với lợi thế của những người đi sau, họ
xông xáo và năng nổ đi tìm những cách bộc lộ bản thân, suy nghĩ của mình trước rất nhiều
hiện tượng của đời sống. Lê Thị Liên Hoan cũng góp phần vào dòng chảy của văn chương
đương đại bằng một thể loại khá ít người dám đặt bút. Đó chính là tiểu phẩm.
Lê Thị Liên Hoan tên thật là Lê Hoàng, sinh ngày 20 tháng 1 năm 1956 tại Hà Nội. Ông
từng học ngành xây dựng, sau đó tốt nghiệp ngành quay phim ở trường Đại học Sân khấu Điện ảnh (Hà Nội). Năm 1982, ông vào thành phố Hồ Chí Minh, về công tác tại hãng phim
Giải phóng. Khoảng thời gian đầu, ông viết một số vở kịch như Tôi chờ ông đạo diễn
(1985), Ngụ ngôn năm 2000 (1986), Đi tìm những gì đã mất (1987)… Đến thập niên 90, Lê
Hoàng nổi tiếng với nhiều bộ phim điện ảnh giàu tính nghệ thuật như: Vị đắng tình yêu, Ai
xuôi vạn lý, Lương tâm bé bỏng, Chiếc chìa khóa vàng, Lưỡi dao…được người xem và giới
chuyên môn đánh giá cao. Trong số đó, nổi bật nhất là phim Vị đắng tình yêu. Bộ phim này
do Lê Hoàng viết kịch bản, sau đó đã đạt khá nhiều giải thưởng uy tín trong đó có giải Bông
sen vàng cho thể loại phim truyện nhựa (Liên hoan phim toàn quốc năm 1993). Tuy vậy, Lê
23


×