Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

đặc điểm tiểu thuyết viết về chiến tranh của văn lê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.06 MB, 166 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thu Hà

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ
CHIẾN TRANH CỦA VĂN LÊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thu Hà

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ
CHIẾN TRANH CỦA VĂN LÊ

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HOÀNG THỊ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013



MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 3
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 9
4. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 10
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................. 11
7. Cấu trúc luận văn ......................................................................................................... 11

CHƯƠNG 1: VĂN LÊ VÀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH THỜI CHỐNG MỸ ........ 13
1.1. Tác giả Văn Lê và sự nghiệp sáng tác ...................................................................... 13
1.1.1. Vài nét về cuộc đời ...............................................................................................13
1.1.2. Quá trình sáng tác .................................................................................................14
1.2. Đề tài chiến tranh trong văn học sau 1975 .............................................................. 16
1.2.1. Bối cảnh lịch sử, văn học ......................................................................................16
1.2.2. Những tác phẩm, tác giả tiêu biểu ........................................................................19
1.3. Tiểu thuyết viết về chiến tranh của Văn Lê ............................................................ 21
1.3.1. Sự ám ảnh của đề tài chiến tranh và cảm hứng sáng tạo ......................................21
1.3.2. Bộ ba tiểu thuyết của Văn Lê về Mậu Thân .........................................................25

CHƯƠNG 2: BỨC TRANH CHIẾN TRẬN VÀ CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH 30
2.1. Bức tranh chiến trận hào hùng, bi tráng ................................................................. 30
2.1.1. Những trận chiến hào hùng ...................................................................................30
2.1.2. Những cảnh tượng bi tráng ...................................................................................33
2.2. Chân dung người lính................................................................................................ 40
2.2.1. Gương mặt của tập thể người lính ........................................................................42
2.2.2. Những phẩm chất cao đẹp của người lính ............................................................51

2.2.3. Đời sống tình cảm của những người lính .............................................................55
2.3. Những suy ngẫm sâu xa về cuộc chiến ..................................................................... 67
2.3.1. Người lính nghĩ về chiến tranh .............................................................................67
2.3.2. Người dân trong cuộc suy ngẫm về cuộc chiến ....................................................70

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VỀ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ........................ 74
3.1. Sự đa dạng trong kết cấu nghệ thuật ....................................................................... 74
1


3.1.1. Kết cấu tuyến tính và phi tuyến tính .....................................................................74
3.1.2. Kết cấu lồng ghép, sóng đôi..................................................................................78
3.1.3. Mạch kết cấu dồn dập, tiết tấu nhanh như ở truyện ngắn .....................................83
3.2. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật và sử dụng ngôn từ ............................... 86
3.2.1. Sự tinh tế trong khắc họa tính cách nhân vật ........................................................86
3.2.2. Sự linh hoạt trong sử dụng ngôn từ ......................................................................97
3.3. Nghệ thuật sử dụng yếu tố tâm linh, kỳ ảo ............................................................ 101
3.3.1. Yếu tố tâm linh, kỳ ảo trong văn học ..................................................................102
3.3.2. Những yếu tố tâm linh, kì ảo trong tiểu thuyết của Văn Lê ...............................102
3.3.3. Hiệu quả tư tưởng – nghệ thuật của yếu tố tâm linh, kỳ ảo ................................110

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 114
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 117
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 121

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Hai cuộc kháng chiến thần thánh, trường kỳ gian khổ nhưng vô cùng vẻ vang của dân
tộc ta chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ luôn là đề tài phong phú, tạo nên nguồn
cảm hứng mãnh liệt để các nhà văn xây dựng thành công tác phẩm của mình. Đề tài chiến
tranh, từng là đề tài xuyên suốt, bao trùm cả một giai đoạn văn học dài hơn nửa thế kỷ.
Ngay khi đất nước thống nhất, cả dân tộc bước vào cuộc sống thời bình với bộn bề công
việc, nhiều đề tài mới xuất hiện trên văn đàn. Nhưng đề tài chiến tranh vẫn là mảng đề tài
được các nhà văn, đặc biệt là những nhà văn từng là người lính, tiếp tục khai thác với thái
độ trân trọng, tấm lòng tri ân và cái nhìn mới.
Sinh thời văn hào Nga Lev Tolstoi – tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Chiến tranh và
hòa bình, đã phỏng đoán: “Trong một trăm năm tới, chiến tranh vẫn là cảm hứng sáng tạo
cho toàn bộ nghệ thuật – từ bi kịch và sử thi cho đến cả những bài thơ tứ tuyệt, trữ tình”. Ở
Việt Nam chúng ta, thực tế đã chứng minh điều đó. Dù cuộc chiến đã lùi xa, nhưng dấu ấn
và dư âm bi tráng, khốc liệt của cuộc chiến thì vẫn đau đáu, ám ảnh khôn nguôi trong tâm trí
những người cầm bút. Đặc biệt là những người cầm bút từng mặc áo lính, bước ra từ cuộc
chiến sinh tử, luôn nhắc nhở mình như còn mắc nợ biết bao đồng đội đã hy sinh.
Điểm lại nền văn học Việt Nam từ 1945 đến nay, chưa ai có thể thống kê chính xác,
cụ thể đã có bao nhiêu tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng. Nhưng có một điều
chắc chắn là đề tài về lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng vẫn luôn là nguồn cảm
hứng sáng tạo nghệ thuật của đông đảo thế hệ văn nghệ sĩ và được xem là dòng chủ đạo của
văn học cách mạng Việt Nam. Lực lượng sáng tác về đề tài chiến tranh rất hùng hậu với các
tác giả như Nguyễn Khải, Nguyễn Đình Thi, Anh Đức, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc,
Bảo Ninh, Lê Lựu, Văn Lê, Chu Lai, Khuất Quang Thụy, Trung Trung Đỉnh… đã đóng góp
nhiều tác phẩm có giá trị làm diện mạo văn học phong phú, sinh động.
Văn Lê thuộc thế hệ nhà văn chống Mỹ từng có mặt ở chiến trường miền Đông Nam
Bộ trong những năm tháng ác liệt nhất của chiến tranh. Mới hai mươi sáu tuổi, ông đã bắt
đầu sự nghiệp văn chương và đoạt giải A cuộc thi thơ Báo Văn nghệ năm 1974 – 1975 và
bắt đầu khẳng định tên tuổi từ đó. Văn Lê có sức viết khỏe, từ đó đến nay, hầu như năm nào
ông cũng cho ra đời những sáng tác mới. Văn Lê đã có khoảng trên hai mươi đầu sách. Và
đặc biệt là tác phẩm nào của ông cũng bám sát đề tài chiến tranh. Dường như chiến tranh ám
3



ảnh ngòi bút của ông, đến nỗi có người phải nhận xét: “Không có chiến tranh, chắc không
có nhà văn Văn Lê!”. Văn Lê đến với cuộc đời bằng nỗi đau của một con người luôn cảm
thấy mình như mắc nợ với những người lính đã chết và cả những người đang sống. Trong
chuyên mục Nói chuyện với những cây bút từng là lính, Văn Lê từng chia sẻ với bạn đọc:
“Khi tôi viết, đó là lúc tôi muốn được làm việc đúng, muốn đánh thức dậy những điều tốt
đẹp của mỗi con người.”
Chính cái tâm và cái tài của Văn Lê đã thuyết phục được những người đọc khó tính
nhất. Tiểu thuyết Mùa hè giá buốt được trao tặng giải B (không có giải A) – giải thưởng 5
năm một lần của Bộ Quốc phòng. Và mới đây, tiểu thuyết này lại được trao giải Nhất Giải
thưởng Văn học nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh (2006 – 2011), giải thưởng 5 năm một
lần đầu tiên của Thành phố. Đợt giải thưởng này, nói như Lê Quang Trang – Chủ tịch Hội
Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, trên báo Sài Gòn giải phóng ngày 05/12/2012 là nhằm:
“tôn vinh những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh lịch sử dân
tộc, truyền thống đấu tranh cách mạng và công cuộc đổi mới hiện nay” [44]. Không chỉ
Văn Lê, các tác phẩm đoạt giải trong cùng đợt cũng viết về chiến tranh như Đêm Sài Gòn
không ngủ (Trầm Hương), Đất thở (Thạch Cương), Xuân lộc (Hoàng Đình Quang). Có thể
thấy, chiến tranh qua đi đã lâu nhưng văn học viết về chiến tranh vẫn luôn cần được trân
trọng, nghiên cứu. Đề tài chiến tranh vẫn cần thiết trong hành trang chúng ta giữa cuộc sống
hiện tại đầy biến động, cám dỗ khiến con người ta có thể lãng quên đi quá khứ mất mát, đau
thương nhưng hào hùng, đẹp đẽ.
Lặng lẽ, khiêm nhường và bền bỉ, Văn Lê đang dần tỏa sáng trên lĩnh vực văn học
viết về chiến tranh. Có thể thấy nét nổi bật trong tiểu thuyết của Văn Lê, đó là chất nhân
văn. Chính giá trị nhân văn thấm đẫm trong các tác phẩm, đã giúp ông nhận được những
giải thưởng cao quý của Bộ Quốc phòng cũng như Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong nền văn học cách mạng, các tác phẩm của ông góp phần để lại những bài học quý báu
cho thế hệ sau thấy được quá khứ hào hùng và bi tráng của dân tộc. Xác định được tầm quan
trọng của đề tài chiến tranh cũng như thấy được những đóng góp của Văn Lê cho đề tài này,
chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài luận văn “Đặc điểm tiểu thuyết viết về chiến tranh của

Văn Lê”. Với luận văn này, người viết hy vọng có thể góp phần phát hiện ra những giá trị
riêng về nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết của Văn Lê. Và thể hiện thái độ trân trọng
sự đóng góp của ông, đối với nền văn học nước nhà.

4


2. Lịch sử vấn đề
Sống trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh, Văn Lê sớm rời ghế nhà trường để nhập
ngũ. Ông từng được trực tiếp tham gia chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Nhờ có năng khiếu
văn, ông được điều chuyển sang làm công tác chính trị, văn hóa trong quân đội. Văn Lê
từng là phóng viên báo Văn nghệ quân giải phóng, Văn nghệ giải phóng, Văn nghệ. Đến
năm 1977, khi chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, ông đã tái nhập ngũ ở mặt trận 479 cho
tới năm 1982 mới ra quân. Trong suốt khoảng thời gian đó, ông vừa cầm súng vừa viết văn.
Đến nay gia tài của Văn Lê để lại có khoảng hơn hai mươi đầu sách, trong đó chủ yếu là
viết về chiến tranh và lực lượng vũ trang.
Văn Lê sáng tác nhiều và có những tác phẩm được đánh giá cao, đạt các giải thưởng
uy tín. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào tập trung đi sâu vào nghiên cứu về các
phương diện nội dung và đặc điểm nghệ thuật trong những sáng tác của ông. Cho đến nay,
các tiểu thuyết của Văn Lê chỉ được nhắc đến trong một số các bài báo, bài nghiên cứu hay
bài viết giới thiệu về tác phẩm và sự nghiệp sáng tác của ông. Có thể điểm qua một số ý
kiến của các nhà nghiên cứu, nhà báo viết về Văn Lê và các tiểu thuyết viết về đề tài chiến
tranh cách mạng của ông như sau:
Trong bài báo Khích lệ lớn giới văn nghệ sĩ, nhân sự kiện trao Giải thưởng Văn học
nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 5 năm (2006 – 2011), Lê Quang Trang – Chủ tịch Hội
Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận xét tiểu thuyết Mùa hè giá buốt của Văn Lê – tác
phẩm đạt giải Nhất của lĩnh vực văn học: “bút pháp hiện thực nghiêm nhặt pha chút hư ảo
tâm linh trong Mùa hè giá buốt tạo hiệu quả sâu về sự ám ảnh nơi người đọc” [56]. Có thể
thấy, thành công của tác phẩm chính là đã phản ánh chân thật hiện thực chiến tranh nhưng
trong đó vẫn đan xen những giá trị tâm linh được xem là biểu trưng của văn hóa dân gian.

Và giải thưởng này là nhằm: “tôn vinh những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ
thuật, phản ánh lịch sử dân tộc, truyền thống đấu tranh cách mạng và công cuộc đổi mới
hiện nay” [56].
Cũng Lê Quang Trang, trong bài Phía sau hiện thực khắc nghiệt của Mùa hè giá
buốt, đăng trên tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật có nhận xét: “Về nghệ thuật,
có thể thấy tác phẩm nằm trong hệ hình của tiểu thuyết truyền thống, không có những thể
nghiệm cách tân hoa mỹ cầu kỳ. Tuy nhiên, cách viết đằm thắm, gắn bó sâu sắc với đời
sống hiện thực mà anh chứng kiến kết hợp cùng tưởng tượng của nhà văn, đồng thời chứa
đựng nhiều suy tưởng, chiêm nghiệm sâu sắc, đa dạng có thể đáp ứng nhiều loại nhu cầu,
5


khiến các tầng lớp bạn đọc khác nhau đều có thể hào hứng theo dõi cốt truyện và số phận
các nhân vật. Chính sự kỹ lưỡng trong văn phong, sức tươi trẻ của chất liệt sống, sự mới mẻ
và đa dạng trong ý tưởng của tác phẩm đã chiếm được tình cảm của người đọc, sự đồng
thuận tuyệt đối của Hội đồng chung khảo, và cùng thời gian vẫn tiếp tục lan tỏa trong bạn
đọc” [57]. Như vậy, đổi mới nghệ thuật và tìm ra hướng đi riêng cho tác phẩm của mình
không phải cái đích mà Văn Lê muốn hướng đến. Ông khai thác đề tài chiến tranh ở chiều
sâu, ở việc phản ánh chân thật về cuộc chiến, về một thế hệ thanh niên Việt Nam yêu nước
anh dũng. Ông tìm đến tận cùng nguồn gốc của sức mạnh dân tộc, bản chất của người lính.
Đó chính là những yếu tố làm nên nét riêng của Văn Lê.
Nhà báo Phan Hoàng trong bài Sức mạnh tình yêu chiến thắng tình yêu sức mạnh đã
đánh giá: “Mùa hè giá buốt, một tiểu thuyết đẹp và buồn, quyến rũ và đau đớn, thăng hoa
như một tứ thơ” [21]. Tác phẩm của Văn Lê có kết thúc buồn và đau đớn bởi nó phản ánh
chân thực sự thật lịch sử. Để có được những chiến công, làm thay đổi cục diện cuộc chiến,
nhiều người lính đã phải hy sinh, phải đánh đổi xương máu của mình.
Trên website của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Sáng với bài Âm
hưởng bi tráng trong tiểu thuyết Mùa hè giá buốt đã nhận định: “Viết về đề tài chiến tranh,
và ngay cả viết về một chiến dịch cụ thể như chiến dịch Mậu Thân 1968, cũng không phải là
một cái gì quá mới mẻ. Tuy nhiên, đối với tác giả Mùa hè giá buốt, một cựu binh đã từng

ngang dọc trên chiến trường Đông Nam bộ, sau khi hoàn thành mỗi tác phẩm văn học về
chiến tranh, như một người lính anh lại tiếp tục tiến lên phía trước. Có lẽ cũng như một số
nhà văn từng mặc áo lính cùng thời, tìm tòi, đổi mới thi pháp tiểu thuyết không phải là cái
đích anh tìm kiếm, chính vì thế mà tiếp nối những Nếu anh còn được sống và Cao hơn bầu
trời… Trong Mùa hè giá buốt, thế mạnh vẫn là vốn sống cuồn cuộn, là những trải nghiệm
sinh – tử, những trải nghiệm không gì có thể thay thế” [47].
Trên báo Cần Thơ số ngày 13/11/2004 đăng bài viết của Lê Phú Khải có đoạn đánh
giá: “Cao hơn bầu trời là tác phẩm văn học đầu tiên miêu tả một cách chân thực và hùng
hồn về sự kiện làm nhức nhối lịch sử đương đại Việt Nam, sự kiện Tết Mậu Thân. Hùng
hồn vì ở đó người đọc lĩnh hội được sự hy sinh cao cả, vô biên của cả một thế hệ thanh niên
thời đại Hồ Chí Minh, mà nếu không có những trang viết như thế, các thế hệ sau không thể
hình dung nổi vì sao một dân tộc nhỏ bé, một đất nước nghèo nàn như Việt Nam lại có thể
đánh bại một siêu cường quân sự chưa hề biết chiến bại là gì như quân đội Mỹ” [24]. Lê
Phú Khải đã khẳng định tài năng của Văn Lê: “Bằng vốn sống đầy ắp của người lính từng
6


vào sinh ra tử, với bản lĩnh một nhà văn có tài, Văn Lê đã tái hiện trên gần 400 trang sách
khổ lớn cuộc chiến chống Mỹ để giải phóng đất nước còn in đậm trong tâm hồn ít nhất là
hai thế hệ của người Việt Nam đương đại” [24].
Trong bài báo Cao hơn bầu trời – Một tác phẩm tâm huyết viết về chiến tranh của
báo Sài Gòn giải phóng số 9840, tác giả Trần Thị Khánh nhận xét: “Tiểu thuyết Cao hơn
bầu trời (NXB Trẻ, 2004) của Văn Lê mô tả một cách chân thực, cảm động về những cái
chết, về những trận đánh tàn khốc, nhọc nhằn, không cân sức và sự dũng cảm, sự hy sinh
cao cả của dân tộc Việt Nam, tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống xâm lược Mỹ.
Nhưng nếu chỉ có thế thì cuốn sách mới dừng lại ở phần viết về chiến công chứ không phải
là viết về chiến tranh. Văn Lê không mượn chiến tranh để viết về những trăn trở, đau khổ
của thân phận con người mà anh sử dụng bối cảnh chiến tranh làm nền tảng cốt lõi mà từ đó,
con người biết cách để hành động, để sống chung, để chiến thắng và để thương yêu nhau”
[25].

Nhà văn Bang Hyun Suk, Chủ tịch Hội Nhà văn trẻ Hàn Quốc, chia sẻ những nhận
xét về tiểu thuyết Nếu anh còn được sống trong bài báo Thêm một nhịp cầu văn học từ Việt
Nam đến với Hàn Quốc trên báo Sài Gòn giải phóng Chủ nhật 09/02/2003 (nhà báo Ngô
Ngọc Ngũ Long ghi lại): ở thập niên 70, nhân dân Hàn Quốc đã được đọc một số tiểu thuyết
Việt Nam được dịch ra tiếng Anh nhưng theo riêng ông thì vẫn chưa thực sự thấy được nét
tiêu biểu của một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam trong chiến tranh. Các tác phẩm chỉ là một cái
nhìn riêng, còn phiến diện của một người. Chỉ khi đọc tiểu thuyết Nếu anh còn được sống
của Văn Lê, ông mới thực sự hiểu cả hai mặt giữa cái sống và cái chết, giữa chất anh hùng
ca và những nỗi đau mà nhân dân Việt Nam phải gánh chịu trong chiến tranh. Bang Hyun
Suk còn cho biết thêm “Ngay từ khi phát hành, tiểu thuyết đã được 6 tờ báo uy tín tại Hàn
Quốc viết bài giới thiệu trang trọng, được bạn đọc đón nhận với một tình cảm đặc biệt và
đánh giá cao bởi tính nhân văn cao cả của con người và đậm đà tính Việt Nam trong tác
phẩm. Rất nhiều bạn đọc người Hàn Quốc sau khi đọc xong tiểu thuyết đã sang Việt Nam
tìm hiểu về đất nước, con người Việt Nam” [34].
Trong bài viết Nếu anh còn được sống – lời cảnh tỉnh với loài người của tác giả
Xuân Đài có đoạn nhận xét: “Văn Lê không dừng lại ở chiến công, ngòi bút anh phanh phui
đến tận cùng tai họa của cuộc chiến do người Mỹ gây ra. Hậu họa thật lớn lao: một dòng họ
tuyệt tự, những mối tình tan nát, sự thù hận của tuổi trẻ Việt – Mỹ, sự phản bội đến tởm lợm
của những người cùng chiến tuyến … Đừng ngạc nhiên khi ai đó không bằng lòng với cách
7


thể hiện chiến tranh của Văn Lê. Anh là người trong cuộc, mấy chục năm sau ngẫm lại năm
tháng của đời mình, của đồng đội, của dân tộc và không thể viết khác. Sách anh không dành
cho những người chỉ đọc để giải trí”.
Tác giả Hoàng Quốc Hải trong bài viết Chiến tranh và góc độ người cầm bút đã nhận
xét về tiểu thuyết Nếu anh còn được sống: “Gập sách lại, một cái gì khiến ta vấn vương,
như là sự day dứt về những điều nhẽ ra không nên có. Song lại có điều khác làm ta hài lòng
như gỡ bỏ được sự ám ảnh nặng nề, bởi Văn Lê đã viết với tư cách công dân và cả danh dự
của người lính” [16].

Như vậy, chín ý kiến tổng hợp ở đây đều là các ý kiến khen và đánh giá cao bộ ba
tiểu thuyết viết về Mậu Thân của Văn Lê. Có thể thấy, khi đánh giá về giá trị và thành công
trong các tác phẩm, nhiều ý kiến đã có sự thống nhất. Văn Lê thành công không phải ở sự
cách tân, đổi mới trong nội dung hay thi pháp nghệ thuật. Tác giả vẫn sử dụng bút pháp hiện
thực nghiêm nhặt, nghệ thuật nằm trong hệ hình của tiểu thuyết truyền thống. Nhưng thế
mạnh và giá trị đầy tính thuyết phục trong tiểu thuyết của Văn Lê là ở sự phản ánh chân thật
hiện thực. Ông không viết về chiến thắng mà viết về chiến tranh. Sự chân thực là ở vốn sống
ngồn ngộn, những trải nghiệm sinh – tử không gì có thể thay thế. Đặc biệt ở một ý kiến, là
sự đề cao, ca ngợi: Bộ ba tiểu thuyết là những tác phẩm văn học đầu tiên, miêu tả một cách
chân thực về sự kiện làm nhức nhối lịch sử đương đại Việt Nam.
Không chỉ ở phạm vi trong nước, tiểu thuyết Nếu anh còn được sống còn được đón
nhận nồng nhiệt tại Hàn Quốc, tạo nên nhịp cầu nối giữa văn học hai nước. Trong bài viết
nhân dịp kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Hàn Quốc – Việt Nam trên Nhật báo
Joseon (06/01/2003), Nếu anh còn được sống được giới thiệu là do nhà xuất bản Văn học
thực tiễn phát hành. Đồng thời, tiểu thuyết này được đánh giá là “xuất sắc hơn cả về mảng
văn học chiến tranh” so với các tác phẩm đã được dịch trước đó.
Các tiểu thuyết viết về chiến tranh của Văn Lê phản ánh chân thật và sinh động một
thời kỳ lịch sử hào hùng và bi tráng của dân tộc. Những trang viết của Văn Lê đem đến cho
người đọc cái nhìn đúng đắn về một thế hệ trẻ Việt Nam anh dũng, xả thân vì tổ quốc. Song
đáng tiếc cho tới nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính tổng quát và toàn
diện về các tiểu thuyết của Văn Lê. Chủ yếu các đánh giá, nhận xét của giới phê bình và
người trong ngành đều chỉ ở dạng thức bài báo, bài viết. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa các
nhận định và đánh giá trên; thông qua đề tài luận văn này, chúng tôi hy vọng có thể khảo

8


sát, phân tích cụ thể và toàn diện hơn những đặc điểm nội dung, nghệ thuật nổi bật trong
tiểu thuyết của Văn Lê.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Văn Lê thành công với nhiều thể loại như thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn; kịch bản film
tài liệu, film điện ảnh… Ông khởi đầu với thơ nhưng hiện nay lại đang thiên về văn xuôi,
đặc biệt là thể loại tiểu thuyết viết về chiến tranh. Có thể nói chỉ thể loại tiểu thuyết mới đủ
tầm vóc, để Văn Lê truyền tải hết những tư tưởng, suy nghĩ, chiêm nghiệm của mình về
chiến tranh. Viết về đề tài này, Văn Lê đã có nhiều tiểu thuyết như Người gặp trên tàu
(1985), Khoảng rừng có những ngôi sao (1987), Hai người còn lại trong rừng (1988), Tiếng
rơi của hạt sương đêm (1993)…
Trong đó, không thể không nhắc đến bộ ba tiểu thuyết viết về chiến dịch Mậu Thân
năm 1968 Nếu anh còn được sống (1994), Cao hơn bầu trời (2002) và Mùa hè giá buốt
(2008). Bộ ba tiểu thuyết này được đánh giá cao, là phản ánh chân thật hình ảnh thế hệ trẻ
Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Đồng thời phản ánh được sự khốc liệt của cuộc
chiến nói chung cũng như về chiến dịch Mậu Thân nói riêng. Từ đó, bộ ba tiểu thuyết đã để
lại những bài học quý báu cho thế hệ sau.
Trong kháng chiến chống Mỹ, chiến dịch Mậu Thân – với việc đồng loạt tấn công ở
40 tỉnh thành, trong đó mũi tấn công chính là vào Sài Gòn, sào huyệt đầu não của chế độ
Mỹ – Ngụy; có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử dân tộc. Rất nhiều những nhà sử
học, chính trị gia, các nhà quân sự, văn nghệ sỹ ở cả hai chiến tuyến đều tìm hiểu, nhận xét
và đánh giá về chiến dịch này. Cho đến hôm nay, nó vẫn luôn là đề tài ám ảnh để người ta
phải suy nghĩ và cầm bút viết. Nhà văn nữ Trầm Hương rất tâm huyết với đề tài này, cũng
đã chọn viết về Mậu Thân và thành công với tác phẩm Đêm Sài Gòn không ngủ – tác phẩm
đạt giải III, cùng đợt giải thưởng với tiểu thuyết Mùa hè giá buốt của Văn Lê – đạt giải I .
Có thể thấy, sức ám ảnh của đề tài chiến tranh, đặc biệt là những kí ức sâu đậm về
chiến dịch Mậu Thân đã giúp Văn Lê liên tục viết ra bộ ba tiểu thuyết gây được tiếng vang
này. Đó chính là đối tượng nghiên cứu của đề tài. Để làm sáng tỏ giá trị nổi bật của các tiểu
thuyết trên, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng sẽ tìm những đặc điểm giống và
khác trong việc xây dựng hình tượng người lính và bức tranh chiến trận của Văn Lê với một
số tác giả cũng viết về đề tài chiến tranh như Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Chu Lai…
9



3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung vào việc tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ
thuật nổi bật trong các tiểu thuyết viết về chiến tranh của Văn Lê. Từ đó, thấy được cách
nhìn nhận mới mẻ, quan niệm về sự sống và cái chết, về chiến tranh và tư tưởng nhân đạo
của nhà văn – người từng trực tiếp đi qua cuộc chiến. Đồng thời thấy được sức mạnh của
tình yêu, nét đẹp của truyền thống văn hóa lâu đời, văn hóa tâm linh trong mỗi con người,
chính là nguồn gốc sức mạnh của dân tộc.

4. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích giá trị nhân đạo trong nội dung của các tiểu thuyết, thấy được sức mạnh
của tình yêu trong chiến tranh; sự gắn bó của người lính với làng quê, với văn hóa tâm linh;
những chiêm nghiệm, suy tư về thân phận con người của tác giả.
Khảo sát các nghệ thuật nổi bật của Văn Lê trong cách xây dựng hệ thống nhân vật
đa dạng; kết cấu “kép” lạ và độc đáo, bút pháp đan xen hữu thức và vô thức, đan xen thực tế
chiến tranh khốc liệt và thế giới tâm linh huyền bí; ngôn từ tiểu thuyết đầy chất thơ.
Rút ra những đóng góp của Văn Lê cho đề tài chiến tranh đối với nền văn học cách
mạng Việt Nam sau 1975 và là nhịp cầu nối với văn học Hàn Quốc.

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích tổng hợp
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đi vào phân tích – tổng hợp ba tiểu thuyết viết về
đề tài chiến tranh của Văn Lê để tìm ra các đặc điểm nổi bật trong việc thể hiện nội dung tư
tưởng và hình thức nghệ thuật.
5.2. Phương pháp khảo sát, thống kê
Khi xem xét các yếu tố nội dung, nghệ thuật trong ba tiểu thuyết viết về chiến tranh
của Văn Lê, chúng tôi luôn đặt chúng trong chỉnh thể của tác phẩm. Nhờ vậy, có thể thấy
được cái riêng trong phong cách sáng tác của tác giả. Từ đó, người viết có thể hệ thống hóa
thành những nhận xét, những nhận định mang tính khách quan, khoa học.

5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Để thấy được cái chung cũng như những nét riêng, độc đáo của Văn Lê trong việc
miêu tả sự dữ dội, khốc liệt của chiến tranh và vẻ đẹp của hình tượng người lính; chúng tôi
10


tiến hành so sánh với tác phẩm của một số tác giả cũng viết về đề tài này như Nguyễn Minh
Châu, Chu Lai, Bảo Ninh, Nguyễn Bảo Trường Giang. Từ đó thấy được sự đóng góp nhất
định của Văn Lê cho văn học viết về chiến tranh.
5.4. Phương pháp lịch sử
Để khảo sát đặc điểm tiểu thuyết của Văn Lê, chúng tôi đặt các tác phẩm của ông vào
bối cảnh lịch sử xã hội và văn học đương thời để thấy được giá trị và đóng góp của riêng
ông cho mảng đề tài về chiến tranh chống Mỹ.
5.5. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Để khảo sát những thành công về nghệ thuật tiểu thuyết, người viết vận dụng phương
pháp tiếp cận thi pháp học để khám phá sự đa dạng về nghệ thuật kết cấu, sự tinh tế trong
khắc họa tính cách nhân vật và sự linh hoạt trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật của Văn
Lê.

6. Đóng góp của luận văn
Có những kết luận khoa học về giá trị của các tiểu thuyết viết về chiến tranh của Văn
Lê. Chỉ ra được những tư tưởng, cái nhìn mới mẻ mà nhà văn gửi gắm bên trong mỗi tác
phẩm.
Thấy được phong cách riêng của Văn Lê trên văn đàn và chất nhân văn làm nên giá
trị trong các tác phẩm của Văn Lê.
Bổ sung thêm nguồn tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu văn học viết về đề tài lực
lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng sau 1975.

7. Cấu trúc luận văn
Chương I: Văn Lê và đề tài thời chiến tranh chống Mỹ

Giới thiệu khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Văn Lê – một con người
tài hoa trên nhiều lĩnh vực sáng tác thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản film… Giới thiệu
khái quát về quá trình sáng tác văn học của Văn Lê.
Đồng thời trong chương I, chúng tôi cũng đi vào giới thiệu sơ lược bộ ba tiểu thuyết
viết về đề tài Mậu Thân Nếu anh còn được sống, Cao hơn bầu trời và Mùa hè giá buốt.
Chương II: Bức tranh chiến trận và chân dung người lính
Chương II của luận văn tập trung vào phân tích hai đặc điểm nổi bật về nội dung tiểu
thuyết viết về chiến tranh của Văn Lê. Đó là bức tranh chiến trận và chân dung người lính.
11


Cũng trong chương này, người viết sẽ so sánh đối chiếu tác phẩm của Văn Lê với các
tác phẩm cùng đề tài của một số nhà văn khác nhằm tìm ra sự tương đồng – khác biệt và sự
đóng góp trong sáng tạo nghệ thuật của Văn Lê.
Chương III: Đặc điểm về phương diện nghệ thuật
Trong chương cuối này, luận văn tập trung vào tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật thể hiện
trong tiểu thuyết viết về chiến tranh của Văn Lê (kết cấu nghệ thuật, nghệ thuật xây dựng
hình tượng nhân vật, ngôn từ nghệ thuật và yếu tố tâm linh kì ảo).
Phần phụ lục
Giới thiệu các tài liệu, các bài báo trong nước viết về tác giả Văn Lê.
Hình ảnh các chặng đường Văn Lê đã đi qua.
Giới thiệu bản dịch một số bài báo Hàn Quốc viết về tiểu thuyết Nếu anh còn được
sống.
Tiếp một số hình ảnh của Văn Lê với thành công trong các lĩnh vực, hình ảnh khi tác
giả giao lưu với Hội Nhà văn trẻ Hàn Quốc và các độc giả Hàn Quốc…

12


CHƯƠNG 1: VĂN


LÊ VÀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH THỜI CHỐNG MỸ

1.1. Tác giả Văn Lê và sự nghiệp sáng tác
1.1.1. Vài nét về cuộc đời
Nhà văn – Nghệ sĩ ưu tú Văn Lê tên thật là Lê Chí Thụy, sinh ngày 02 tháng 03 năm
1949 tại xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Trong hoàn cảnh đất nước bị chiến tranh, tháng chín năm 1966, ông phải sớm rời ghế
nhà trường để nhập ngũ, rồi đi B – chiến đấu tại chiến trường Đông Nam Bộ. Ông từng
tham gia chiến dịch Mậu Thân năm 1968 và cả chiến dịch mùa xuân năm 1975.
Nhờ có năng khiếu văn học, ông được chuyển sang công tác chính trị, văn hóa trong
quân đội, mà theo ông: “Chính cái tài vặt ấy đã giúp tôi may mắn sống sót giữa mưa bom
bão đạn”. Tháng mười năm 1974, Văn Lê là phóng viên tạp chí Văn Nghệ Quân Giải
Phóng. Tháng mười một năm 1976, ông làm biên tập viên tuần báo Văn Nghệ Giải Phóng,
rồi tuần báo Văn Nghệ.
Tháng mười hai năm 1977 – khi chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, Văn Lê tái
ngũ, làm phóng viên tại chiến trường Tây Bắc Campuchia. Ông vừa cầm súng, vừa cầm bút
ở mặt trận 479 cho tới năm 1982 mới ra quân.
Sau đó, Văn Lê về làm biên tập viên, đạo diễn film tài liệu tại Hãng film Giải Phóng
của Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2010, ông nghỉ hưu.
Văn Lê đồng thời là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Điện ảnh Việt Nam; Uỷ
viên Ban Chấp hành, Phó Chủ tịch Hội đồng Thơ – Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh
khoá IV, Uỷ viên Hội đồng Thơ khoá V, VI.
Trong lĩnh vực công tác chính là đạo diễn film tài liệu, Văn Lê đã gặt hái được nhiều
giải thưởng trong cũng như ngoài nước. Ông được phong Nghệ sĩ ưu tú của ngành điện ảnh.
Về lĩnh vực văn chương, Văn Lê khởi đầu với thơ và sớm gặt hái thành công. Mới ở
tuổi hai mươi sáu, ông đã đoạt giải A cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ năm 1975 – 1976 và
bắt đầu khẳng định tên tuổi trên thi đàn. Sau đó, ông được trao giải B cuộc thi thơ của tạp
chí Văn Nghệ Quân Đội năm 1982 và giải A về thơ của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995
về đề tài chiến tranh và lực lượng vũ trang. Văn Lê lại tiếp tục nhận giải thưởng văn học Bộ

quốc phòng vào các năm 1995, 1999, 2009 cho hai tiểu thuyết và một trường ca…
Văn Lê quan niệm: “Nếu chỉ được chọn một trong ba – thơ, văn xuôi và điện ảnh thì
tôi chọn thơ. Cho dù làm thơ rất khó, càng ngày càng khó, càng lớn tuổi càng khó. Chỉ khi
13


thật sự xúc động tôi mới có thể làm thơ. Khó nhất của người làm thơ là sự chai lì cảm xúc,
đánh mất cảm xúc. Dù là thơ chính luận thì cũng cần phải có cảm xúc. Tất cả mọi sáng tạo
nghệ thuật, đặc biệt là thơ, nếu đánh mất cảm xúc thì đều thất bại”.
Bắt đầu sự nghiệp với thơ, nhưng sau này Văn Lê lại sáng tác thiên về văn xuôi nhiều
hơn. Tuy nhiên vẫn có thể thấy, thơ đã chi phối cả sự nghiệp cầm bút của ông. Chính vì thế,
các tác phẩm văn xuôi của Văn Lê đều mang văn phong nhẹ nhàng, bay bổng, mượt mà với
ngôn từ trau chuốt, gọt giũa. Nổi bật trong các sáng tác văn xuôi là bộ ba tiểu thuyết gây
được tiếng vang, viết về cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968 với những cái tên
cũng đậm chất thơ Nếu anh còn được sống, Cao hơn bầu trời và Mùa hè giá buốt.
Dù đã nghỉ hưu, Văn Lê vẫn miệt mài sáng tác không ngừng. Sau khi tiểu thuyết
Mùa hè giá buốt được trao giải Nhất Giải thưởng Văn học nghệ thuật TP.HCM 5 năm (2006
– 2011) lần đầu tiên, nhà văn lại vừa cho ra mắt bạn đọc tiểu thuyết lịch sử Mỹ nhân do nhà
xuất bản Phụ nữ ấn hành quý I/2013 và tập thơ Vé trở về do nhà xuất bản Quân đội nhân
dân ấn hành quý III/2013.
Với nỗ lực tự học không ngừng, Văn Lê đã tích lũy được vốn tri thức văn hóa khá
rộng. Đó là nền tảng quan trọng, giúp con người đa năng trong ông có hành trình sáng tạo
bền bỉ và đạt nhiều thành công trong thơ, văn xuôi lẫn điện ảnh... Ở thời điểm hiện nay,
những nhà văn thế hệ chống Mỹ có sức sáng tạo bền bỉ, dồi dào như Văn Lê có lẽ không
còn nhiều. Có thể nói, Văn Lê là một trong những hình ảnh văn nghệ sĩ tiêu biểu tự vượt lên
hoàn cảnh, nắm bắt và làm chủ tri thức để khẳng định giá trị của mình.
1.1.2. Quá trình sáng tác
Nếu chỉ tính riêng trong sự nghiệp văn chương, đến nay, Văn Lê đã để lại hai mươi
bốn đầu sách và nhiều bài báo... Trong đó ông đã xuất bản 4 tập thơ, 2 trường ca, 6 tập
truyện và tạp văn, 12 tiểu thuyết.

+ Về thơ:
 Một miền đất, một con người (tập thơ, 1976)
 Khoảng thời gian tôi biết (tập thơ, 1983)
 Phải lòng (tập thơ, 1994)
 Những cánh đồng dưới lửa (trường ca, 1997)
 Câu chuyện của người lính binh nhì (trường ca, 2006)
 Vé trở về (tập thơ, 2013)
+ Về truyện, tạp văn và tiểu thuyết
14


 Những ngày không yên tĩnh (truyện, 1978)
 Chuyện một người du kích (truyện, 1980)
 Bão đen (truyện, 1980)
 Đồng chí đại tá của tôi (truyện, 1981)
 Những người gặp trên tàu (tiểu thuyết, 1982)
 Ngôi chùa ở Prátthana (tiểu thuyết, 1985)
 Khoảng rừng có những ngôi sao (tiểu thuyết, 1985)
 Hai người còn lại trong rừng (tiểu thuyết, 1989)
 Tình yêu cả cuộc đời (tiểu thuyết, 1989)
 Khi toà chưa tuyên án (tiểu thuyết, 1989)
 Tiếng rơi của hạt sương khuya (tiểu thuyết, 1993)
 Nếu anh còn được sống (tiểu thuyết, 1994; tái bản 2001;
xuất bản ở Hàn Quốc 2001)
 Chim Hồng Nhạn bay về (truyện, 1996)
 Đồng dao thời chiến tranh (tiểu thuyết, 1999)
 Cao hơn bầu trời (tiểu thuyết, 2004)
 Những câu chuyện làng quê (văn, 2005)
 Mùa hè giá buốt (tiểu thuyết, 2007; tái bản 2012)
 Mỹ nhân (tiểu thuyết, 2013)

Có thể nói, Văn Lê là một người đa tài và thành công trên nhiều lĩnh vực. Ông viết
văn, làm thơ, viết kịch bản phim truyện nhựa; viết kịch bản và đạo diễn các phim tài liệu…
Ở lĩnh vực nghệ thuật nào, ông cũng gặt hái được những giải thưởng và thành công nhất
định. Về một số giải thưởng đã đạt trong các lĩnh vực:
+ Lĩnh vực văn chương:
 Một miền đất, một con người – Giải A thơ, Tuần báo Văn nghệ (1976)
 Phải lòng – Giải A thơ, Hội nhà văn (1995)
 Nếu anh còn được sống – Giải thưởng Bộ quốc phòng (1995)
 Những cánh đồng dưới lửa – Giải thưởng Bộ quốc phòng (1999)
 Mùa hè giá buốt – Giải B (không có giải A) của Bộ quốc phòng (2009)
– Giải A giải Văn học nghệ thuật TP.HCM (2012)
Đặc biệt: Nhà văn được trao giải Văn học Quốc tế Mê Kông (2007)…
+ Về film tài liệu:
15


 3 giải biên kịch xuất sắc nhất
 1 giải đạo diễn xuất sắc nhất
 2 giải Cánh diều vàng
 1 giải Bông sen vàng và 5 giải Bông sen giải bạc
 2 giải A, 3 giải B (của Hội Điện ảnh Việt Nam)
 Giải thưởng Galaxy của Truyền hình Nhật Bản…
Đặc biệt: Ông được phong Nghệ sĩ ưu tú của ngành điện ảnh.
+ Về film truyện:
 Giải I kịch bản sáng tác về 1000 năm Thăng Long – Hà Nội
 Giải Cánh diều vàng biên kịch film truyện nhựa Long Thành cầm giả ca.

1.2. Đề tài chiến tranh trong văn học sau 1975
1.2.1. Bối cảnh lịch sử, văn học
Năm 1975, công cuộc kháng chiến chống Mỹ thành công, đất nước hoàn toàn giải

phóng, Nam Bắc hai miền thống nhất. Từ đây, lịch sử dân tộc mở ra một thời kỳ mới, đồng
thời nền văn học hiện đại Việt Nam cũng bước sang một giai đoạn mới. Mặc dù cảm hứng
sử thi trong văn học thời kỳ chiến tranh vẫn còn tiếp tục quán tính trong nhiều năm thời hậu
chiến, nhưng yêu cầu đổi mới văn học cũng ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Từ giữa những năm 80, cùng với cao trào đổi mới đất nước; nền văn học hiện đại đã
có những biến chuyển sâu sắc và toàn diện. Văn học sau 1975 đã đạt nhiều thành tựu và có
nhiều triển vọng to lớn. Xuất hiện thêm rất nhiều đề tài mới về cuộc sống nhưng có thể nói
đề tài về lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng vẫn luôn là nguồn cảm hứng sáng tạo
nghệ thuật của đông đảo thế hệ văn nghệ sĩ. Sự phát triển mạnh mẽ của văn học đề tài chiến
tranh đã trải qua những chặng đường:
Sự đòi hỏi đổi mới của văn học đề tài chiến tranh sau 1975
Có thể thấy trong suốt ba mươi năm từ 1945 đến 1975, văn học đã làm tròn sứ mệnh
cao cả của một nền văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu vì tổ quốc, vì nhân dân.
Nền văn học đó mang khuynh hướng sử thi từ quan điểm, cảm hứng sáng tác; tới chủ đề, thế
giới nhân vật… Trong thời kỳ chiến tranh, dòng sáng tác này đã có những đóng góp đáng kể
cho tiến trình văn học dân tộc.
Khuynh hướng sử thi tiếp tục chi phối nền văn học từ sau 1975 đến tận những năm
đầu thập kỉ 80. Đó là bởi những dư âm của cuộc chiến thần thánh vừa qua vẫn là dấu ấn
16


khôn nguôi trong lòng những người cầm bút. Bước sang thời bình, âm hưởng của dòng văn
học cách mạng vẫn tiếp tục được nối dài.
Nhưng cũng trong giai đoạn này, cùng với sự biến đổi của đời sống xã hội, văn hóa,
tư tưởng là sự thay đổi về quan niệm thẩm mỹ. Văn học thời kỳ này xuất hiện nhu cầu nhìn
lại, từ đó manh nha hình thành những hướng đi mới. Vẫn là đề tài cuộc kháng chiến chống
Mỹ nhưng các nhà văn đã không muốn hay nói chính xác là không thể viết về chiến tranh
như cách viết trước đây. Nguyễn Minh Châu trong bài Viết về chiến tranh đã đặt ra vấn đề
các tác phẩm hiện đại sẽ viết về con người hay sự kiện. Và câu trả lời là: “Không còn phải
lựa chọn nữa: phải viết về con người. Tất nhiên con người không tách rời sự kiện chiến

tranh … Rồi trước sau con người cũng đã leo lên trên các sự kiện để đòi quyền sống” [35;
24].
Phó giáo sư Nguyễn Văn Long nhận xét: “Từ đỉnh cao của chiến tranh trọn vẹn, nhìn
lại và tái hiện những khó khăn, tổn thất, thậm chí cả những thất bại tạm thời của ta trong
cuộc chiến tranh cũng chính là một cách khẳng định những giá trị lớn lao của sự hi sinh và ý
nghĩa vĩ đại của chiến thắng” [35; 28].
Bước sang đầu những năm 80, cùng với sự khó khăn chất chồng của xã hội, khủng
hoảng về kinh tế; nền văn học cũng chững lại. Không ít nhà văn rơi vào tình trạng bế tắc,
không tìm thấy phương hướng sáng tác. Nhưng cũng chính trong những năm này, văn học
đã có sự vận động mạnh mẽ ở chiều sâu. Các nhà văn ý thức hơn bao giờ hết trách nhiệm
của mình. Họ băn khoăn, trăn trở, tìm tòi những hướng đi mới.
Như vậy, có thể coi giai đoạn văn học này là chặng đường chuyển tiếp từ nền văn
học sử thi trong chiến tranh sang nền văn học thời kì hậu chiến.
Giai đoạn từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được chính thức mở ra từ năm 1986 với
đường lối đổi mới được thông qua tại Đại hội lần thứ VI của Đảng. Đó là tiền đề quan trọng,
thúc đẩy sự đổi mới mạnh mẽ của nền văn học, tạo ra luồng sinh khí mới đưa văn học tới
những bứt phá trong sự phát triển. Cuối năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã gặp
gỡ với đại diện giới văn nghệ sĩ để thông qua Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị. Theo đó, văn
học sẽ phát triển trên tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật.
Giai đoạn này văn học nói chung và văn học về đề tài chiến tranh cách mạng nói
riêng đã có sự chuyển mình rõ rệt. Nếu ở giai đoạn trước sự đổi mới chỉ là những bước phát
triển manh nha thì nay đã là cao trào với những hiện tượng văn học đặc sắc. Cảm hứng phê
17


phán trở thành cảm hứng chủ đạo trong các tác phẩm theo khuynh hướng nhận thức lại về
quá khứ chưa xa và cả về xã hội hiện tại.
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước, các nhà văn từng là người lính đã tiên liệu
về việc “không thể viết như đã viết”. Họ đem vào trang viết của mình những trải nghiệm cá

nhân về chiến trận và nói lên những suy ngẫm mới. Nhà văn Chu Lai trên tạp chí Văn nghệ
quân đội, số 4 (1987) đã chia sẻ: “Bằng những kiểm nghiệm bản thân, tôi hiểu ra rằng chiến
tranh quả thật không vui vẻ gì, đối với bất cứ dân tộc nào, dù là tự vệ hay xâm lược, chiến
tranh đều mang ý nghĩa bi kịch”. Còn với nhà văn Khuất Quang Thuỵ thì chiến tranh hoàn
toàn “không phải trò đùa”. Và chính các nhà văn quân đội là những người đi tiên phong
trong việc “nhận thức lại” cách nhìn và đổi mới trong cách viết.
Nói tới khuynh hướng tái nhận thức về chiến tranh không có nghĩa là nhìn nhận lại
về cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc ta suốt hơn 30 năm, xóa nhòa ranh giới phân biệt
giữa chính nghĩa và phi nghĩa, ta và địch, thắng và thua… Nhận thức lại ở đây là nói tới một
cách nhìn mới, toàn diện hơn về chiến tranh của nhà văn sau khi đã có “độ lùi cần thiết” là
khoảng thời gian vài chục năm và có điều kiện đánh giá khách quan hơn theo chủ trương đổi
mới của Đảng để sáng tạo nên những tác phẩm vừa chân thực vừa hấp dẫn người đọc.
Với thể loại tiểu thuyết, chúng ta có thể ghi nhận một số thành công đáng chú ý cả về
nội dung lẫn nghệ thuật. Các nhà văn phát hiện và khai thác những mặt còn khuất lấp trong
hiện thực mà bấy lâu văn học vẫn bỏ qua như Thời xa vắng (Lê Lựu), Ăn mày dĩ vãng (Chu
Lai), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh)… Bên cạnh cảm hứng sáng tác mới mẻ, nhiều nhà
văn còn được chú ý ở những tìm tòi đổi mới cách viết tiểu thuyết theo hướng hiện đại như
Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh…
Với độ lùi thời gian cần thiết, các nhà văn đã có cái nhìn đầy đủ và bao dung hơn về
chiến tranh kiểu như Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoi. Những tác phẩm ra đời trong
giai đoạn này nhìn cuộc chiến tranh bằng một góc nhìn khác. Trong bài viết Kỹ thuật dòng ý
thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, tác giả Nguyễn Đăng Điệp – tiến sĩ Viện Văn
học đã cho rằng: “Bảo Ninh không miêu tả cuộc chiến tranh ở mặt trước của tấm huy
chương. Không phải nhà văn có ý định “giải thiêng” cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc mà
anh muốn nhìn phía khác, phía những người lính đã chịu bao nhiêu mất mát hi sinh. Đó
cũng là một phần làm nên sự vĩ đại của dân tộc” [50; 400]. Sau này còn rất nhiều nhà văn
quân đội nữa cũng tìm tòi đổi mới cách viết như Nguyễn Minh Châu, Xuân Thiều, Trung
Trung Đỉnh, Nguyễn Trí Huân… Có thể thấy rằng cốt lõi của quá trình đổi mới nằm ở việc
18



các cây bút đã có nhận thức đúng đắn về bản chất thẩm mỹ của văn học, chứ không chỉ đơn
thuần dùng văn học vào nhiệm vụ phản ánh trung thành hiện thực. Bên cạnh thay đổi cái
nhìn về chiến tranh, về người lính; văn học về đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách
mạng giai đoạn này muốn có những tác phẩm lớn cũng đã chú trọng vào việc cần phải thay
đổi những thủ pháp nghệ thuật và các hình thức thể hiện mới.
1.2.2. Những tác phẩm, tác giả tiêu biểu
Viết về đề tài chiến tranh, rất nhiều các cây bút đã tạo nên tên tuổi cho mình. Trong
đó, khảo sát riêng trên lĩnh vực văn xuôi đã có nhiều tác giả tiêu biểu.
Ngay từ sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu là người đã sớm có nhận thức về việc
phải đổi mới cách viết. Ông bắt đầu tìm kiếm con đường đổi mới sáng tác của chính mình.
Hai cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1977 Miền cháy và Lửa từ những ngôi nhà đã đem lại
một sắc diện mới trong sáng tác của nhà văn. Thông qua hai tiểu thuyết này, nhà văn thể
hiện sự suy tư, trăn trở của mình về những khó khăn, thách thức của đất nước khi bước ra
khỏi cuộc chiến
Theo nhà văn Nguyên Ngọc, người tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học sau
1975 không ai khác chính là Nguyễn Minh Châu. Nguyên Ngọc còn nhận xét Nguyễn Minh
Châu là “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” [35; 29]. Chiến tranh được Nguyễn
Minh Châu nhìn nhận từ phía tác động của nó đến số phận và tính cách con người. Tiêu biểu
là các tác phẩm Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam…
Bộ tiểu thuyết hai tập Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh sau khi xuất bản cũng gây
được sự chú ý trong dư luận. Điều này không phải chỉ vì tác phẩm viết về một giai đoạn lịch
sử đầy khó khăn – thời kỳ sau cuộc tổng tiến công Mậu Thân (1968), mà còn vì tác giả đã
chú ý viết về những tác động nhiều mặt của cuộc chiến đến sự phát triển tính cách các nhân
vật. Các tác động ấy có tốt nhưng cũng có cả những tác động tiêu cực.
Đề tài về thời kỳ khó khăn trong chiến tranh, những thời điểm bước ngoặt hoặc
những mặt trận thầm lặng chưa được nói đến… cũng được đưa vào văn học giai đoạn này.
Sau Đất trắng còn có Đất miền Đông (Nam Hà), Nắng đồng bằng (Chu Lai), Sao Mai
(Dũng Hà), Miền đất lửa (Vũ Kì Lân và Nguyễn Sinh)…
Văn học bắt đầu xuất hiện khuynh hướng để chính nhân vật người lính “nhận thức

lại” về cuộc chiến đã đi qua. Các nhà văn đánh dấu mạnh mẽ cho khuynh hướng sáng tác
này cũng chính là những người đã từng mặc áo lính như Trung Trung Đỉnh với các tác
phẩm Lạc rừng, Sống khó hơn là chết, Người trong cuộc…; Khuất Quang Thụy với các tác
19


phẩm Không phải trò đùa, Góc tăm tối cuối cùng, Những bức tường lửa…; Chu Lai với Ăn
mày dĩ vãng, Ba lần và một lần, Khúc bi tráng cuối cùng, Chỉ còn một lần…; Bảo Ninh với
Nỗi buồn chiến tranh, Khắc dấu mạn thuyền, Bội phản…
Các nhà văn này không chỉ viết về chiến tranh mà còn đặc biệt chú ý đến hậu quả
nặng nề của nó lên số phận những người lính, những thế hệ phải trải qua cuộc kháng chiến
ấy. Điều này thể hiện thành công trong các tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn
mày dĩ vãng (Chu Lai), Chim én (Nguyễn Trí Huân)…
Chiến tranh còn được miêu tả là một trường đào luyện vô cùng khắc nghiệt với phẩm
chất, nhân cách con người, làm bộc lộ đến tận cùng bản chất của mỗi người, từ người lính
đến chỉ huy. Các tác phẩm như Hai người trở lại trung đoàn, Thung lũng thử thách, Họ
cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi), Miền cháy, Cơn giông (Nguyễn Minh Châu)… là
những sáng tác tiêu biểu.
Văn học còn chỉ ra sự lệch pha, trái ngược giữa số phận cá nhân và cộng đồng, nảy
sinh những bi kịch của con người là nạn nhân của hoàn cảnh Thời xa vắng (Lê Lựu), Bến
không chồng (Dương Hướng), Vòng tròn bội bạc (Chu Lai)…
Ngoài ra, vẫn còn nhiều tác phẩm mang không khí nóng bỏng của những trận đánh
như Trong cơn gió lốc (Khuất Quang Thụy), Năm 75 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí
Huân), Thượng Đức (Nguyễn Bảo Trường Giang), Có một con đường mòn trên biển Đông
(Nguyên Ngọc), bộ ba tiểu thuyết viết về chiến dịch Mậu Thân Nếu anh còn được sống –
Cao hơn bầu trời – Mùa hè giá buốt (Văn Lê), Đất thở (Thạch Cương), Xuân Lộc (Hoàng
Đình Quang)…
Điểm qua một loạt các nhà văn và các sáng tác, có thể thấy đời sống văn học nghệ
thuật sau 1975 đã mang một luồng sinh khí mới. Sự thay đổi cơ bản nhìn chung trong các
tác phẩm là ở hai điểm chính:

Về đề tài: Trước đây, đề tài chiến tranh cách mạng chỉ được nhìn ở góc độ ngợi ca,
lãng mạn thì nay cả những góc khuất, những mất mát đau thương của hiện thực chiến tranh
được phơi bày trên trang giấy. Cảm hứng bi kịch bắt đầu xuất hiện.
Về nhân vật: Người chiến sĩ hậu chiến được quan tâm khắc họa ở nhiều chiều, nhiều
khía cạnh cuộc sống của họ, mà trong đó, hai vấn đề được các nhà văn xoáy sâu khai thác
đó là sự hồi tưởng về quá khứ và sự bất an về hiện tại. Đây có thể xem là một bước tiến của
văn học về chiến tranh và cách mạng, bởi lẽ nó đã dựng lên hình ảnh người chiến sĩ một
cách đầy đủ và đa diện hơn, đậm chất người hơn và mang tầm phổ quát hơn. Người lính vào
20


vai nhân vật “tôi” kể chuyện, bộc bạch nỗi niềm, những dấu ấn chiến tranh hằn sâu trong
mỗi số phận, mỗi cuộc đời, mỗi người mỗi khác. Cảm hứng ngợi ca, giọng điệu hào hùng
dần được thay thế bằng giọng nói tâm tình, đối thoại, ngẫm ngợi.
Nhiều nhà nghiên cứu đã coi đây là chặng đường văn học hậu chiến.

1.3. Tiểu thuyết viết về chiến tranh của Văn Lê
1.3.1. Sự ám ảnh của đề tài chiến tranh và cảm hứng sáng tạo
Đề tài chiến tranh cách mạng, trước Văn Lê đã có nhiều người viết, và chắc chắn sau
ông sẽ còn nhiều cây bút trẻ lấy đó làm đề tài khai thác. Trong bài phỏng vấn Chiến tranh
không phải là một đề tài quá cũ (Báo Tuổi trẻ, thứ tư 26/07/2006), bạn đọc Hàn Quốc Ku
Su Jeong hỏi Văn Lê, chiến tranh đi qua lâu rồi mà tại sao ông luôn trở lại đề tài về người
lính và sự mất mát của họ. Trả lời cho câu hỏi của Ku Su Jeong, Văn Lê cho rằng: “Ở Việt
Nam chiến tranh đã thật sự lụi tàn nhưng bóng dáng của nó vẫn còn hiện hữu ở nhiều nơi
trên thế giới. Cường độ của chiến tranh cũng khác hơn trước rất nhiều, nhưng sự tàn bạo,
chết chóc thì vẫn không có gì thay đổi. Hằng ngày, dưới bóng những ngọn cờ, tôn giáo,
những người đàn ông đủ mọi quốc tịch, màu da vẫn xông vào giết nhau sau những trận bom
rải thảm và những loạt pháo tự hành. Máu người vẫn tiếp tục đổ. Và, chiến tranh không phải
là một đề tài quá cũ. Ở đất nước tôi, di hại của chiến tranh vẫn còn tồn tại không chỉ ở trong
ký ức của người lính mà còn tồn tại ở ngay trong từng tế bào con trẻ thuộc thế hệ thứ ba.

Chất độc da cam là một ví dụ. Chưa hết. Số đạn bom chưa nổ vẫn còn hiện hữu trong lòng
đất và thi thoảng vẫn còn cướp đi mạng sống của nhiều người. Hằng ngày, trên làn sóng
điện vẫn liên tục phát đi bản tin kiếm tìm thân nhân và hài cốt của những người đã ngã
xuống. Những người đàn bà già cả vẫn gìn giữ, nuôi nấng niềm hi vọng mong manh là
chồng, con của họ sẽ trở về. Nhiều bà mẹ khi chết mà mắt vẫn mở như thể đang chờ ngóng
con mình... và những lễ gọi hồn người chết vẫn còn văng vẳng ở cõi người.”
Đó chính là lý do, mà chiến tranh dù đi qua đã lâu nhưng nó vẫn là đề tài ám ảnh
ngòi bút của Văn Lê. Vì thế tác phẩm nào của Văn Lê cũng viết về chiến tranh. Chiến tranh
ám ảnh nhà văn đến nỗi có người đã nhận định: “Không có chiến tranh, chắc không có nhà
văn Văn Lê!”. Bút danh Văn Lê cũng được lấy từ tên một đồng đội của ông đã hy sinh trong
chiến dịch Mậu Thân là “Văn” đem ghép với họ “Lê” của nhà văn (Lê Chí Thụy), thành cái
tên Văn Lê.

21


Không chỉ dừng ở cảm xúc anh hùng ca và hình tượng người lính lý tưởng. Cũng
không chọn góc nhìn của người lính thời hậu chiến để nhận thức lại như Chu Lai, Bảo Ninh;
Văn Lê chọn điểm nhìn của những người lính đang tham gia trong cuộc chiến khốc liệt để
nói lên tâm tư, tình cảm, suy ngẫm, chiêm nghiệm của họ về sự sống, cái chết và quan niệm
về chiến tranh. Con người khi đứng trước cái chết những suy nghĩ dường như chân thật hơn,
sâu lắng hơn. Là một người lính trong cuộc, lại từng có cơ hội tiếp xúc với nhiều tư liệu lịch
sử dạng tuyệt mật và gần gũi với những nhân vật quan trọng; Văn Lê có được cái nhìn khá
khái quát về cuộc sống, về chiến tranh. Thông qua hệ thống nhân vật người lính đông đảo ở
nhiều cương vị, cấp bậc trong các tác phẩm, Văn Lê khẳng định được một chân lý chiến
tranh luôn là mất mát, đau thương; chiến thắng nào thì cũng phải trả cái giá quá đắt bằng
máu và nước mắt. Ông cũng lý giải phần nào nguồn gốc sức mạnh chính nghĩa của dân tộc.
Khi viết bộ ba tiểu thuyết về sự kiện chiến dịch Mậu Thân năm 1968, Văn Lê cho biết đó
chính là sức mạnh của tình yêu.
Một số quan niệm của Văn Lê khi viết về chiến tranh:

- Tôi muốn tiệm cận, lý giải vì sao, bằng cách gì mà trong hoàn cảnh ác liệt, cùng
cực như thế, người Việt chúng ta đã gượng dậy được và chiến thắng. Trước đây, có lúc
người ta cho rằng đó là nhờ lòng căm thù, nhưng tôi lại nghĩ khác, chúng ta chiến thắng
bằng chính tình yêu, vì suy cho cùng những người lính cách mạng đã bằng sức mạnh tình
yêu chiến thắng kẻ thù có tình yêu sức mạnh.
- Tôi viết về chiến tranh chứ không chỉ đơn thuần viết về chiến thắng.
- Chiến tranh không phải một đề tài quá cũ.
- Viết về chiến tranh, tôi nghĩ, không phải là để khơi gợi niềm đau, cổ súy hận thù,
tôn vinh công trạng mà là để củng cố đạo đức, củng cố lẽ phải của cuộc sống. Tôi đã nhìn
thấy những gì mà chiến tranh đem lại. Những làng mạc, thành phố bị tàn phá. Những mảnh
đất vô hồn. Những cánh rừng, những dòng sông chết yểu. Tất cả những tan đổ ấy, chúng ta
đã thay đổi, tạo dựng lại được. Nhưng sự mất mát những giá trị, sự hoang vu về tâm hồn, sự
giá băng trong quan hệ, sự xộc xệch của thể thống thì không phải một sớm một chiều mà
xây dựng lại được. Đó mới là sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh. Có thể vì vậy mà
những bài học, những kinh nghiệm được rút ra từ chiến tranh giúp cho chúng ta cảm thông,
chia sẻ được với những nỗi đau, mất mát của người khác và, cần hơn cả là thấy được cái –
đạo – làm – người. Chúng ta không thay đổi được lịch sử. Nhưng tương lai thì có thể.

22


Với Văn Lê: “Viết về chiến tranh, đơn giản là tôi muốn tự giải tỏa những phiền muộn
trong lòng mình, muốn được sống lại những giây phút trong sáng, vô tư với bạn bè thời
chiến. Tôi muốn gửi một chút hi vọng vào trong gió và muốn khôi phục đạo đức, thể thống
của chính bản thân mình”. Với những tâm sự ấy, chắc chắn độc giả có thể hy vọng còn được
đọc những tác phẩm mới của ông viết về đề tài chiến tranh hay hơn, xác thực hơn, nhân bản
hơn.
Không chỉ riêng Văn Lê; nhiều nhà văn, nhiều cây bút trẻ, nhà lý luận, phê bình văn
học cùng bạn đọc đã tham gia xây dựng diễn đàn Để văn học về lực lượng vũ trang và chiến
tranh cách mạng xứng tầm hiện thực trên báo Quân đội Nhân dân. Họ cùng góp thêm tiếng

nói, tìm ra giải pháp để văn học về lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng có những
tác phẩm xứng tầm hiện thực; để hình ảnh người chiến sĩ hôm qua và hôm nay xứng tầm với
những hy sinh vô bờ bến của họ. Ngoài việc sáng tác, nghiên cứu, phê bình, các tác phẩm
văn học về đề tài chiến tranh còn được dịch ra nhiều thứ tiếng để có thể đến được với bạn
đọc năm châu.
Trước đây, nhà văn Nguyễn Minh Châu trong bài Hãy đọc lời ai điếu cho một giai
đoạn văn nghệ minh họa đã từng lo lắng: “Chẳng lẽ mãi mãi thế hệ nhà văn Việt Nam
chúng ta vẫn cứ yên tâm sản xuất ra toàn những sản vật không bao giờ được ngó đến trong
nền văn học thế giới – Chẳng lẽ Việt Nam ngày nay chỉ hưởng của thiên hạ mà không làm
ra được cái gì góp vào của chung của thiên hạ”. Thật may mắn là sau sự băn khoăn đó của
Nguyễn Minh Châu không lâu, các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng đã đến
được với bạn đọc Pháp, Mỹ, Hàn quốc... đem đến cái nhìn mới mẻ, đúng đắn hơn cho thế
giới về con người và cuộc chiến của Việt Nam. Theo lời mời của Trung tâm nghiên cứu về
cựu binh trong chiến tranh Việt Nam (William Joiner Center) từ ngày 26/05/1995 đến
17/07/1995, đoàn nhà văn Việt Nam trong đó có Văn Lê đã có mặt ở Mỹ. Các nhà văn Mỹ
tham dự hội thảo này đều là các nhà văn nổi tiếng. Có sách bán chạy và đều kinh qua chiến
tranh. Họ đều viết về thân phận người lính trong chiến tranh và tính nhân bản chống chiến
tranh của con người. Bàn luận đến cách viết về chiến tranh, có người cho rằng: “Viết về
chiến tranh là viết những gì anh thấy, anh nghĩ và viết về những gì thuộc về tính hướng
thiện của con người”. Khi nêu cảm nhận về văn học chiến tranh Việt Nam, họ nhận xét:
“Văn học Việt Nam sống động, nhiều hình tượng và rất nhân bản”. Nhiều người Mỹ thích
đọc các tác phẩm văn học Việt Nam để hiểu thêm về con người và cuộc chiến tranh của Việt
Nam. Nhưng tác phẩm Việt Nam xuất bản ở Mỹ không nhiều. Tham dự hội thảo này, ngoài
23


×