Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của vũ bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.81 MB, 136 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN THU HƯƠNG

ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA VŨ
BẰNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH- 2002
1


2


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô
và bạn bè. Tôi xin chân thành cám ơn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS. TS. Phùng Quí Nhâm, người
đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn tận tình, giúp tôi hoàn thành luận văn này.

Phan Thiết, tháng 1 năm 2002.
TRẦN THU HƯƠNG

3


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................... 3


MỤC LỤC ......................................................................................................................... 4
DẪN NHẬP ....................................................................................................................... 6
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: ........................................................................................................ 6
2. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI: ............................................................................................................ 9
2.1. Đối tượng khảo sát: ....................................................................................................... 9
2.2. Nội dung vấn đề:.......................................................................................................... 11
3. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI: .................................................................................................... 12
4. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ: ........................................................................................................... 12
4.1. Điểm qua việc nghiên cứu Vũ Bằng và các sáng tác của ông ..................................... 12
4.2. Để hình dung cụ thể có hệ thống những công trình, những bài nghiên cứu phê bình có
nhận xét sắc sảo liên quan đến đề tài luận án, chúng tôi phân ra các loại ý kiến như sau: 15
4.3. Nhận định chung:......................................................................................................... 18
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: .................................................................................... 20
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN: ........................................................................ 20
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN: ......................................................................................... 21

CHƯƠNG 1: HIỆN THỰC CUỘC SỐ NG VÀ TẤM LÒNG NHÀ VĂN TRONG
VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA VŨ BẰNG ............................................................. 22
1.1. Hiện thực cuốc sống trong các sáng tác của Vũ Bằng: ................................................ 22
1.1.1. Vấn đề hồi cư và người hồi cư: ................................................................................ 23
1.2. Tấm lòng nhà văn trong các sáng tác của Vũ Bằng. .................................................... 38
1.2.1. Sự khám phá vẻ đẹp tâm hồn của những con người bất hạnh: ................................. 38
1.2.2. Sự ưu tiên cho việc bộc lộ cái "tôi" nội cảm. ........................................................... 45

4


1.3. Sự đan xen hài hòa giữa hiện thực cuốc sống và tấm lòng nhà văn. .......................... 54

CHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI, THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN

NGHỆ THUẬT TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA VŨ BẰNG ................. 60
2.1. Hình tượng con người: ................................................................................................... 60
2.1.1. Con người lạc loài, cô đơn: ...................................................................................... 61
2.1.2. Con người lo âu, đau khổ trong nỗi mềm khắc khoải không nguôi. ........................ 71
2.1.2.1. Con người lo âu, đau khổ. ................................................................................. 71
2.1.2.2. Con người trong nỗi niềm khắc khoải không nguôi .......................................... 75
2.2. Thời gian và không gian nghệ thuật. ............................................................................. 82
2.2.1. Thời gian nghệ thuật: ................................................................................................ 82
2.2.2. Không gian nghệ thuật.............................................................................................. 87

CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG DIỆU "TRONG VĂN XUÔI NGHỆ
THUẬT CỦA VŨ BẰNG ............................................................................................... 96
3.1. Một giọng văn thủ thỉ tâm tình: ..................................................................................... 96
3.2. Những câu văn dồi dào cảm giác. ................................................................................ 107
3.3. Những trang viết giàu nhạc tính, nhạc điệu. .............................................................. 112

KẾT LUẬN ................................................................................................................... 121
THƯ MỤC..................................................................................................................... 125
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 132

5


DẪN NHẬP

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong số các nhà văn, nhà báo Việt Nam, Vũ Bằng là một trường hợp đặc biệt. Ông tên
thật là Vũ Đăng Bằng sinh ngày 3.6.1913 (Tuyển tập Vũ Bằng, NXB Văn học. 2000 ghi năm
1914) tại Hà Nội. Cụ thân sinh là Vũ Đăng Tự, hiệu Ân Học, xuất thân từ dòng họ Vũ Hồn một dòng họ nổi tiếng về truyền thống khoa bảng nhiều đời thuộc xã Ngọc Cục, huyện Lương
Ngọc, tỉnh Hải Dương. Cha mẹ ông làm nghề xuất bản, có nhà sách Quảng Thịnh ở số nhà 115

phố Hàng Gai, Hà Nội, chuyên in ân và phát hành những truyện kể dân gian như Ba Giai Tú
Xuất, Trê Cóc, Tâm Cám... Sau, gia đình Vũ Bằng chuyển về số 11 Hàng Da, vẫn tiếp tục làm
nghề xuất bản truyện Nôm, lây tên là Tam hữu tu thư cục.
Lớn lên, Vũ Bằng theo học trường Lycée Albert Sarraut - một trường trung học Pháp nổi
tiếng hồi ây. Vào những năm cuối bậc trung học, ông đã bỏ học theo nghề viết báo. Từ những
năm 30 đầu thế kĩ XX, Vũ Bằng liên tục viết cho nhiều báo, sáng tác nhiều tác phẩm với nhiều
thể loại khác nhau. Sau hơn 40 năm cầm bút, Vũ Bằng đã để lại cho đời (nếu in thành sách)
cũng được gần 100 cuốn, "trong đó có hàng ngàn trang sách văn học lấp kính tài hoa và chứa
chan lòng nhân ái" [8;11]. Trên lĩnh vực báo chí, Vũ Bằng có những luận thuyết và quan niệm
về nghề báo thật là nghiêm cẩn. Con người ây trong suốt cuộc đời cầm bút đã âm thầm chịu
đựng nhiều tai tiếng. Nói như nhà văn Triệu Xuân, ông là "người lữ hành đơn côi". Mặc dù
vậy, sau chặng đường dài hơn 40 năm làm báo, viết văn nhọc nhằn ông vẫn cứ nguyện: "Nếu
trở lại làm người, con cứ lại xin làm báo" [8; 593 ].
Trên địa hạt văn chương, từ 1937 trở đi, Vũ Bằng đã xuất hiện như một cây bút chuyên
nghiệp chăm chú vào nghề. Ông có nhiều sáng tác bàn về nghệ thuật và những vấn đề liên quan
đến nghệ thuật như: Khảo về tiểu thuyết (P. Văn Tươi xuất bản, Sài Gòn. 1955); Cười đông,
cười tây, cười cổ, cười kim; Những cây cười tiền chiến cùng nhiều sáng tác nghệ thuật như:
Một mình trong đêm tối (tiểu thuyết, 1937), Tội ác và hối hận (tiểu thuyết, năm 1940), Truyện
hai người (tiểu thuyết, năm 1940), Để cho chàng khỏi khổ (tiểu thuyết, 1941), Ba truyện mổ
bụng (tập truyện vừa, 1941), Bèo nước (tập truyện vừa, 1944), Cai (1944), Miếng ngon Hà Nội

6


(1950), Thương nhớ mười hai (khởi bút 1960, tiếp tục viết 1965, viết xong 1970 -1971)...
Trong đó có nhiều tác phẩm mãi mãi neo đậu trong tâm hồn độc giả, được bạn đọc xa gần đánh
giá rất cao.
Trong quá trình sáng tác nghệ thuật, Vũ Bằng tỏ ra là một người ưa tìm tòi, khám phá và
đổi mới. Trước 1945, các sáng tác của Vũ Bằng là sự thể nghiệm quan niệm văn chương do
chính ông khởi xướng : "việc cốt yếu của nhà văn tiểu thuyết là phải làm thể nào bày tỏ cho

độc giả thấy cái mắt thấy hàng ngày (...) và thêm vào đó, đem thêm một ít cần thiết cho kiến
văn của họ, cho cái quan niệm về "người" của họ" [12; 1165]. Vì thế, ông được tác giả "Nhà
văn hiện đại" xếp vào hàng các tiểu thuyết gia thuộc khuynh hướng tiểu thuyết tả chân, bên
cạnh các tiểu thuyết gia Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Lạp, Tô Hoài.
Từ 1945 trở về sau, các sáng tác của Vũ Bằng về cơ bản vẫn bám sát hiện thực nhưng
giọng văn, hơi văn chất chứa nhiều ưu tư, trăn trở. Ở đó, tồn tại tình trạng hòa trộn giữa các yếu
tố khác của các thể loại, cùng thâm nhập về hình thức, Vũ Bằng sáng tác bằng văn xuôi nhưng
trong các tác phẩm văn xuôi của ông lại bao gồm nhiều đoạn mang tính chất trữ tình; nhiều suy
nghĩ mang tính cảm xúc của nhà văn đã thâm nhập vào các biến cố của câu chuyện. Trong
nhiều đoạn, nhiều bài cái "tôi" trữ tình của nhà văn mặc sức tung hoành, bay bổng. Ở đấy, yếu
tố tự sự và yếu tố trữ tình đa kết hợp ở mức "ngang quyền như nhau" (chữ của Pospelov) tạo
thành một thể hài hòa thống nhất. Đặc điểm này thể hiện rõ ở một loạt các truyện ngắn: Giai
đoạn mới, Ở đây bán sách cũ, Tiếp theo và hết truyện Lưu Bình - Dương Lễ, Bát cơm...và kết
tinh rực rỡ ở các hồi kí: Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội, Món lạ miền Nam ...
Là một người có nhiều đóng góp cho nền văn học hiện đạiViệt Nam nhưng về đời tư,
"ông hẳn là trường hợp éo le vào bậc nhất trong đội ngữ những nhà văn hiện đại Việt Nam kề
từ 1945 đến nay" [20; l0]. Ông đã hai lần kết hôn. Lần thứ nhất vào khoảng 1934 - 1935, khi
Vũ Bằng mới ngoài 20 tuổi một chút. Người mà ông lấy làm vợ lúc ấy là bà Nguyễn Thị Quỳ,
hơn ông 7 tuổi, đã có bốn con với người chồng trước. Bà Quỳ quê ở xã Tư Thế, huyện Thuận
Thành, Bắc Ninh; là một người con gái Kinh Bắc chính gốc đẹp người, đẹp nết. Hai người sống
với nhau khá hạnh phúc và có một người con chung là Vũ Hoàng Tuấn, tục gọi là Lạc, có khi
gọi là Lăng.

7


Sau sự kiện kháng chiến toàn quốc bùng nổ (12-1946), như bao người dân Hà Nội khác,
Vũ Bằng cùng gia đình tản cư về Hà Nam, Hòa Bình thuộc vùng khu Ba. Mùa đông năm 1948,
Vũ Bằng nhận nhiệm vụ bí mật lên đường hoạt động tình báo cách mạng. Ông đã cùng gia
đình"dinh tê" (Entrer- vào trong) vào thành. Núp dưới danh nghĩa dân "hồi cư", Vũ Bằng chịu

mang tiếng xấu là quay lưng lại với cuộc kháng chiến, bất hợp tác với kháng chiến. Rồi đến
năm 1954, ông lại bỏ vợ con, quê hương vào định cư ở Sài Gòn, hành nghề viết văn, viết báo
dưới chế độ Mỹ ngụy để tiếp tục hoạt động tình báo cho cách mạng. Do tính chất đặc biệt của
công việc, hành động "di cư" vào Nam của Vũ Bằng đã gây nên nhiều điều đồn thổi về ông.
Ông lại tiếp tục mang thêm cái tiếng đi theo bọn phản động vào Nam. ở Sài Gòn, những năm
1965-1966, Vũ Bằng thường được người phụ nữ miền Nam, quê tận cần Thơ tên là Lương Thị
Phấn đưa cơm bữa giúp. Hai người đem lòng thương yêu nhau rồi nên vợ nên chồng. Một lũ
ton lít nhít lần lượt ra đời. Gia đình ông thường sống trong cảnh túng quẫn.
Sau 1975, cả nước rơi vào tình trạng nghèo đói khó khăn. Gia đình Vũ Bằng ngày càng
túng quẫn. Lúc này Vũ Bằng tuổi đã cao, sức khỏe ngày càng sa sút nghiêm trọng, lại thêm
những hy sinh cống hiến của cả đời chưa được nhìn nhận một cách đúng mức đã khiến những
ngày cuối cuộc đời của ông đã khổ về vật chất lại ít thanh thản về tâm hồn.
Theo lời Vũ Hoàng Tuấn - con trai Vũ Bằng kể lại thì sau ngày giải phóng miền Nam
1975, Vũ Hoàng Tuấn, đã nhiều lần mời cha- người đã viết Thương nhớ mười hai với tất cả
tấm lòng yêu mến, nhớ thương không nguôi Hà Nội-mảnh đất chôn rau cắt rốn, nơi lưu giữ
những kỷ niệm đẹp nhất, gắn bó nhất với cuộc đời ông từ thuở ấu thơ - về Hà Nội nhưng ông
đã từ chối bởi ông còn băn khoăn: Nếu về Hà Nội bây giờ, ông sẽ về với tư cách gì ?
Ngày 8.4.1984, nhà văn Vũ Bằng qua đời, con ông đến một tòa soạn đăng cáo phó (mất
tiền). Tòa soạn này đồng ý đăng nhưng nhất quyết không cho đăng hai chữ "Nhà văn" trước tên
của Vũ Bằng...
Vũ Bằng mất đi nhưng nhiều tác phẩm của ông còn sống mãi với đời. Nhiều người yêu
mến Vũ Bằng đã bỏ công sức tìm hiểu lai lịch đời hoạt động cách mạng của ông. Vì thế, vấn đề
Vũ Bằng đã được Hội Nhà văn Việt Nam cử người xác minh - dù quá muộn màng.
Ngày 1.3.2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng đã có văn bản xác nhận
nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo hoạt động suốt từ 1952 đến 30.4.1975.
8


Tiếp đến ngày 04.12.2000, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết
định tặng thưởng "Huân chương kháng chiến hạng ba" cho nhà văn Vũ Bằng vì đã có thành

tích trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Cũng trong khoảng thời gian này, một bộ phim tư liệu truyền hình ra đời có tên gọi: "Đến
với nhà văn Vũ Bằng”.
Năm 2000, Nhà xuất bản Văn học -Hà Nội cho ra Tuyển tập Vũ Bằng (3 tập) với trên
3000 trang.
Năm 2001, Nhà xuất bản Hội Nhà văn ra mắt độc giả cuốn "Nhà văn Việt Nam thế kĩ XX"
gồm 9 tập. Ở tập thứ 9 có một "mảnh đất" không nhỏ dành cho Vũ Bằng (từ trang 121 đến
trang 168) gồm các mục: Tiểu sử - Thư mục tác phẩm - Hồi ức và trích tác phẩm "Thương nhớ
mười hai".
Những sự kiện trên đã làm nức lòng những ai đã từng đọc và yêu mến Vũ Bằng qua
những tác phẩm: Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội, Món lạ miền Nam, Bốn mươi năm
nói láo ...
Từ đây, một giai đoạn mới được tiếp tục mở ra trong việc nghiên cứu cuộc đời và sự
nghiệp của Vũ Bằng. Luận văn này của chúng tôi cũng không đi ngoài cái xu hướng ấy với
mong muốn cùng với bạn đọc cả nước làm sáng tỏ đôi điều về giá trị nghệ thuật văn chương
Vũ Bằng.

2. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI:
2.1. Đối tượng khảo sát:
Vũ Bằng là người chuyên cần, viết nhanh, viết khỏe. Nhận xét về cuộc đời cầm bút của
ông, nhà văn Tô Hoài trong bài Vũ Bằng "Thương nhớ mười hai" đã viết: "Như một ông thợ
nấu cực kỳ thành thạo tay dao tay thớt, mắt để vào món vừa chín, mắt nhìn vào món bưng ra.
Những chồng báo ấy là thức ăn nuôi bài. Vũ Bằng làm báo, viết báo, thầu báo, cai đầu dài ba
bốn tờ một lúc - anh viết đủ thứ thượng vàng hạ cám, từ cái hộp thư, cái tin vặt, cái vui cười,
cái "biết ai tâm sự" đến chuyện ngắn, chuyện dài đăng từng kỳ..." [9; 963]. Riêng trong lĩnh
vực văn chương Vũ Bằng đã để lại một khối lượng khá lớn các tác phẩm được sáng tác từ
những năm 30 cho đến khi trút hơi thở cuối cùng. Nhà xuất bản Văn học đã tập hợp chưa đầy

9



đủ các sáng tác của ông trong Tuyển tập Vũ Bằng (3 tập) với trên 3000 trang viết. Sự nghiệp
sáng tác của ông có thể chia làm 3 giai đoạn : Trước 1945, từ 1945 đến 1954 và từ 1954 đến
khi mất.
Ở giai đoạn đầu, Vũ Bằng cá nhiều bài viết bàn về tiểu thuyết in nhiều kỳ trên Trung Bắc
chủ nhật, sau gom thành tập Khảo về tiểu thuyết (P.Văn Tươi xuất bản SG. 1955) dài 170 trang
in. Trong Tuyển tập Vũ Bằng tập II, nhà xuất bản Văn học đổi thành Khảo luận, Biên soạn (tr.
1139 -> tr.1328). Đồng thời ông cũng cho ra đời một loạt "truyện mới" (truyện không có
chuyện) - truyện "gần đời" thiết thực : Một mình trong đêm tối (tiểu thuyết 1937), Tội ác và hối
hận (tiểu thuyết,1940), Ba truyện mổ bụng (tập truyện .1941)... và hồi ký Cai (1940) (Sau này
nhà xuất bản Thế giới tái bản đổi tên thành Phù dung ơi ! Vĩnh biệt (1969), Tuyển tập Vũ Bằng
- Nhà xuất bản Văn học. 2000 cũng gọi theo cái tên thứ hai này).
Các sáng tác nghệ thuật của Vũ Bằng ở giai đoạn này đã thể hiện một sự nỗ lực lớn của
ông Ương việc tìm kiếm một hình thức thể hiện mới (cách xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, giọng
điệu ...) cho văn xuôi Việt Nam, kết quả mà ông thu lượm được cũng mới dừng ở bước đầu hết
sức khiêm tốn .
Đến giai đoạn thứ 2, từ 1945 đến 1954, do hoàn cảnh riêng về công việc, nhiệm vụ, Vũ
Bằng gần như độc chiếm một "mảnh đất" khá mầu mỡ trong văn chương:"mảnh đất", "khoảnh
trời" của những người hồi cư, những người dinh -tê. Ông đã miệt mài "canh tác" trên "mảnh
đất" ấy với thái độ nghiêm túc của người cùng cảnh ngộ và ông đã gặt hái được khá nhiều điều
từ một loạt truyện ngắn: Giai đoạn mới (Tiểu thuyết thứ bảy, số 8, 1949), Ở đây bán sách cũ
(Tiểu thuyết thứ bảy, số 10, 1949), Cây hoa hiên bên bờ sông Na (Tiểu thuyết thứ bảy, số 11,
1949), Tiếp theo và hết truyện Lưu Bình - Dương Lễ (Tiểu thuyết thứ bảy, số 21, 1949), Bát
cơm (Tiểu thuyết thứ bảy, Số 23, 1949), Bữa cỗ (Tiểu thuyết thứ bảy, số 29, 1949) ... Ở giai
đoạn này, các sáng tác của Vũ Bằng là sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực cuộc sống và tấm lòng
nhà văn, tạo nên một lối văn xuôi mới, rất gần với văn xuôi của Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh
Tịnh.
Đến giai đoạn cuối của sự nghiệp sáng tác (từ 1954 -> 1984), Vũ Bằng ở trong một hoàn
cảnh đặc biệt : Tuổi không còn trẻ (ngoài 40) lại phải xa quê hương, xa gia đình mà ông vô
cùng yêu thương và gắn bó để làm một công việc nguy hiểm và bí mật. Bao điều cần nói, muốn


10


nói ông đều đem gửi gắm trong các sáng tác của mình: Đợi con, Người làm mả vợ, Cái thích kỳ
lạ của người đàn bà thời loạn (Người làm mả vợ, truyện ký, Văn, Sài Gòn, 1973), Mơ về một
cuộc chọi trâu, Ăn tết thủy tiên, Mê chữ, Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội, Món lạ
miền Nam...Trong đó hai cuốn nói về nghệ thuật ẩm thực của hai vùng Hà Nội và Nam Bộ và
một cuốn nói về quê hương Bắc Việt được coi là những bài "thơ bằng văn xuôi.", đã để lại dấu
ấn rất sâu đậm trong tâm hồn nhiều thế hệ độc giả.
Như vậy, so với giai đoạn sáng tác đầu, hai giai đoạn sáng tác sau của Vũ Bằng khá thông
nhất về phong cách và bút pháp. Vì thế, với đề tài khoa học đề ra, luận văn chỉ tập chung làm
sáng tỏ vấn đề cơ bản xoay quanh những sáng tác thuộc hai giai đoạn sáng tác sau của Vũ
Bằng. Còn giai đoạn sáng tác đầu của ông, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu khi điều kiện cho
phép.
Từ những suy nghĩ trên, bên cạnh việc xem đối tượng nghiên cứu chính là những tác
phẩm văn xuôi nghệ thuật của Vũ Bằng sáng tác từ 1945 cho đến khi ông qua đời, để làm rõ
vấn đề, chúng tôi đã tiếp thu có chọn lọc những nhận định, đánh giá có liên quan từ các bài
viết, các công trình nghiên cứu về Vũ Bằng mà chúng tôi SƯU tập được .
2.2. Nội dung vấn đề:
Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật là một vấn đề khá rộng và phức tạp, thể -hiện cụ thể và tinh
tế ở cả nội dung và hình thức của tác phẩm. Để hiểu nó một cách thấu đáo, tường tận phải có
một vốn kiến thức sâu rộng về mọi mặt và phải có một sự đầu tư lâu dài về thời gian. Mặc dù
điều kiện chủ quan còn có nhiều hạn chế, phải cố gắng nhiều cũng mới chỉ hy vọng đạt được
một phần nhỏ của yêu cầu trên nhưiig với lòng ham thích tìm hiểu khoa học chúng tôi cũng cố
gắng trên cơ sở tiếp thu ý kiến những người đi trước, vận dụng một số hiểu biết về văn học dân
tộc, về phong cách học tiếng Việt của Đinh Trọng Lạc và thi pháp học của M.Bakhtin, thi pháp
học của Trần Đình Sử để khảo sát đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của Vũ Bằng. Với khả năng
cho phép, chúng tôi xin mạnh dạn đề cập đến ba vấn đề cơ bản, bô" trí ở 3 chương sau:
Chương 1: Hiện thực cuộc sống và tấm lòng nhà văn trong văn xuôi nghệ thuật của Vũ

Bằng .

11


Chương 2 : Hình tượng con người, thời gian và không gian nghệ thuật trong văn xuôi
nghệ thuật của3 IU : Ngôn ngữ và giọng điệu trong văn xuôi nghệ thuật của Vũ Bằng.

3. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI:
3.1. Ý nghĩa quan trọng nhất của đề tài là khẳng định sự tồn tại và giá trị đặc sắc của văn
xuôi nghệ thuật của Vũ Bằng. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của
Vũ Bằng cũng nằm trong ý nghĩa của việc nghiên cứu phong cách tác giả văn học hiện đại Việt
Nam nói chung. Chúng ta không thể hình dung rõ nét diện mạo của một giai đoạn, một thời đại
văn học nếu không bắt đầu từ việc nghiên cứu tư tưởng và phong cách của những tác giả tiêu
biểu trong giai đoạn, thời đại ấy. Bởi lịch sử phát triển của văn học, suy cho cùng là lịch sử
hình thành và phát triển của các tư tưởng và phong cách nhà văn trên sự hình thành và phát
triển của các thể loại văn học.
3.2. Nghiên cứu đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của Vũ Bằng, vì vậy không chỉ nhằm đánh
giá một phần tài năng và những nỗ lực có hiệu quả đối với văn xuôi nghệ thuật mà còn giúp ta
đánh giá đúng mực, có sức thuyết phục về đóng góp của Vũ Bằng trong công cuộc hiện đại hóa
nền văn xuôi nước nhà.

4. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
4.1. Điểm qua việc nghiên cứu Vũ Bằng và các sáng tác của ông
Theo nhà nghiên cứu phê bình Vương Trí Nhàn thì "Những người có tìm hiểu kĩ đời sống
văn học 1932-1945 đều biết Vũ Bằng là một trường hợp hết sức mâu thuẫn" [4; 14- 15]. Vào
năm 1930, Vũ Bằng đã được mọi người biết đến với truyện Con ngựa già đăng trên mục "Bút
mới" báo Đông Tây (Hoàng Tích Chu chủ trương). Đến năm 1937 khi Một mình trong đêm tối
của Vũ Bằng được in ra, Khái Hưng đã viết ngay bài giới thiệu trên báo Ngày nay trong đó
công nhận đây là một cuốn sách "không tầm thường chút nào". Từ đó đến 1945, Vũ Bằng viết

nhiều (cả báo, cả văn) lại xuất hiện với tư cách một ông lớn trong nghề làm báo, từng giữ chân
Thư ký tòa soạn các tờ báo như Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thống bán nguyệt san, Truyền bá,
Trung Bắc chủ nhật "vậy mà hầu như không có nhà nghiên cứu nào khi xem, xét lịch sử văn
học 1932-1945 để công viết riêng viết kĩ về ông" ngoại trừ trường hợp Vũ Ngọc Phan. Trong số
78 người được Vũ Ngọc Phan xếp vào đội ngũ "Nhà văn hiện đại" có Vũ Bằng . Vũ Bằng được

12


Vũ Ngọc Phan xếp vào hàng các tiểu thuyết gia, tại chương "Tiểu thuyết tả chân", ở chương
này có bốn nhà văn được Vũ Ngọc Phan đề cập đến là Nguyễn Công Hoan, Vũ Bằng, Nguyễn
Đình Lạp và Tô Hoài. Nguyễn Công Hoan được Vũ Ngọc Phan dành cho 29 trang, Vũ Bằng 19
trang, Nguyễn Đình Lạp 6 trang và Tô Hoài 15 trang. Trong phần viết về Vũ Bằng, Vũ Ngọc
Phan tỏ ra khá khắt khe nhưng ông vẫn ghi nhận Vũ Bằng có cái cách riêng của mình. Ông đã
nhiều lần nhấn mạnh đến "một lối văn rất ngộ, làm cho người ta thích đọc" [20; 98] của Vũ
Bằng.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Vũ Bằng bị xếp vào loại nhà văn có “vấn đề”. Vì thế
trong suốt một thời gian dài, ở miền Bắc, việc phổ biến cũng như nghiên cứu về các sáng tác
của ông hầu như bị rơi vào im lặng.
Ở Sài Gòn, tháng 5.1969, trong "Lời giới thiệu" cho cuốn Bốn mươi năm nói láo xuất bản
lần đầu tiên, do cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai ấn hành tại Sài Gòn, 1969, nhà phê bình
Thượng Sỹ đã giới thiệu Vũ Bằng "là một nhà văn phong phú, một tiểu thuyết gia, một cây bút
phóng sự, tả chân đã gây ảnh hưởng không ít cho một lớp độc giả và một lớp người viết văn"
[20;119]. Thương Sỹ Nguyễn Đức Long cũng nhấn mạnh đến "lối diễn tả giản dị, thân mật,
chan chứa tính cách trào lộng" trong văn phong Vũ Bằng và cho rằng "đọc "Bốn mươi năm nói
láo " chẳng khác đọc lịch sử báo chí xứ này trong vòng già nửa thế kỷ XX", "Bốn mươi năm nói
láo" là "mọi tác phẩm văn chương được trình bày dẹp cả về nội dung lẫn hình thức." [20; 120].
Phải đến sau sự kiện Vũ Bằng qua đời (8.4.1984), vấn đề Vũ Bằng và sự nghiệp sáng tác
của ông mới trở thành mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học. Tô Hoài
trong bài viết: Vũ Bằng "Thương nhớ mười hai" đăng trên Tạp chí Văn học, số 1 - năm 1991 đã

bênh vực, bảo vệ các giá trị văn chương đích thực của Vũ Bằng. Ông thấy "mỗi trang của Vũ
Bằng là một li uẩn, một ước mong tức tưởi không tới được, không bao giờ tới được, không thể
cầu được ước thấy...". Tác giả Dế Mèn phiêu lưu kí năm nào cũng trở lại với vấn đề mà Vũ
Ngọc Phan đã đặt ra trong những năm 40 của thế kỉ XX (về sáng tác Vũ Bằng) và khẳng định
"Vũ Bằng chủ tâm và mở đầu một lối riêng". Ông đã viết về Vũ Bằng với sự trân trọng và
khâm phục một văn tài, nâng niu một tâm hồn, một nhân cách.
Cùng với Tô Hoài, nhà thơ Nguyễn Vỹ đã có những lời đánh giá rất cao về -Vũ Bằng,
thậm chí còn đòi hỏi một vị trí văn học sử cho Vũ Bằng.

13


Cùng chung cách đánh giá với nhà thơ Nguyên Vỹ, nhà nghiên cứu Vương Tri Nhàn
trong "Lời dẫn" cuốn Khảo về tiều thuyết của Vũ Bằng đã viết: "..Một trong những người có
ảnh hưởng nhất trong đám nhà văn đứng ngoài Tự lực văn đoàn cũng là người có tác động rõ
rệt đối với việc xuất bản tiểu thuyết lúc ấy chính là nhà văn Vũ Bằng".
Một trong những người có công ứong quá trình "Đi tìm chỗ đứt gãy trong lý lịch nhà văn
Vũ Bằng" là Văn Giá. Văn Giá cũng bỏ nhiều- công sức tìm hiểu sự nghiệp văn chương của Vũ
Bằng. Ông đã đánh giá rất cao về Vũ Bằng. Với ông, Vũ Bằng "không những là nhà báo bậc
thầy mà còn là một nhà văn đầy tài năng" [20; 5], đã có công "khai thông một lối trần thuật
mới trong tiểu thuyết: kết hợp giữa miêu tả và giải thích, miêu tả tâm lý như một quá trình,
nhân vật tự phản biện chính ý nghĩ của mình, lời hai giọng hoặc nhiều giọng đan xen" [20; 44].
Để Phác thảo chân dung (chữ của Văn Giá), Văn Giá đã sắp xếp các sáng tác của Vũ Bằng theo
từng giai đoạn, ứng với một số giai đoạn trong lịch sử dân tộc, từ đó chỉ ra, chứng minh cái
mới, sự đóng góp của Vũ Bằng trong việc thúc đẩy nền văn xuôi dân tộc phát triển.
Năm 1996 là năm nở rộ của những bài viết nghiên cứu về tác phẩm Thương nhớ mười
hai, một trong những tác phẩm được đánh giá là hay nhất của Vũ Bằng và của văn học Việt
Nam thế kỷ XX. Đặng Anh Đào nhân Tháng ba đi tìm thời gian đã mất; Nguyễn Thị Thanh
Xuân có Khúc ca hoài cảm của kẻ tình nhân; Nguyễn Thị Minh Thái viết Tháng ba rét Bắc
trong sầu xứ phương Nam; Văn Giá đọc Tháng ba rét nàng Bân (tên một phần của cuốn

Thương nhớ mười hai) mà cảm được Khúc nhạc hển non nước...
Ngoài ra còn có nhiều bài giới thiệu phê bình có giá trị về các tác phẩm của Vũ Bằng như
: Vũ Bằng và những tìm tòi văn xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Buồn vui đời viết, Thương
nhớ mười hai và một cảnh quan vãn hóa độc đáo của Vương Trí Nhàn ; Lời giới thiệu cho
cuốn Miếng ngon Hà Nội, Vũ Bằng thương nhớ của Vũ Quần Phương; Lời nói đầu cuốn
Thương nhớ mười hai của giáo sư Hoàng Như Mai...
Mặc dù muộn nhưng đến nay, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Vũ Bằng đã được
nghiên cứu trên nhiều phương diện và được tiếp cận ở các khuynh hướng: xã hội, phương pháp
sáng tác, phong cách nghệ thuật và ở rải rác một số bài phê bình đã đi vào nghiên cứu nghệ
thuật tác phẩm dựa trên các thành tựu của thi pháp học.

14


Trong phạm vi giới hạn của đề tài luận án, chúng tôi sẽ trình bày những ý kiến nổi bật
trong các công tình, các bài nghiên cứu phê bình quan trọng, trực tiếp và có liên quan đến đề
tài: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của Vũ Bằng.
4.2. Để hình dung cụ thể có hệ thống những công trình, những bài nghiên cứu phê bình
có nhận xét sắc sảo liên quan đến đề tài luận án, chúng tôi phân ra các loại ý kiến như
sau:
4.2.1. Những ý kiến liên quan đến vấn đề hiện thực cuộc sống và tấm lòng nhà văn trong
các sáng tác của Vũ Bằng .
4.2.1.1. Trên Tạp chí văn học số 1-1991 Tô Hoài trong bài Vũ Bằng "Thương nhớ mười
hai" đã nói đến cái tâm sự của người tha hương suốt đời ám ảnh Vũ Bằng. Nhà văn viết
"Thương nhớ mười hai, bàn tay giơ lên đếm một tháng, một ngày, một năm, một đời. Đấy là cái
tha thiết đầu tiên và cuối cùng".
4.2.1.2. Cũng về Thương nhớ mười hai, Vũ Quần Phương có đến hai bài viết. Trong "Lời
giới thiệu" Miếng ngon Hà Nội, ông đã nhấn mạnh đến giá trị văn chương, nỗi niềm hoài niệm
về quá khứ, về quê hương của Vũ Bằng: "Quyển sách này còn là quyển sách văn chương, nó
cho thấy một tâm hồn, một nỗi lòng giàu tình cảm dân tộc, quyến luyến trân trọng những nếp

sống của ông bà đã để lại đang ngày càng mai một (...) Trên tất cả các hàng chữ, trên 200
trang sách luôn xao xuyến những hoài niệm. Một nỗi niềm tương tư sông núi cỏ cây, thời tiết,
bàng bạc, thấm thìa, xót thương" [20; 10- 11].
4.2.1.3. Đến bài Vũ Bằng "Thương nhớ mười hai", Vũ Quần Phương lại chú ý đến đặc
điểm văn phong Vũ Bằng. Ông viết "Văn Vũ Bằng, đặc biệt trong "Thương nhớ mười hai" và
"Miếng ngon Hà Nội" có cái buồn xa vắng ấy, nỗi buồn nhớ đất đai và năm tháng. Đổ là cái
buồn nhớ đặc thù thuở đất nước cắt chia Nam Bắc (...) Văn ông là một nỗi nhớ. Ở Sài Gòn
những năm ấy, nhìn về Hà Nội cố hương, ổng có nỗi lòng của một kẻ ra đi không hạn định.
Nhớ đốt ruột đốt gan nhưng hy vọng ngày về lại quá mong manh" [20; 132- 133].
4.2.1.4. Trong số những người viết Lời giới thiệu cho các tác phẩm của Vũ Bằng đến nay,
có lẽ Vương Trí Nhàn là người đầu tiên nói kỹ về một lối văn mới tồn tại ở trong sáng tác Vũ
Bằng, đặc biệt là trong tác phẩm Cai. Ông đã phân biệt thơ với văn xuôi rồi sau đó đặt Vũ Bằng

15


bên cạnh các nhà văn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX như Khái Hưng, Nguyễn Công Hoan và chỉ
ra: "Cái độc đáo của Vũ Bằng khi viết "Cai" là tác giả không định biến nó thành một thứ tiểu
thuyết thông thường tức là khách quan hóa câu chuyện của mình theo kiểu trên đây vừa nói.
Ông không có ý tạo ra những bức tranh phong cảnh làm nền cho câu chuyện mà cũng chả
buồn phác họa đầy đủ các nhãn vật phụ trợ để gộp cả lại làm nên một tấn trò đời thú vị. Ngược
lại có vẻ như ông chỉ chú ý đến bản thân cùng người đọc vô hình mà ông cảm thấy như đang ở
bên cạnh và muốn dốc hết bầu tâm sự cho người đó nghe. Tuy người ta cũng thấy ở đây một
câu chuyện - câu chuyện tôi, tức là Vũ Bằng cai thuốc phiện - nhưng cái nổi lên rõ hơn, bao
quát các trang viết, là cái giọng riêng của người kể (...) Trước mắt chúng ta toàn bộ tác phẩm
như sự bột phát vừa liên tục vừa đứt đoạn của một đời sống nội tâm nồng nhiệt, chỉ biết có
mình, ào ạt muốn bộc lộ mình, và nếu đôi lúc một vài hình hài của cuộc sống chung quanh có
hiện lên đây đó, thì cũng chẳng qua là nhân tiện mà nói tới.." [4; 10].
Dù không gọi thẳng tên của nó ra, nhưng Vương Trí Nhàn đã đánh giá rất cao sự thành
công của Vũ Bằng trong thể văn này ở tác phẩm Cai và Thương nhớ mười hai. Theo ông

'''trong cuộc đời viết đông viết tây, viết xuôi viết ngược đủ thứ của Vũ Bằng, "Cai" đánh dấu
một sự chín đầy trọn vẹn của ngòi bút, cái mức chín đẹp trước đó, ông chưa đạt tới và phải
mấy chục năm sau, tới "Thương nhớ mười hai", ông mới có dịp lặp lại" [4; 8].
4.2.1.5. Năm 1996, trong bài viết Khúc ca hoài cảm của kẻ tình nhân, Nguyễn Thị Thanh
Xuân đã từ Tháng ba rét nàng Bân trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng mà liên tưởng đến
Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ, đến câu "Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà" của Nguyễn Xuân Sanh
và tác phẩm tuyệt vời Bốn mùa thiên nhiên của Prisvin, để rồi quay trở lại khẳng định sự cảm
nhận tinh tế của Vũ Bằng trước những đổi thay của đất trời trong tiết tháng ba. Tác giả bài viết
đã phát hiện ra "cái bản chất tình nhân (...) không chỉ với cố nhân mà cả với cố hương" [20;
154] của Vũ Bằng .
4.2.1.6. Người tâm đắc và nói nhiều đến vấn đề hiện thực cuộc sống và tấm lòng nhà văn
ương các sáng tác nghệ thuật của Vũ Bằng là Văn Giá. Năm 1994, toong Tiếng kêu rỏ máu Văn
Giá đã nói đến cái gọi là "thiên lý tương tư" của Vũ Bằng và nhận xét: "Quê hương xứ Bắc
trong cái nhìn của Vũ Bằng hiện lên như một người tình" [20; 149] và ""Thương nhớ mười hai"

16


là một bản sầu ca đằng đẵng của một kiếp sống tha hương khắc khoải nỗi nhớ thương về miền
viễn xứ" [20; 151].
4.2.1.7. Phải đến năm 2000, trong một công trình nghiên cứu khá dày giãn mang tên Vũ
Bằng bên trời thương nhớ, Văn Giá mới có điều kiện để nói nhiều về cuộc đời và sự nghiệp
sáng tác của Vũ Bằng. Văn Giá nhận thấy "có một đề tài quán xuyến hầu hết tất cả các tác
phẩm Vũ Bằng" giai đoạn 1945 đến 1954 "Là vấn đề hồi cư và người hồi cư" [20; 47]. Ở đó,
Văn Giá chú ý đến "cái tâm lý mặc cảm, nỗi dằn vặt day dứt của những người hồi cư" [20; 48]
trong các sáng tác của Vũ Bằng. Nhà nghiên cứu dành đến 14 trang sách để nói về "tấm lòng
tìm về cội nguồn của một kẻ tha hương" là Vũ Bằng [20; 64].
4.2.2. Những ý kiến liên quan đến hình tượng con người, thời gian và không gian nghệ
thuật.
4.2.2.1. Năm 1999, trong bài Thương nhớ mười hai một cảnh quan văn hóa độc đáo,

Vương Trí Nhàn nhận định cảnh quan văn hóa trong Thương nhớ mười hai là cảnh quan "nhất
trí trong không gian và liên tục trong thời gian" [20;165] và "Tình yêu của Vũ Bằng với đất
Bắc là một thứ tình yêu được gián cách trong khống gian (...) Còn một thứ gián cánh nữa, cũng
gợi thương nhớ đến quay quắt, là gián cách trong thời gian" [20; 165-167].
4.2.2.2. Trong Vũ Bằng bên trời thương nhớ, Văn Giá nhận xét về Vũ Bằng: "từ 1954 đến
khi ông nhắm mắt lìa đời 1984, với 30 năm chẵn ấy, ông thực sự hiện ra như một thân phận lạc
loài" [20; 59]. Văn Giá dành nhiều trang để lý giải hiện tượng này dưới góc độ tâm lý. Theo
ông, việc Vũ Bằng di chuyển vào Sài Gòn ở tuổi 40 là "một trường hợp bị bứng ra khỏi sinh
quyển văn hóa của mình" để, "quăng thân vào một không gian sinh tồn, một sinh quyển văn
hóa có nhiều điểm khác" mà ông không có khả năng hòa nhập.
4.2.2.3. Cũng trong Vũ Bằng bên trời thương nhớ, Văn Giá nhận xét: "Thời gian trong ký
ức Vũ Bằng mang tính chất song hành: hiện tại và quá khứ, quá khứ được nhìn từ hiện tại" [20;
79] và Vũ Bằng thường "trở về với thế giới hoài niệm", "với một không gian văn hóa Hà Nội và
miền Bắc" [20; 65]. Trong cái không gian văn hóa Hà Nội và miền Bắc ấy, Vũ Bằng đã "hướng
tới không gian gia đình, tổ ấm gia đình (...) ông đã kéo hình ảnh gia đình lùi về rất sâu trong
tính chất khởi thủy thuần khiết của nó" [20; 71].

17


4.2.3. Những ý kiến nhận xét về câu văn, giọng văn, cấu trúc ... trong tác phẩm của Vũ
Bằng .
4.2.3.1. Trong Tiếng kêu rỏ máu, Văn Giá nhận xét: "Các trang văn của Vũ Bằng câu chữ
cứ miên man, si mê nhưng nhức nỗi yêu đắm đuối (...) Các câu văn cứ kéo dài, chồng chất, hối
hả, xoắn cuộn, hổn hển dội lên từng đợi không dứt (...) Đó là thơ của niềm thương nhớ. Trong
văn Vũ Bằng, có những bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp, đẹp màu, đẹp nét, đẹp cả cái không
khí, tâm trạng phổ vào trong cảnh" [20; 149-150].
4.2.3.2. Đến Khúc nhạc hồn non nước, quan sát phần Tháng ba rét nàng Bân (Thương
nhớ mười hai), Văn Giá nhận thấy: "Hầu hết các câu văn Vũ Bằng đều được xây dựng bằng
những nội dung của các cảm giác ngũ quan như vậy. (...) toàn là những câu văn ấp đầy cảm

giác" [20; 127-128].
4.2.3.3. Nếu như Văn Giá trong hai bài viết trên mới ghi lại những nhận xét thuần trực
cảm về câu văn của Vũ Bằng thì trong bài Tháng ba rét nàng Bân Đặng Anh Đào đã tiếp cận
một đoạn trích của tác phẩm Thương nhớ mười hai ở bình diện ngôn ngữ nghệ thuật. Đây là
một hướng khai thác tốt, có nhiều triển vọng, rất tiếc là lượng thông tin từ bài viết quá khiêm
tốn .
4.2.3.4. Trở lại với Văn Giá và cuốn Vũ Bằng bên trời thương nhớ. Trong phần Phác thảo
một chân dung Văn Giá nhận xét: "Hầu như không có một câu văn nào trong trạng thái miêu tả
khách quan trung tính ị...) Có nhiều câu văn cảm thán với những lời hô gọi, nhiều từ hỏi đáp,
nhiều quán ngữ. Không ít những câu văn được bố trí theo cách đăng đối, hổ ứng nhịp nhàng,
mang dáng dấp biền ngẫu, đưa lại cảm giác du dương, đắm đuôi ... Lại thêm các câu văn với
nhiều thành phẩn mở rộng, nhiều điệp ngữ biến hóa linh hoạt !...) Ở cấp độ ngôn ngữ cũng
vậy, rất ừ hệ ngôn ngữ khái niệm, mà chả yếu là ngôn ngữ của lời ấn tiếng nói hàng ngày,
mang tính chất giản dị, giàu giá trị biểu cảm" [20; 82].
4.3. Nhận định chung:
Như trên chúng tôi đã trình bày, trong số những nhà văn hiện đại Việt Nam ở thế kỷ XX,
Vũ Bằng hình như "không gặp may" (chữ của Vương Trí Nhàn). Là một trong số những nhà
vãn mở đầu cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, Vũ Bằng sáng tác nhiều và đã có tác phẩm để

18


đời (ít nhất là Thương nhớ mười hai). Ẩy vậy mà phải hơn nửa thế kỷ sau sáng tác đầu tiên của
Vũ Bằng, dư luận mới quan tâm tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông. Dù muộn
màng nhưng những sự tìm kiếm ấy quả là cần thiết và đáng trân trọng. Các ý kiến về tác phẩm
Vũ Bằng tuy còn rải rác nhưng đã được chú ý ở trên nhiều phương diện, lý giải từ nhiều góc
độ: xã hội học, phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật và đặc biệt là thi pháp ở những
năm gần đây. Hầu hết những nhà nghiên cứu tâm huyết về vấn đề Vũ Bằng như: Vương Trí
Nhàn, Vũ Quần Phương, Tô Hoài, Văn Giá, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Đặng Anh Đào ... đều
công nhận :

- Văn Vũ Bằng có cái buồn xa vắng, chất chứa nỗi niềm hoài niệm về quá khứ, về quê
hương .
- Ngôn ngữ trong tác phẩm Vũ Bằng là ngôn ngữ mang đậm chất đời thường, gần gũi,
giản dị, mang tính đối thoại.
- Nhiều nhà nghiên cứu đều cho Thương nhớ mười hai là tác phẩm ký (hay tùy bút) trữ
tình hay nhất của Vũ Bằng và của văn học hiện đại Việt Nam thế kỷ XX. ở đố nhà văn hay sử
dụng các câu dài, phép điệp ngữ biến hóa linh hoạt làm tăng giá trị biểu cảm của tác phẩm.
Từ các công trình, các bài nghiên cứu trên chúng ta thấy rằng: dung lượng khảo sát của
các bài nghiên cứu chưa bao quát, hầu hết chỉ xét từ một tác phẩm (trường hợp Vương Trí
Nhàn giới thiệu tác phẩm Cai) hay một phần tác phẩm (trường hợp Văn Giá, Nguyễn Thị
Thanh Xuân, Đặng Anh Đào... nghiên cứu Tháng ba rét nàng Bân); Có khi đưa ra đoạn văn và
lời nhận xét rút ra tuy sâu sắc nhưng phần lổn mang tính chất tổng quát, giới thiệu tùy theo góc
nhìn của từng tác giả (trường hợp Vương Trí Nhàn so sánh văn Vũ Bằng với Nam Cao, Văn
Giá so sánh văn Vũ Bằng với văn Nguyễn Tuân, Thạch Lam). Nói chung, các bài nghiên cứu
về Vũ Bằng mới chỉ dừng ở mức "Phác thảo một chân dung" (chữ của Văn Giá), chưa có một
công trình thuần túy nào nghiên cứu về đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của Vũ Bằng. Cho nên
đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của Vũ Bằng vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ, cần nghiên cứu thêm.
Theo chúng tôi, những phát hiện của những nhà nghiên cứu về Vũ Bằng là nền tảng, là cơ
sở và những gợi ý quý báu để chúng tôi vận dụng, khảo sát ở nhiều tác phẩm, đặt chúng vào
trong một hệ thống chung, nhằm làm nổi bật những đặc điểm của văn xuôi nghệ thuật của Vũ
Bằng và phân tích chúng ở một mức độ nhất định mà khả năng và điều kiện cho phép.
19


5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
5.1.Để thực hiện luận văn này, chúng tôi dựa vào những luận điểm cơ bản trong hệ thống
lý luận Mác xít: quan điểm duy vật, quan điểm lịch sử và phương pháp biện chứng làm nền
tảng lý luận trong nhận thức và nghiên cứu.
5.2.Tổng hợp và vận dụng những thành tựu của các khoa học liên ngành: Lý luận văn học,
lý thuyết tiếp nhận văn học, thi pháp học, phương pháp luận nghiên cứu văn học... vào thực tiễn

nghiên cứu .
5.3. Ngoài những quan điểm có tính chất phương pháp krận như trên, trong luận án này
chúng tôi sử dụng một số phương pháp cụ thể rất quen thuốc trong nghiên cứu văn học:
5.3.1. Khảo sát văn bản tác phẩm.
5.3.2. Đặt đối tượng nghiên cứu (văn xuôi nghệ thuật của Vũ'Bằng) trong các mối quan hệ
: cuộc sống <- >nhà văn <-> tác phẩm - người đọc, để nhận thức nghiên cứu.
5.3.3. Dùng phương pháp so sánh theo hai trục lịch đại và đồng đại nhằm đem đến những
nhận xét có sức thuyết phục.
5.3.4. Luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê xem các hình thức như từ ngữ, các
hình ảnh, các đoạn... được "lặp" lại bao nhiêu lần, còn gọi là hệ thống " hình tượng ám ảnh", từ
những cơ sở này để phát hiện những quy luật, những vấn đề thuộc thi pháp tác giả.
5.3.5. Phương pháp phân tích - tổng hợp cũng được sử dụng rộng rãi trong luận văn ở
nhiều cấp độ, có tác dụng lớn ương việc đem lại những nhận thức mới từ vấn đề nghiên cứu.
Tất nhiên, các phương pháp nghiên cứu trên đây không phải được thực hiện riêng rẽ, biệt
lập mà phối hợp với nhau trong suốt quá trình nghiên cứu, giải quyết vấn đề mà luận văn đề ra
nhằm phản ảnh trung thực các đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của Vũ Bằng .

6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN:
Luận văn tập trung nghiên cứu đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của Vũ Bằng nhằm :
6.1.Phát hiện những đặc điểm phong cách bút pháp của ông; phân tích những biểu hiện cụ
thể và giá trị của các đặc điểm phong cách bút pháp ấy qua các sáng tác cụ thể, tiêu biểu từ
1945 trở đi của ông.
20


6.2.Khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa bút pháp nghệ thuật với tư tưởng, cảm hứng
trong tính chỉnh thể của các sáng tác của Vũ Bằng.
Thực hiện thành công những nhiệm vụ trên, chúng tôi hy vọng đề tài sẽ mang lại những
đóng góp nhất định trong việc nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật của Vũ Bằng. Chúng tôi sẽ đề
cập đến nhiều tác phẩm hơn để có cái nhìn' tương đối toàn diện về vấn đề đặt ra, mạnh dạn đưa

ra những ý kiến bổ sung trên cơ sở những gợi ý từ các công trình đi trước. Và, quan trọng hơn
là từ góc độ thi pháp, luận văn đưa ra và làm sáng tỏ hơn những đặc điểm của văn xuôi nghệ
thuật của Vũ Bằng. Như vậy cũng có nghĩa là luận văn góp thêm một tiếng nói khẳng định tài
năng và sự đóng góp của Vũ Bằng đối với nền văn xuôi hiện đại Việt Nam ở thế kỷ XX.

7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN:
Ngoài phần dẫn nhập, kết luận và thư mục tham khảo, luận văn gồm ba chương tập trung
vào các vấn đề sau:
- Chương 1: Hiện thực cuộc sống và tấm lòng nhà văn trong văn xuôi nghệ thuật của Vũ
Bằng.
- Chương 2 : Hình tượng con người, thời gian và không gian nghệ thuật trong văn xuôi
nghệ thuật của Vũ Bằng.
- Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong văn xuôi nghệ thuật của Vũ Bằng.

21


CHƯƠNG 1: HIỆN THỰC CUỘC SỐ NG VÀ TẤM LÒNG NHÀ VĂN
TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA VŨ BẰNG

Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới- kỷ nguyên độc lập, tự do
cho dân tộc. Văn học cũng khép lại một chặng đường. Đồng thời một nền văn học mới được
khai sinh và phát ữiển dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiều nhà văn Việt Nam lúc này đã thực sự
trỏ thành những chiến sì trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Họ đã hòa vào cuộc sống kháng chiến
khẩn trương, vất vả nhưng cũng rất đỗi hào hùng của dân tộc để tìm hiểu, học hỏi và để viết.
Hiện thực kháng chiến đã ùa vào trong các tác phẩm của họ, kết tinh ở các nhân vật nông dân,
bộ đội, em bé giao liên ... Vũ Bằng cũng tham gia kháng chiến nhưng nhiệm vụ giao cho ông
có phần đặc biệt, khó khăn hơn so với các chiến sĩ - văn nghệ si khác: Ông phải hồi cư (1948)
rồi di cư (1954), bí mật tham gia vào mạng lưới hoạt động tình báo nội thành, chịu cái án
"dinh- tê", chịu mang tiếng xấu trong con mắt đồng bào, đồng chí. Để có thể vừa hoàn thành

nhiệm vụ của người tình báo lại vừa thực hiện được trọng trách của một nhà văn trong một giai
đoạn lịch sử có nhiều biến cố, Vũ Bằng buộc phải chọn cho mình một hướng đi, một cách viết.
Vì thế, hầu hết các sáng tác văn xuôi của ông, từ đây, là văn xuôi nghệ thuật. Lối văn này là sự
kết hợp hài hòa giữa hiện thực cuộc sống và tấm lòng nhà văn. Điều này đã tạo nên một dấu ấn
khó lẫn ở khuynh hướng thẩm mi trong sáng tác của ông.

1.1. Hiện thực cuốc sống trong các sáng tác của Vũ Bằng:
Ngay từ những năm 40 của thế kỷ XX, chỉ với vài tác phẩm, Vũ Bằng đã được xếp vào
hàng ngũ những nhà văn "tả chân"- Ông đã đưa vào tác phẩm của mình những cuộc đời như
ông nghĩ "thường xuôi đuột, bình dị khổng có khúc mắc như các tiểu thuyết gia thường tả" [20;
39]. Nhân vật trong chuyện của ông lúc ấy có thể là "một cô gái yêu một chàng trai nhất định
phải lấy nhau cho bằng được nhưng hoàn cảnh không cho lấy nhau (...) cặp trai gái ấy dắt
nhau ra bờ sông cùng than khốc và đòi cùng trầm mình một lúc, song le đến lúc chót thì họ
chẳng nhảy xuống sông, mà cũng chẳng đi tu, nhưng chia tay từ giã, ai về nhà ấy ngủ ngon''
[20; 39]... Nghĩa là ông đã tái hiện cuộc sống như nó vốn có, trong các mối quan hệ nhằng nhịt
của nó.

22


Nhưng rồi hiện thực đời sống chiến tranh như một vòng xoáy dữ dội đã kéo tất cả mọi
người vào vòng ảnh hưởng của nó. Vũ Bằng không phải là trường hợp ngoại lệ. Có khác chăng,
mặt trận mà ông hoạt động là mặt Mịn thầm lặng, ít có tiếng súng và đầy cam go. Đã thế, trước
mắt mọi người, trước các bạn văn, ông lại bị coi là kẻ đào ngũ, kẻ phản bội. Dù muốn hay
không, Vũ Bằng không thể tránh khỏi cái nhu cầu tự bảo vệ cho danh dự của mình trước sự
phán xét của mọi người. Cuộc sống thực tiễn, đặc điểm của công việc được giao không cho
phép ông công khai tự vệ, Vũ Bằng đã tìm đến một cách tự "bào chữa" cho mình thông qua các
trang viết. Sáng tác của Vũ Bằng từ 1948 trở đi vẫn đầy ắp hiện thực nhưng không phải là hiện
thực rộng lớn, khái quát cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với những mất mát,
hy sinh cụ thể có thể đong đếm được, với chủ thể của nó là các tầng lớp công, nông, binh như

trong các sáng tác của các nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa đương thời mà là hiện thực được
lắng lọc qua tâm hồn đầy ưu tư nhưng vô cùng nhạy cảm, tinh tế của người viết. ở đây, hiện
thực tâm lý, hiện thực tâm trạng đóng vai trò then chốt và quyết định. Nghĩa là thông qua
những động thái tâm lý, những sắc thái tình cảm của nhà văn hay nhân vật chính, ta nắm bắt
được cái "hồn" của hiện thực với niềm cảm thông sâu sắc trước những cảnh đời, những số phận
mòn mỏi, bất hạnh trong một xã hội thời chiến.
1.1.1. Vấn đề hồi cư và người hồi cư:
Là một nhà văn "dinh-tê", dù vì mục đích gì, Vũ Bằng cũng ít nhiều phải chịu chung số
phận của những người hồi cư. Hơn ai hết, ông hiểu rất rõ cuộc sống của họ. Theo thống kê
chưa đầy đủ của chúng tôi, trong giai đoạn từ 1945 đến 1954, Vũ Bằng viết 15 tác phẩm trong
đó có 12 tác phẩm đề cập trực tiếp đến vấn đề hồi cư và người hồi cư, trong ba tác phẩm còn lại
chỉ có 1 tác phẩm hoàn toàn thuần tứy là sự hồi tưởng một kỉ niệm êm đềm thưở thiếu thời
(Truyện trăm năm cũ) còn hai truyện Cây hoa hiên bên bờ sông Na và Cái cóng thuốc của Hàn
Lang tuy mang âm hưởng của Truyền kì mạn lục nhưng lấp ló đằng sau từng câu chữ vẫn là
cuộc sống loạn lạc thời chiến tranh, vẫn là vân đề thân phận con người trong một xã hội thời
chiến (Phụ lục 1). Điều đó chứng tỏ hồi cư là một vấn đề ám ảnh đối với nhà văn, nó chi phối
rất nhiều đến suy nghĩ, tình cảm của nhà văn trong giai đoạn này.
Trong một truyện dài ít nhiều có tính chất tự truyện như truyện Chớp bể mưa nguồn (ký
dưới bút đanh Hoàng Thị Trâm, đăng nhiều kỳ trên Tiểu thuyết thứ bảy, bắt đầu từ số 1,

23


Thượng tuần tháng 3.1949), Vũ Bằng đã chạm đến một mặc cảm khá phổ biến của những
người dân hồi cư lúc ấy thông qua suy nghĩ của nhân vật Lộc: "Tôi thấy chính tôi là một người
nên đứng lui ra làm cái công việc sở trường của mình là... viết láo. Tôi viết láo và không có
quan điểm chính trị gì, vì quan điểm của tôi không có gì đặc biệt, nhưng là của tất cả những
người hồi cư về đây: Hà Nội là đất nước của tôi, tôi ở, tôi ở đâu thì tôi theo pháp luật ở đấy, và
không ai cấm tôi yêu và xót xa đồng bào tôi".
Đã có một thời vấn đề "dinh-tế" được đặt ra trong lịch sử Việt Nam và vấp phải sự phản

ứng gay gắt của công luận. Hãy thử tưởng tượng: Cuộc kháng chiến chống Pháp mỏ ra trên
diện rộng. Toàn dân hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
"Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy
gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước" [77; 135]. Khắp nơi nhân dân nổi lên phá
đường, ngăn chặn bước tiến của quân thù ; ở tiền tuyến, bộ đội và dân cổng thi đua đánh giặc; ở
hậu phương, công nhân "tay súng tay búa" cùng nông dân "chắc tay súng vững tay cày" hăng
hái thi đua tăng gia sản xuất. Từ các thị thành, nhân dân theo lệnh của Chính phủ kháng chiến,
tản cư về nông thôn, góp công góp sức cùng đánh quân thù. Khắp nơi, từ miền ngược đến miền
xuôi đều hừng hực không khí khẩn trương, sôi nổi, quyết tâm đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Hiện thực hào hùng ấy đã đi vào thơ ca một thuở, còn đọng mãi trong lòng người.
Vậy mà lại có một lớp người đi ngược dòng chảy chung của thời đại, quay về thành. Lí do
và động cơ hồi cư của họ có thể là vô vàn, nhưng dù gì đi nữa cũng không thể biện minh nổi
cho một thực tế là phải dựa vào thực dân Pháp để nương thân, mứu cầu cuộc sống êm ấm, sung
túc. Một người dân yêu nước chân chính, một người giàu lòng tự trọng ít chọn những hành xử
đáng trách như vậy. Vì thế, trước mắt mọi người, trước công luận, họ là những kẻ phản bội,
những kẻ quay lưng lại với cuộc kháng chiến chung của dân tộc.
1.1.1.1. Vũ Bằng là một nhà văn hồi cư, đành rằng với động cơ khác, nên hơn ai hết ông
rất thấm thìa nỗi khổ của người hồi cư và phần nào thông cảm với họ. Những trang văn của ông
giờ đây được chắt ra từ chính cuộc đời bất yên và nhiều nông nỗi của chính ông và những con
người bất hạnh kia. Ông quan tâm đến nỗi khổ về đời sống vật chất thiếu thốn của những người
hồi cư. -Trước đây, sống ngoài vùng tản cư kháng chiến, họ cũng rất nghèo khổ, thiếu thốn,
nhưng nhìn ra xung quanh, hầu hết mọi người cũng trong tình cảnh như vậy, nên cái nghèo, cái

24


khổ cũng nhẹ đi phần nào. Họ dinh-tê vào thành hầu hết chỉ vì hi vọng kiếm được miếng ăn, có
đời sống khâm khá hơn. Nhân vật người vợ trong Đất khách đã hối chồng: "...Cứ nhất định đi.
Trời thương, kiếm ăn được, về lấy cái đất nhà Hai Đỗi. Bảy tám chục bạc một nải chuối. Gánh
rau cạn đem ra của ổ bán cũng được vài trăm" [20; 335]. Còn người chồng "khi có người về

đón nhà vợ lẽ Phán Tảo ra, nói chắc như cua gạch là ở Hà Nội làm ăn bở thật, người chồng
mới nhất quyết ra đi ..." [20; 335].
Nhiừig rồi thực tế cuộc sống thực hồi cư không dễ dàng như những điều họ đã nghe, đã
tưởng. Đói khổ về vật chất cộng thêm nỗi khổ vê tinh thần càng làm cho cuộc sống của họ vốn
đã nặng nề lại nặng nề hơn.
Cuộc sống của đôi vợ chồng hồi cư trong Bữa cỗ thật tù túng, ngột ngạt. Hàng ngày,
người vợ "đan cái giỏ hay làm cái toe toe để bán". Người chồng đi làm thuê. Ở trong tình trạng
đói khổ, túng quẫn thường xuyên, người ta dễ vị kỷ, ít có điều kiện để nghĩ tốt về nhau. Trong
suy nghĩ của người chồng, người vợ hiện lên thật đáng ghét. “Con mụ ở nhà cứ động một tí là
sinh sự” [20; 321]. Vì vậy, thường trực trong anh là ý thức đối phó. Sau khi ăn cỗ xong, trên
đường từ nhà chủ về "Anh ta còn đang mải nghĩ sẵn mấy câu đối đáp sắp đem ra dùng với vợ.
Mà chỉ cổ chính trị thôi thì không đủ nhé. Phải có võ lực nói chuyện nữa, nếu cần. Anh ta gật
gù đắc chí vì cảm giác à đầu hai cánh tay mình lại có hai bàn tay, hai bàn tay chỉ có mười
ngón nhưng là mười ngón sắt, Vô phúc cho đứa nào gây chuyện với anh. Hai bàn tay ấy mà
"tẩn" thì chỉ có hộc máu ra mà chết" [20; 322]. Cả hai con người đáng thương ấy đều khổ. Họ
khổ vì vật chất túng thiếu, họ còn khổ hơn vì thường xuyên làm cho nhau thêm khổ. Người vợ
khốn khổ đó đã chết trong cô đơn, nghèo khổ: Chồng vắng nhà, "mụ vợ anh ta chết cứ lịm đi"
[20; 323]. Người chồng trong cơn say đã luận về cái chết của người vợ khốn khổ theo cách
nghĩ của kẻ say nhưng vẫn còn ý thức được những món nợ chưa trả:
"Rõ thật con tườu ! Lại chọn đúng ngày mình lãnh lương mà chết! Thế này thì còn giết ai
ra mà trả những món nợ người ta đòi từ sáng?" [20; 323].
Ta còn có thể tìm thấy bóng dáng của những cảnh đời ấy trong các truyện ngắn Bát cơm,
Giai đoạn mới...
1.1.1.2 Không chỉ quan tâm đến nỗi khổ về vật chất thiếu thốn, Vũ Bằng còn đặc biệt chú
ý đến cái tâm lý mặc cảm, nỗi dằn vặt, day dứt của những người hồi cư. Đây là điểm khác biệt
25


×