BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGŨ NHỊ SONG HIỀN
ĐẶC TRƯNG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT
ĐỖ CHU
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN HOÀI THANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CAM KẾT
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn
của TS Nguyễn Hoài Thanh.
Công trình này chưa được công bố dưới bất kỳ một hình thức nào.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình này.
TP.HCM, ngày 25 tháng 09 năm 2010
Tác giả luận văn
Ngũ Nhị Song Hiền
LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu” được hoàn thành dưới sự
hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của TS Nguyễn Hoài Thanh, sự đóng góp ý kiến của
các Giáo sư – tiến sĩ phản biện, và các thầy cô phòng KHCN và SĐH.
Tôi xin chân thành cám ơn
MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Khuynh hướng văn xuôi trữ tình, giàu chất thơ là một dòng chảy của văn học Việt Nam
hiện đại mà Đỗ Chu là một ngòi bút tiêu biểu. Đây là một kiểu văn xuôi – thơ hay nói như nhà
văn Nga C. Pauxtốpki là “chất thơ của văn xuôi” rất đáng được lưu tâm nghiên cứu.
Đỗ Chu là một nhà văn, một người lính trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước. Vớ
i
khối lượng sáng tác không dồi dào nhưng đã để lại một ấn tượng đẹp trong lòng độc giả.Trong
sáng, trữ tình và lãng mạn với các truyện ngắn đầu tay như Hương cỏ mật, Ráng đỏ, Phù sa,
Mùa cá bột…ngòi bút ấy càng trở nên dịu dàng, đằm thắm, sâu sắc hơn với Mảnh vườn xưa
hoang vắng và Một loài chim trên sóng.
Gần đây sự xuất hiện của hai tập tùy bút T
ản mạn trước đèn (2005) và Thăm thẳm bóng
người (2008) đã tập trung sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình và độc giả. Khi người ta đã
quen với một Đỗ Chu truyện ngắn trữ tình thì ông lại bức phá với hai tập tùy bút dày công lực.
Cái duyên tùy bút của Đỗ Chu thăng hoa ở độ tuổi thâm trầm, để ông có dịp bộc lộ rõ nét một
cái “tôi” tinh tế, sâu sắc, đầy chất triết lý. Dù ở thể lo
ại truyện ngắn hay tùy bút, người ta đều
bắt gặp một tâm hồn giàu chất thơ của nhà văn.
Trải qua hơn 40 năm văn nghiệp, Đỗ Chu không chỉ khẳng định vị trí văn chương của
mình ở Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật (2001), Giải thưởng Văn học Asean
(2004) về truyện ngắn mà còn ở Giải thưởng Hội nhà v
ăn Việt Nam (2005) với tập tùy bút Tản
mạn trước đèn. Do đó, nhìn nhận, đánh giá tài năng, và nghiên cứu đặc trưng văn xuôi nghệ
thuật của Đỗ Chu để hoàn thiện chân dung một tác giả là điều cần thiết.
Tác phẩm và tên tuổi của Đỗ Chu thăng trầm qua từng giai đoạn lịch sử. Nhiều người biết
và ấn tượng về Đỗ Chu. Song để nghiên c
ứu một cách có hệ thống các sáng tác của nhà văn
cũng như khái quát toàn diện đặc trưng văn xuôi nghệ thuật của Đỗ Chu thì còn thấy hiếm. Rải
rác các bài phát biểu và nghiên cứu trên báo, tạp chí và một số ít sách nghiên cứu thiết nghĩ
chưa đủ khẳng định sức sống của một cây bút văn xuôi giàu chất thơ như Đỗ Chu. Luận văn
mong tiếp nối cái phần còn để ngỏ ấy.
II.
GIỚI HẠN ĐỀ TÀI VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đỗ Chu sáng tác tập trung nhất là vào hai mảng truyện ngắn và tùy bút. Do đó luận văn đi
sâu khảo sát và nghiên cứu hai thể loại này - hai thể loại đóng vai trò khẳng định phong cách và
tên tuổi Đỗ Chu trên văn đàn. Với đề tài Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu, người viết đi
vào tìm hiểu, phân tích các tác phẩm trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật nhằm khái
quát lên đặc trưng, phong cách của nhà văn.
Vớ
i một số lượng tác phẩm không dồi dào, luận văn cố gắng tập hợp, khảo sát tất cả các
tuyển tập truyện ngắn và tùy bút của Đỗ Chu đã in thành sách hoặc đăng rải rác trên các báo và
tạp chí từ năm 1962 cho đến nay.
III. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Từ năm 1962, khi những truyện ngắn đầu tay của Đỗ Chu ra đời, văn đàn đã xôn xao tán
tụng. Nối tiế
p những thành công từ các truyện đầu tay đó, các tuyển tập truyện ngắn của Đỗ
Chu đã ra đời. Có tuyển tập hay, được chú ý, có tuyển tập cũng “tàm tạm” nhưng cũng có tác
phẩm không mấy gây ấn tượng nên dần chìm vào quên lãng. Tuy nhiên tất cả thống nhất ở một
điểm: truyện Đỗ Chu giàu chất thơ, văn phong trang nhã, cẩn trọng trong từng câu chữ.
Đề cập đến đặc đi
ểm truyện ngắn Đỗ Chu, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh đã có một bài
nghiên cứu về Truyện ngắn của Đỗ Chu khá cụ thể và chi tiết in trên Tác phẩm mới
(17/9/1971). Ông phân tích cách lựa chọn đề tài, hệ thống nhân vật, bút pháp miêu tả nhân vật,
kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ và khả năng phản ánh hiện thực trong truyện ngắn của Đỗ Chu.
Về cách xây dựng nhân vật, ông cho rằ
ng: “Mặc dù hoàn cảnh khác, tâm lý khác nhưng
nhân vật của Đỗ Chu đều có một cái lõi tính cách giống nhau” :“đều có những phẩm chất tốt
đẹp và rất đáng yêu.” [33,tr.437] Và vì thế nhân vật thuộc vào loại “ít hoạt động, mà nặng yêu
thương, tâm sự, hồi tưởng”. [33, tr.443 ] Lý giải về điều này, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh cho
rằng: “nói chung cái nhìn của anh đang là một cái nhìn đậm màu sắc lý tưởng, khuôn định;
nguồn số
ng chủ yếu của tác phẩm anh đang là tâm hồn, một tâm hồn khá nhạy cảm, có thể nói
là tài hoa, nó đang được “phân thân” vào hầu hết các nhân vật và những bức tranh thiên nhiên
mà anh miêu tả”. [33, tr.441]
Về khả năng phản ánh hiện thực trong truyện ngắn của Đỗ Chu, giáo sư cho rằng : “Đỗ
Chu ít phân tích xã hội, không nhìn thấy hoặc né tránh những tình huống phức tạp.” Sự hạn chế
này dẫn đến “khả nă
ng xây dựng nhiều loại tính cách, cũng như sức khái quát, nói chung còn
yếu”, “cốt truyện, kết cấu đều đơn giản, tự nhiên.” Cũng do tự nhiên, “thoải mái”nên Đỗ Chu
ít chú ý đến cốt truyện và kết cấu. Tác phẩm vì thế có khi “không cân đối, lỏng lẻo, dàn trải”.
Tuy nhiên giáo sư Nguyễn Văn Hạnh khen sự “giản dị và tự nhiên” trong văn phong của Đỗ
Chu : “Một nét rất đáng quý trong sáng tác của Đỗ Chu là tính chất giản dị và tự nhiên. Giả
n
dị và tự nhiên trong kết cấu, trong nghệ thuật dẫn dắt câu chuyện, trong giọng văn, trong lời
văn.” Những đoạn văn xúc động và giàu chất thơ có thể gần với phong cách của Nam Cao,
Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc, và xa hơn nữa là Sêkhốp, Pauxtốpki, Aimatốp nhưng “Đỗ
Chu vẫn có cái tươi mát, bồi hồi riêng biệt của anh”. [33, tr.446 –tr.449]
Ngô Thảo trong bài nghiên cứu Văn học về ngườ
i lính có phân tích, đánh giá giá trị nội
dung và nghệ thuật của những tác phẩm viết về người lính, trong đó có Đỗ Chu. Ngô Thảo nhìn
nhận Đỗ Chu là nhà văn có phong cách trữ tình. Ngay từ những tác phẩm đầu tay, Đỗ Chu đã
biểu hiện “một bản sắc riêng, một phong cách văn học đã chín…Hiện thực được lĩnh hội thể
nghiệm và biểu hiện qua góc độ trữ tình bởi sự nhào nặn b
ằng chất men riêng của tâm hồn
người viết.” [71, tr.44] Bên cạnh đó, Ngô Thảo cũng đã chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của nhà
văn. Mạnh là ở chỗ Đỗ Chu thể hiện rất hay những ấn tượng, cảm xúc, những phong tục và
không khí nông thôn. Nhưng hạn chế là ở khả năng bao quát đời sống rộng lớn. Trước những
biến động quy
ết liệt của hiện thực (cuộc chiến tranh phá hoại mở rộng), ngòi bút của ông trở
nên “lúng túng”, không còn giữ thế chủ động khi phản ánh. “Anh viết khá nhiều về các trận
đánh, các con đường mặt trận, những người ở tuyến trước, nhưng mọi thứ ở đây vẫn có cái gì
ngẫu nhiên, cá biệt.”[71, tr.45] Ngô Thảo cũng đã nhấn mạnh : “Cái phần hay của Đỗ Chu
chưa có nhiề
u người đạt tới nhưng cái phần còn yếu của anh lại đang là chỗ mạnh của nhiều
người viết khác.” [71, tr.44 - tr.45]
Ma Văn Kháng, Nguyễn Trí Nguyên cũng đã từng bày tỏ quan niệm về lối văn giàu chất
thơ của Đỗ Chu. Trong Sổ tay truyện ngắn, Ma Văn Kháng đã khen Ráng đỏ của Đỗ Chu tiêu
biểu cho lối văn nhẹ nhàng, đơn giản mà thấm sâu, có khả năng l
ưu lại được cái dư ba trong
lòng người : “Tóm lại, quan niệm truyện ngắn phải có cái gì bay bay một tí, không nên mơ
màng quá mà trần trụi quá cũng không ổn. […] Tôi thích những truyện có một cốt truyện thực,
lại phải có một cái bóng đằng sau, giúp cho người đọc liên tưởng sang nhiều chuyện khác. Ví
dụ Ráng đỏ (Đỗ Chu), Chiếc lá (Bùi Hiển)…[58, tr.66]
Nguyễn Trí Nguyên cũng nhận thấy ở nhà văn Đỗ Chu phảng phất nét “thơ mộng”, trữ
tình như những trang văn của A. Đô-đê : “Đọc những truyện ngắn của Đỗ Chu, điều đáng
mừng là tìm lại được phong cách văn học, âm hưởng thơ mộng trong truyện ngắn giàu hồi ức
của anh, những ấn tượng có ở truyện ngắn của A.
Đô-đê.” [61, tr.116]
Trái lại, Nguyễn Quang Sáng lại tỏ ra không thích với lối “câu dầm, ngâm nga từng câu
từng chữ” của Đỗ Chu. Ông phục cách nhà văn Đỗ Chu gia công, cẩn trọng trong từng con chữ
của mình nhưng không thích đi theo cách viết của Đỗ Chu: “Tôi phục ông nhưng tôi vẫn viết
theo cách của tôi.” [58, tr.40]
Văn Chinh từng dành nhiều sự ưu ái cho phong cách văn xuôi lãng mạn trữ tình của Đỗ
Chu và xem đó như “mộ
t đám mây lạ” làm thức dậy cái đẹp, cái thơm thảo trong hồn người:
“Một chút lãng mạn Pháp, một chút cổ điển Nga và một chút lý tưởng hóa Nga Xô-viết đã như
những đám mây lạ được làn gió chuyển mùa làm nên mưa xuân trên vùng quê văn hóa màu mỡ
là Kinh Bắc, khiến hạt mầm nghệ sĩ vẫn còn phong kín trong lòng đứa con rồi ra sẽ làm vinh dự
cho quê hương, một đứa trẻ buồn nỗi con côi pha lẫn niềm bâng khuâng vị
thành niên đã bật
lên truyện Hương phù sa, Mùa cá bột, Chiến sĩ quân bưu, Đường qua nhà, Thành phố bên kia
cầu…vẫn với những nhân vật đầy trìu mến, nhiều tài hoa nhưng cũng lặng lẽ, quả cảm, chúng
đều khiến thức dậy cái đẹp, cái thơm thảo trong lòng người đọc để ta có thể yên tâm gọi đó là
chùm Hương cỏ mật.” [7] Chỉ đến Mảnh vườn xưa hoang vắng, V
ăn Chinh mới khẳng định tài
năng của Đỗ Chu. Ông đánh giá cao về lối viết thung dung, tự nhiên và giàu nhạc điệu:
“Đỗ Chu là nhà văn có năng lực làm chủ ngòi bút của mình. Truyện của anh thường có
bố cục công phu, nghiêm túc. Văn mạch đi thung dung, nhàn nhã, tự nhiên mà như những trái
chín cây. Văn anh giàu biểu cảm, duyên dáng nhưng không ẻo lả. Dù truyện dài trăm trang
nhưng đều nằm gọn hết trong một nhạc đi
ệu trầm và trang trọng, làm tĩnh tâm bạn trước khi
tiếp nhận những tư tưởng sắc sảo, cao thượng.” [7]
Nhiều người dành tình yêu mến cho tuyển tập Phù sa của Đỗ Chu. Vương Trí Nhàn trong
bài nghiên cứu Một cuộc gặp gỡ để lại nhiều cảm tình đã có những đánh giá cao về tập truyện
ngắn đầu tay này. Ông cho rằng văn phong Đỗ Chu có “duyên” và có “một sắc thái riêng”:
“Cái duyên của câu văn, cách bố trí khi dài khi ngắn, âm điệu bằng trắc thế nào, Đỗ Chu gần
như có được từ bản năng. Những truyện Mùa cá bột, Đường qua nhà nhỏ xinh như một bài thơ,
đọc xong lại muốn đọc lại.” [57, tr.20] Và các truyện ngắn đều cho thấy “một sắc thái riêng
trong chất văn Đỗ Chu”. [57, tr.21] Tuy về mặt hình thức, Vương Trí Nhàn cho là “không chặt
chẽ, kể lan man”. [57, tr.22] Nhưng ông nhấn mạnh “vẻ duyên dáng thì không vì thế mà giảm
sút”. [57, tr.22] Về nhân vật thì ông khá thống nhất với các nhận xét khác, “chưa có nhân vật
nào đủ hình đủ bóng, chưa có con người nào khả dĩ vượt khỏi trang sách chuyện trò cùng
chúng ta”. [57, tr.25] Bởi vì “hoạt động tâm lý chưa bật lên thành cá thể có linh hồn riêng”.
[57, tr.25] Và cuối cùng ông kết luận r
ằng “nhân vật duy nhất trong các truyện ngắn từ trước
đến nay của Đỗ Chu chính là bản thân tác giả”. [57, tr.25] Còn Phan Thị Minh Thư lại khen
ngợi Phù sa về cách sắp xếp, bố trí tình tiết truyện như một người chỉ huy dàn dựng trận địa
khéo : “Một truyện ngắn bình thường nhưng vừa đủ số chữ cần thiết, “vào ra” truyện đúng lúc,
chính xác ở cả mỗi ngắt đ
oạn.” [84, tr.94 ]
Khi nhìn nhận và tổng kết lại tình hình văn xuôi Việt Nam năm 2002, Nguyễn Hòa đã
đánh giá cao sự đóng góp của Đỗ Chu cho nền văn học nước nhà. Tác giả cho rằng Đỗ Chu là
người có bút lực dồi dào, văn phong trang hoàng và đẹp đến chuẩn mực. “Nhìn vào giải thưởng
Hội nhà văn năm 2001, có thể nhận thấy nổi lên là sự có mặt của Đỗ Chu với tập truyện ngắn
M
ột loài chim trên sóng. Đỗ Chu viết không nhiều nhưng anh lại là một trong số hiếm hoi
những cây bút mà chúng ta vẫn gọi là “viết có văn”- nghĩa là trang viết khiến người ta thấy
hay, thấy nhớ, thấy đọng lại đôi điều.” [37] Cũng như Phan Cự Đệ, Nguyễn Trí Nguyên,
Nguyễn Hòa đã xếp Đỗ Chu vào “hệ những nhà văn rất chú trọng đến vẻ đẹp của câu chữ, như
các bậ
c tiền bối Thạch Lam, Hồ Dzếnh. Bút lực của ông không mấy dồi dào nhưng họ viết chậm
và kỹ, câu văn nghiêng về cái đẹp mảnh mai.” [37]
Nguyễn Thanh Tú lại có một bài viết về Đặc điểm kết cấu truyện ngắn Đỗ Chu đăng trên
báo Văn nghệ quân đội năm 2003. Đọc Tuyển tập truyện ngắn Đỗ Chu xuất bản năm 2003,
Thanh Tú phát hiện ra một kết cấu riêng, mang dấu ấn của Đỗ Chu rõ nét: “Tuyển tập đã thể
hiện một phong cách văn xuôi Đỗ Chu trữ tình, đậm chất thơ, tinh tế, tài hoa mà theo chúng tôi
điều này thể hiện rõ nhất ở đặc điểm kết cấu rất riêng, mang rõ dấu ấn Đỗ Chu”. [88, tr.98]
Thanh Tú đi vào phân tích hình thức “truyện lồng trong truyện khá đặc sắc” qua một số truyện
tiêu biể
u. Sự lan man tưởng chừng như là nhược điểm của Đỗ Chu lại là “đặc điểm trong hệ
thống các câu chuyện được kể”. Và chính kết cấu này cũng quy định một giọng điệu trong văn
xuôi của Đỗ Chu: “giọng tâm tình thân mật”. Nguyễn Thanh Tú khẳng định : “Đỗ Chu là
người viết sớm và sớm tạo cho mình một cách viết riêng, một giọng điệ
u riêng.” [88, tr.98]
Thạc sĩ Lê Hương Thủy đã có một bài nghiên cứu khá cụ thể về Đặc trưng truyện ngắn
Đỗ Chu in trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 9 năm 2006. Trong bài viết này, Lê Hương Thủy
đề cập đến cảm hứng sáng tác, đề tài, hệ thống nhân vật, và cách dẫn dắt chuyện của Đỗ Chu.
Trước 1975, cảm hứng lãng mạn cách mạng là nguồn mạch chính trong các truyện ngắn của
ông. Nguồn mạch này chi phối đến hệ đề tài, khiến Đỗ Chu thiên về khai thác cái đẹp, chất thơ
trong đời sống. Nó biểu hiện ở vẻ đẹp tâm hồn, thế giới tinh thần phong phú của nhân vật, cách
nhìn về thiên nhiên và cách phản ánh hiện thực đời sống. Tuy nhiên từ sau năm 1975, cảm hứng
bi kịch trở nên đậm đặc. Nhân vật của ông trở nên đời hơn, và cũng có phần nghiệt ngã hơn.
Nhi
ều mảng tối của đời sống được lật xới lên.Tuy nhiên dù viết về bi kịch thì các tác phẩm của
ông vẫn lấp lánh niềm tin và lạc quan.
Về kỹ thuật viết truyện, Lê Hương Thủy đánh giá cao cách dẫn chuyện tự nhiên, nhưng
cốt truyện thì đơn giản. “Không chú trọng vào việc khai thác những yếu tố bất ngờ, những khúc
quanh của số phận, truyện của Đỗ Chu th
ường ít có những tình huống lắt léo, và vì thế khó kể
lại rành mạch theo trình tự của cốt truyện thông thường. Nhiều truyện ngắn hấp dẫn người đọc
bởi cách dẫn chuyện, kể, tả và độc thoại nội tâm.” [81, tr.123 ] Và cuối cùng theo Lê Hương
Thủy, điều khiến truyện ngắn của Đỗ Chu đến được và lắng lại với người đọc là bởi “lối văn
giàu xúc cảm, ở chất giọng trữ tình, ở sự tạo kết những giá trị văn hóa trên những trang viết và
ý thức đổi mới ngòi bút.” [81, tr.126]
Phan Cự Đệ trong cuốn Truyện ngắn Việt Nam, Lịch sử - Thi pháp - Chân dung đã giới
thiệu cho độc giả một chân dung truyện ngắn Đỗ Chu. Trong bài nghiên cứu này, Phan Cự Đệ
phân tích sở trường và sở đoản trong truyện ngắn củ
a Đỗ Chu. Bài nghiên cứu tập hợp các ý
kiến đánh giá về Đỗ Chu cũng như phát biểu của các nhà văn xoay quanh vấn đề truyện ngắn và
quá trình sáng tác, các bước chuyển mình, thay đổi của truyện ngắn Đỗ Chu. Phan Cự Đệ trân
trọng xếp Đỗ Chu vào danh sách các nhà văn có “phong cách trữ tình” và phân hạng ông là học
trò của Thạch Lam, Nguyễn Thành Long và C. Pautốpxki và A. Đôđê: “Đỗ Chu là một nhà văn
viết truyện ngắn có phong cách – phong cách trữ tình. N
ếu được phép nhân hạng thì ông là học
trò của Thạch Lam, Nguyễn Thành Long (các nhà văn Việt Nam) và C. Pautopxki (nhà văn
Nga) và A. Đô-đê (nhà văn Pháp). Phong cách trữ tình của Đỗ Chu tạo nên một kiểu văn xuôi
giàu chất thơ.” Phan Cự Đệ phát hiện ra sở trường của Đỗ Chu : “ Có thể nói Đỗ Chu là nhà
văn mạnh về trực giác”. Bởi lẽ Đỗ Chu “có cái nhìn đời tươi xanh, lãng mạn, thơ mộng, biết
rung động trước những biến thái nhỏ nhất, linh diệu nhất của đời sống.” [23, tr.744] Vì thế khi
đọc truyện ngắn Đỗ Chu, người đọc như được sống trong một không khí truyện đặc thù, cái
không khí được tạo nên bởi cảm giác – cảm xúc rất mạnh của nhà văn. Điều này tạo nên sắc
điệu, giọng điệu trữ tình của truyện ngắn Đỗ Chu.
Ông cho rằng vă
n của Đỗ Chu “có vẻ dềnh dàng, nhấm nháp, nhàn tản, thiếu tính nhập
cuộc” nhưng đó không phải là một nhược điểm mà là “một đặc điểm thuộc về “tạng” nhà
văn”. [23, tr.744] Ông đi sâu phân tích “lối văn có nhịp điệu” của Đỗ Chu. Câu văn trong
truyện ngắn Đỗ Chu “đan xen ngắn, dài làm cho câu chuyện được kể lại cũng “khúc khuỷu”,
“nhiề
u nhánh rẽ” song vẫn có “sợi chỉ đỏ” xâu chuỗi. Đó chính là “cái tứ của truyện”.
Phan Cự Đệ còn đi vào phân tích chứng minh kỹ thuật viết truyện ngắn của Đỗ Chu. Ông
đánh giá “Đỗ Chu là cây truyện ngắn có nghề, hay nói cách khác nhà văn rất chú ý đến kỹ
thuật truyện ngắn. Đỗ Chu khi viết truyện ngắn rất chú ý, dụng công tô đậm cái mở đầu và kết
thúc. Bắt đầu từ vi
ệc tìm tứ, tìm cảm hứng tổ chức một “trận đánh”, làm sao tạo ra sức chứa và
sức nổ ở kết thúc.” [23, tr.751]
Chuyển sang thể loại tùy bút, trong những năm đầu của thế kỷ XXI, độc giả bàn tán nhiều
về hai tập tùy bút Thăm thẳm bóng người và Tản mạn trước đèn của Đỗ Chu. Có khá nhiều bài
viết, bài cảm nhận trên báo, tạp chí và mạng Internet khen chê về hai t
ập tùy bút này như bài
viết của Hoàng Ngọc Hiến, Lý Hoài Thu, Thu Hà, Thạch Linh, Phan Huy Dũng, Nguyễn Hòa,
Nguyễn La, Hà Khải Hưng, Tô Hoàng, Nguyễn Thanh Kim… Tuy nhiên đó chỉ là những cảm
nhận, suy nghĩ mang tính cá nhân và tính tin tức thời sự. Tùy bút của Đỗ Chu chưa được đặt
trong dòng chảy của tùy bút Việt Nam để phân tích, so sánh và tìm ra đặc trưng riêng. Đa số các
tác giả đều cho rằng Đỗ Chu đến với thể tùy bút như một sự hối thúc tự nhiên để
trải nghiệm
vốn sống, vốn hiểu biết cùng những suy tư, trăn trở của mình trước sự đổi thay của đất nước,
con người, cuộc đời và nghề văn…Đỗ Chu “hiểu rành rẽ từng khúc quanh của dòng sông văn
học, lúc này đang chứng kiến một thời kỳ mới của sáng tác với rất nhiều bề bộn, lẫn lộn cái
thực, cái giả chen nhau, cái đ
ích thực và cái thời thượng xem ra không dễ phân biệt.” [22,
tr.57]
Phan Huy Dũng khi giới thiệu về Tập tùy bút Tản mạn trước đèn đã khen sự tài hoa, tinh
tế trong văn phong Đỗ Chu: “Ta được gặp lại ở Tản mạn trước đèn vẫn một Đỗ Chu thời
Hương cỏ mật, Mùa cá bột – người từng thể hiện rất tinh tế, tài hoa những cảm xúc ân tình ân
nghĩa trong đời sống cộng đồng, đưa lại cho độc giả một cảm giác ấm áp, tin yêu. Thời thế bây
giờ khác xưa khá nhiều, vậy mà vẫn giữ được phần lớn cách nhìn ấy và giọng văn ấy, xét ở một
khía cạnh nào đó, có thể nói người viết tỏ ra rất tin ở mình hay nói cách khác là có bản lĩnh.”
[22, tr.60] Phan Huy Dũng nhấn mạnh bản lĩnh văn hóa, những trăn trở v
ề nghề văn và nghệ
thuật của nhà văn: “Khi viết Tản mạn trước đèn, ông muốn đặt lại và tái khẳng định vấn đề
trách nhiệm của nhà văn đối với vận mệnh đất nước, bản lĩnh văn hóa của người viết, sự cô đơn
của nghệ sĩ trên hành trình đi tìm cái đẹp, sự tỉnh táo cần thiết của một nhà văn giữ
a muôn nẻo
đường sáng tạo để làm sao thoát khỏi mê lầm.”[22, tr.57]
Thạch Linh nhận thấy vốn sống văn hóa thâm sâu và lối viết tùy bút nhẹ nhàng, sâu lắng
của Đỗ Chu : “Đỗ Chu giấu cả trong mình một kho văn hóa dân gian, bác học, lịch sử, huyền
tích, cái trông thấy và cái nghe thấy, cái sống và cái ngẫm, trộn tất cả vào mình rồi rút ra bằng
những câu văn như kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ông nói ra
được
đọng lại day dứt, ngậm ngùi, có cả những điều khó nói cũng được ông nói ra nhẹ nhàng, sâu
lắng.” [52]
Về phương diện nghệ thuật, Hà Khải Hưng khi nhận xét về tập Thăm thẳm bóng người đã
khẳng định vẻ đẹp ngôn ngữ và phong cách trữ tình đằm thắm trong các trang tùy bút của Đỗ
Chu: “Ngoài việc cài cắm được nhiều thông tin văn hóa, xã hội…, ông còn chú trọng đến
những kho
ảng lặng của cảm xúc và đặc biệt rất chăm chú đến vẻ đẹp và sức bật của câu văn”.
[41] Ông nhận ra tạng cảm xúc “vừa trữ tình lại vừa hóm hỉnh”. “Giọng kể của tác giả sắc mà
vẫn ngọt, có chỗ lem lém, cả cười nhưng cũng lắm chỗ chạnh buồn, chua chát…kết hợp nhuần
nhị chất văn lẫn chất báo.”
[41]
Đỗ Đức đánh giá cao sự “sắc sảo” trong văn phong Đỗ Chu qua tập Thăm thẳm bóng
người. Đó là lối văn thanh thoát, nhẹ nhàng nhưng cũng không kém phần sang trọng : “Một lối
viết mới mẻ, thanh thoát và đầy tự tin, rất vững vàng như thể người luyện võ nay đã đạt tới bậc
vô chiêu”. Và Thăm thẳm bóng người là một tác phẩm thăm thẳm tình người. S
ắc sảo đến độ,
đằm thắm đến độ, giản dị thế và sang trọng thế.” [24, tr.9]
Nguyễn Hòa trong bài nghiên cứu Văn chương – hy vọng về những điều tốt đẹp đã ca
ngợi văn phong Đỗ Chu như sau : “Văn Đỗ Chu viết kỹ, đẹp cả về giọng điệu lẫn những suy
tưởng nhân tình.” [36] Lối viết văn mượ
t mà, nhịp điệu câu văn khoan thai được Nguyễn Hòa
ca ngợi: “Đoạn văn nào cũng đầy ắp chi tiết, phập phồng hơi thở đời sống, chốc chốc tác giả
lại chêm vào đó cái nhìn sắc sảo, những câu đúc kết dẫu chưa phải hoàn toàn là chân lý thì
cũng rất khoáng đạt, độc đáo…Đặc biệt là, dẫu chủ đề có lan man, song tiết tấu câu văn vẫn
luôn rộn ràng, cuốn hút người đọc.” [41] Bên cạnh đó, Nguyễn Hòa cũng chỉ ra nét hạn chế
trong lối văn miên man dàn trải dễ gây nhàm chán cho người đọc : “Tùy bút Đỗ Chu “thường
được mở đầu một cách “chậ
t vật” với những luận đề dài dòng, khô khan, dễ làm người ta ngại
đọc.” [36]
Nhìn chung, truyện ngắn và cả tùy bút Đỗ Chu đều có những điểm mạnh, điểm yếu riêng.
Người đọc khen cũng nhiều và chê cũng không ít. Song cái chê cũng nhẹ nhàng vì theo họ đó
thuộc về “tạng” nhà văn, là đặc trưng riêng trong phong cách. Tuy nhiên tựu trung lại vẫn thấy
thống nhất ở một điểm: dù là truyệ
n hay tùy bút thì đều thể hiện một văn phong trữ tình, đằm
thắm, câu văn đẹp và chuẩn mực. Tuy nhiên, những bài viết, bài nghiên cứu vừa trình bày trên
một số mang tính nhận định khái quát, hoặc riêng lẻ một tập truyện hay một tập tùy bút nào đó,
hay công phu hơn là đã đi vào nghiên cứu mảng truyện ngắn như Lê Hương Thủy, Thanh Tú và
Phan Cự Đệ. Thật sự vẫn chưa thấy những công trình nghiên cứu đi vào kh
ảo sát các đặc trưng
văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu trong một thể thống nhất. Người viết lựa chọn đề tài Đặc trưng văn
xuôi nghệ thuật Đỗ Chu nhằm tìm ra đặc điểm nội dung, nghệ thuật và dấu ấn riêng của một cây
bút văn xuôi cũng ít nhiều có đóng góp vào nền văn học nước nhà qua gần nửa thập kỷ qua.
IV. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬ
N VĂN
Luận văn tập trung tìm hiểu truyện ngắn và tùy bút của Đỗ Chu với mong muốn góp phần
khẳng định giá trị đặc sắc của mỗi thể loại đồng thời góp phần đi tìm đặc trưng nghệ thuật của
Đỗ Chu trong dòng chảy của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong phạm vi đề tài này, người viết sử dụng phương pháp hệ th
ống – cấu trúc, phương
pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh.
Trước hết chúng tôi tổng hợp các công trình hoặc các bài nghiên cứu có liên quan đến
vấn đề đặc trưng văn xuôi nghệ thuật của Đỗ Chu. Sau đó thu thập những bài phê bình, nghiên
cứu trên các sách, báo có đề cập đến cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Đỗ Chu, đặc biệt lưu ý
đến những bài viết đánh giá các phương diện nội dung và nghệ thuật truyện ngắ
n của nhà
văn.Trên cơ sở đó người viết đi vào khảo sát, nghiên cứu và giải quyết các vấn đề đã đặt ra theo
quan điểm của mình một cách khách quan, nghiêm túc.
Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng nhằm cụ thể hoá, sau đó khái quát hóa
các nội dung của vấn đề đã nêu. Người viết sử dụng các cơ sở lý luận về phong cách nghệ thuật,
đặc điểm truyện ngắ
n và tùy bút nói chung làm nền tảng vững chắc cho việc phân tích các tác
phẩm cụ thể.
Phương pháp so sánh được vận dụng để đối chiếu đặc trưng văn xuôi Đỗ Chu với đặc
trưng của những nhà văn khác cùng thời hoặc ở các giai đoạn văn học trước trong nước và cả
thế giới. Phương pháp này giúp người viết có cái nhìn toàn diện về mặt tích cực và hạn chế, đổi
mớ
i hoặc chưa đổi mới của tác phẩm Đỗ Chu so với các tác phẩm khác.
Phương pháp hệ thống quy định nghiên cứu các phương diện của đặc trưng văn xuôi Đỗ
Chu như là một chỉnh thể nghệ thuật, có sự tương tác, có mối quan hệ logíc.
VI. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn bao gồm 3 chương :
Chương 1
: Sự nghiệp sáng tác và quan niệm về văn học của Đỗ Chu
Chương 2:
Đặc trưng truyện ngắn Đỗ Chu
Chương 3
: Đặc trưng tùy bút Đỗ Chu
Chương 1:
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VÀ QUAN NIỆM VỀ VĂN HỌC CỦA ĐỖ CHU
1.1 Đôi nét về con người và sự nghiệp sáng tác của Đỗ Chu
Phong cách nhà văn được hình thành, vận động và phát triển một phần do thế giới quan,
môi trường sống, bối cảnh lịch sử xã hội. Phong cách được hình thành trên cơ sở tài năng và
cũng do quá trình nỗ lực không ngừng của nhà văn trong lao động nghệ thuật. Tìm hiểu về
con
người và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Đỗ Chu là điều cần thiết góp phần khẳng định đặc
trưng văn xuôi nghệ thuật và phong cách của ông.
1.1.1 Con người
Nhà văn Đỗ Chu tên thật là Chu Bá Bình, sinh ngày 05 tháng 02 năm 1944 tại phủ Lạng
Thương, tỉnh Bắc Giang. Ông đến với truyện ngắn từ khi còn là học sinh trường phổ thông
trung học Hàn Thuyên (Bắc Ninh). Đỗ Chu là người không hợp trường quy, từng trượt t
ốt
nghiệp phổ thông. Năm 1962, ông gây xôn xao dư luận với các truyện ngắn đầu tay. Những
năm 60 của thế kỷ XX, Đỗ Chu là lính cao xạ thuộc quân chủng phòng không – không quân.
Năm 1965, Đỗ Chu học khóa II, Trường Bồi dưỡng viết văn của Hội nhà văn Việt Nam. Ông
được kết nạp vào Hội nhà văn năm 1971. Từ năm 1975, ông chuyển ngành, công tác tại Hội
Nhà văn Việt Nam.
Văn Chinh nhận xét Đỗ Chu là ngườ
i có “cái dáng lênh khênh mà tự tin, lắm lời mà
không nhảm”. [7] Phạm Thị Minh Thư thì nhận xét Đỗ Chu rằng : “Kiêu hãnh, biết mình,
nhưng lại cũng rất …biết người.”[84, tr.92]
Đỗ Chu là người phóng túng, cũng thuộc típ người chịu giao du, “lênh phênh”, ít chịu
trói buộc bởi những quy ước thuần túy nhưng lại bị cột chặt bởi những đạo lý làm người. Khi
giảng bài cho học trò ở trường viết văn Nguy
ễn Du, ông đã mạnh miệng tuyên bố : “Nhưng bí
quyết là cái gì nhỉ? Không có bí quyết viết truyện ngắn hay. Nếu có người ta đã dùng cho người
ta rồi.” Sau đó thầy trò kéo nhau về ký túc xá nhâm nhi rượu và tán gẫu chuyện đời. [7]
Trong con mắt đồng nghiệp, Đỗ Chu thông minh đến mức văn hóa như tự thấm vào
người. Những năm tháng làm lính pháo cao xạ và cả những chuyến đi thực tế khắp các nẻo
đườ
ng đất nước đã giúp cho một con người “ưa hoạt náo” như Đỗ Chu tích tụ được vốn sống
và vốn tri thức phong phú. [41] Đỗ Chu đã từng “lội vào những cánh đồng và những cánh
rừng, sống với nhân dân, cùng mọi người lo toan bàn bạc. Anh về thăm đình, thăm chùa, đọc
văn bia, câu đối, trò chuyện với các cụ già và trẻ thơ. Lên rừng xuống biển, vào Nam ra Bắc,
chán thì ra nước ngoài.” [48]
Đi nhiều, biết nhiều và viết cũng không ít, cho nên bạn bè đồng nghiệp cho rằng Đỗ Chu
là một con người “bận rộ
n”, bận rộn trong sự nhàn tản. Vốn dĩ con người ham la cà như ông lại
chịu đọc, chịu ngẫm ngợi. Vì vậy có lần Nguyễn Khải, bậc đàn anh Đỗ Chu phải tặc lưỡi cười
xòa mà khen rằng : “Cứ ngồi một chỗ, sao cái gì cũng biết thế.” [84, tr.92] Cái vốn sống, vốn
hiểu biết mà ông thu nạp trong xô bồ của cuộc sống được ông chuyển hết vào trong sáng tác của
mình, đặc biệt là những trang tùy bút viết trong thời kỳ đất nước đổi mới và hội nhập. Độc giả
sẽ bắt gặp những nguồn tri thức cổ, kim, đông, tây kết hợp một cách nhuần nhị trong hai tập
Tản mạn trước đèn và Thăm thẳm bóng người.
Đỗ Chu là người có tài biện thuyết. Ông nói nhiều, đủ thứ chuyện trên đời nhưng nói rất
hay, đâu ra
đấy, không ai có thể bắt bẻ được. Hơn nữa ông là người có trí tưởng tượng phong
phú, nói gì cũng hớp hồn người khác. Đỗ Chu cũng là người lắm tài, ngoài viết văn, ông còn
biết vẽ tranh và khá “sành” thơ. Tuy không sáng tác thơ nhưng ông có năng lực tinh tế khi cảm
nhận thi ca. Chất thơ và họa này đã tự nhiên thấm vào các trang viết của ông, tạo nên một phẩm
chất đặc biệt. Điều này lý giải tạ
i sao những trang văn của ông thấm đẫm tính nhạc và họa.
Đỗ Chu là người khiêm nhường, thích sống tĩnh lặng để ngẫm ngợi và sáng tạo. Trước
những khen chê của người đời, ông chỉ giữ thái độ im lặng. Ông từng phát biểu rằng : “Lặng lẽ
âm thầm, cô đơn được thì càng tốt. Và đôi khi mình phải chấp nhận để người ta quên mình đi.
Nhà văn không phải diễn viên.” [48] Ông tuyên bố rằng mình không thích s
ự ầm ĩ. “Nhiều anh
thích ầm ĩ quá, trong khi sự tự vượt mình chỉ có thể làm được trong im lặng sống và sáng tạo.”
[Nguyễn Thanh Kim, Nguyễn Thanh Kim, Nhà văn Đỗ Chu – Không thích sự ầm ĩ, Báo tiền
phong] Và ông cũng khá thẳng thắn khi đánh giá về tác phẩm của mình “Viết nhiều, tất nhiên
không phải cái nào cũng hay, nhiều cái đúng là rất nhạt nhẽo, lại còn nhuốm màu cải lương
nữa.” Song ông cũng tự
an ủi chính mình : “Nhưng cũng có đôi cái đọc được, thôi thế là đã
mừng lắm.” [75, tr.158] Những năm 60 của thế kỷ XX, Đỗ Chu đã tạo nên tên tuổi trên văn
đàn. Nhưng giới văn nghệ tin rằng thời Đỗ Chu đã hết khi nền văn học mà ông đóng góp những
năm 60 đi vào đổi mới những năm 80. Có lẽ Đỗ Chu đã lặng lờ trong những năm b
ản lề của hai
thập kỷ vừa qua. Thật may là ông đã trườn qua sự nổi tiếng cũ mà không đánh mất mình. Ông
vẫn kiên trì với phong cách văn chương thiên về duy cảm và duy mỹ. Vẫn một văn phong trữ
tình, đằm thắm với nhịp điệu khoan hòa, trầm tĩnh, hướng về đời sống xã hội, con người, đặc
biệt là những người lính.
Đỗ Chu từng tâm sự : “Có lẽ trong 40 năm cầm bút thì chỉ có
độ 4 tháng hay 4 năm là
nhà văn thôi.” [92] Là người khó tính lại cầu toàn, ông tự nhận : “Trong một tác phẩm có khi
đoạn trước là nhà văn nhưng lúc sau lại không còn là nhà văn nữa.”[92]
Các sáng tác của Đỗ Chu, đặc biệt là tùy bút Tản mạn trước đèn hay Thăm thẳm bóng
người đều thể hiện rất rõ những yêu ghét rạch ròi của ông. Dù là truyện ngắn hay là tùy bút,
người ta đều thấy một Đỗ Chu c
ẩn trọng và có trách nhiệm với những gì mình viết ra. Dù là một
câu chuyện tếu nhưng câu chuyện ấy sử dụng vào mục đích gì và đọc xong khiến người ta nghĩ
gì cũng là điều khiến Đỗ Chu phải cân nhắc. Từ khi 16 – 17 tuổi cắp bút theo hầu các cụ
Nguyễn Tuân, Tô Hoài, ông đã được dạy là phải viết cho ra viết, trên những câu chuyện rất bình
dị trong cuộc sống chiến đấu cũng là bài họ
c được ông rút ra cho mình hằng ngày. “Khi tuổi
còn trẻ chẳng nói làm gì, nhưng khi về già có định làm cái gì cũng phải kín đáo, trù tính trước
sau. Một khi hơi thở đã nhẹ như rùa thở, không còn gấp gáp mạnh mẽ được nữa thì đứng trước
mọi việc định là nhớ là phải hết sức thong thả, hết sức gượng nhẹ.” [92]
Mạch nguồn để Đỗ Chu sáng tác chính là tình yêu tha thiết mảnh đất quê hương và ng
ười
mẹ của tác giả, như ông từng tâm sự : “Tổ quốc của tôi, những thiếu nữ mắt đen, tóc đen biển
xanh, trời xanh, đất nâu và gió mùa. Nhưng yêu quý hơn cả là mái tóc điểm sương của các bà,
các chị. Tôi nhìn vào những mái tóc ấy để sống, để nghĩ ngợi, để viết và để vẽ. Người tôi biết ơn
hơn hết là mẹ. Nơi gần gũi tôi nhất là Hà N
ội. Tiếng tôi hiểu nhất là Tiếng Việt. Cám ơn cha mẹ
đã cho tôi sinh ra để làm một nhà văn của xứ sở này.” [75, tr.158] Chính mạch nguồn này đã
chi phối đến các sáng tác của Đỗ Chu. Nó khiến những trang viết của ông đậm tình quê, tình
người.
1.1.2 Sự nghiệp sáng tác
Đỗ Chu bắt đầu sáng tác từ những năm sáu mươi. Đây là giai đoạn đất nước chuyển từ
hòa bình sang chiến tranh chống Mỹ c
ứu nước. Văn xuôi tập trung phản ánh công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc, và cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ đang ngày một leo
thang ở Miền Nam. Nhìn chung văn xuôi giai đoạn này bám sát từng biến cố lịch sử, từng bước
phát triển của phong trào cách mạng. Đề tài các văn sĩ tập trung phản ánh là công – nông – binh.
Quan niệm lý tưởng hóa về hiện thực khiến các tác phẩm những năm 1960 đến 1975 nhuốm
màu sắc lý tưởng. Đó là một thứ hiện thực được vận động theo khuôn mẫu, tất yếu, hợp lý và
lạc quan.
Những năm 1960 – 1963, hàng loạt cây bút truyện ngắn ra đời, mỗi người một vẻ. Vũ Tú
Nam muốn tìm vào mạch truyệ
n dân gian thơm thảo, giản dị, trong khi Nguyễn Quang Sáng
không ngại những chuyện kịch tính, gay cấn. Nguyễn Khải là một ngòi bút cũ nhưng vẫn lạ và
đầy sức hấp dẫn. Một Nguyên Ngọc trong sáng và cổ điển trong Rẻo cao, một Nguyễn Ngọc
Tấn ấm áp, trữ tình với Trăng sáng, Đôi bạn. Làm cho ta biết rung động với những điều tinh tế,
đó là Hải Hồ, Bùi
Đức Ái, Huy Phương và Nguyễn Thành Long. Vũ Thị Thường là tiếng nói
của một phụ nữa nông thôn mới, chưa từng nghe trong văn học giai đoạn trước. Đây là khoảng
thời gian văn học khoe sắc, có nhiều cây viết rất sung sức mang lại một khối lượng tác phẩm
dồi dào và đặc sắc.
Từ 1964 trở đi, tiếng súng chống Mỹ vang lên, những biến chuyển thời cuộc khiế
n văn
xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng đổi khác. Thực tế chiến tranh thật có sức tác động mạnh
mẽ đến tầng lớp văn nghệ sĩ. Ngòi bút của họ hướng vào khai thác hiện thực khốc liệt của cuộc
chiến. Bên cạnh nguồn mạch đó, còn có những truyện ngắn mang những nét vẽ thơ mộng, mềm
mại làm cho bức tranh chung thêm màu sắc. Mùa cá bột, Phù sa, Ráng đỏ của Đỗ Chu viế
t
trong giai đoạn 1963 – 1970 làm nên một mạch truyện trữ tình. Nó như một thứ hồi quang của
truyện ngắn những năm 1964 trở về trước còn sót lại. Các sáng tác ấy gợi lên cái bỡ ngỡ của
những ngày đầu chiến tranh. Cái khốc liệt vẫn chưa hiện lên đủ hình dạng nên các nhà văn “lý
tưởng hóa” hiện thực. Ấp ủ trong lòng bao vẻ đẹp, mơ ước và những khoảng trời riêng. Đó c
ũng
là trường hợp của nhà văn Nguyễn Minh Châu với tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng.
Có thể nhận thấy trước năm 1975, Đỗ Chu thành danh với thể loại truyện ngắn. Tác phẩm
đầu tay có tên là Ao Làng, được in vào số 12 năm 1962 trên báo Văn nghệ quân đội. Trong lá
thư ngắn gọn gửi theo đường bưu điện, nhà văn Nguyễn Minh Châu khen : “Ao làng hay, anh
hãy viết tiếp gửi cho chúng tôi lấy vài cái, càng sớm càng t
ốt.” [20, tr.5-tr6] Sau đó Đỗ Chu đã
viết truyện ngắn Hương cỏ mật trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Mùa đông năm 1962, một
đêm rét, ngoài đường gió lùa lá cây dào dạt, trong nhà đàn muỗi vo ve, trên căn gác xép ọp ẹp ở
một dãy phố nghèo và buồn của thị xã Bắc Ninh thưở ấy, Đỗ Chu đã ngồi thu lu bên một chiếc
kỹ cổ xưa để viết tác phẩm này gửi về Tạp chí Văn nghệ quân đội. Năm đó ông 18 tuổi, đang
còn là một cậu học trò lớp 10 hệ phổ thông mười năm, trường ấp III Hàn Thuyên. Thi cử đến
nơi rồi mà học hành thì còn quá chểnh mảng, ở trườ
ng về là leo tót lên ngồi ôm lấy cái kỹ gỗ
vàng tâm, ngồi đấy mà đọc sách, tập dịch “Dã thảo” của Lỗ Tấn và rồi bỗng một hôm nổi hứng
cầm bút viết văn. Hương cỏ mật được giới thiệu trên số tháng 3 năm 1963 báo Văn nghệ quân
đội và được xếp vào những truyện dự thi. Đến lúc ấy Đỗ Chu mới biết là đang có một cuộc thi
truyện ngắn. Cuối năm, Đỗ Chu được mời về nhận giải thưởng Truyện ngắn hay của tạp chí .
Lúc này Đỗ Chu đã nhập ngũ được vài tháng, là binh nhì Bộ đội phòng không. Cũng trong năm
đó, trên báo Văn nghệ quân đội, sau Hương cỏ mật, Đỗ Chu đã kịp có thêm hai sản phẩm nữa,
đúng như lá thư nhà thơ Nguyễn Minh Châu hẹn hôm nào. Một truyện là Thung lũng cò
, là quà
tháng 6 dành cho các em nhỏ quê nhà. Một truyện là viết để tạ ơn những người đã ngã xuống vì
nền tự do dân tộc, vì hạnh phúc thường ngày của những ai đang còn sống. Truyện có cái tên khá
thơ mộng Mùa cá bột. [20, tr.6-tr7]
Sau tập Hương cỏ mật in chung cùng hai tác giả Trúc Hà và Văn Ngữ, đến năm 1967, Đỗ
Chu đã cho ra đời tập Phù sa. Vài năm sau khi tập sách ra đời, những truyện ngắn in trong này
đã lầ
n lượt được dịch qua nhiều tiếng nước ngoài và được độc giả háo hức đón đọc. Bởi lẽ
những truyện ngắn của Đỗ Chu đã phản ánh được tâm tư, tình cảm của thế hệ trẻ lúc bấy giờ.
Họ mong đợi và trân trọng tài năng của ông vì đã mang đến một tiếng nói tươi tắn, mới lạ, phản
ánh những ước ao, khát vọng của lớ
p lớp thanh niên trẻ trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Sau những thành công của bước đường khởi nghiệp với tập Phù sa, Đỗ Chu đã có một
khoảng lặng khá dài. Ông chưa có sự đột phá khỏi bức tường thành cũ. Độc giả bắt đầu thấy
nuối tiếc cho một Đỗ Chu thời Hương cỏ mật, Mùa cá bột, Thung lũng cò, Ráng đỏ… Nhiều
người cho rằ
ng sau cái huy hoàng của thời kỳ ấy do cái tâm thế uể oải thời cuộc mà phôi thai
nên hàng loạt tác phẩm “trung bình” sau đó. (chữ dùng của Phạm Thị Minh Thư) [84, tr.94]
Tập truyện ngắn Trung du (1967) viết trong thời gian này không gây chú ý cho người đọc.
Những dấu hiệu đổi mới chỉ bắt đầu nhóm lên ở tập Tháng Hai (1969) và Gió qua thung lũng
(1971).
Năm 1973, Đỗ Chu tiếp tục ra mắt độc giả bằ
ng cuốn tiểu thuyết dày 237 trang với tên
gọi Đám cháy trước mặt. Cú thử sức với thể loại tiểu thuyết này là một sự thất bại của Đỗ Chu.
Tiểu thuyết của ông không gây tiếng vang. Nó nhanh chóng chìm vào quên lãng khi đặt bên
cạnh các tiểu thuyết mang tính thời sự nóng hổi của Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Thi, Nguyễn Quang Sáng, Nguyên Ngọc… Văn Chinh đánh giá :“Đỗ Chu nổi tiếng khoảng hai
mươi năm kể từ khi ông xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1962 trên báo Văn nghệ quân đội,
nhưng thực sự xao xuyến văn đàn thì được khoảng 10 năm, từ 1965 – 1975” [7]
Sau n
ăm 1975, Đỗ Chu lại giấu mình trong im lặng. Chỉ sau đó mười năm, hòa với không
khí hòa bình và đổi mới của đất nước cũng như văn học, ông cho ra đời tập tùy bút Những chân
trời của các anh (1986). Tuyển tập này tập hợp các bài viết từ những năm đất nước mới giải
phóng cho đến khi cả nước bắt tay xây dựng cuộc sống mới. Nó như một bản anh hùng ca, ca
ngợ
i những người lính đã làm nên lịch sử. Tập tùy bút còn là hình ảnh cuộc sống đang đổi thay
từng ngày như những mầm non đang đâm chồi, nảy lộc khi xuân về.
Truyện ngắn là thể loại tạo nên tên tuổi và chỗ đứng của ông trên văn đàn những năm
chống Mỹ cứu nước và khi hòa bình lập lại. Nhưng giai đoạn sáng tác thể hiện sự bứt phá, làm
mới c
ủa nhà văn chỉ bắt đầu từ Mảnh vườn xưa hoang vắng (1989). Tập truyện ngắn này được
bạn đọc và giới nghiên cứu phê bình đánh giá cao ở cái khả năng đi sâu phản ánh hiện thực
ngay trong chính bản chất của nó. Điều mà những sáng tác trước năm 1975 của Đỗ Chu còn
khuyết. Chính tuyển tập này đã khẳng định dấu ấn phong cách của một cây bút truyện ngắn
đặc
sắc trong nền Văn xuôi Việt Nam hiện đại. Phải chăng khi người ta đã quên một Đỗ Chu tài hoa
rực sáng thì lộ trình sáng tác của ông mới bắt đầu. Và nó là giai đoạn chính yếu khẳng định bản
lĩnh, phong cách của ông. Chính sự nỗ lực đổi mới này mà Mảnh vườn xưa hoang vắng cùng
với Hương cỏ mật và Phù sa được chọn trao giải thưởng Nhà nước về
Văn học – nghệ thuật
năm 2001.
Tiếp nối nguồn mạch hiện thực và triết lý về đời sống, Đỗ Chu tiếp tục trình làng tập
truyện ngắn Một loài chim trên sóng năm 2002. Tuyển tập này được đánh giá ở sự chín muồi và
sắc sảo trong tài năng của Đỗ Chu. “Với Một loài chim trên sóng, Đỗ Chu đã đi từ tài hoa của
thời Hương cỏ mật
đến tài năng của thời văn học đa giọng điệu.” [7] Do đó năm 2004 nhà văn
đã vinh dự được nhận Giải thưởng Văn học Asian.
Như một sự hối thúc tự nhiên, Đỗ Chu tìm đến thể tài tùy bút. Tản mạn trước đèn trình
làng vào năm 2005 và được các độc giả quan tâm đón nhận. Bước trở lại với thể tài tùy bút này
đã khiến Đỗ Chu vinh d
ự nhận giải thưởng của Hội nhà văn vào năm 2005. Vào tháng 1 năm
2008 này, với tinh thần “thừa thắng xông lên”, ông tiếp tục cho ra mắt bạn đọc tập tùy bút Thăm
thẳm bóng người có độ dày trên 300 trang. Nó khiến độc giả bị cuốn vào sự miên man, thăm
thẳm của cõi lòng tác giả.
Trên bốn mươi lăm năm cầm bút với 7 tập truyện ngắn, 1 tiểu thuyết, 3 tập tùy bút, không
thể nói là ít mà cũng không nhiều đối với một văn nghiệp. Tuy nhiên với tài năng và cả s
ự nỗ
lực vươn lên của mình, Đỗ Chu đã khẳng định vị thế của ông trong nền văn xuôi hiện đại Việt
Nam. Giới nghiên cứu và độc giả công nhận nhà văn thuộc dạng viết ít nhưng văn chương thuộc
loại “tinh”. Đến như Tô Hoài, một trưởng lão trong làng văn, vốn rất kiệm lời khen đã phải hạ
bút viết : “Lớp sau hòa bình, Đỗ Chu, Triệu Bôn, Lê Lựu, Lê Minh Khuê hay, có không khí.”
[58, tr.10]
1.2 Truyện ngắn và tùy bút của Đỗ Chu
1.2.1 Truyện ngắn
Trước 1975, Đỗ Chu cho ra đời hàng loạt tuyển tập truyện ngắn như Hương cỏ mật
(1963), Phù sa (1966), Trung du (1967), Vòm trời quen thuộc (1969), Gió qua thung lũng
(1971). Ở những tuyển tập đầu tay như Hương cỏ mật và Phù sa, Đỗ Chu viết về những vùng
quê thanh bình và yên ả với nếp số
ng nền nã của người dân quê chân chất. Bên cạnh đó, ông
còn cho thấy “sở trường” của một cây bút viết rất hay, rất chân thật, tự nhiên những tình cảm
ấm áp, nghĩa tình của con người. Dường như Đỗ Chu hóa thân vào hầu hết các nhân vật để thể
hiện một cái tôi đầy xúc cảm, yêu đời và nhạy cảm trước cuộc sống. Chính sự nhạy cảm trong
tâm hồn người nghệ sĩ – người lính mớ
i lớn khiến những trang văn của ông lấp lánh vẻ đẹp của
thiên nhiên, con người và cuộc sống. Bên cạnh những cây bút văn xuôi phản ánh công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa và các mối quan hệ gia đình, xã hội mới thì những trang văn của Đỗ Chu
như một dòng suối mát lành. Cái trong trẻo, ngọt lịm của dòng suối ấy khiến người đọc cảm
thấy say mê, thích thú. Ông viết về thế giới tr
ẻ thơ hồn nhiên, đầy ắp kỷ niệm (Thung lũng cò,
Hương cỏ mật), những tình cảm yêu thương, gắn bó giữa người và người hồn hậu, ăm ắp đầy
như phù sa mỗi ngày một bồi đắp thêm cho sông bãi (Mùa cá bột, Phù sa, Chiến sĩ quân bưu)…
Những tuyển tập sau như Trung du, Vòm trời quen thuộc, Gió qua thung lũng viết về
những ngày chiến tranh chống đế quố
c Mỹ. Nhưng khác với các cây bút văn xuôi đương thời
tìm vào tuyến lửa phản ánh những khốc liệt của chiến tranh và sự sống – cái chết gần kề bên
người lính. Đỗ Chu lại rẽ sang một nhánh sông nhẹ nhàng và êm ả hơn. Nhà văn viết về tâm
hồn nghệ sĩ bay bổng, lãng mạn, tinh tế, nhạy cảm nhưng cũng đầy nhiệt huyết và tinh thần
chống giặc ngoại xâm. Đỗ Chu ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, những nghĩ suy, trăn trở và thế giới tình
cảm phong phú và nhạy cảm của họ. (Chiến sĩ quân bưu, Đường qua nhà, Ráng
đỏ) Đặc biệt
nhà văn hướng ngòi bút vào khai thác những tình yêu thơ mộng và lãng mạn của những người
lính trong chiến tranh. (Chuyện mùa hạ, Tiếng vang của rừng) Phảng phất nét e ấp, nhẹ nhàng,
trong sáng như phong vị của tình yêu trong các sáng tác của Thạch Lam. (Dưới bóng hoàng
lan) Bên cạnh đó Đỗ Chu cũng có những trang văn miêu tả tình yêu đẹp và buồn có sức lay
động lòng người hướng về những mất mát hy sinh do chiến tranh tàn khốc gây ra. (Ráng
đỏ,
Nhành quế)
Không trực tiếp phản ánh hiện thực tàn khốc của chiến tranh, Đỗ Chu hướng ngòi bút vào
việc ca ngợi những con người hậu phương giàu niềm tin và nghị lực. Họ đã cống hiến hết mình
để chung tay xây dựng cuộc sống mới, góp phần chi viện cho tiền tuyến. Một số truyện ngắn
viết về những chàng trai cô gái không ngại khó, ngại khổ đi khai mỏ, tìm quặng, hay bắ
t tay vào
khôi phục những làng nghề truyền thống. (Người và Quặng, Khoảng xanh, Chuyện mùa hạ,
Trong tầm súng, Gió qua thung lũng)
Nhìn chung, giai đoạn trước 1975, thứ văn xuôi giàu chất thơ của Đỗ Chu chảy tràn trên
từng câu chữ đã mang lại cho lòng người một thứ tình cảm ấm áp, tin yêu. Ta thấy trong hơi
văn ông phảng phất nét cổ điển và lãng mạn của Môpatxăng, sự tinh tế tìm vào nội tâm và cảm
giác c
ủa Thạch Lam, chút bâng khuâng, xa vắng của Thanh Tịnh, và nét u hoài, sầu cảm của Hồ
Dzếnh, Xuân Diệu…Có thể thấy thứ văn xuôi giàu chất thơ của Đỗ Chu có cội nguồn tiếp nối
từ những thế hệ nhà văn đi trước, cộng vào với tâm hồn nghệ sĩ đa sầu đa cảm của mình tạo nên
một mạch nguồn riêng.
Sau 1975, truyện ngắn Đỗ Chu có sự thay đổ
i lớn trong cảm hứng sáng tác, bút pháp và
giọng điệu. Những truyện ngắn giai đoạn chuyển mình này cũng đã manh nha một sự đổi thay.
Ngọn lửa, Mận trắng, Tháng hai, Mưa tạnh, Đất bãi sáng tác trong khoảng thời gian 1975 –
1985 cũng đề cập về người lính. Nhưng những người lính trở về từ trận chiến không còn nhìn
cuộc sống với màu hồng lý tưởng. Họ chạm tay vào hiện thự
c và phát hiện ra những sự thật trần
trụi, đau lòng. Trong các truyện ngắn này đã xuất hiện kiểu con người trăn trở, kiếm tìm, hoài
nghi vào cuộc sống.
Thật sự đổi mới cách nhìn hiện thực phải kể đến tập Mảnh vườn xưa hoang vắng. Đỗ Chu
nhìn nhận ra bi kịch của những người lính bị đỗ vỡ niềm tin. Bức tranh tâm trạng của con người
với các góc khuất của số phận được Đỗ Chu phản ánh rõ nét. Chất lãng mạn cách mạng ngày
nào đã nhường chỗ cho đôi mắt nghiêm nghị, nhìn vào sự thật và nói thẳ
ng sự thật. Đây là bước
chuyển mình, tạo động lực cho tập truyện ngắn Một loài chim trên sóng ra đời. Tuyển tập này
phản ánh cái muôn mặt của thời buổi cơ chế thị trường. Hầu hết là hình ảnh những người lính
trở về. Đỗ Chu đặt họ vào bối cảnh lịch sử hoàn toàn mới để thấy rõ sự tác động dữ dội của
hoàn cảnh lên tính cách và làm thay
đổi số phận con người. Cũng như những cây bút truyện
ngắn cùng thời khác, Đỗ Chu nỗ lực đi sâu khai thác bản ngã, chiều sâu nhân bản ở mỗi con
người. Chính điều này khiến các truyện ngắn giai đoạn sau 1975 của Đỗ Chu không bị chìm lấp
đi giữa muôn vàn những cây bút mới, lạ và độc đáo khác.
1.2.2 Tùy bút
Bước vào thời kỳ đổi mới, tùy bút cũng phát triển cả về bề
rộng lẫn bề sâu. Có thể nói tùy
bút Việt Nam hiện đại đã tiến triển theo hướng ghi nhận thực tại cuộc sống ngày càng tinh tế,
sắc sảo, giàu tính nhân văn và đậm đà bản sắc dân tộc. Nổi bật lên tên tuổi của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Băng Sơn với các vấn đề về lịch sử, văn hóa, các vấn đề đạo đức, thế sự…Vấn đề
“nhà
văn, nghề văn, nghiệp văn” được phản ánh trong tùy bút của các giàu cốt cách và bản lĩnh văn
hóa như Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Văn Cao, Nguyễn Minh Châu…
Đỗ Chu sáng tác tùy bút chỉ trong giai đoạn sau 1975. Tác phẩm đầu tay Những chân trời
của các anh tập hợp 14 tác phẩm viết vào thời kháng chiến chống Mỹ và khoảng 10 năm sau
ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Các đề tài về chiến tranh, cách mạng, lịch s
ử
và dân tộc vẫn là mạch cảm hứng chính trong sáng tác của nhà văn. Tập tùy bút dành nhiều trăn
trở, yêu thương và khâm phục những người chiến sĩ trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Họ là những người con của đất nước, dũng cảm trong chiến đấu, không ngại hiểm nguy, hy
sinh. Tập tùy bút còn là hình ảnh cuộc sống đang đổi thay từng ngày với những con người nhiệt
huyết, hăng say lao
động, sản xuất. Cảm hứng sử thi thấm đượm trong từng trang viết. Do đó
tùy bút Đỗ Chu giai đoạn này “đã cất lên một tiếng nói tươi tắn, mới lạ để kể lại những ước ao,
khát vọng, cách sống của thế hệ mình.” [40]
Sau tập tùy bút đầu tay này, ngót hai mươi năm sau, Đỗ Chu mới “trình làng” tập tùy bút
Tản mạn trước đèn, gồm 15 sáng tác đầy suy tư và chiêm nghiệm. Cũ
ng như tập tùy bút Những
chân trời của anh, Tản mạn trước đèn là tâm thế của con người đã trải qua những biến động đổi
thay của đất nước và bây giờ “chong đèn” ngẫm lại chuyện xưa, chuyện nay với những triết lý
lớn về nhân tình thế sự. Bên cạnh những xúc cảm và nghĩ suy về các sự kiện trọng đại của đất
nước, các vấn đề nổi cộm và c
ập nhật của xã hội hiện đại, tập tùy bút dành nhiều tậm huyết để
viết về đất, về người, về văn chương nghệ thuật, về phẩm cách và tài năng của người nghệ sĩ.
Cảm hứng thế sự là mạch nguồn chính tuôn chảy trên trang văn của ông. Sự xuất hiện trở lại với
tập tùy bút dày công lực này cho thấy trách nhiệm của một ng
ười con với đất nước và chân
dung một nghệ sĩ tâm huyết luôn trăn trở có được những trang viết hay dành tặng bạn đọc. Tuy
nhiên, tập tùy bút này ít nhiều mang tính chính luận với những vấn đề mang tầm quốc gia đại
sự, hoặc các vấn đề xã hội lớn lao.
Tiếp nối mạch nguồn thế sự, Đỗ Chu cho ra đời tập tùy bút Thăm thẳm bóng người vào
năm 2008. Đây là tác phẩm th
ể hiện độ chín muồi trong tài năng của nhà văn Đỗ Chu. Nhà
nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã đánh giá Thăm thẳm bóng người là “một thành tựu” và cho
rằng đây là “trang sách của người thắp lửa”. Đọc tác phẩm này “có một cảm giác thăng hoa như
vừa được uống rượu quý”. [34]
Vẫn tiếp nối đề tài về đất, về người, về trăn trở của nghề vă
n, nhưng tính triết lý nhẹ
nhàng, gần gụi và thấm sâu hơn. Những bài học về đối nhân xử thế, về giá trị nhân văn cũng
được khơi gợi một cách tự nhiên, thâm trầm và sâu lắng. Như Thạch Linh đã nhận xét : “Lối kể
chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ông nói ra đọng lại day dứt, ngậm ngùi,
có cả những điều rất khó nói cũng được ông nói ra nh
ẹ nhàng, sâu lắng”. [52]
Tập tùy bút chia làm ba phần. Phần đầu mang tên Hoa bờ giậu – một cái tên nghe thật
mộc mạc, khiêm nhường nhưng mang ý nghĩa sâu xa, thấm thía về tình người. Đó là câu chuyện
về những con người “vô danh tánh” nhưng có vẻ đẹp giản dị và sức sống bền bỉ như loài hoa bờ
giậu.
Phần hai của tập tùy bút là Thăm thẳm bóng người, tập hợp những bài viết về
những cuộc
đời, những con người xưa và nay, trong và ngoài nước, những vấn đề quá khứ và hiện tại với
những triết lý và bài học thấm thía, sâu sắc. Nhà văn đau đáu đi tìm những bóng người thăm
thẳm và nhận ra “Con người ta kể cũng lạ, cứ như hạt cải hạt vừng gieo đâu mọc đấy, ở đâu âu
đấy..” [21, tr.146]
Phần ba Về quê đốt lửa là góc đời thường của cuộc sống nơi quê nhà. Đỗ Chu đã từng thốt
lên rằng: “Quê nhà yêu dấu bao giờ cũng là cội nguồn của mọi sáng tạo.” [21, tr.283] Bởi lẽ
nơi ấy có những con người bình thường nhưng vĩ đại trong chiến tranh dựng nước và giữ nước.
Nơi ấy còn là ký ức tuổi thơ không thể phai mờ. Đỗ Chu gử
i gắm vào đấy những tình cảm chân
thành và da diết đối với vùng quê Kinh Bắc sâu đậm nghĩa tình và giàu lòng nhân ái. Trong tâm
thức nhà văn, Kinh Bắc không đơn thuần là quê hương, nó đã được nâng lên thành một tầm cao
mới : Làng Việt: “Ôi cái làng Việt mới lạ lùng làm sao…Cái làng Việt luôn là một câu hỏi lớn
của lịch sử”. [21, tr.333]
Xuyên suốt qua ba tập tùy bút của Đỗ Chu, ta bắt gặp một ngòi bút đằm thắm và sâu sắc.
Ông không có chất ngông như tùy bút Nguyễn Tuân, cũng không g
ợi buồn u uẩn như tùy bút
Vũ Bằng, không tài hoa, lịch thiệp như tùy bút Hoàng Phủ Ngọc Tường….Tùy bút của Đỗ Chu
dung dị, đôn hậu và trữ tình, xuất phát từ cái tâm trong sáng và trách nhiệm của người cầm bút.
Ông muốn mang hết cái tình và chuyện đời mình, đời người gửi gắm vào trang sách chỉ cốt để
“mua vui cũng được một vài trống canh”.
1.3 Quan niệm về nghệ thuật của Đỗ Chu
1.3.1 Quan niệm v
ề sứ mệnh của nhà văn và nghệ thuật
Có thể thấy Đỗ Chu là người nặng lòng với đời, với nghề. Ông là người có ý thức “lập
ngôn” trong văn chương nghệ thuật. Đỗ Chu từng cho rằng trong văn chương, sợ nhất là nhạt.
“Nhạt là căn bệnh khó chữa nhất của văn học”.Trả lời phỏng vấn trên báo, ông cho rằng người
cầm bút phải sống th
ật với chính mình, “dốc tuột lòng mình” bấy giờ sẽ có những trang viết của
nhà văn. Còn cứ phải phân vân, e ngại hay “chiếu cố” một điều gì thì sẽ không phát huy cái
“tôi” sáng tạo của người viết. Văn chương vì thế mà mất đi cái phần hồn hậu và tự nhiên. Nói
thật, viết thật hết những gì mình nghĩ là mục tiêu của những người cầm bút chân chính. Nhưng
có lúc Đỗ Chu phả
i trăn trở, thú nhận : “Cũng thấy tiếc những năm tháng vừa rồi, giá cứ viết
căng hơn một chút thì chất lượng trang sách nó sẽ nhiều hơn, nhưng khốn nỗi lại cứ phải
gượng nhẹ…Mà bản thân mình nó có một con người cụ thể, mình đã nghĩ thế, đã sống thế, thì
lại chưa động tới, hình như tôi vẫn giấu tôi.” [92]
Đỗ Chu là người có ý thức về sứ mệnh của mỗi người cầm bút. Nhà văn phải tìm tòi,
sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị đích thực. Văn chương không dung nạp thứ chủ nghĩa
trung bình, sống và viết phỉnh nịnh, giả dối: “Tôi thường nghĩ, sứ mệnh cao cả của mỗi nhà văn
chính là việc sáng tạo nên những tác phẩm đóng góp một cách có hiệu quả vào quá trình lớn
mạnh c
ủa nền văn học nước nhà. Ở đây không có chỗ đứng cho chủ nghĩa trung bình với đủ
mọi thứ tầm thường của nó. Văn học lúc nào cũng phải là lời kêu gọi để Con người biết ngẩng
lên nhìn xa về phía trước với đôi bàn chân luôn luôn bước. Chúng ta không được phép bằng
lòng về những gì mình đã có, không được phép phỉnh nịnh mình một cách tội nghiệp, nhà văn
không đồng nghĩa với mộ
t đám thơ lại ươn hèn.”[20, tr.8]
Với ông, trách nhiệm của mỗi nhà văn trước cuộc sống là “phải biết đặt ra những câu hỏi
lớn, chứ không phải lúc nào cũng hớt hải, léng phéng chạy đi tìm câu trả lời…Xã hội đặt cho
anh nhiệm vụ đi tìm những câu hỏi nghiêm trang nhất, vì con người nhất.” [66]
Đỗ Chu cho rằng nhà văn là người cô đơn trên hành trình tìm kiếm cái đẹp. “Càng viết
càng thấy b
ơ vơ, càng thấy cô đơn” và “đây là cái bơ vơ trong lúc đi tìm kiếm, cái cô đơn
không hề lẻ loi của một kẻ yêu chúng bạn và gắn bó thiết tha với nghề, nó là sự cô đơn pha chút
kiêu ngạo. Nhà văn rất nên có những khoảng trống bơ vơ, để tự đẩy mình nhảy vào dòng xoáy
của sự sáng tạo, thật sự là hết sức nhọc nhằn.” [66]
Cả đời nhà văn
Đỗ Chu đau đáu đi tìm cái đẹp của nghệ thuật. Cũng có lúc ông tự thấy
như mình đã chạm đến được nó. Nó hiển hiện qua hình tượng của trái hồng kỳ bí. Tác giả đã
“tự nhìn thấy” hình ảnh “một trái hồng treo lơ lửng, đỏ lựng như máu, đỏ như một nhát chấm
phá xuất thần của họa sĩ tài năng trong một bức tranh ấn tượng… Nó r
ất đẹp, rất thảng thốt,
khơi gợi…Trong vẻ đẹp của nó chứa đựng nhiều bất thường, nhiều vô lý và có lý, như chính
nghệ thuật vậy. Vì vẻ đẹp ấy mà những người làm nghệ thuật nói chung và nhà văn nói riêng
phải vượt qua và có thể vượt qua được nhiều điều.” [68] Điều đó lý giải tại sao truyện ngắn và
đặc biệt là những trang tùy bút của Đỗ
Chu luôn luôn thấy hình bóng của một con người đau
đáu đi tìm một Bến sông Tương, đi tìm những nét đẹp vĩnh cửu của quá khứ….đã “vang bóng
một thời”.
1.3.2 Quan niệm về sáng tác truyện ngắn và tùy bút
Viết truyện ngắn, theo Đỗ Chu là một công việc rất thiêng liêng : “Một truyện ngắn hay có
thể làm cho người ta cười lớn hoặc ứa nước mắt….Không biết có quá không, nhưng tôi cứ tự