Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

hình tượng biển trong trường ca thu bồn, thanh thảo, hữu thỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 101 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN A SAY

HÌNH TƯỢNG BIỂN TRONG
TRƯỜNG CA THU BỒN, THANH
THẢO, HỮU THỈNH
Chuyên Ngành: Văn học Việt Nam
Mã Số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN VĂN KHA

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Văn học “Hình tượng biển trong trường
ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh” là công trình nghiên cứu của tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Kha. Những kết quả
nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong công trình
nào khác.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 09 năm 2012


Học viên
Nguyễn A Say


3

Lời cảm ơn
Con xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến gia đình, những người đã nuôi
dưỡng con nên người và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho con chuyên tâm học
hành.
Tôi xin cảm ơn với lòng biết ơn và trân trọng đến TS. Nguyễn Văn
Kha, người Thầy không chỉ giúp đỡ tận tình để tôi có thể hoàn thành luận văn,
mà còn là người đã định hướng cho tôi rất nhiều về con đường học tập nghiên
cứu.
Tôi xin cảm ơn quý thầy cô trường Đại học Sư Phạm đã trực tiếp giảng
dạy, cho tôi tri thức, phương pháp cần thiết để tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin cảm ơn Quý thầy cô trong Hội đồng đã dành thời gian đọc bài
luận và sẽ cho tôi những đóng góp quý báu, để không chỉ hoàn thiện bài viết
mà còn là những kinh nghiệm cho tôi trên con đường học tập.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người bạn, những người
đã động viên, ủng hộ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài khóa luận tốt
nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2012
Tác giả

Nguyễn A Say


4


MỤC LỤC
DẪN NHẬP .......................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 6
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................ 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 10
3.1. Đối tượng .......................................................................................................................... 10
3.2. Phạm vi ............................................................................................................................. 10

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 11
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ..................................................................... 12
6. Cấu trúc của luận văn................................................................................................... 12
CHƯƠNG 1. BIỂN TRONG ĐỜI SỐNG TÂM HỒN ................................................... 13
VÀ TRONG THƠ CA NGƯỜI VIỆT .............................................................................. 13
1.1. Biển trong đời sống người Việt ................................................................................ 13
1.2. Biển trong văn học dân gian ..................................................................................... 15
1.3. Biển trong thơ ca ....................................................................................................... 21
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH TƯỢNG BIỂN ................................................. 30
TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN, THANH THẢO, HỮU THỈNH ........................... 30
2.1. Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn ............................................................... 30
2.1.1. Biển trong kí ức, hành trang của những người con đất Việt trong cuộc chiến đấu giữ
nước của dân tộc ...................................................................................................................... 32
2.1.2. Biển, đảo-một phần máu thịt của Tổ quốc Việt Nam..................................................... 36
2.1.3. Biển đời đầy khó nhọc gian truân .................................................................................. 38

2.2. Hình tượng biển trong trường ca Thanh Thảo .......................................................... 42
2.2.1. Duyên nợ với biển trong sáng tác của Thanh Thảo........................................................ 42
2.2.2.Biển hiện thân cho nỗi khó nhọc của con người ............................................................. 45
2.2.3.Biển- triết lý về sức mạnh của nhân dân ......................................................................... 47


2.3. Biển trong trường ca Hữu Thỉnh............................................................................... 53
2.3.1. Từ trường ca “Đường tới thành phố” đến “Trường ca Biển”, người lính tiếp tục cống
hiến với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc ...................................................... 53
2.3.2. Biển- một không gian sống và chiến đấu mới ................................................................ 55
2.3.3. Ý chí người lính đảo....................................................................................................... 58


5

2.3.4. Đối thoại với biển- một cuộc đối thoại của nhân cách sống .......................................... 60

CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG BIỂN TRONG TRƯỜNG
CA THU BỒN, THANH THẢO, HỮU THỈNH ............................................................. 65
3.1. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh biển mang tính biểu tượng ....................................... 65
3.1.1. Biểu tượng của Tổ quốc ................................................................................................. 65
3.1.2. Biển là “đại dương nhân dân” ........................................................................................ 67
3.1.3. Biển - biểu tượng của lòng mẹ ...................................................................................... 69
3.1.4. Biển - biểu tượng của tình yêu đôi lứa ........................................................................... 70

3.2. Các biện pháp tu từ ................................................................................................... 73
3.2.1. So sánh ........................................................................................................................... 73
3.2.2. Nhân hóa ........................................................................................................................ 75

3.3. Giọng điệu................................................................................................................. 76
3.3.1. Giọng điệu ngợi ca, tự hào ............................................................................................. 77
3.3.2. Giọng điệu trữ tình, triết lý ............................................................................................ 79

3.4. Sự liên tưởng............................................................................................................. 81
3.5. Không gian - thời gian nghệ thuật ............................................................................ 83
3.5.1. Không gian nghệ thuật ................................................................................................... 83

3.5.2. Thời gian nghệ thuật ...................................................................................................... 85

KẾT LUẬN......................................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 91
PHỤ LỤC 1......................................................................................................................... 97
PHỤ LỤC 2......................................................................................................................... 99


6

DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Vùng biển của Tổ quốc Việt Nam là một đặc ân của thiên nhiên cho con người. Từ bao
đời, biển Việt Nam cung cấp nguồn tài nguyên phong phú. Câu thành ngữ “rừng vàng biển
bạc” có ý chỉ như vậy. Đường bờ biển Việt Nam dài từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà
Tiên (Kiên Giang). Biển đảo không những đẹp tự nhiên mà còn chứa đựng nhiều giá trị
tinh thần sâu sắc.
“Là một quốc gia có dải bờ biển trải dọc theo bờ Tây Thái Bình Dương dài hơn ba
nghìn ki lô mét, tự bao đời, biển đã là môi trường sống, môi trường tiếp giao văn hóa của
người Việt. Cùng với các không gian núi rừng và châu thổ, biển đã góp phần hợp thành,
định diện truyền thống, bản sắc văn hóa, cơ sở kinh tế, tư duy... của nhiều cộng đồng cư
dân Việt Nam. Trong tâm thức của người Việt, biển Đông là không gian thiêng gắn với
thời lập quốc. Bao thế hệ người Việt đã hoài niệm về cha Rồng - mẹ Tiên, về công lao sinh
thành, mở cõi của các bậc Thủy tổ. Từ biển, Lạc Long Quân đã về với đất liền, hiển linh
như một Nhân thần, diệt trừ yêu quái, giáo hóa dân chúng, dạy cho dân biết cấy lúa, làm
nghề thủ công” [86].
Từ lâu, biển đã trở thành nỗi ám ảnh trong tâm thức người Việt bởi sự ồn ào và dữ dội
nhưng cũng có lúc lặng im của nó. Biển không chỉ được khai thác về mặt kinh tế, quân sự
mà còn bao hàm nhiều yếu tố văn hóa - nghệ thuật. Không khó để tìm những tác phẩm
nghệ thuật xuất sắc về biển trên các lĩnh vực như âm nhạc, điêu khắc, hội họa… Đối sánh

với rừng, biển là biểu tượng của Tổ quốc, của tình yêu quê hương đất nước con người. Tìm
hiểu về hình tượng biển cũng giống như chúng ta đang tìm về với mẹ nước bao la, tìm về
không gian thần thoại với cha Rồng, mẹ Tiên vậy.
Ngày nay chúng ta đang kêu gọi góp đá xây Trường Sa, xây dựng biển đảo, bảo vệ chủ
quyền đất nước... Biển đảo càng ngày càng đi vào tâm thức, trong ý thức chủ quyền của
người Việt. Nghiên cứu về hình tượng biển, trong văn học, tác giả luận văn muốn góp
thêm một viên đá để xây nên “tượng đài” của lòng yêu quê hương đất nước qua việc tìm
hiểu một số trường ca viết về biển, đảo.


7

Trong thơ ca nói chung và trường ca nói riêng, biển được nhắc đến với nhiều tầng
nghĩa. Biển, đảo là hình ảnh của Tổ quốc, của dân tộc. Đó là hình ảnh của người mẹ Việt
Nam chịu thương chịu khó, của người con gái miền biển sâu sắc, mặn mà. Biển, sóng
tượng trưng cho sức mạnh, tinh thần chiến đấu của nhân dân. Các đặc tính của biển, sóng,
gió, cát… còn tượng trưng cho những sắc thái tình cảm trong tình yêu đôi lứa. Không
những vậy, trong trường ca các nhà thơ còn ví biển như nỗi khó nhọc, gian truân của biển
đời. Viết về biển, các tác giả đã thổi vào những trang thơ tình yêu quê hương, biển đảo của
chính mình.
Trường ca là một thể loại thơ dài hơi, gom vào nó tính chất lịch sử to tớn của thời đại
và mang hơi hướng sử thi. Biển trong trường ca vì vậy cũng được miêu tả với những bình
diện khác nhau. Đặc biệt là trong trường ca của các nhà thơ miền Trung, biển, bờ được các
nhà thơ này thể hiện rất đậm nét.
Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh là những nhà thơ có nhiều thành tựu nổi bật ở mảng
trường ca. Những sáng tác của họ đã gặt hái không ít thành công và được đông đảo bạn
đọc ghi nhận. Hình ảnh biển, đảo trong trường ca của các nhà thơ trên tuy chưa nhiều
nhưng cũng đủ làm nên sắc thái riêng, góp phần làm nổi bật nội dung tác phẩm.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: Hình tượng biển trong trường ca
Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh để nghiên cứu trên cơ sở tham khảo các đề tài đi trước,

từ đó có cái nhìn phổ quát hơn về hình tượng biển trong trường ca. Nghiên cứu Hình tượng
biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, tác giả luận văn muốn góp một
góc nhìn về hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn Thanh Thảo, Hữu Thỉnh trong bối
cảnh nước ta đang sục sôi xây dựng biển đảo, bảo vệ chủ quyền đất nước.

2. Lịch sử vấn đề
Trường ca là một thể loại nở rộ trong và sau hai cuộc kháng chiến thần thánh, góp phần
làm phong phú thêm đời sống văn học nghệ thuật của dân tộc. Sự phát triển rực rỡ của
trường ca trong giai đoạn này đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Nhiều bài viết
về trường ca trên Tạp chí Văn học, Tạp chí Nghiên cứu văn học và các tạp chí có uy tín
khác đều cho chúng ta thấy rõ điều này. Trước sự nở rộ của trường ca, nhiều nhà nghiên
cứu đã lật lại vấn đề, tìm hiểu tiến trình vận động của thể loại trường ca, cách đặt tên cũng
như bàn về đặc trưng loại thể, thi pháp...


8

Hoàng Ngọc Hiến trong bài viết “Về đặc trưng của trường ca” đăng trên Tạp chí Văn
học số 3 năm 1984 cho rằng: Trường ca là một thể loại lớn với 2 nghĩa: có dung lượng lớn
và mang nội dung lớn [27,113]. Trường ca là một thể loại vừa có tính chất trữ tình vừa có
tính chất tự sự [27,117]. Trước sự phát triển của trường ca, Mã Giang Lân có bài viết:
“Thử phân định ranh giới giữa trường ca và thơ dài” trên tạp chí Văn học số 5 năm 1988.
Ông cho rằng, trường ca và thơ dài giống nhau ở chỗ: Thơ dài và trường ca thường vận
dụng tổng hợp nhiều thể thơ, thay đổi không khí cảm xúc hạn chế sự bằng phẳng đơn điệu
[42,61]. Tuy nhiên trường ca có kết cấu rõ rệt và hoàn chỉnh hơn, có nhân vật và nhân vật
ở đường nét, có tâm trạng, có hành động [42,62]. Cũng bàn về vấn đề này, trước đó 13
năm nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã viết “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca” trên tạp
chí Văn học số 4 năm 1975. Ông cho rằng có thể gọi chung thơ dài hiện nay là trường ca
với nhiều biến thức, nhiều kiểu kết cấu khác nhau [72].
Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết khác đề cập đến vấn đề thi pháp, thể loại, phong cách thơ

cũng như đánh giá vai trò, đóng góp của họ.
Và như vậy, hình tượng biển trong trường ca hầu như chưa có công trình nào đề
cập đến. May ra qua một vài bài viết đề cập đến nội dung tác phẩm, có một hai câu "chạm"
đến vấn đề này mà thôi. Thiếu Mai trong "Thanh Thảo, thơ và trường ca" in trên tạp chí
văn học, số 2 năm 1980 có viết về phần vĩ thanh trong trường ca Những người đi tới biển
của nhà thơ Thanh Thảo như sau: Đã tới biển, đã đến đích, tới đích rồi nhưng đâu phải về
biển là yên nghỉ [46,78]. Lại Nguyên Ân khi bàn đến khúc vĩ thanh này có viết: Không
phải ngẫu nhiên tập trường ca của Thanh Thảo có nhan đề Những người đi tới biển. Trong
khá nhiều hàm nghĩa có một nghĩa khá rõ: anh nói về những người đi tới nhân dân, hòa vào
nhân dân trong một hành trình lịch sử [6,60]. Ngoài ra có thể kể đến bài viết của Lê Thị
Mây “Hữu Thỉnh với trường ca biển”. Tác giả đã đề cập đến nội dung, nghệ thuật của
trường ca biển và những vấn đề của người lính biển đảo hôm nay... tìm kiếm phác hoạ cho
được một chân dung lính đảo hoàn toàn mới [88].
Trong hội nghị khoa học toàn quốc về “Văn hoá biển miền Trung và văn hoá biển
Quảng Ngãi”, TS. Mai Bá Ấn có bài viết “Tâm thức biển trong thơ miền Trung hiện đại”
(Qua trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo), in lại Tạp chí Sông Trà
(21)/2007, tr.71-79. Bài viết đưa ra được những tầng nghĩa phổ quát nhất của biển. Đó là
nỗi ám ảnh trong tâm thức người lính; là biểu tượng của tổ quốc, của dân tộc, của người


9

mẹ Việt Nam tần tảo... Tuy nhiên, bài viết còn khá sơ lược, chưa nêu lên được những tầng
nghĩa sâu sắc của biển, một đại dương cuộc đời bao la của con người.
Ngoài các bài viết trên các báo, tạp chí thì trường ca cũng được đề cập đến khá
nhiều trong luận văn cao học, nghiên cứu sinh. Các tác giả Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu
Thỉnh là những cây bút trường ca lớn, có đóng góp, do đó đề tài nghiên cứu về các tác giả
trên là không ít.
Các luận văn trên đều đi vào tìm hiểu quá trình vận động phát triển của trường ca, tìm hiểu
đặc điểm trường ca, vấn đề thể loại cũng như thi pháp nghệ thuật của từng nhà thơ. Bên

cạnh đó còn có một số đề tài khát quát cả một chặng đường phát triển trường ca gắn với sự
vận động, phát triển của lịch sử như luận án Trường ca về thời chống Mĩ trong văn học
hiện đại Việt Nam của Nguyễn Thị Liên Tâm hay Thể trường ca trong Văn học Việt Nam
từ 1945 đến cuối thế kỉ XX của Đào Thị Bình.
Điểm qua các công trình trên, các nhà nghiên cứu chỉ chú ý xoáy vào đặc điểm
trường ca, cấu trúc cũng như đóng góp của trường ca đối với đời sống nghệ thuật. Hình
tượng biển, sóng trong trường ca được ít nhà nghiên cứu quan tâm. Đến hiện nay vẫn chưa
có một công trình khoa học nào đề cập đến hình tượng biển trong trường ca. Tuy nhiên
trong các luận văn về trường ca Thanh Thảo, hình tượng biển sóng cũng được nhắc đến, dù
ít ỏi nhưng cũng thấy được ý đồ nghệ thuật mà tác giả gửi gắm thông qua hình tượng đó.
Cụ thể trong luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Thu Hương, Chất triết luận trong trường ca
Thanh Thảo (năm 2009, trường Đại học Sư phạm Hà Nội), phần những phương thức nghệ
thuật có đề cập đến biểu tượng sóng biển và biểu tượng cát. Biểu tượng sóng là hình thái
tồn tại vĩnh hằng, thể hiện sức mạnh khôn cùng của nhân dân [33,79]; Biển, sóng thể hiện
khát vọng yên bình, giãi bày những suy tư, cảm nghĩ về nhân dân [33,80]. Biểu tượng cát
cũng mang các tầng nghĩa trên. Tác giả Hoàng Thị Thu Hương cho rằng, cát có giá trị nhân
bản sâu sắc, tố cáo tội ác và nỗi đau thương của cả dân tộc. Cát là nỗi mất mát đau khổ, là
tương lai, cát vẫn vĩnh hằng bất diệt với thời gian [33,83].
Luận văn Thạc sĩ của Đào Thị Khánh Vân, Trường ca Thanh Thảo (năm 2009,
trường Đại học Sư Phạm-Đại học Thái Nguyên) có đề cập đến hình ảnh sóng, cát- mặt đất.
Sóng là biểu tượng cho sức mạnh tiềm ẩn, quật cường của quần chúng nhân dân [71,89].
Sóng còn là biểu tượng cho sức mạnh trào dâng, sức mạnh nhấn chìm, sức mạnh vô địch
của quần chúng nhân dân trước kẻ thù [71,90]. Bên cạnh đó tác giả luận văn đề cập đến
cát như là biểu tượng của quê hương, của những năm tháng thăng trầm gian khó mà người


10

dân Sơn Mĩ đã trải qua. Theo Đào Thị Khánh Vân cát là nơi ghi dấu ấn sự tồn tại cũng như
những mất mát, hy sinh của con người... cát vĩnh hằng bất diệt, cát là sự hóa thân của

tương lai tươi sáng [71,95].
Trong luận văn thạc sĩ của Dương Lệ Thủy, Đặc điểm trường ca Thanh Thảo (năm
2011, trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) cũng đề cập đến hình ảnh sóng mặt đất, tương tự như trong công trình của Đào Thị Khánh Vân. Sóng và mặt đất là biểu
tượng cho sức mạnh vô bờ, âm ỉ và đoàn kết của nhân dân ta trong suốt chiều dài giữ nước
[69,106].
Nói chung, hình ảnh biển được đề cập trong các luận văn cao học trên chưa sâu và
mới chỉ tập trung vào biểu tượng biển, sóng, cát trong trường ca của nhà thơ Thanh Thảo.
Trên cở sở tiếp thu thành quả nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu, bài viết của
những người đi trước, tác giả luận văn chọn đề tài Hình tượng biển trong trường ca Thu
Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh và chủ yếu chỉ khảo sát trường ca của ba tác giả trên.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.

Đối tượng

Với mục đích khoa học đã đề ra, luận văn này chỉ tập trung xem xét và làm sáng tỏ
những vấn đề cơ bản có liên quan đến đề tài: “Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn,
Thanh Thảo, Hữu Thỉnh”. Tìm hiểu đặc điểm của hình tượng biển trong trường ca của các
tác giả trên và một số phương thức nghệ thuật xây dựng hình ảnh biển trong trường ca.

3.2.

Phạm vi

Tác giả luận văn xác định rõ, đây là một đề tài chỉ tập trung vào hình tượng biển trong
trường ca. Do đó, tác giả luận văn chỉ đi sâu tìm hiểu trường ca viết về biển của 3 tác giả
có tên tuổi như Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh. Chủ yếu là một số trường ca có trong
ba tuyển tập trường ca sau:
* Thu Bồn (1999), Bài ca chim Chơ Rao-tuyển tập trường ca, Nhà xuất bản

nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
Bài ca chim Chơ rao
Badan khát
Người gồng gánh phương Đông
Chim vàng chốt lửa
Campuchia hy vọng

Văn


11

Vách đá Hồ Chí Minh
* Thanh Thảo (2004), Những người đi tới biển, Nxb Quân đội nhân dân, Hà

Nội.

Những người đi tới biển
Trẻ con ở Sơn Mỹ
Những nghĩa sĩ Cần Giuộc
Đêm trên cát
Trò chuyện với nhân vật của mình
Bùng nổ mùa xuân
* Hữu Thỉnh (2004), Trường ca biển, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội
Đường tới thành phố
Trường ca biển
Ngoài ra trong quá trình triển khai đề tài, luận văn có sử dụng một số tác phẩm thơ của
các nhà thơ trong diện khảo sát để vấn đề được sáng tỏ hơn.

4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp loại hình
Đây là phương pháp nghiên cứu chính của luận văn. Căn cứ vào đặc trưng thể loại
để tìm hiểu hình tượng biển trong trường ca của Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh.
Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp không thể thiếu để chúng tôi làm rõ nét đặc sắc của các tác giả
khi xây dựng hình tượng biển trong trường ca của mình so với các tác giả khác.
Phương pháp thống kê
Đề tài xoay quanh hình tượng biển của ba tác giả Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu
Thỉnh nên rất cần tiến hành thống kê tần suất xuất hiện của các từ khóa liên quan. Sử dụng
phương pháp này người viết muốn “lượng hóa” hình tượng biển để chứng minh rằng, biển
là kết quả của tư duy nghệ thuật riêng biệt và độc đáo của từng nhà thơ.
Phương pháp hệ thống
Với quan niệm mỗi trường ca là một chỉnh thể nghệ thuật nằm trong một chỉnh thể lớn
hơn là nền văn học hiện đại, khi khảo sát, phân tích hình tượng biển, người viết không đặt
nó riêng lẻ mà luôn ý thức đặt chúng trong một chỉnh thể thống nhất với các yếu tố nghệ
thuật khác để làm rõ hơn nội dung của tác phẩm.


12

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Từ lâu biển đã trở thành biểu tượng của tổ quốc của dân tộc, biển còn là cái nôi cội
nguồn của dân tộc. Việc nghiên cứu hình tượng biển này góp phần làm rõ đặc điểm của
hình tượng biển trong trường ca đồng thời hiểu rõ dụng ý nghệ thuật của các nhà thơ, bên
cạnh đó góp phần lý giải một phần văn hóa biển, tâm thức biển trong đời sống con người
Việt.

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần dẫn nhập, kết luận và phần phụ lục, luận văn chúng tôi gồm có ba chương:
Chương 1: Biển trong đời sống tâm hồn và trong thơ ca người Việt

Chương 2: Đặc điểm của hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu
Thỉnh
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng hình tượng biển


13

CHƯƠNG 1. BIỂN TRONG ĐỜI SỐNG TÂM HỒN VÀ
TRONG THƠ CA NGƯỜI VIỆT
1.1.

Biển trong đời sống người Việt
Nước ta có 3260 km đường bờ biển kéo dài từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà

Tiên (Kiên Giang). Ưu thế đường bờ biển dài, vùng biển rộng đã tác động trực tiếp đến
người dân Việt Nam.
“Là một vùng biển giàu có, biển Đông chứa đựng nhiều tài nguyên sinh vật,
khoáng sản rất phong phú cả về số lượng và chủng loại. Nhờ có biển Đông, nước ta mang
nhiều đặc tính của khí hậu ẩm ướt và vì thế về điều kiện tự nhiên có thể gọi Việt Nam là xứ
sở của biển cả” (45,11).
Cũng theo Nguyễn Thị Hải Lê, ban đầu người Việt không có nguồn gốc biển, họ là
cư dân sống ở vùng trước núi, tràn xuống khai thác đồng bằng lầy trũng, rồi lấn biển và
khai thác biển. Nhưng trong quá trình “Nam tiến” chất biển của họ ngày càng tăng lên.
Giải thích điều này, nhà nghiên cứu văn hóa Ngô Đức Thịnh cho rằng có hai nguyên nhân
cơ bản: thứ nhất đó là do quá trình lấn biển làm nông nghiệp và khai thác biển bắt buộc họ
phải đứng trước biển; thứ hai người Việt đã tiếp nhận truyền thống biển từ người Chăm và
một bộ phận người Chăm bị Việt hóa từ sau thế kỉ XI. Như vậy, qua một thời kì lịch sử
dài, chất biển trong văn hóa người Việt ngày càng được khẳng định và củng cố. Tuy chưa
tạo cho mình được một nền văn hóa biển điển hình như một số dân tộc khác trên thế giới
nhưng người Việt đã làm chủ được một nền văn hóa mang những nét riêng của cư dân

nông nghiệp.
“Dấu ấn của biển đã hiện diện trong đời sống của tổ tiên người Việt từ thời kì tiền
sử. Những di tích “đống vỏ sò” hay “cồn sò điệp” trong các nền văn hóa khảo cổ như văn
hóa Quỳnh Văn, văn hóa Bàu Tró, văn hóa Thạch Lạc, văn hóa Hạ Long… là những dấu
tích chứng minh rằng biển cả là nơi cung cấp nguồn sống chủ yếu cho các cộng đồng
người tiền sử cư trú ở ven biển Việt Nam từ hàng ngàn năm trước” [50,53].
Từ xưa người Việt đã sớm biết chinh phục biển, đảo để phục vụ nhu cầu sinh hoạt
của mình. Biển trở thành nơi cung cấp nhiều sản vật quí cho con người. Ngọc trai, đồi mồi,
san hô… hay gần gũi nhất là muối đều được khai thác từ rất sớm. Nhiều hải sản như mực,
cá, tôm… với hàm lượng dinh dưỡng cao trở thành nguồn thực phẩm quen thuộc. Trong


14

bữa cơm của người dân Việt không thể không có chén nước mắm - một loại gia vị làm từ
cá biển. Nước mắm không chỉ đơn thuần là một gia vị mà nó trở thành một nét văn hóa ẩm
thực, văn hóa truyền thống gia đình của người Việt. Thế nhưng biển không hề êm dịu mà
có lúc “sóng to gió lớn”, con người cũng đã học hỏi được nhiều điều từ “tính tình của
biển”. “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo” là một ví dụ tiêu biểu.
Khai thác các giá trị từ biển cả, con người đã biết “khoan, thư” với cái ồn ào, dữ
dội của biển. Khi gặp nạn trên biển (thường là sóng to, gió bão làm lật tàu, thuyền) các ngư
dân thường khấn Ông, nhờ Ông độ. Nhiều câu chuyện về việc ngư dân được Ông cứu lan
truyền ở nhiều vùng miền. Việc lập đền thờ cá Ông trở thành một tín ngưỡng đẹp của ngư
dân ven biển. Hầu như ở địa phương ven biển nào cũng đều có đền thờ cá Ông. Hằng năm,
tùy theo từng nơi, lễ hội Nghinh Ông diễn ra một cách tôn nghiêm, thu hút hàng ngàn
người tham dự.
Không những thế nước ta còn được thiên nhiên ưu đãi ban cho khá nhiều bãi biển,
nhiều vũng, vịnh, đảo đẹp. Với bãi cát vàng, ngọn sóng trắng xóa vỗ ì oạp, dòng nước xanh
biếc… nhiều bãi biển đã trở thành một địa điểm du lịch lý thú, thu hút khách trong nước
lẫn khách nước ngoài, góp phần đẩy mạnh kinh tế cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống

của ngư dân ven biển nhờ vào ngành công nghiệp không khói này.
Biển còn là một vị trí quan trọng về mặt quân sự. Trong lịch sử kháng chiến chống
giặc ngoại xâm của dân tộc, không thể không nhắc đến vai trò của biển cả. Những năm
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để kịp thời chi viện người, vũ khí và lương thực cho
chiến trường miền Nam, đường Hồ Chí Minh trên biển đã được hình thành, góp phần làm
nên chiến thắng lẫy lừng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Những con tàu không số và cả những
thủy thủ vô danh đã đi vào lịch sử. Trước đó hàng chục thế kỷ, nhiều trận đánh quan trọng,
đẩy lùi quân xâm lược cũng bằng thủy chiến. Thời bấy giờ, dưới trướng Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn có một chàng trai giỏi bơi lặn, tên là Yết Kiêu, đã dùi thủng chiến thuyền
của giặc làm nên chiến thắng lẫy lừng ở cửa bể Vạn Ninh.
Nhiều địa danh trên đất nước ta hàm chứa yếu tố biển hoặc liên quan đến biển như:
Hải Phòng, Hải Dương, Cát Hải, Tiền Hải, hay vùng cửa biển lớn như Cửa Lớn, Cửa Việt,
Cửa Lò, Cửa Tùng… Không những vậy, hình ảnh biển bờ đã đi sâu vào tâm thức người
dân Việt, để rồi trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, người dân Việt đều lấy các yếu tố biển
làm “chuẩn”. Nói về việc làm vô ích, viễn vông: “Dã tràng xe cát biển Đông, Mò kim đáy
bể”; nói về sự đoàn kết: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”; nói về sự nham


15

hiểm, khó dò của lòng người: “Đố ai lặn xuống vực sâu/ Mà đo miệng cá uốn câu cho
vừa”…

1.2.

Biển trong văn học dân gian
Văn học dân gian là một kho tàng vô giá, chứa đựng nhiều giá trị tinh thần sâu sắc.

Văn học dân gian hình thành trong quá trình lao động, sản xuất của dân tộc. Sau tấm màn
hoang đường, kì ảo, chất hiện thực được tái hiện rõ nét. Những hình ảnh về biển, đảo; hình

ảnh ghe thuyền và sinh vật biển đã sớm đi vào sử sách, đặc biệt là trong những câu chuyện
thần thoại, truyền thuyết, cổ tích. “Hình tượng biển và đảo luôn thấp thoáng trong bao
nhiêu cổ tích, truyền thuyết, là dấu ấn trong tâm thức mọi người” [91].
Hệ thần thoại là phương pháp cơ bản của việc hiểu thế giới và thần thoại phản ánh cảm
giác, sự hiểu biết về thế giới của thời đại sinh ra nó. Thuở ban đầu, biển còn vô cùng lạ lẫm
đối với con người. Nhiều hiện tượng của biển được người dân lý giải lại một cách thần
thánh hóa. Tuy nhiên, qua đó chúng ta cũng dễ dàng nhận ra người Việt đã sớm tiếp xúc
với biển và lý giải các hiện tượng liên quan đến biển như sóng, thủy triều, bão lớn hay
sóng thần... Truyện Thần Biển có đoạn lý giải các hiện tượng biển như sau: “Thần chỉ có
mỗi công việc là hô hấp để sống. Mỗi lần hít vào thì nước biển tuôn vào bụng, mỗi lần thở
ra thì khối lượng nước đó lại ùa ra hết. Thần thở khi mạnh, khi nhẹ nhưng rất đều. Cứ mỗi
lần như thế thì biển có hiện tượng thủy triều dâng lên rút xuống như ngày nay ta vẫn
thường thấy. Thần nằm yên lặng, nhưng cũng có khi mệt mỏi, phải cựa quậy. Mỗi lần thần
vùng vẫy là có gió to bão lớn, nước dâng ngập tràn mọi nơi, người trên mặt đất vẫn thường
gọi là sóng của thần hay sóng thần” [49,11]. Dân gian còn truyền tụng câu hát, kể về các vị
thần gầy dựng nên trời đất như ngày nay, trong đó có thần Biển như sau: Ông đếm cát/
Ông tát bể/ Ông kể sao/ Ông đào sông/ Ông trồng cây/ Ông xây rú/ Ông trụ trời. Điều này
phần nào chứng tỏ, ngay từ thuở khai thiên lập địa, biển đã hiện diện trong tâm thức người
Việt.
Theo tác giả Hồ Quốc Hùng: “Truyền thuyết là ký ức cộng đồng về quá khứ. Chủ
yếu nó phản ánh niềm tin, sự ngưỡng mộ của nhân dân đối với nhân vật và sự kiện lịch sử
của dân tộc ít nhiều bằng hư cấu, tưởng tượng. Lịch sử đọng lại trong truyền thuyết như
những tia hồi quang phủ lên cảnh vật, phong thổ của đất nước làm đắm say biết bao thế
hệ” [31,10]. Như vậy, ngoài yếu tố kì ảo, hoang đường, truyền thuyết cũng có một phần


16

nào đó sự kiện có thật. Những truyền thuyết dưới đây phần nào minh chứng cho việc dân
tộc ta đã lấn biển từ khá sớm và biển đã có trong tâm thức của người Việt.

Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên kể về nguồn gốc của dân tộc ta được sinh ra trong bọc
trăm trứng bởi cha Rồng Lạc Long Quân và mẹ Tiên Âu Cơ. Một hôm lạc Long Quân mới
nói với Âu Cơ rằng: “Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống trên đất,
tuy khí âm dương hợp lại mà sinh con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng,
khó ở với nhau được, nay ta đưa năm mươi người con về thủy phủ chia trị các xứ, năm
mươi con theo nàng về trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo nhau biết,
đừng quên”. Từ đấy lớp lớp con cháu của cha Rồng mẹ Tiên phá rừng lấn biển dựng nên
cơ đồ con Lạc cháu Hồng ngày nay.
Chúng ta cũng dễ dàng nhận ra, từ thuở hồng hoang, con người đã lên núi, xuống
biển, phá rừng lấn biển để làm ăn sinh sống. Câu chuyện về bào thai trăm trứng như một
lời tuyên ngôn cho dân tộc Việt Nam, dù ở đâu, trên rừng hay dưới biển thì chúng ta cũng
đều là người một nhà, cùng có chung nguồn gốc.
Tiếp xúc với biển từ rất sớm nên trong tâm thức của họ, biển không chỉ bao la rộng lớn mà
còn có nhiều sinh vật biển nguy hiểm và nó luôn ám ảnh trong tâm trí. Truyền thuyết Ngư
tinh kể về một con tinh ngư xà dài hơn mười trượng, chân nhiều như chân rết, biến hóa
muôn vẻ, linh dị khôn lường, khi đi thì ầm ầm như mưa, lại ăn được thịt người, quấy nhiễu
thuyền chài làm ai ai cũng sợ hãi… là một trong số đó. Câu chuyện còn lý giải một số địa
danh như Bạch Long Vĩ, Cẩu Đầu Sơn, Mạn Cẩu Thủy…
Câu chuyện An Dương Vương được thần Kim Quy đến từ biển ba lần giúp đỡ cũng
là một ví dụ cụ thể về hình ảnh biển đã có trong tâm thức người Việt. Thần Kim Qui xuất
hiện lần thứ nhất giúp nhà vua xây thành, lần thứ hai giúp nhà vua giữ thành và lần thứ ba
rẽ sóng đưa nhà vua xuống biển khi giặc theo sát sau lưng. Cả ba lần, thần Kim Qui cũng
đi ra từ biển và biến mất cũng từ biển. Trong tâm thức người Việt thời bấy giờ cảm nhận,
biển mang trong mình một phần hào sảng, trù phú nhưng cũng chứa đựng sức mạnh to lớn
và ẩn chứa nhiều huyền bí. Người Việt cũng đã biết ngọc trai, một sản vật quý của biển từ
sớm qua chi tiết Mỵ Châu bị chém chết, máu nàng chảy xuống biển, loài trai ăn phải mà
thành.
Theo các truyền thuyết để lại thì từ lâu con người đã biết lấy mực xăm mình theo
hình thủy quái để tránh giao long làm hại, vẽ mắt ở mũi ghe, thuyền để thủy quái không
quấy nhiễu.



17

Truyền thuyết Sơn tinh- Thủy tinh tái hiện lại cách sống với thiên nhiên của dân tộc
ta. Qua câu chuyện tranh giành công chúa của Sơn tinh và Thủy tinh, chúng ta có thể nhận
thấy lý giải của người xưa về các hiện tượng thiên nhiên (tức mưa bão hằng năm), phần
nào thấy được sức mạnh của thiên nhiên (cụ thể là sức mạnh của Thủy tinh- sức mạnh của
sông, biển) và dần dần tìm cách sống chung với nó.
Theo giáo sư Chu Xuân Diên, cổ tích biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân
đối với thực tại. Truyện Quả Dưa Hấu kể về cuộc sống của người dân trên hoang đảo cũng
như cách thức người dân trên đảo liên lạc với đất liền. Mai An Tiêm là con vua nhưng vì
thẳng thắn, bộc trực mà bị đày ra hoang đảo. Trên đảo hoang, Mai An Tiêm đã tìm ra được
giống dưa lạ do đàn chim bỏ lại. Sau khi chăm bón, hạt giống đó cho ra thứ quả có vỏ
xanh, ruột đỏ, ăn vào thì ngọt lịm. Mai An Tiêm làm dấu thả dưa xuống biển để tìm đường
liên lạc với đất liền. Theo con sóng, những quả dưa hấu đến được các thuyền buôn, họ tìm
đến đảo đổi hàng hóa lấy dưa. Những quả dưa trôi dạt về đất liền quân lính đi tuần nhặt
được dâng lên vua Hùng. Nhà vua biết chuyện đã cho thuyền đi đón gia đình Mai An Tiêm
về. Câu chuyện cũng phần nào cho chúng ta thấy được nét nông nghiệp của cư dân miền
biển. Dù sống ở biển nhưng yếu tố nông nghiệp qua chi tiết Mai An Tiêm trồng quả dưa
hấu vẫn còn rất đậm đặc.
Truyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung đánh dấu quá trình giao lưu buôn bán của dân
tộc ta và các nước lân bang bằng đường biển qua chi tiết hai vợ chồng Chử Đồng Tử và
Tiên Dung giao thiệp với các thuyền buôn nước ngoài. “Họ giao thiệp với các thuyền buôn
nước ngoài thường vẫn hay ghé vào để bán hàng và cất hàng. Công việc buôn bán của họ
ngày một khá. Chỗ bến sông ấy trở thành một nơi đông đúc, sầm uất” (49,243).
Dấu ấn của biển trở nên rất rõ trong truyện cổ tích Đá Vọng Phu. Người phụ nữ bồng con,
hướng mắt ra biển chờ chồng từ ngày này qua ngày nọ cho đến khi hóa đá. Mô-tip hai anh
em ruột lấy nhau và người hóa đá xuất hiện khá nhiều ở các tỉnh ven biển. Điều này phần
nào lý giải vì sao có khá nhiều đá vọng phu (đá trông chồng) ở nhiều địa phương khác

nhau: Lạng Sơn (núi nàng Tô Thị), Thanh Hóa (núi đá trông chồng Sầm Sơn), Bình Định
(núi đá bên cửa biển Đề Bi, Phù Cát), Ninh Thuận (núi đá ở cửa biển Cà Ná)… Biển cả
bao la vừa là nơi cung cấp nhiều sản vật, nuôi sống con người nhưng biển cũng là mối
hiểm họa ám ảnh trong tâm thức người Việt. Nỗi đau đớn, trông chờ đến vô vọng của
người phụ nữ trong truyện Đá Vọng Phu đã thể hiện điều đó. Ngoài câu chuyện nàng Tô


18

Thị hóa đá vì trông chờ người chồng ra trận chiến đấu, hầu hết các câu chuyện khác đều có
mô tip người vợ chờ chồng đi biển mà hóa đá.
Như vậy, ngoài việc lý giải các hiện tượng thiên nhiên, các câu chuyện thần thoại,
truyền thuyết hay cổ tích cũng phác họa sơ lược cho chúng ta thấy cách người Việt sống và
thích nghi với biển. Theo Nguyễn Văn Kim: “Có thể nói, trong lịch sử, trên các không gian
biển Việt Nam đã từng là nơi diễn ra nhiều hoạt động giao thương trong nước - quốc tế,
vùng - liên vùng hết sức sôi động. Bên cạnh kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, kinh tế
thương mại, trong đó có ngoại thương, đã luôn đóng vai trò quan trọng, góp phần tạo nên
sự hưng thịnh của kinh tế Việt Nam trong nhiều thời kỳ lịch sử. Đặt Việt Nam trong không
gian kinh tế biển Đông Nam Á, trong mối liên hệ với khu vực thị trường Đông Bắc Á và
Tây Nam Á có thể khẳng định rằng, chủ nhân của các nền văn hóa cổ, các chính thể quân
chủ đã không chỉ chú tâm xây dựng xã hội nông nghiệp, khai thác tự nhiên mà còn quan
tâm đến sự phát triển của kinh tế công thương, phát triển kinh tế biển” [87].
Biển với những đặc tính riêng của mình, phô diễn trước loài người sức mạnh oai hùng, dữ
dội, nhưng cũng có lúc duyên dáng, đằm thắm; giàu có, hào sảng, phong phú nhưng cũng
huyền bí đến tận cùng… Chính những điều đó đã khiến biển trở thành đối tượng của văn
hóa nghệ thuật. Biển xuất hiện trong nhiều hình thức diễn xướng, hò vè, ca dao, tục ngữ,
thơ, truyện…
Trong những lần chài lưới đánh bắt, người lao động cần có một nguồn cổ vũ tinh
thần thì lúc đó hò phát huy tác dụng. Những bài hò như: Hò hụi, hò kéo lưới, hò chèo
thuyền, hò đẩy thuyền, hò đan lưới, lý kéo chài… khá phổ biến. Những bài hò hay các điệu

lý thể hiện tinh thần hào sảng, rộng lớn của biển cùng nhịp điệu, tiết tấu nhanh, mạnh, dứt
khoát tái hiện không khí lao động đầy sức sống, vui tươi. Ngoài ra còn có nhiều bài hò, lý
thể hiện cuộc sống tự do, tự tại, thoải mái cùng biển nước bao la như bài Lý kéo chài dưới
đây:
Nắng lên rồi căng buồm cho khoái
Gác chèo lên ta nướng ngô khoai
Hò ơi…
Nhậu cho tiêu hết mấy chai
Bỏ ghe nghiêng ngả không ai chống chèo
Đặc biệt hò bả trạo (hát bả trạo) là một hình thức diễn xướng dân gian mang tính
nghi lễ. Hò bả trạo diễn lại hành trình ra khơi đánh cá của ngư dân, tái hiện lại hành trình


19

vượt biển đầy gian khổ. Ngày nay trong lễ hội Nghinh Ông của các ngư dân ven biển miền
Trung thì hò bả trạo là một nghi thức không thể thiếu (trong khi đó ở các ngư dân ven biển
Nam Bộ, hình thức diễn xướng thường là hát Bội).
Ngoài hò ra còn có các bài vè: vè con cá, vè cá biển, vè cào hén, vè nghề làm muối, vè đi
biển, vè nhật trình đi biển, vè đánh lưới… bổ sung nhiều thông tin bổ ích về biển, nghề
biển và người dân biển… Chẳng hạn như bài vè cá biển sau đây:
Cá nuôi thiên hạ
Là con cá cơm
Không ăn bằng mồm
Là con cá ngác
Không ăn mà ú
Là con cá voi
Hai mắt thòi lòi
Là con cá tráo
Dựa vào đặc điểm của biển mà người Việt đưa ra nhiều lời khuyên, kinh nghiệm bổ

ích như: Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo; Dã tràng xe cát biển Đông; Đồng vợ đồng
chồng tát biển Đông cũng cạn…
Ca dao tục ngữ viết về biển có khá nhiều. Ca dao, tục ngữ là tiếng nói tâm tình, rút
kết kinh nghiệm sống về tình yêu, lao động sản xuất do đó biển cũng đi vào trong ca dao,
tục ngữ với nhiều hình ảnh quen thuộc với đời sống con người. Theo thống kê của Nguyễn
Thị Hải Lê trong Biển trong văn hóa người Việt, phần phụ lục 3, có đến 273 câu tục ngữ ca
dao có yếu tố biển trong kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam. Trong đó có những câu ca vô
cùng quen thuộc.
Những gì to lớn, vĩ đại không thể do bằng kích thước cụ thể thì con người mượn
hình ảnh biển bờ để ví von. Đó là nghĩa mẹ mênh mông, dạt dào:
Công Cha như núi ngất trời
Nghĩa Mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.
Biển còn được ví với ý nghĩa vĩnh hằng, trường tồn. Trong ca dao dân ca, để thể
hiện tấm lòng thủy chung son sắt, lời thề khăng khít thì sự bao la, mênh mông rộng lớn của
biển thích hợp hơn cả:


20

Biển cạn, sông cạn lòng qua không cạn
Núi lở, núi mòn nghĩa bạn không quên
Với những đôi lứa đang yêu, biển có lẽ là một không gian hò hẹn lý tưởng:
Trèo lên trái núi Thiên Thai
Thấy đôi chim phượng hoàng ăn ngoài biển Đông
Anh tưởng giếng sâu anh nối sợi dây cụt
Ai dè giếng cạn nó hụt sợi dây
Qua tới đây không được cưới cô hai mày
Qua chèo ra biển đợi nước đầy qua chèo trở vô

Có khi, biển là một không gian mơ ước của đôi lứa. Biển là một không gian trong
khao khát, trong tâm tưởng của biết bao người:
Cá bống đi tu
Cá thu nó khóc
Cá lóc nó rầu
Phải chi ngoài biển có cầu
Anh ra đến đó đoạn giải sầu cho em
Đôi lúc, con người lại mượn hình ảnh biển để truyền tải ý chí và suy nghĩ của họ.
Khi về mối thù dân tộc, dân gian ta có câu:
Bể Đông có lúc vơi đầy
Mối thù đế quốc có ngày nào quên
Nói về những việc làm tốn công, vô ích:
Thôi đừng đáy bể mò kim
Bóng chim tăm cá dễ tìm được nao
Không những vậy, biển còn thể hiện những bất trắc khó khăn trong cuộc sống. Có
thể đó là cửa tử của người phụ nữ khi vượt cạn:
Đàn ông đi biển có đôi
Đàn bà đi biển mồ côi một mình
Có khi biển được ví với lòng dạ thẳm sâu, khó dò của lòng người:
Lòng sông, lòng bể dễ dò
Nào ai bẻ thước mà đo lòng người
Ca dao, tục ngữ là kho tàng kiến thức, kinh nghiệm của dân tộc ta. Chính vì vậy tất
cả ý nghĩa và sắc thái của biển đều được thể hiện đầy đủ. Điểm qua một số câu ca dao, tục


21

ngữ viết về biển đủ để thấy biển là một chủ đề đã có từ rất lâu trong kho tàng văn hóa, văn
học của dân tộc.


1.3.

Biển trong thơ ca
Hầu như ở góc độ nào biển cũng được thơ ca ưu ái nhắc đến, từ thời gian: sáng,

trưa, chiều, tối cho đến những không gian trên biển: bãi biển, bờ biển, làng biển… lẫn các
trạng thái ở biển: buồn, vui, vắng lặng... Không những vậy, tất cả những gì liên quan đến
biển cũng là đối tượng của thơ ca như sóng, cát, gió, cánh buồm, hàng dương, hạt muối…
Chúng ta cũng có thể liệt kê hàng trăm, hàng ngàn bài thơ viết về biển, đảo. Tuy vậy, tùy
vào từng giai đoạn cụ thể mà biển, đảo được tiếp cận ở mức độ khác nhau. Và ở mỗi tác
giả hẳn nhiên cũng có cách cảm nhận riêng biệt về biển.
Do đặc điểm về thời đại mà giai đoạn văn học trung đại nhìn chung có ít bài thơ
viết về biển. Ở giai đoạn này, lãnh thổ nước ta chưa mở rộng như bây giờ. Thơ văn sáng
tác hầu như thuộc về giới trí thức, nhà nho giàu chữ nghĩa và phần đông sống ở kinh thành,
ít kinh qua các vùng đất ven biển. Hình ảnh biển chỉ được nhắc đến trong một số tác phẩm
của các tác giả như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát... Tuy nhiên tất cả sắc thái của
biển đều được các nhà thơ khắc họa một cách chi tiết, rõ ràng.
Biển được Nguyễn Trãi miêu tả trong khá nhiều bài thơ, như: Quan duyệt thủy trận,
Quá hải, Quan hải, Vân Đồn, Thần Phù hải khẩu, Lâm Cảng dạ bạc, Quá Thần Phù hải
khẩu… Đó là hình ảnh biển bao la, hùng vĩ được viết bằng những nét bút hoàng tráng. Với
tầm nhìn cao cả và cảm xúc hào hùng, tác giả đã thổi hồn vào những bài thơ ấy, làm cho
biển bờ cũng dậy sóng:
Kình phun lãng hống, lôi nam bắc,
Sáo ủng sơn liên, ngọc hậu tiền
(Cá kình phun nước sóng gầm thét như sấm ran từ nam đến bắc
Giáo dựng san sát núi trùng điệp như ngọc bày đằng trước, đằng
sau [37,246])
(Thần Phù hải khẩu)
Đó còn là hình ảnh Vịnh Hạ Long với những câu thơ gợi tả đầy sức quyến rũ.
Nguyễn Trãi đã ví Vịnh Hạ Long như một tấm gương lớn mà những ngọn núi, những hòn

đảo xung quanh như những búi tóc của người phụ nữ:
Nhất bàn lam bích trừng minh kính


22

Vạn hộc nha thanh đóa thúy hoàn
(Một mặt phẳng sắc lam, sắc biếc như tâm gương trong suốt
Muôn vòm màu đen màu xanh như những búi tóc óng trễ xuống
[37,248])
(Vân Đồn)
Là một cố vấn quân sự tài ba, Nguyễn Trãi cũng có nhiều bài thơ nói về công tác
phòng ngự trên biển. Theo ông, dù đất nước đã yên bình nhưng không vì vậy mà lơ là cảnh
giác:
Biển Bắc năm xưa đã diệt kình
Dù yên, còn luyện ngũ ôn binh
(Quan duyệt thủy trận)
Từ xưa con người đã biết khai thác sản vật từ biển, thế nhưng biển cũng vô cùng
nguy hiểm với bao hiểm họa chết người. Khi giặc Minh sang xâm chiếm nước ta, chúng
bắt ép dân ta xuống biển mò ngọc trai, không cần biết đó là nơi nước sâu, nhiều cá mập,
thuồng luồng: Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng
luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc. Tội ác của giặc
Minh không sao kể xiết, để rồi nhà thơ phải thốt lên:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi
(Bình Ngô đại cáo)
Vua Lê Thánh Tông cũng viết về biển với những bài thơ ngợi ca thiên nhiên đất
nước tươi đẹp, đồng thời tự hào về đường lối chính trị của nhà nước phong kiến:
Hải thượng vạn phong quần ngọc lập
Tinh la kỳ bố thúy tranh vanh

Ngư diêm như thổ, dân xu tiện
Hòa đạo vô điền, phú bạc chinh
(Trên bờ biển, muôn ngọn núi quây quần như ngọc
La liệt đá xanh biếc rải ra chon von
Cá và muối nhiều như đất, dân chúng sinh nhai thuận lợi
Lúa màu thiếu ruộng, thuế khóa đánh nhẹ [37,317])
(An Bang phong thổ)


23

Nhà thơ Nguyễn Du đề cập đến biển ở một khía cạnh khác. Biển mênh mông, ầm
ào nhưng xa xôi, diệu vợi. Viết về biển, Nguyễn Du lấy điểm tương đồng trong đặc tính
của biển để toát lên tâm trạng của nàng Kiều. Môi trường sống đầy xa lạ và nguy hiểm
chốn lầu xanh đã chuyển thành cái thế gió cuốn, sóng vỗ xung quanh nàng Kiều. Những
con sóng nối tiếp nhau vỗ vào bờ, cứ đều đặn, đều đặn không dứt làm cho người đọc dễ
dàng nhận ra tâm trạng của Thúy Kiều lúc này: đau đớn, tủi nhục, xót xa, cám cảnh cho
thân phận hẩm hiu, đồng thời lo lắng cho tương lai của mình sau này:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
(Truyện Kiều)
Biển với những con sóng ngày đêm xô bờ, với bão tố hung hãn làm cho con người
cảm thấy sợ hãi, bất an. Nhìn những hình ảnh như sóng biển trắng xóa, gió táp, sấm ran,
chớp giật… nhà thơ Cao Bá Quát liên tưởng ngay đến con đường công danh, sự nghiệp của
mình. Đó là một con đường đầy sóng gió gian nan lẫn thử thách khiến cho nhà thơ không
khỏi âu lo:
Bạn chẳng thấy:
Sóng trên biển trắng xóa như bạc đầu

Gió táp xô vỡ thuyền vạn mộc
Sóng ran chớp giật hãi mắt người
Mà trong điểm điểm vài chim âu
Hơi bể quyện vào núi, núi lởm chởm như ngón tay
Phía bắc núi, phía nam núi, suốt nghìn muôn dặm
Trên đường công danh đã mấy ai nhàn
Mũ lộng nhộn nhịp ta cũng đi đây
(Đứng trên Hoành Sơn nhìn biển)
Thơ ca hiện đại nở rộ phong phú về thể loại, cấu trúc và cả đối tượng được miêu tả.
Nhà thơ Huy Cận có khá nhiều bài thơ viết về biển. Bằng cảm quan vũ trụ, biển trong thơ
ông hiện lên với nhiều cung bậc và sắc thái khác nhau. Trong đó, nhà thơ đã tái hiện lại
cuộc sống lao động của ngư dân ven biển qua hình ảnh Đoàn thuyền đánh cá. Đó là những
hình ảnh lao động khỏe khoắn, mạnh mẽ cùng sự phong phú, hào sảng của biển cả:


24

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Biển đã có trong tâm thức của mỗi người. Đó là miền duyên hải xinh đẹp với cát trắng, có
nắng vàng và cả trời biếc:
Tôi nói đến một vùng duyên hải
Ở miền Nam êm ái quê tôi


Có cát trắng, có nắng vàng, trời biếc
Có những tấm lòng chan chứa tình thương
(Tiếng sóng- Tế Hanh)
Đó là quê hương, là cái nôi nuôi dưỡng ý chí cách mạng và lòng căm thù giặc sâu sắc:
Nơi rất thực và cũng là rất mộng
Của đời tôi yêu biển tự bao giờ
Trong giấc ngủ vẫn nghe tiếng sóng
Như tiếng lòng, giục giã những lời thơ

Những con người suốt chín năm kháng chiến
Đem máu đào giữ miếng đất thiêng liêng
Nay đứng thẳng nhìn quân thù Mỹ Diệm
Bùn sẽ tan khi ngọn thuỷ triều lên!
(Tiếng sóng- Tế Hanh)
Nhiều địa danh trở thành căn cứ chiến đấu quan trọng và để lại trong lòng nhân dân nhiều
tình cảm. Cửa Tùng của nhà thơ Hoàng Trung Thông là một bài thơ như thế:
Biển triền miên tung sóng như năm xưa
Hai dải cát nằm nghe dạt dào muôn lớp sóng
Ðất khét mùi đạn bom


25

“Những ý tưởng tự chủ, những cảm xúc tự hào về biển, đảo quê hương được nhà thơ lớn
Tố Hữu khái quát vào những câu thơ như một lời tuyên ngôn - tuyên bố chắc nịch về chủ
quyền hiển nhiên, về nét đẹp rạng ngời của một phần lãnh thổ Việt Nam toàn vẹn và thống
nhất:
Hùng vĩ thay toàn thân đất nước
Tựa Trường Sơn vươn tới Trường Sa
Từ Trà Cổ rừng dương đến Cà Mau rừng đước

Đỏ bình minh mặt sóng khơi xa [89]”...
(Vui thế, hôm nay)
Nhà thơ Khương Hữu Dụng bằng những câu thơ đầy triết lý đã vẽ nên hình ảnh bao lơn,
rộng lớn của biển, thu nạp vào trong mình hết thảy muôn suối nghìn sông để cuối cùng hóa
xanh trong:
Ai như biển cả lượng mênh mông
Muôn suối nghìn sông rộng mở lòng
Dòng đục dòng trong thu nạp cả
Tan vào chất mặn hóa xanh trong
(Biển và núi)
Ngoài các tầng ý nghĩa trên, biển, sóng còn được các thi sĩ sử dụng để nói hộ các
cung bậc cảm xúc khi yêu. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà thơ đều mượn hình ảnh
biển, sóng để nói đến các cung bậc cảm xúc ấy. Theo từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,
biển là “một biểu tượng của động thái sự sống. Tất cả từ biển mà ra và tất cả trở về biển:
đây là nơi của những cuộc sinh đẻ, những biến thái và những tái sinh. Là nước trong sự
chuyển động, biển tượng trưng cho một trạng thái quá độ giữa các khả năng còn phi hình
và các thực tại đã hiện hình, cho một tình thế nước đôi, tình thế bấp bênh, đầy hồ nghi,
chưa quyết định và có thể kết thúc tốt hay xấu. Từ chỗ đó biển là biểu tượng vừa của sự
sống, vừa của sự chết” [51,80]. Chỗ “không ổn định” của biển với nhiều tình thế bấp bênh,
hồ nghi phần nào giống với cung bậc cảm xúc trong tình yêu. Có lẽ vì thế mà nhiều nhà
thơ lấy hình ảnh của thuyền, biển, sóng… để miêu tả tâm trạng khi yêu.
Nhà thơ Xuân Diệu, ông hoàng thơ tình, đã viết:
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng


×