Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

hình tượng nghệ thuật về con người trong tập bắc hành tạp lục của nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (933.99 KB, 161 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phan Thị Bích Vân

HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI
TRONG TẬP BẮC HÀNH TẠP LỤC
CỦA NGUYỄN DU

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

TP. Hồ Chí Minh, Năm 2003



LỜI CẢM ƠN
Phòng khoa học-công nghệ sau đại học
Tập thể thầy cô khoa ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, Đại học Khoa
học Xã hội & Nhân văn, đại học Sư phạm Hà Nội.
Ban giám hiệu cùng đồng nghiệp nơi công tác-Trường PTTH chuyên Lê Hồng
Phong đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu.
Chân thành cảm ơn Cô Lê Thu Yến, người thầy lớn đã giúp đỡ, động viên tôi rất
nhiều để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Phan Thị Bích Vân

3


MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN ...........................................................................................................3
MỤC LỤC .................................................................................................................4
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................6
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................................... 6
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ...................................................................................................... 7
2.1.Về văn bản ............................................................................................................ 7
2.2.Về các công trình nghiên cứu ............................................................................. 10
3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................ 14
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ....................................................................................... 15
4.1.Về đối tượng khảo sát ......................................................................................... 15
4.2.Về nội dung ......................................................................................................... 15
5.KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN ..................................................................................... 16

CHƯƠNG 1: BẮC HÀNH TẠP LỤC - TẬP THƠ ĐI SỨ CỦA NGUYỄN DU
..................................................................................................................................18
1.1.THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NGUYỄN DU .............................................. 18
1.2.THƠ ĐI SỨ ............................................................................................................. 26
1.2.1.Tình yêu thiên nhiên và tình cảm gắn bó với con người. ................................ 27
1.2.2.Khí phách và trách nhiệm của công dân Đại Việt ở Bắc Quốc ....................... 38
1.2.3.Tình yêu của sứ giả đối với quê hương đất nước. ........................................... 42
1.3.BẮC HÀNH TẠP LỤC - NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU ................................. 47
1.3.1.Nguyễn Du với nhân vật văn hóa - lịch sử Trung Quốc .................................. 48
1.3.2.Nguyễn Du với phụ nữ .................................................................................... 66

4


1.3.3.Nguyễn Du vối người nghèo............................................................................ 74

CHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TẬP

BẮC HÀNH TẠP LỤC CỦA NGUYỄN DU .......................................................82
2.1.KHÁI NIỆM HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT ..................................................... 82
2.2.HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI.............................................. 83
2.3.HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TẬP BẮC HÀNH
TẠP LỤC ...................................................................................................................... 87
2.3.1.Con người yêu thương ..................................................................................... 89
2.3.2.Con người đời thường .................................................................................... 116
2.3.3.Con người vũ trụ ............................................................................................ 132

PHẦN KẾT LUẬN...............................................................................................150
PHẦN PHỤ LỤC CHÚ THÍCH .........................................................................153
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................155

5


PHẦN MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Không biết chính xác tự bao giờ cái tên Nguyễn Du đã trở thành thân thuộc đối với
mọi người - không chỉ người dân vùng Tiên Điền quê ông và cũng không chỉ người Việt
Nam chúng ta. Hai trăm năm có lẻ là khoảng thời gian không ngắn cho một kiếp người
nhưng là thời gian cần thiết cho sự thẩm định giá tri của tác phẩm văn chương - những
sản phẩm tinh thần cao quý của con người. Và trải qua hơn hai trăm năm với biết bao đổi
thay thế sự, những trang thơ Nguyễn Du vẫn đậm sâu trong lòng người đọc như một minh
chứng cho sức sống trường tồn của chúng, như một thách thức đối với thời gian.
Nguyễn Du và những vần thơ ông vì thế từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu
của không ít tác giả trong và ngoài nước với nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Hẳn
nhiên "Truyện Kiều" chiếm được sự quan tâm ưu ái hàng đầu vì sức hấp dẫn độc đáo của
nó. Người ta đọc 'Truyện Kiều" để "thương con Kiều quá" như các mẹ vùng quê hay để
nghĩ suy "Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc", để tìm thấy ở đó "Những điều trông

thấy mà đau đớn lòng" hay tấm lòng "nghĩ suốt nghìn đời" của thi.hào họ Nguyễn,...Có
nhiều lí do để đọc Kiều, có nhiều giá trị mới mẻ được phát hiện sau mỗi lần giở lại những
trang Kiều, và một đôi khi vì sức hút mãnh liệt của Kiều mà có người chỉ còn nhớ một
Nguyễn Du tác giả "Truyện Kiều". Hai trăm năm mươi bài thơ chữ Hán của ông không
sánh bằng ba nghìn hai trăm năm mươi bốn câu Kiều chăng? Tất nhiên không thể làm
phép so sánh như thế, bởi sự so sánh bao giờ cũng khập khiễng và đó cũng không phải là
lí do để nhiều người vô tình với thơ chữ Hán Nguyễn Du. "Truyện Kiều" gần gũi thân
thuộc với mọi tầng lớp trong xã hội, người không có một chữ bẻ đôi vẫn có thể đọc thuộc
Kiều do ngôn ngữ - vần điệu và thể loại quen thuộc từng gắn bó với họ qua ca dao dân ca
họ ngâm ngợi hàng ngày. Còn thưởng thức thơ chữ Hán đòi hỏi ở người đọc một trình độ
nhất định, một trường thẩm mỹ nhất định, một khả năng cảm và nghĩ nhất định - vượt lên
trên yêu cầu đối với người đọc giải trí bình thường. Và làm một hành trình ngược ta thấy
rằng sở dĩ có những yêu cầu ấy là vì thơ chữ Hán chính là phần tinh huyết được Nguyễn
Du chăm chút kỹ, chăm chút không phải để giãi bày "mua vui cưng được một vài trống

6


canh" cho người thiên hạ mà chỉ là để bày tỏ lòng mình, tự giãi bày với chính mình và
một đôi khi giãi bay với vài người ông coi là "đồng thuyền đồng hội". Vì thế tìm hiểu thế
giới nghệ thuật thơ Nguyễn Du không thể bỏ qua mảng thơ chữ Hán, nơi chứa đựng
những trăn trở suy tư, những triết lý, những tư tưởng mà thi sĩ họ Nguyễn từng ấp ôm
suốt một đời.
Chữ Hán là một thứ chữ tạo hình, bản thân nó mang những ký hiệu tượng trưng gợi
nghĩa. Mỗi bài thơ chữ Hán là một không gian mang tính hội họa, tính ấn tượng và gợi
mở về thế giới hiện thực - cảm xúc. Chính vì lý do đó thơ chữ Hán khó đến được với
người đọc mặc dù với Nguyễn Du, thơ chữ Hán mới chính là sự thể hiện cuộc đời của
bản thân mình, những tư tưởng tình cảm, những day dứt, vò xé trong chính tâm hồn mình
một cách trực tiếp, chứ không phải là một cách gián tiếp như trong Truyện Kiều.
Chọn đề tài "Hình tượng nghệ thuật về con người trong tập Bắc hành tạp lục của

Nguyễn Du" tác giả biết rằng đây không phải là một công việc dễ dàng. Và chỉ có lòng
yếu thích và say mê thôi thì chưa đủ. Bởi vì hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng mang
tính quan niệm và nó gắn liền với thế giới quan, với quan niệm nghệ thuật, với cách nhìn
nhận lí giải về con người của tác giả. Tầm cao, độ sâu của hình tượng nghệ thuật về con
người trong tác phẩm luôn là một thách thức đối với người nghiên cứu
Với trình độ và đặc biệt là vốn chữ Hán có hạn, người viết đến với đề tài này bằng
tinh thần học hỏi, mong muốn thử sức mình để khả đĩ góp thêm chút gì nhỏ bé trong quá
tình tìm hiểu về Nguyễn Du, để hiểu thêm về tâm tình, tư tưởng của thi nhân trong những
giờ phút khá thảnh thơi, thoát khỏi tai mắt bọn nịnh thần, khỏi những eo sèo của cuộc
sống và tìm thấy ở hình tượng con người nghệ thuật trong "Bắc hành tạp lục" những giá
trị đã làm nên một Nguyễn Du bất tử như ngày hôm nay.

2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1.Về văn bản
Do cần đi sâu vào nguyên bản để tìm hiểu kỹ về nội dung nghệ thuật nên chúng tôi
phải khảo sát các văn bản đã có:

7


1." Thơ chữ Hán Nguyễn Du" của Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh. Sách gồm
102 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du được chia theo ba thời kỳ:
- Thời kỳ làm quan nhà Lê gồm 28 bài.
- Thời kỳ làm quan triều Nguyễn gồm 24 bài.
- Thời kỳ đi sứ Trung Quốc gồm 50 bài.
2." Thơ chữ Hán Nguyễn Du" của Lê Thước, Trương Chính. Sách gồm 249 bài thơ
chia theo tên của từng tập thơ. Riêng tập Thanh Hiên được chia làm ba giai đoạn:
- "Mười năm gió bụi" (1786- 1795) gồm 27 bài.
- " Dưới chần núi Hồng" (1796 - 1802) gồm 33 bài.
- " Làm quan ở Bắc Hà" ( 1802 - 1804) gồm 18 bài.

Như vậy Thanh Hiên thi tập" gồm 78 bài, Nam Trung tạp ngâm gồm 40 bài và Bắc
Hành tạp lục gồm 131 bài.
3." Thơ chữ Hán Nguyễn Du" cũng của các cụ Lê Thước, Trương Chính, về cơ bản,
cuốn này cũng giống cuốn trên, được in lại lần thứ hai, và bản in lại lần hai này không có
phần phụ lục chữ Hán.
4.“Tuyển tập thơ Hán Việt” của Đông Xuyên, nhà xuất bản Cảo Thơm Sài Gòn năm
1972. Nguyễn Hữu Lê viết lời tựa. Sách này chọn lọc một số tác phẩm tiêu biểu của
nhiều nhà thơ. Trong đó có thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Sách có 18 bài thơ chữ Hán của
ông.
5."Tố Như thi" do Quách Tấn dịch nghĩa và dịch thơ. Thi Vũ trình bày bìa. Nhà
xuất bản An Tiêm, Sài Gòn năm 1973, sách gồm 72 bài, được chia theo từng tập thơ.
Thanh Hiên Thi tập 30 bài, Nam Trung thi tập 20 bài, Bắc hành tạp lục 22 bài. Riêng tập
Thanh Hiên tác giả chia ra 3 thời kì:
- Mười năm đất khách (1786 - 1795)

8


- Sáu năm quê nhà (1796 - 1802)
- Làm quan Bắc Hà (1802 - 1804)
6."Thơ chữ Hán Nguyễn Du" do Đào Duy Anh sắp xếp, dịch nghĩa, chú thích,
Nguyễn Kim Hưng hoàn chỉnh bản dịch, biên soạn. Sách được chia theo từng tập thơ, tập
Thanh Hiên gồm 79 bài, Nam Trung tạp ngâm 40 bài, Bắc hành tạp lục 130 bài. Sách
không có phụ lục chữ Hán. Phần chú thích để riêng phía cuối sách. Mục lục ghi theo tên
từng tập thơ.
7.Nguyễn Du toàn tập gồm 2 tập, tập 1 thơ chữ Hán do Mai Quốc Liên phiên âm,
dịch nghĩa chú thích với sự cộng tác của Nguyễn Quảng Luân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu
Yến. Sách được chia theo từng tập thơ, Thanh Hiên gồm 78 bài, Nam Trung gồm 40 bài,
Bắc Hành 132 bài. Riêng trong tập Bắc Hành có thêm một bài do Giáo sư Mai Quốc Liên
phát hiện, đó là bài "Lỗi Dương Đỗ Thiếu lăng mộ li". Sách này được biên tập kĩ càng,

công phu hơn, có phần phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú thích. Sách có kèm bản đồ đi
sứ, bản tấu trình của Nguyễn Du.
8."192 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du "do Bùi Hạnh cẩn biên dịch và chú thích.
Điều khác biệt của cuốn sách này là chỉ do một người lựa chọn, biên soán, dịch thuật.
Sách này cũng có hướng đi riêng. Không có phần chữ Hán, không có phần dịch nghĩa, chỉ
có phần phiên âm, dịch thơ và chú thích.
9."Nguyễn Du - Tác phẩm và lịch sử văn bản" của Thạch Giang và Trương Chính,
nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, năm 2001. Cuốn sách này thừa hưởng những thành
tựu nghiên cứu của những nhà Kiều học, nhà Hán học từ trước đến nay. Cuốn sách này ra
đời muộn nhất nhưng hai tác giả đã có nhiều kỳ công rà soát, đối chiếu chặt chẽ để tránh
những sai sót trước đây.
Phần thơ chữ Hán được thực hiện trên cơ sở văn bản văn học, 1965, có bể sung, sửa
chữa lại sau khi đã tham khảo thêm bản dịch chép tay của các cụ Nguyễn Văn Bách,
Phan Trọng Bình, Thạch Can, Trần Hữu Chương, Nguyễn Mỹ Tài gửi cho toàn tập. Các
bài thơ chữ Hán được sắp xếp lại hợp lý hơn để tiện việc học tập, nghiên cứu. Phần dịch

9


nghĩa được sửa chữa. Phần dịch thơ cũng được thay bằng những bài dịch theo nguyên thể
của các cụ Phạm Khắc Hoan, Lê Thước, Ngô Ngọc Can.
2.2.Về các công trình nghiên cứu
Lịch sử vấn đề nghiên cứu Truyện Kiều rất rộng lớn, đề cập đến nhiều phương diện.
Còn thơ chữ Hán Nguyễn Du ít được giới nghiên cứu quan tâm nên những bài viết về thơ
chữ Hán không nhiều.
Tuy vậy, vấn đề này cũng đã có một số bài viết đề cập đến. Những ý kiến này xoay
quanh đến tình cảm, suy nghĩ của nhân vật trữ tình trong thơ, có khi sâu hơn là những lời
thẩm bình, đánh giá nội dung tư tưởng, tình cảm của tác phẩm. Hầu hết những công trình
nghiên cứu lớn, nhỏ đều có sự nhìn nhận, đánh giá con người thông qua hai dạng trên.
Nhưng, những đánh giá trực tiếp dưới một điểm nhìn khái quát, tổng hợp toàn bộ

sáng tác của Nguyễn Du, dựa trên quan niệm nghệ thuật của tác giả về con người thì xuất
hiện không nhiều và đánh giá chưa đầy đủ: hoặc chỉ nói đến một khía cạnh, hoặc nói quá
khái quát, hoặc chỉ để nhấn mạnh cho một nội dung tư tưởng, tình cảm nào đó...
Ý kiến sớm nhất và có nói đến những biểu hiện của con người trong thơ Nguyễn Du
là của Hoài Thanh, bài được đăng trên tạp chí văn nghệ, tháng 3 năm 1960, có tựa đề: "
Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán". Trong bài viết này, ông có nói đến
những nỗi niềm không nói ra được của Nguyễn Du: "Qua Truyện Kiều, ta thấy Nguyễn
Du thương xót như thế nào dưới ngòi bút Nguyễn Du, Nguyễn Du đã đi sâu như thế nào
trong đời sống cay cực của con nhà kẻ khó. Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng vậy.
Đặc biệt có hai bài rất hay về phương diện này là bài Thái Bình mại ca giả, và Sở Kiến
hành, cả hai bài đều sáng tác trên con đường đi sứ ". Bài viết còn đưa ra những hình ảnh
chân thật và cảm động của ông già mù hát rong:
"Khẩu phún bạch mạt thủ toan xúc
Khước tọa liễm huyền cảo chung khúc"
(Miệng sùi bọt mép, tay mỏi rã rời,

10


Ông già ngồi xuống, xếp đàn, ngỏ lời đã đàn hát xong)
Ông còn dựng lên bức tranh ảm đạm của mấy mẹ con người hành khất vì đói phải
lưu lạc tha hương, rồi sẽ chết bỏ thây nơi ngòi rãnh
"Mẫu tử bất túc tuất
Phả nhi tăng đoạn trường
Kỳ thống tại tâm đầu
Thiên nhật giai vị hoàng"
(Mẹ chết thôi đã đành
Tiếng vỗ con đứt ruột
Đây lòng mẹ dày nát
Mặt trời cũng ùa vàng)

Bài viết của Hoài Thanh còn đưa ra hình ảnh con người đau khổ qua những hình
tượng người nghèo, người ăn xin, người gian ngoan qua những hình tượng Tô Tần,
Thượng quan Ngân Thượng Như vậy, với những nhận định ban đầu, Hoài Thanh đã khái
quát được hình tượng con người trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, chỉ về mặt nội dung, và
chỉ lướt qua chứ chưa đào sâu vấn đề.
Sau đó không lâu, năm 1966, Xuân Diệu trong bài viết " Thi hào dân tộc Nguyễn
Du " cung có những nhận xét về con người trong thơ chữ Hán Nguyễn Du như sau:
"Trong thơ chữ Hán - trong Vãn chiêu hồn cũng có điểm như thế - nó không phải là
tiểu thuyết, là kịch nữa mà thuần là tâm tình bản thân Nguyễn Du đã để con người của
mình trong thơ, đã cho ta thấy Tố Như, Tố Như bên sau cái vỏ ông quan, ông chánh sứ. Ở
đây, chúng ta quen thuộc với Tố Như, có thể nói là chúng ta vào dưới da của Nguyễn Du.
Thơ chữ Hán (và Văn chiêu hồn) soi cho chúng ta hiểu thêm Truyện Kiều, hai tác phẩm
trên là cho chúng ta yêu thêm Nguyễn Du, do vậy càng yêu Truyện Kiều hơn nữa".

11


Trong bài viết này, Xuân Diệu đưa ra một cái nhìn tương đối về con người Nguyễn
Du trong thơ chữ Hán. Đến ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Xuân Diệu đã đề cập khá
toàn diện. Ông bày tỏ sự nặng lòng của mình với người trung thần Khuất Nguyên, Hàn
Tín, Văn Thiên Tường, Đỗ Phủ... mấy mẹ con người hành khất, người hát rong mù...
Xuân Diệu cũng nhắc đến sự căm phẫn của Nguyễn Du trước toàn bộ thực trạng xã
hội lúc bấy giờ. Đó là sự nham hiểm, tàn ác của những tên quan, của những kẻ "đi ra xe
ngựa, về vênh váo ".
Như vậy, so với nhận định đầu tiên, bài viết của Xuân Diệu đã phần nào khái quát
thêm nhiều loại con người trong thơ chữ Hán. Ông viết: "Nguyễn Du không phải là con
người hành động mà là con người tư tưởng. Con người ấy tiếp nhận tất cả mọi cay đắng
trong đời với một thái độ lặng lẽ chịu đựng. Nhưng bên trong con người đó, một cuộc đấu
tranh ngấm ngầm chống lại mọi nguy cơ sa ngã vẫn diễn ra dai dẳng không ngừng. Và so
với người khác, những nỗi cực nhọc mà cọn người ấy chịu còn phải nhân lên gây mấy

lần, vì nó dồn nén, súc tích lại thành những nỗi đau vò xé tâm can chứ không được giải
phóng ra thành hành động".
Và ở một chỗ khác: "Con người ấy chỉ biết nâng đau khổ lên thành triết lý, và rồi
quẩn quanh trong triết lý đến nỗi không nhìn thấy nguyên nhân mọi nỗi khổ hiện thực của
mình ".
Rõ nhất và có giá trị nhất vẫn là lời nhận xét của Nguyễn Huệ Chi trong bài
"Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán".
Ông viết: "Hình tượng một con người đi trong bóng đêm dày đặc, hãi hùng, bị gió
lạnh đồn cả vào mình, và cứ mong cho chóng sáng mà không thấy sáng, thật đã phản ánh
đúng cái cảm nghĩ tuyệt vọng của Nguyễn Du về sự mất phương hướng. Đây không chỉ
là hình ảnh tự họa chính xác nhất của nhà thơ mà còn là hình ảnh có một ý nghĩa xã hội
rộng lớn: Tấn bi kịch lịch sử ở giai đoạn cực kỳ thối nát, tan rữa. Ý nghĩa nhận thức đồng
thời cũng là ý nghĩa nhân đạo trong phần lớn những bài thơ chữ Hán nói về mình của
Nguyễn Du, chính là như vậy.

12


Bài viết còn chú trọng khai thác hình thức nghệ thuật:
"Vì thế, trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, các hình tượng nhân vật đối lập cứ xuất
hiện theo cái thế song song tương phản, thành từng cặp không rời."
"Mặt khác, đứng về kết cấu của hình tượng thơ, Nguyễn Du thường ít khi để cho
những nhân vật phản diện đứng riêng biệt một mình. Thông thường, chúng vẫn được hình
dung gắn sát với nhân vật chính diện ", " Nhưng đọc thơ ông, từ những bài nói về người
nghèo khổ đến những bài nói về giai nhân, những anh hùng, rất tự nhiên, một sợi dây liên
tưởng cứ nối liền từng cặp hình tượng nhân vật đối lập lại".
Đào Xuân Quý có bài " Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán "đăng trên báo
văn nghệ tháng 11 năm 1965 cũng có nói đến con người. Tuy chưa đề cập đến vân đề liên
quan tới cảm xúc, suy nghĩ, tình cảm của nhân vật trữ tình trong thơ nhưhg bài viết đã
đưa ra những nhận xét, bình luận, đánh giá nội dung tư tưởng, tình cảm của tác giả.

Mai Quốc Liên trong lời nói đầu cuốn " Nguyễn Du toàn tập " thì nhận định:
"Nhưng cũng từ cái nhìn đó mà Nguyễn Du thâm cảm và biểu dương hết lời những
nhân vật và quyền lực, đứng về phía con người, đất nước và nhân dân"
Thêm vào đó, Mai Quốc Liến còn phân tích những đặc thù trong thi pháp thơ chữ
Hán Nguyễn Du. Ông viết: "Hàng trăm câu như thế, hàng trăm câu đối nghịch tài hoa mà
sâu sắc như thế, làm nên thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du, một thế giới tràn ngập
những suy tư bạc tóc về nhân thế".
Còn "Tâm sự của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán của Trương Chính" chỉ nói đến nội
dung các tập thơ chứ chưa đi sâu vào hình tượng nghệ thuật về con người.
Đến năm 1999, Lê Thu Yến lần đầu tiên cho ra đời chuyên luận "Đặc điểm nghệ
thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du ".Đây là công trình công phu và có giá trị. Chương II và
chương III đi sâu khám phá thế giới nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, đã khái quát
được các biểu hiện hình tượng nghệ thuật về con người trong thơ. Trong đấy tác giả đã
phát hiện ra hình tượng con người âu lo, con người lãng mạn, con người đau khổ. Đó là

13


những nét lớn tập trung trong cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du qua toàn bộ thơ chữ
Hán.
Như vậy, từ chuyên luận này, chúng ta có một cái nhìn khá toàn diện về thơ chữ
Hán Nguyễn Du. ở những công trình trước, từ những nhận xét của mình, các tác giả chỗ
này hay chỗ khác đều có điểm qua cái nhìn nghệ thuật. Còn chuyên luận này cho ta thấy
một cách khái quát cái hình tượng nghệ thuật về con người trong suốt ba tập thơ chữ Hán
của Nguyễn Du, chứ không chỉ riêng ở tập thơ nào.
Do tính chất, mục đích và phạm vi các công trình, các bài viết trên mà các nhà
nghiến cứu chưa đi sâu vào cái nhìn nghệ thuật về con người trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du, đặc biệt là hình tượng con người nghệ thuật trong Bắc hành tạp lục.
Nội dung trọng tâm của đề tài mà chúng tôi thực hiện là: "Hình tượng nghệ thuật về
con người trong thơ chữ Hán Nguyễn Du " trong tập Bắc Hành tạp lục - tập thơ viết trên

đường đi sứ chứ không phải toàn bộ thơ chữ Hán của Nguyễn Du, tất cả các bài viết trên,
đặc biệt là công trình "Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du" của tác giả Lê Thu
Yến là một trong những cơ sở, tiền đề giúp chúng tôi thực hiện tốt công trình này.

3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong luận văn này, chúng tôi phối hợp sử dụng các phương pháp phân tích - tổng
hợp, phương pháp lịch sử và phương pháp so sánh, phân loại - thống kê.
Bắc Hành tạp lục là một tập thơ, do đó khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi sẽ cố
gắng khảo sát trên văn bản từng bài, hệ thống hóa các tác phẩm nhỏ trong một tác phẩm
lớn, quan sát chúng như những chỉnh thể. Qua đó có thể rút ra được tính thống nhất cũng
như một số đặc điểm mâu thuẫn trong tình cảm và trong tư tưởng Nguyễn Du. Điều này
sẽ được soi rọi bằng chính cuộc đời tác giả để tìm ra nguồn mạch của tư tưởng Nguyễn
Du thể hiện trong Bắc Hành. Đồng thời chúng tôi cũng tiến hành so sánh, đối chiếu nội
dung tư tưởng và đặc điểm nghệ thuật của các bài thơ trong Bắc Hành tạp lục với các tác
giả khác cũng làm trong thời gian đi sứ. Cuối cùng, chúng tôi sẽ tổng hợp, khái quát lại
tất cả những điều đã phân tích và đối chiếu để tìm ra hình tượng nghệ thuật về con người

14


trong tập thơ đi sứ của Nguyễn Du. Dưới góc độ thi pháp học, chúng tôi sẽ tìm hiểu quan
niệm nghệ thuật của tác giả thông qua hình tượng con người, nhân vật có mặt trong tác
phẩm của ông. Vì là hình tượng con người nhân vật trong thơ trữ tình nên chúng ta có thể
xem xét ở nhiều góc độ với nhiều mối quan hệ: cái tôi với bản thân, cái tôi với mọi
người, cái tôi với thế giới tự nhiên bên ngoài ...

4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1.Về đối tượng khảo sát
Những tư liệu về thơ chữ Hán Nguyễn Du mà chúng tôi xin được phép sử dụng để
nghiên cứu là cuốn Nguyễn Du toàn tập của Mai Quốc Liên, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu

Yến.
4.2.Về nội dung
- Bổ sung, cụ thể hóa quan điểm về quan niệm nghệ thuật của các tác giả đi trước.
- Dựa vào một số công trình nghiên cứu sẵn có, phát hiện ra điều mà các tác giả đi
trước chưa làm, chưa nghiên cứu cụ thể về quan niệm con người nghệ thuật trong thơ chữ
Hán nói chung và trong tập thơ Bắc Hành tạp lục nói riêng.
- Đưa ra một hướng đi mới về cách tiếp cận hình tượng con người nghệ thuật trong
thơ ca và trong nghiên cứu văn học nói chung. Đó là cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc,
cách tiếp cận vấn đề trong mối liên quan với đặc trưng thể loại và cách tiếp cận văn hóa
học.
Được viết ương quá trình đi sứ ở Trung Hoa, Bắc Hành tạp lục sẽ là cánh cửa để
cho ta tiếp cận với con người nghệ thuật Nguyễn Du. Và tuy chỉ là những vần thơ
Nguyễn Du viết cho riêng mình với những đề tài thật xưa cũ, nhưng ngòi bút của đại văn
hào đã khiến cho các thi phẩm ấy xứng đáng được lưu truyền thiên cổ. Tình thương của
Nguyễn Du đã làm xóa mờ đi mọi sự khác biệt hoàn cảnh lịch sử, địa lý, mọi khoảng
cách không gian và thời gian. Bên cạnh đó, với Bắc Hành, ta còn có thể thấy được tầm
kiến thức sâu rộng của Nguyễn Du về lịch sử, về văn hóa, văn học và cả lòng người, hiểu
được vì sao Nguyễn Du không chỉ được tôn vinh là một thi nhân mà còn được coi là một

15


nhà văn hóa lớn. Ông xứng đáng với danh hiệu đó bởi ông "có con mắt nhìn thấu sáu cõi,
tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời". Lời nhận xét của Mộng Liên Đường xưa kia không biết có
làm Nguyễn Du ngậm cười nơi chín suối, khi đến nghìn năm sau có người hiểu mình đến
như vậy.

5.KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Do những đặc điểm về đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu ... như đã nêu
trên, luận văn "Hình tượng nghệ thuật về con người trong Bắc Hành tạp lục của Nguyễn

Du có kết cấu như sau:
Phần Mở Đầu
1.Lý do chọn đề tài
2.Lịch sử vấn đề
3.Phương pháp nghiên cứu
4.Phạm vi nghiên cứu
5.Bố cục luận văn
Phần Nội Dung
Chương 1. Bắc Hành tạp lục - Tập thơ đi sứ của Nguyễn Du
1.1.Thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Du
1.2.Thơ đi sứ
1.3.Bắc Hành tạp lục - Những nội dung chủ yếu
1.3.1.Nguyễn Du với những nhân vật văn hóa - lịch sử
1.3.2.Nguyễn Du với người phụ nữ
1.3.3.Nguyễn Du với người nghèo
Chương 2: Hình tượng nghệ thuật về con người trong tập Bắc Hành tạp lục của
Nguyễn Du

16


2.1.Khái niệm hình tượng nghệ thuật
2.2.Hình tượng nghệ thuật về con người
2.3.Hình tượng nghệ thuật về con người trong tập Bắc Hành tạp lục
2.3.1.Con người yêu thương
2.3.2.Con người đời thường
2.3.3.Con người vũ trụ
Phần kết luận

17



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: BẮC HÀNH TẠP LỤC - TẬP THƠ ĐI SỨ CỦA
NGUYỄN DU
1.1.THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NGUYỄN DU
Nguyễn Du sinh năm 1765 tại phường Bích Câu (Thăng Long) quê quán Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con trai tể tướng Nguyễn Nghiễm và bà Trần Thị
Tần.
Mười năm đầu của cuộc đời Nguyễn Du trôi qua êm đềm và có phần tẻ nhạt trong
dinh cơ của cha ở phường Bích Câu, Thăng Long. Hồn thơ Nguyễn Du đã được nảy nở
và nuôi dưỡng chính tại nơi đây, trong không khí và nếp sống của một gia đình Nho học,
có truyền thống văn chương, mấy đời làm quan to. Bước đường đời của Nguyễn Du
chừng như đã được ấn định trước theo truyền thống gia đình như cha, như anh: đi học,
đậu cao, làm quan, vinh hoa, phú quí ... như về sau này ông đã có dịp hoài vọng:
"Tiên chu kích thủy thần long đấu
Bảo cái phù không thụy hạc phi"
(Giang Đình hứa cảm - Thanh Hiên thi tập)
(Thuyền tiên cuộn nước như rồng thần đấu nhau
Chiếc lọng quí phấp phới trên không như chim hạc lành bay)
Không chỉ công thành danh toại, gia đình Nguyễn Du còn có truyền thống văn
chương. Theo cuốn "Nguyễn Du, tác phẩm và lịch sử văn bản" của Trương Chính và
Nguyễn Thạch Giang thì họ Nguyễn Tiên Điền người nào cũng hay thơ. Nguyễn Nghiễm
có hai tập "Quân trung liến vận và Xuân đình tạp ngâm". Bài phú ông làm trong một kỳ
thi ứng chế, tự vua ra đầu bài và chấm thi, đề là "Khổng Tử mộng Chu Công" rất được
truyền tụng.

18



Nguyễn Khản không có tập thơ riêng nào. Thơ ông được chép trong quyển "Nguyễn
Gia Phong vận tập". Ông là một trong những người địch Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần
Côn. Năm 1780 xảy ra vụ "Mật án Canh Tý". Trịnh Sâm lập Cán thay Tông làm thế tử.
Nguyễn Khản giúp Trịnh Tông nhưng việc bị bại lộ, Khản bị giam. Khi bị bắt, ông có
làm một bài thơ tự tình bằng quốc âm. Trịnh Sâm xem cảm động, tha tội cho ông (1).
Nguyễn Nể cũng là người hay thơ. Hai người cháu gọi Nguyễn Du bằng chú, nhưng tuổi
thì xấp xỉ bằng nhau là Nguyễn Thiện và Nguyễn Hành thường cùng nhà thơ ngâm vịnh.
Hai người con gái Nguyễn Khản là Nguyễn Thị Bành và Nguyễn Thị Đài đều giỏi thơ
quốc âm. Thêm vào đó, Nguyễn Du có điều kiện học và đọc rất nhiều sách thánh hiền từ
bé, được tiếp xúc với những làn điệu dân ca quan họ, những truyền thuyết thần kỳ của
dân tộc mình thông qua người mẹ rất mực dịu hiền xứ Kinh Bắc, một xứ sở nổi tiếng về
nếp sống giàu có và lịch lãm. Nhiữig tuổi thơ tươi đẹp ấy không kéo dài được bao lâu.
Năm Nguyễn Du tròn mười tuổi đã có hai biến cố lớn xảy ra: Nguyễn Trụ, anh cùng mẹ
với Nguyễn Du mắc bệnh mất ở Kinh giữa tuổi mười tám. Tiếp đến, Nguyễn Nghiễm
cũng qua đời. Hai cái tang của gia đình như cánh cửa khép lại thời vàng son của gia đình
họ Nguyễn và cũng kết thúc luôn thời thơ ấu ấm êm của ông.
Mồ côi cả cha lẫn mẹ, Nguyễn Du về ở với người anh cả là Nguyễn Khản. Khản
học giỏi, thông minh, đỗ đạt sớm, làm quan to, được chúa Trịnh quí mến và lại là con
người tài hoa, phong lưu rất mực. Sách "Vũ Trung tùy bút" chép: "Nguyễn Khản ham
thích hát xướng, gặp khi con hát tang trở cùng cứ cho tiền bắt hát trong nhà không lúc
nào bỏ tiếng tơ, tiếng trúc ..." (2)
Hoàn cảnh ấy, cuộc sống ấy đã sớm in vào hồn thơ măng tơ của Nguyễn Du nhiều
ấn tượng sâu đậm. Cũng có thể đây chính là khởi sự của lòng thương cảm đặc biệt của
ông đối với phụ nữ nói chung và ca kỹ nói riêng. Cũng trong thời gian này, Khản thăng
giáng bất thường, cho đến khi kiêu binh nổi loan thì trốn lên Hà Sơn Bình với Nguyễn
Điều rồi sau đó hai anh em phải bỏ về Nghệ Tĩnh (1784).
Khi Tây Sơn ra Bắc, Nguyễn Khản cũng bôn ba theo chúa Trịnh vua Lê một phen
nữa nhưng rồi bị bệnh và chết năm 1786. Nguyễn Điều cũng đã chết mấy tháng trước đó.

19



Cùng với sự sụp đổ của chế độ Lê - Trịnh, gia đình họ Nguyễn cũng dần dần suy sụp
theo. Và đến khi ba anh em Nguyễn Du, Nguyễn Nề, Nguyễn Ức không theo kịp Lê
Chiêu Thống đành quay lại, mỗi người đi một nơi.
Cũng trong những năm bối rối đó, Nguyễn Du đi thi hương ở Sơn Nam đậu Tam
Trường (1784). Tuy đỗ thấp nhưng ông vốn là người học rộng, hiểu nhiều, không những
Nho học mà Phật, Đạo đều thông suốt. Gia phả chép: "Thời làm quan ở Kinh, có nhiều
văn sĩ theo học với ông Điều đó chứng tỏ ông là người có học vấn uyên thâm. Thế nhưtig
vì không đỗ cao, ông chỉ tập ấm người bố nuôi họ Hà mà giữ chức chính thủ hiệu đội
quân hùng hậu tình Bắc Thái sau khi ông này qua đời.
Năm 1789, sau khi chia tay với anh là Nguyễn Nễ, và em là Nguyễn ức, Nguyễn Du
trở về quê vợ ở làng Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, ở nhà anh vợ là Đoàn
Nguyễn Tuấn. Anh em mỗi người một nơi. Chưa bao giờ Nguyễn Du cảm thấy mình bất
lực và thất vọng như thế này. Tập " Thanh Hiên" ra đời và được Nguyễn Du tiếp tục sáng
tác trong gần 20 năm, chia làm 3 giai đoạn :
1.Giai đoạn " Mười năm gió bụi" từ năm Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà
(1786) cho đến năm Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh ( khoảng cuối 1795 đến
1796)
2.Giai đoạn " Dưới chân Núi Hồng " (từ năm 1796 đến 1802)
3.Giai đoạn " Ra làm quan ở Bắc Hà" (từ cuối 1802 đến cuối 1804) (3)
Nỗi buồn đau trước thời thế và gia đình đã tan tác được Nguyễn Du than thở:
"Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên"
(Quỳnh Hải nguyên tiêu - THTT)
(Chốn non Hồng không còn nhà, anh em tan tác
Đầu bạc nhiều giận nỗi ngày tháng trôi)

20



Giống như Đỗ Phủ xưa kia, Nguyễn Du giờ đây lại lênh đênh với cuộc phong trần.
Hiện thực cuộc sống lại đầy rẫy những khó khăn:
"Thập tải phong trần khứ quốc xa
Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia
Trường đồ nhật mộ tân du thiểu
Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa."
(U cư - bài 2 -THTT)
(Mười năm gió bụi rời kinh thành đi xa
Đầu bạc phơ phơ ở nhờ nhà người
Đường dài, trời chiều, bạn mới ít
Một nhà xuân lạnh bệnh cũ nhiều)
Thời gian này ta có thể thấy tâm trạng u uất, bế tắc cùng với những nỗi dày vò, trăn
trở của Nguyễn Du kết đọng trong từng nét bút. Từng ngày, từng giờ trôi nổi cùng cuộc
sống bấp bênh, đã khiến Nguyễn Du quan tâm nhiều đến con người và thời cuộc. Ông trở
nên chán nản, bi quan:
"Sinh vị thành danh thân dĩ suy
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy"
(Tự thán-bài 1-THTT)
(Sống chưa làm nên danh, thân đã suy yếu
Tóc bạc phơ phơ, gió chiều thổi)
Nguyễn Du sinh thời được hấp thụ một nền nho học chuẩn mực, đã cũng rất tự hào
về tài năng của mình và khao khát được phụng sự nước nhà. Thế nhưng hiện thực cuộc
sống đã không được như ông mong muốn. Danh không thành, chí không đạt, hùng tâm
tráng chí cứ mãi nguội dần theo tháng năm với tóc bạc nghèo đói:

21


"Loạn thế nam nhi tu đối kiếm ( Lưu biệt Nguyễn Đại Lang I - NTTN )

(Làm trai thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn)
"Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm (Tạp ngâm - NTTN)
(Tấm lòng hùng tráng lụi tàn làm cây đoản kiếm thành vô dụng)
"Thư kiếm vô thành sinh kế xúc ( Tự thán II - NTTN)
(Thư kiếm đều không thành sinh kế quẫn bách)
"Hùng tâm sinh kế lưỡng man nhiên " (Tạp thi I - THTT)
(Hùng tâm và sinh kế cả hai đều mờ mịt)
"Bạch phát hùng tâm không đốt ta" ( Khai song - NTTN)
(Tóc bạc rồi dù có hùng tâm cũng chỉ biết than thở )
Buồn đau như thế, Nguyễn Du đã mong ước:
"Gợi tóc vào rừng ở, nằm nghe tiếng thong reo lưng chừng mây"

"Hà năng lạc phát qui lâm khứ (Tự thán II - NTTN)
(Ước sao có thể xuống tóc vào rừng ở)
Thế nhưng tất cả những điều đó cũng chỉ là những lời nói dổi của một con người lỡ
thời. Niềm tâm sự thật, chân tình nhất mà ông vẫn hằng day dứt là :
"Cao hứng cửu vô hoàng các mộng
Hư danh vị phóng bạc đầu nhân"
(Mạn hứng - bài I - THTT )
(Đã lâu không còn cao hứng với giấc mộng gác vàng Nhiừig hư danh vẫn chưa
buông tha cho người đầu bạc). Thêm vào đó, ông phải gánh chịu cuộc sống vô vị, cơ cực,
thiếu thốn:

22


"Văn tự hà tằng vi ngã dụng
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên"
(Khất thực-THTT)
(Văn chương chữ nghĩa nào đã từng ích gì cho ta

Không dè đói rét phải nhận lòng thương hại của người đời)
Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du bị quân Tây Sơn bắt giữ vì theo
Nguyễn Anh. Nhờ có Quận công Nguyễn Thận, trấn tướng của Tây Sơn ở Nghệ An là
bạn thân của Nguyễn Đề và lại là một người rất mến tài thơ của Nguyễn Du nên chỉ giam
giữ mấy tháng rồi thả cho về. Nguyễn Du có làm bài " My trung mạn hứng " (Cảm hứng
trong tù) ghi lại sự việc này:
"Bốn bề gió bụi nghĩ tình nhà việc nước mà rơi lệ
Mười tuần lao từ nỗi lòng thấp thỏm cái sống cái chết"
Sáu năm ở quê nhà, tâm sự của một người bất đắc chí trong ông đã lên đến tột bực.
Ngập tràn trong các câu thơ là niềm cảm thương da diết của một người tuyệt vọng, vụng
đường sinh kế lại lỡ làng công danh:
"Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm sinh kế lưỡng man nhiên
(Tạp thi-bài số 1-THTT)
(Trai tài đầu bạc ngóng trời than
Dựng nghiệp mưu sinh luống lỡ làng)
"Bạch phát thu phong không tự ta
(Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch - BHTL)
(Nay đầu bạc chỉ luống tự mình than vãn với gió thu)
Và nhà thơ không biết phải chịu đựng như thế đến bao giờ:

23


"Phù sinh lao lục kỷ thời hưu" (Đồng Lung Giang - THTT)
(Còn cảnh phù sinh vất vả đến bao giờ mới thôi)
Trong thời gian này, ông lấy săn bắn, câu cá làm niềm vui. Ông tự đặt mình là Hồng
Sơn liệp bộ (Người đi săn ồ núi Hồng) và Nam Hải điếu đồ (Người đi câu cá ở biển
Nam.)
Và cũng trong thời gian này, Nguyễn Du đã tự thoát ra khỏi cái vỏ của một nhà nho

dòng dõi trâm anh thế phiệt, sống gần gũi hơn với dân quê mình. Những buổi hát đối đáp,
hát ví, hát phường vải tại nơi đây đã nuôi dưỡng con người nghệ sĩ vĩ đại trong Nguyễn
Du. Và có lẽ chính ở khúc quanh này, Nguyễn Du đã kịp nhận ra sự khô cứng, công thức,
sự bức bối tù túng của lối thơ ngâm hoa vịnh nguyệt và nhận ra vẻ đẹp diệu kỳ, tao nhã,
uyển chuyển của thơ ca dân tộc. Có lẽ Truyện Kiều có nguồn gốc từ đây.
Tinh hình chính sự trọng nước cũng có nhiều thay đổi. Lúc này triều Tây Sơn không
còn nữa, triều Nguyễn được dựng lên.
Năm 1802, Nguyễn Anh lên ngôi và lấy hiệu Gia Long. Khi Gia Long lên ngôi, vị
vua này cho vời lại các cựu thần nhà Lê cũ ra triều nhận chức mới trong đó có Nguyễn
Du.
Tháng 8 năm 1802, ông được bổ làm tri huyện Phù Dung ( Hà Nam Ninh ), rồi
tháng li thăng tri phủ Thường Tín (Hà Tây). Năm 1805 lại được thăng hàm Đông Gác đại
học sĩ.
Năm 1809 ông làm cai bạ Quảng Bình. Năm 1813 ông được cử đi tuế cống nhà
Thanh, lúc về được thăng tham tri bộ lễ và giữ chức ấy cho đến ngày mất (ngày 10 tháng
8 năm 1820).
Con đường làm quan của Nguyễn Du thế phải kể là xuôi chèo mát mái. Ông đã
được lòng tin cậy của triều Nguyễn. Còn với nhân dân, khi làm cai bạ Quảng Bình, ông
được tiếng là "Chính sự giản dị, sĩ dân yêu mến". Gia phả chép: "dầu làm đến chức Á
khanh mà ông vẫn giữ vẻ thanh nhã, đơn giản như một học trò nghèo". Quả thật điều đó
đã làm không ít người yêu quí và cảm thấy gần gũi ông.

24


Dù đường quan xuôi chèo mát mái nhưng dường như những biến động đảo điên của
lịch sử cũng như hiện thực đen tối luôn hiển hiện đã làm nguội lạnh "giấc mộng gác
vàng" của ông. vốn bình lặng và an nhàn trong những ngày ở sông Lam, núi Hồng, giờ
đây phải gò mình trong khuôn khổ mũ cao, áo dài của một ông tri huyện đã thực sự làm
Nguyễn Du bức bối, ngột ngạt:

"Thác phác bất toàn chân diện mục
Nhất châu hà sự tiều công danh"
(Ký hữu - THTT)
(Ngọc mộc đã không toàn mặt thật
Châu xoàng chi bõ bận đanh thời).
Và ông luôn tự dặn lòng:
"Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc"
(Tống nhân -NTTN)
(Các con chim oanh đẹp ở vườn
thượng uyển hay ghen nhau về màu sắc)
Nguyễn Du là người kín đáo. Đại Nam chính biên liệt truyện viết: " Nguyễn Du là
người ngạo nghễ, tự phụ song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì
ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì hết". Thái độ u uất, trầm mặt đó, ông đã mang
theo đến cuối cuộc đời. "Đến lúc ốm nặng ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ
tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi, ông nói "Được" rồi mất không hề trối trăn lại điều gì".
chẳng còn nghi ngờ gì nữa, rõ ràng ông có điều gì bất đắc ý, một tâm sự u uất nào đó
không thể nói ra trong thời gian làm quan nhà Nguyễn.
Cũng trong những ngày sống ở chốn quan trường, Nguyễn Du đã mở rộng tầm nhìn
để nhận thấy hiện thực xấu xa - cái hiện thực giả tạo, cái bản chất nham hiểm, độc ác của
bè lũ sâu dân mọt nước.

25


×