Tải bản đầy đủ (.pdf) (219 trang)

khảo sát những câu tục ngữ việt có cách nhìn đa chiều về cùng một vấn đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 219 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Hà Thị Hải Huyền

KHẢO SÁT NHỮNG CÂU TỤC NGỮ VIỆT
CÓ CÁCH NHÌN ĐA CHIỀU
VỀ CÙNG MỘT VẤN ĐỀ

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Hà Thị Hải Huyền

KHẢO SÁT NHỮNG CÂU TỤC NGỮ VIỆT
CÓ CÁCH NHÌN ĐA CHIỀU
VỀ CÙNG MỘT VẤN ĐỀ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP


Thành phố Hồ Chí Minh - 2014


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Tiến sĩ Nguyễn Thị
Ngọc Điệp, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Với những
lời chỉ dẫn, những tài liệu, sự tận tình hướng dẫn và những lời động viên của
Cô đã giúp tôi vượt qua nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn
này.
Tôi cũng xin cám ơn quý thầy cô giảng dạy chương trình cao học “Văn
học Việt Nam” đã truyền dạy những kiến thức quý báu, những kiến thức này
rất hữu ích và giúp tôi nhiều khi thực hiện nghiên cứu.
Xin cám ơn các Quý thầy, cô công tác tại Văn phòng khoa, thư viện, đặc
biệt là Phòng sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình tôi
tham gia và hoàn thành khóa học.
Sau cùng tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến bạn bè, gia đình đã luôn cổ
vũ, động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng
như thực hiện luận văn.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều
nên luận văn còn nhiều thiếu, rất mong nhận được ý kiến góp ý của Thầy/Cô
và các anh/ chị học viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên
Hà Thị Hải Huyền


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu .........................................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................7
6. Đóng góp của đề tài ...........................................................................................8
7. Kết cấu luận văn ..............................................................................................10
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TỤC NGỮ VÀ HIỆN TƯỢNG TỤC NGỮ
CÓ CÁCH NHÌN ĐA CHIỀU VỀ CÙNG MỘT VẤN ĐỀ ............................12
1.1. Giới thiệu chung về thể loại tục ngữ. ............................................................ 12
1.1.1. Khái niệm tục ngữ. ......................................................................... 12
1.1.2. Nội dung và hình thức diễn đạt của tục ngữ. ................................. 14
1.1.3. Sự vận dụng tục ngữ....................................................................... 18
1.1.4. Giới thiệu kho tàng tục ngữ người Việt. ........................................ 21
1.2. Vài nét về hiện tượng tục ngữ có cách nhìn đa chiều đối với một vấn
đề .................................................................................................................................... 24
1.2.1. Thế nào là “cách nhìn đa chiều” trong tục ngữ? ............................ 24
1.2.2. “Cách nhìn đa chiều” là hiện tượng phổ biến trong tục ngữ. ......... 26
1.2.3. “Cách nhìn đa chiều” là hiện tượng thú vị trong tục ngữ. ............. 30
1.2.4. “Cách nhìn đa chiều” là hiện tượng cần được chú ý trong tục ngữ. .. 34


Chương 2. NHỮNG CÂU TỤC NGỮ VIỆT CÓ CÁCH NHÌN ĐA
CHIỀU VỀ CÙNG MỘT VẤN ĐỀ – PHÂN LOẠI VÀ MÔ TẢ. .................40
2.1. Giới thiệu nguồn tục ngữ có cách nhìn đa chiều đối với một vấn đề. .. 40
2.1.1. Số lượng tục ngữ đã thống kê. ....................................................... 40
2.1.2. Số lượng các vấn đề được nhìn nhận đa chiều. .............................. 44
2.1.3. Số lượng câu tục ngữ ở mỗi vấn đề................................................ 45

2.1.4. Chủ đề thường xuất hiện cách nhìn nhận đa chiều. ....................... 46
2.2. Phân loại và mô tả những câu tục ngữ có cách nhìn đa chiều đối với
một vấn đề.................................................................................................................... 47
2.2.1. Cách nhìn cùng chiều. .................................................................... 48
2.2.2. Cách nhìn khác chiều. .................................................................... 62
Chương 3. NHỮNG CÂU TỤC NGỮ VIỆT CÓ CÁCH NHÌN ĐA
CHIỀU VỀ CÙNG MỘT VẤN ĐỀ - NGUYÊN NHÂN VÀ TÁC DỤNG...... 84
3.1. Lý giải nguyên nhân dẫn đến những cách nhìn đa chiều trong tục
ngữ người Việt. ........................................................................................................... 84
3.1.1. Đối tượng nhận thức và quá trình sáng tạo nên tục ngữ. ............... 84
3.1.2. Ngữ cảnh và mục đích sử dụng tục ngữ. ........................................ 92
3.1.3. Không gian, thời gian tục ngữ ra đời và lưu truyền. ...................... 97
3.2. Tác dụng của những câu tục ngữ Việt có cách nhìn đa chiều về
cùng một vấn đề. ...................................................................................................... 103
3.2.1. Đối với những ngữ cảnh cụ thể. ................................................... 103
3.2.2. Đối với chức năng thể loại. .......................................................... 107
3.2.3. Đối với kho tàng tục ngữ dân tộc. .............................................. 1111
3.2.4. Đối với nếp cảm, nếp nghĩ dân tộc. ............................................. 113
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 121
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tục ngữ: TN.
Văn học dân gian: VHDG.
Hà Nội: HN.
Thành phố Hồ Chí Minh: TP HCM.



DANH MỤC CÁC BẢNG
2.1.2.1. Thống kê số lượng nhóm tục ngữ đa chiều.
2.1.3.2. Thống kê số lượng câu tục ngữ đa chiều.
2.1.4.3. Thống kê số nhóm tục ngữ thuộc cách nhìn cùng chiều.
2.1.4.4. Thống kê số nhóm tục ngữ thuộc cách nhìn khác chiều.


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xưa nay, tục ngữ (TN) vốn được xem là kho tàng trí khôn của nhân loại,
lưu giữ những kinh nghiệm đời sống, kinh nghiệm lịch sử - xã hội của nhân
dân lao động. Trong quá trình lưu truyền và phổ biến, kho tàng ấy không
ngừng được bổ sung, bồi đắp, thêm đa dạng, phong phú theo không gian, thời
gian và mục đích sử dụng. Do đó TN trở thành một trong những tài sản vô
giá, tinh hoa của dân tộc từ ngàn đời truyền lại.
TN không chỉ là nguồn văn liệu phong phú đối với các thể loại văn học
dân gian (VHDG) khác, mà còn là kho tàng quý báu của văn học thành văn.
Đặc biệt, TN gắn liền với đời sống sinh hoạt của con người, được con người
vận dụng một cách linh hoạt, đa dạng trong đời sống hàng ngày. Vì vậy tục
ngữ luôn là đối tượng được giới nghiên cứu vô cùng quan tâm. Đến nay, vấn
đề tìm hiểu, nghiên cứu tục ngữ mặc dù đạt được nhiều thành tựu có giá trị,
nhưng thực tế đòi hỏi phải không ngừng tìm hiểu nghiên cứu chuyên sâu hơn,
vì còn nhiều vấn đề chưa được nhìn nhận một cách thỏa đáng, còn nhiều ý
kiến tranh luận, hay nhiều vấn đề chưa được quan tâm đúng mức, còn bỏ
ngỏ,... Chẳng hạn, vấn đề truy nguyên nguồn gốc ban đầu, tính dị bản, nội
dung ngữ nghĩa của TN,… Trong đó vấn đề tính nhiều chiều trong cách nhìn
nhận về cùng một vấn đề trong tục ngữ cũng chưa có sự quan tâm thỏa đáng.
Nghiên cứu vấn đề này không chỉ góp phần nhìn nhận đúng đắn hơn về

phương diện nội dung TN, mà còn có thể hiểu thêm về lối nói, lối nghĩ, quan
niệm phong phú của dân gian thông qua tục ngữ. Đồng thời việc nghiên cứu
TN đa chiều tạo thêm nguồn tư liệu giúp mọi người tiếp cận kho tàng TN dân
tộc được thuận lợi hơn cũng như có sự vận dụng đa dạng và chính xác hơn.
Đặc biệt trong thời đại ngày nay, một bộ phận giới trẻ dường như đang quay


2
lưng lại với những giá trị truyền thống của dân tộc, thậm chí từ bỏ những
phương châm, những bài học kinh nghiệm, những giá trị tư tưởng giàu chất
nhân văn được kết tinh từ bao thế hệ và quy kết những giá trị truyền thống ấy
là cổ hủ, lỗi thời, không phù hợp. Sự nhìn nhận đó phải chăng là do các bạn
trẻ chưa hiểu hết chiều sâu tư tưởng của cha ông? Và như vậy, việc nghiên
cứu vấn đề này càng trở nên cần thiết.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Khảo sát những câu
tục ngữ Việt có cách nhìn đa chiều về cùng một vấn đề” với mong muốn
đóng góp một phần vào việc tìm hiểu nội dung TN, những góc nhìn khoáng
đạt, khách quan trong tư tưởng dân gian, đồng thời cũng muốn khẳng định dù
TN ra đời từ rất lâu, nhưng những giá trị của TN không vì thế mà “già”, mà
“có tuổi”, ngược lại những kinh nghiệm của người xưa vẫn luôn là bài học lý
thú và không thể thiếu trong đời sống dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
Việc tìm hiểu về TN trong nghiên cứu VHDG đã được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm. Các công trình nghiên cứu chuyên sâu, ở mọi khía cạnh, cả về
phương diện nội dung lẫn cấu trúc thi pháp TN của nhiều tác giả, có ý nghĩa,
giá trị sâu sắc trong việc góp phần tìm hiểu kho tàng TN dân tộc. Chẳng hạn
như các công trình nghiên cứu về: cấu trúc, vần nhịp, hình ảnh,… hay về nội
dung, sự vận dụng TN của các tác giả, tiêu biểu là: Chu Xuân Diên với “Tiểu
luận về tục ngữ Việt Nam” trong Tục ngữ Việt Nam; Phan Thị Đào với Tìm
hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam; hay Tục ngữ Việt Nam cấu trúc và thi pháp

của Nguyễn Thái Hòa; “Tục ngữ” trong Tổng tập văn học dân gian người
Việt của Nguyễn Xuân Kính; Bùi Mạnh Nhị với “Tục ngữ” trong tập sách
nhiều tác giả Văn học dân gian những công trình nghiên cứu; Nguyễn Văn
Nở với “Bàn về nghĩa biểu trưng của tục ngữ” và “Vấn đề nghĩa của tục
ngữ”,… TN đã được soi rọi dưới nhiều bình diện, góc độ khác nhau, giúp


3
người đọc hiểu sâu sắc hơn về “túi khôn của nhân loại”. Điểm qua một vài
công trình nghiên cứu trên đủ thấy TN có giá trị, vị trí, ý nghĩa như thế nào
đối với đời sống con người.
Cách nhìn đa chiều về cùng một vấn đề trong những câu TN có liên quan
đến đề tài người viết đang tìm hiểu đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm.
Chẳng hạn:
Bài viết của Nguyễn Đức Dân trên Tạp chí Ngôn ngữ [57, tr. 01 – 11]
(1987), trả lời thắc mắc của bạn đọc về một vài câu TN trái nghĩa với nhau.
Chẳng hạn như câu:
Thà ăn một nửa quả hồng, còn hơn ăn cả chùm sung chát lè.
Thà rằng ăn cả chùm sung, còn hơn ăn nửa quả hồng dở dang.
Và Nguyễn Đức Dân đã lý giải nghĩa, cách hiểu, cũng như lý do có cách
nói khác nhau như vậy trong TN. Từ đó ông kết luận, hai câu TN không phải
là trái nghĩa, mà cùng trường nghĩa với nhau. Chúng tôi nhận thấy, cách lý
giải của ông phần nào thiên về hướng ngôn ngữ học, chưa xem xét vấn đề ở
khía cạnh VHDG và văn hóa dân tộc.
Chu Xuân Diên, trong Tục ngữ Việt Nam (1993), tác giả có đề cập đến
những mâu thuẫn trong nội dung của TN và trích một số dẫn chứng minh họa
cụ thể cho nhận định của mình, chẳng hạn:
(A) - Thương người như thể thương thân.(1)
- Thương người lại khó đến thân.(2)
(B) - Những người tính nết thật thà, đi đâu cũng được người ta tin dùng.(3)

- Thật thà là cha dại.(4)
(C) - Cây ngay không sợ chết đứng.(5)
- Người ngay mắc nạn, kẻ gian vui cười.(6)
Cũng theo tác giả, “tính không thuần nhất về tư tưởng của TN phản ánh
tính không thuần nhất của các tầng lớp nhân dân thời xưa, mặt khác cũng còn


4
do sự nhận thức của tục ngữ là sự nhận thức kinh nghiệm chủ nghĩa” [9, tr.
105]. Nhưng đó mới chỉ là những nhận định được tác giả khơi gợi, nêu lên
trong một vài câu TN, chứ chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu.
Lê Công Tuấn cũng có những phát hiện thú vị “Về hiện tượng trái nghĩa
qua một số câu tục ngữ” đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống [120, tr. 34 –
35] (2005). Tác giả khám phá ra một số câu TN trái ngược nhau về ý nghĩa và
nêu vấn đề về việc hiểu đúng nội dung một câu TN phụ thuộc vào cảnh
huống, cũng như do quan niệm cá nhân mà câu TN được sử dụng sẽ mang nội
dung, ý nghĩa khác. Tuy nhiên, phát hiện của tác giả lại thiên về mặt ngữ
dụng, chưa phát hiện tư duy đa chiều của dân tộc thông qua kho tàng tục ngữ
và cũng chưa đi sâu lý giải về hiện tượng trái nghĩa trong tục ngữ dân tộc.
Nguyễn Văn Nở cũng có sự quan tâm đến “Ý nghĩa của việc tìm hiểu
biểu trưng tục ngữ trong ngữ cảnh”, Tạp chí văn hóa dân gian [104, tr. 48 –
56] (2006); hay “Vài nét về sự dị biệt giữa biểu trưng của văn bản tục ngữ và
biểu trưng tục ngữ trong ngữ cảnh”, Tạp chí Ngôn ngữ [105, tr. 52 – 65]
(2008). Trong những bài viết trên, tác giả đã gợi ra những vấn đề về cách hiểu
nội dung một câu TN, cũng như ý nghĩa của một câu TN sẽ thay đổi, thậm chí
đối lập nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh và mục đích sử dụng. Đó là những phát
hiện quý báu, giúp chúng tôi phần nào thấy được những góc nhìn phong phú
của người xưa trong TN. Tuy vậy, cũng giống như Lê Công Tuấn, những phát
hiện của tác giả tập trung ở ngữ nghĩa của TN trong từng ngữ cảnh cụ thể,
chưa phát hiện dấu ấn mang bản sắc văn hóa dân tộc, cái nhìn khách quan và

đa dạng của người Việt thông qua TN.
Từ gợi ý của Chu Xuân Diên, công trình Khảo luận về tục ngữ người
Việt của Triều Nguyên (2006) là sự tiếp nối và bước đầu chỉ ra một cách cụ
thể những sự nhìn nhận, bình giá khác nhau của nhiều câu TN về cùng một
vấn đề. Bên cạnh việc đưa ra hướng tiếp cận và các tiêu chí phân loại những


5
câu TN ấy, tác giả cũng đồng thời bước đầu tiến hành lý giải nguyên nhân dẫn
đến hiện tượng nhìn nhận, bình giá khác nhau đó. Cũng theo tác giả, “sự nhìn
nhận này có thể được hình thành (xét ở quá trình sáng tạo), hay kết hợp (xét
qua việc tìm hiểu, tiếp cận vấn đề) theo hai hướng: hoặc vấn đề được nhìn
nhận từ góc độ khác nhau, được nối kết lại; hoặc vấn đề được nhìn nhận theo
một quy tắc nhất định của tư duy” [31, tr. 238]. Mặc dù tác giả đã tiến hành
phân loại và lý giải, nhưng chưa tổ chức thành một hệ thống và sự thống kê,
phân loại, cũng như những kiến giải còn mang tính khái quát, chưa đi sâu để
thấy được tư tưởng phong phú, đa dạng của người Việt trong TN.
Như vậy, điểm qua lịch sử vấn đề nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy
những hướng khai triển của các tác giả là những gợi ý và định hướng quý báu,
là cơ sở quan trọng để chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu: “Khảo sát
những câu tục ngữ Việt có cách nhìn đa chiều về cùng một vấn đề”. Và đề
tài nghiên cứu cũng là sự tiếp nối trong việc tìm hiểu: ngữ nghĩa, cách vận
dụng, tư duy đa chiều trong lối nói, lối nghĩ của nhân dân và dấu ấn, bản sắc
văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt thông qua một thể loại của VHDG.
Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi gọi những câu TN Việt có
cách nhìn đa chiều về cùng một vấn đề là tục ngữ đa chiều.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài, chúng tôi nhằm một số mục đích sau:
- Nhận thức sâu hơn về TN, về sự biến hóa linh hoạt trong tư tưởng, sự
phong phú, đa dạng trong lối sống, tư duy của dân tộc. Thấy được cái hay, cái

đẹp trong những quan niệm rộng rãi, bao dung của dân gian. Trong quan niệm
dân gian không có sự áp đặt, khuôn cứng, nhất nhất một bề, mà đó là sự cân
bằng, mềm dẻo, linh hoạt trong lối nghĩ, lối nói của dân tộc, của thời đại. Từ
đó nêu cao ý thức giữ gìn và quý trọng di sản TN - tinh hoa dân tộc.


6
- TN không chỉ là những lời nói, mà lại là lời nói hay, nên có sức truyền
tải rất lớn, được sử dụng nhiều nhất và có sức sống lâu bền trong đời sống của
nhân dân. Vì vậy, hướng nghiên cứu của đề tài giúp nâng cao khả năng vận
dụng TN, thấy được quá trình sáng tạo không ngừng của dân tộc trong quá
trình vận dụng TN. Đồng thời bồi dưỡng, nâng cao tri thức, hiểu biết về
VHDG nói chung, TN nói riêng để từ đó khám phá kiến thức về xã hội, văn
học nghệ thuật,…
- Xem xét sự nhìn nhận đa chiều trước một vấn đề trong nội dung của
TN, tức quan tâm đến sự khác biệt về nội dung, ý nghĩa của các đơn vị TN khi
cùng đề cập đến một vấn đề. Sự nhấn mạnh này nhằm phân định với những
câu TN thoạt nhìn có vẻ khác biệt, nhưng thực chất là sự miêu tả cùng nghĩa.
Cùng với đó sẽ thấy được sự khác biệt về không gian, thời gian và ngữ cảnh
sẽ đem đến những nội dung mới mẻ, phong phú, đa dạng về các nhận xét,
bình giá khi cùng đứng trước một vấn đề của TN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khảo sát TN người Việt, chúng tôi dựa trên nguồn tư liệu từ các công
trình:
Một: Tục ngữ Việt Nam của nhóm tác giả Chu Xuân Diên – Lương Văn
Đang – Phương Tri.
Hai: Tổng tập văn học dân gian người Việt (2002), Tục ngữ, tập 1, 2,
Nguyễn Xuân Kính (chủ biên).
Ba: Kho tàng tục ngữ người Việt (2002), tập 1, 2, của nhóm tác giả
Nguyễn Xuân Kính – Nguyễn Thúy Loan – Phan Lan Hương – Nguyễn Luân.

Và một số câu TN đa chiều chúng tôi thu thập từ các nguồn tài liệu khác.
Các nguồn tài liệu trên đã bao hàm gần như toàn bộ số lượng TN của dân
tộc. Đồng thời các soạn giả đã trình bày các câu TN theo chủ đề và thứ tự
bảng chữ cái, tạo điều kiện cho chúng tôi phân loại.


7
Số lượng TN trong kho tàng TN người Việt vô cùng lớn, nhưng người
viết chỉ thống kê, phân loại các câu TN có cách nhìn đa chiều về cùng một
vấn đề, sắp xếp theo từng nội dung và đặt ở phần phụ lục góp phần bổ trợ
trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu TN người Việt. Bên cạnh đó, chúng tôi
chỉ khảo sát những câu TN của người Việt, không có sự mở rộng, đối chiếu
với TN của các dân tộc khác.
Đi vào khảo sát, chúng tôi tiến hành phân loại, mô tả và lý giải những
nguyên nhân dẫn đến cách nhìn đa chiều về cùng một vấn đề trong nội dung
TN người Việt. Cụ thể: xét câu TN trên văn bản, trong ngữ cảnh cụ thể, ở thời
gian, không gian nhất định,.... Từ quá trình khảo sát, chúng tôi đưa ra một số
đề xuất, giải pháp để phần nào giải quyết vấn đề.
Trong toàn bộ luận văn, khi trích dẫn và phân tích các nhóm câu TN ở
mỗi tiểu mục, người viết đánh thứ tự các nhóm theo bảng chữ cái: (A), (B),
(C),…; đồng thời các câu trong nhóm được đánh số thứ tự: (1), (2), (3),…
Việc đánh thứ tự các nhóm và câu TN được quy ước dựa theo mỗi tiểu mục,
khi sang tiểu mục mới, người viết áp dụng cách ký hiệu tương tự như tiểu
mục trước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng kết hợp một số phương
pháp, cụ thể là:
Phương pháp hệ thống: Với đề tài “Khảo sát các câu tục ngữ Việt có
cách nhìn đa chiều về cùng một vấn đề” đòi hỏi người viết phải hệ thống
nguồn TN có cách nhìn đa chiều về cùng một vấn đề. Vì vậy, phương pháp

giúp người viết hệ thống số lượng câu TN, số lượng các vấn đề, đề tài, chủ đề
xuất hiện cách nhìn đa chiều. Phương pháp này còn được người viết vận dụng
như một thao tác khi đặt những câu TN có cách nhìn đa chiều về một vấn đề
trong quan hệ với thể loại TN và quan hệ với văn hóa dân tộc để vừa phân


8
loại, mô tả, vừa lý giải nguyên nhân và tác dụng của chúng trong kho tàng TN
và trong đời sống. Đó là trọng tâm nghiên cứu của người viết. Phương pháp
này phần nào có liên quan với phương pháp phân tích, thống kê được trình
bày ngay sau đây.
Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp: Với phương pháp này,
chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê số lượng các câu TN có cách nhìn đa
chiều về cùng một vấn đề; sắp xếp, phân loại theo từng nội dung biểu hiện,
những dạng thức khác nhau. Số lượng câu TN thống kê được người viết trình
bày trong phần phụ lục, góp phần bổ trợ, làm minh chứng cụ thể cho đề tài.
Dựa trên kết quả thống kê, người viết mô tả, phân tích những trường hợp cụ
thể ở từng dạng, từng vấn đề, nhằm làm sáng tỏ cho đề tài.
Phương pháp đối chiếu, so sánh: Phương pháp này được vận dụng nhằm
phục vụ cho mục đích tìm ra những cách nhìn nhận khác nhau của TN khi
đánh giá về một vấn đề; tìm ra những câu TN chứa nội dung nhiều chiều, đa
diện ấy. Đồng thời đối chiếu với đời sống tinh thần của con người Việt Nam
để thấy được giá trị của TN có cách nhìn đa chiều về cùng một vấn đề.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Trong luận văn, người viết kết hợp
sử dụng thành tựu của các ngành văn hóa học, xã hội học, dân tộc học, tâm lý
học trong việc phân tích, tìm hiểu TN cũng như tìm hiểu, lý giải nguyên nhân
dẫn đến những cách nhìn nhận đa chiều trong TN. Từ đó phần nào thấu hiểu
tư tưởng của nhân dân gửi gắm trong TN.
6. Đóng góp của đề tài
Từ khi ra đời đến khi được sưu tầm, biên soạn và xuất bản, TN trở thành

mảnh đất màu mỡ cho mọi đối tượng tìm hiểu và vận dụng. Có không ít
những công trình nghiên cứu về TN nói chung và những câu TN trái nghĩa nói
riêng, nhưng chưa có một công trình nào khảo sát, nghiên cứu sâu sắc, kỹ
lưỡng những câu TN Việt có cách nhìn đa chiều về cùng một vấn đề. Trong


9
luận văn này, người viết mong muốn đem đến một cái nhìn toàn cảnh và khái
quát về những câu TN có cách nhìn đa chiều. Qua đó, khẳng định giá trị của
chúng trong kho tàng TN dân tộc và trong đời sống. Người viết cũng mong
muốn góp chút công sức giới thiệu những câu TN này đến với đông đảo mọi
người. Có thể nói, những câu TN đó không chỉ sâu sắc, mà còn phản ánh tư
tưởng khoáng đạt của nhân dân; gây hứng thú, khoái cảm thẩm mỹ về ngôn
từ, tạo sự đa dạng, linh hoạt trong vận dụng nhưng chưa được đông đảo mọi
người biết đến.
Cụ thể, với công trình nghiên cứu Khảo sát những câu tục ngữ Việt có
cách nhìn đa chiều về cùng một vấn đề, chúng tôi có một số đóng góp như
sau:
- Có cái nhìn tương đối hệ thống, toàn diện và sâu sắc hơn về nội dung
cũng như làm phong phú thêm con đường khám phá TN người Việt. Từ đó có
sự vận dụng chính xác, linh hoạt trong quá trình sử dụng TN.
- Thấy được quá trình lưu truyền, sáng tạo TN, cũng như phát hiện
“những hy vọng”, “chờ mong”, “tâm lý” và quan niệm của dân gian thông
qua kho tàng TN độc đáo và phong phú. Đó là cái nhìn khách quan, thấu đáo,
hợp tình hợp lý không chỉ của người xưa mà người nay cũng tránh được cái
nhìn phiến diện, một chiều, chủ quan trước một vấn đề. Đồng thời góp phần
khẳng định sức sống mãnh liệt, tinh thần lạc quan, thị hiếu thẩm mỹ lành
mạnh của nhân dân.
- Chúng tôi cũng mong muốn đóng góp một cái nhìn khách quan đối với
di sản TN dân tộc, tư tưởng dân gian. Đặc biệt là trong xã hội hiện đại ngày

nay, khi con người, nhất là giới trẻ đang quay lưng lại với truyền thống văn
hóa dân tộc, thì thiết nghĩ tìm hiểu về những cách nhìn đa chiều về cùng một
vấn đề trong nội dung TN phần nào giúp thế hệ trẻ biết trân trọng những giá
trị nhân văn tốt đẹp truyền thống.


10
7. Kết cấu luận văn
Luận văn bao gồm các phần: Mở đầu, Nội dung chính, Kết luận và Tài
liệu tham khảo. Luận văn được triển khai trong ba chương:
- Chương 1: Khái quát về tục ngữ và hiện tượng tục ngữ có cách nhìn
đa chiều về cùng một vấn đề. Trong chương này, chúng tôi trình bày khái
quát đặc điểm cũng như nội dung, hình thức của TN; đồng thời giới thiệu về
hiện tượng TN đa chiều. Những câu TN đa chiều trong TN Việt rất phổ biến,
nó cho thấy nội dung phản ánh của TN vô cùng thú vị, đòi hỏi phải có sự đầu
tư nghiên cứu thích hợp.
- Chương 2: Những câu tục ngữ Việt có cách nhìn đa chiều về cùng
một vấn đề - Phân loại và mô tả. Ở chương 2, chúng tôi giới thiệu nguồn
TN đa chiều và phân loại, mô tả những câu TN ấy, gồm: cách nhìn cùng chiều
và cách nhìn khác chiều. Những câu tục ngữ có cách nhìn cùng chiều về vấn
đề bao gồm các câu có cách nhìn nhận giống nhau, cùng một hướng nhìn;
cùng một hiện tượng, nhưng có những đặc điểm khác nhau. Những câu tục
ngữ có cách nhìn khác chiều về vấn đề đó là những quan niệm đa dạng, khác
nhau về cùng một hiện tượng. Cách nhìn đa chiều đem lại nhiều bài học và
chúng bổ sung cho nhau để nhân dân có được sự nhìn nhận phù hợp với đối
tượng trong mọi hoàn cảnh.
- Chương 3: Những câu tục ngữ Việt có cách nhìn đa chiều về cùng
một vấn đề - nguyên nhân và tác dụng. Với chương 3, chúng tôi lý giải
nguyên nhân và tác dụng của hiện tượng TN đa chiều. Có nhiều nguyên nhân
khác nhau, nhưng chúng tôi dựa vào ba nguyên nhân chủ yếu là: đối tượng,

quá trình sáng tạo; ngữ cảnh, mục đích sử dụng và không gian, thời gian trong
quá trình tồn tại và phát triển của TN. Những câu TN đa chiều có tác dụng
không nhỏ trong đời sống nhân dân và góp phần củng cố vị trí của TN trong
kho tàng VHDG.


11
Đồng thời, còn có phần Phụ lục, tập hợp những câu TN có cách nhìn đa
chiều về cùng một vấn đề làm minh chứng cho đề tài. Phụ lục gồm hai bảng
biểu, tập hợp các câu TN đa chiều được phân theo nhóm vấn đề. Một nhóm
tối thiểu có hai câu TN, nhiều trường hợp nhóm có nhiều câu TN. Tất cả
những câu TN ấy phản ánh quan niệm, tư duy đa diện, khách quan, logic của
người Việt.


12

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TỤC NGỮ VÀ HIỆN TƯỢNG TỤC
NGỮ CÓ CÁCH NHÌN ĐA CHIỀU VỀ CÙNG MỘT VẤN ĐỀ
1.1. Giới thiệu chung về thể loại tục ngữ
1.1.1. Khái niệm tục ngữ
Trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu, người ta đã bàn về TN ở cả bình diện
lý luận lẫn ứng dụng, nhưng cho đến nay, câu hỏi “Tục ngữ là gì?” vẫn chưa
được trả lời bằng một định nghĩa thỏa đáng. Thậm chí có người cho rằng:
“ngay một số nhà tục ngữ học vào loại đầu đàn cũng phải thừa nhận là không
một định nghĩa nào có thể cho phép xác định như thế nào là một câu tục ngữ”
[37, tr. 88]. Vì vậy, có nhiều ý kiến khác nhau về cùng một trường hợp cụ thể,
người thì cho rằng “Đây là một câu tục ngữ”, người khác lại cho rằng “Đây
không phải là tục ngữ”. Và các nhà nghiên cứu vẫn phải cố gắng đưa ra một
định nghĩa này hay khác cho cái gọi là TN, theo mục đích và tiêu chí nhất

định. Chẳng hạn, những định nghĩa của các nhà nghiên cứu: Dương Quảng
Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu, Vũ Ngọc Phan với Tục ngữ, ca dao, dân
ca Việt Nam, Cù Đình Tú trong Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt,
Hồ Lê với Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại, hay Nguyễn Thiện Giáp với
Từ vựng học tiếng Việt,… tiêu biểu là các định nghĩa:
Bùi Mạnh Nhị trong bài Tục ngữ cho rằng: “Tục ngữ (tục: thói quen có
lâu đời, được mọi người công nhận; ngữ: lời nói) là những câu nói dân gian
ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh và thường mang nhiều nghĩa, thể
hiện những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (tự nhiên, lao động, sản
xuất, xã hội), được nhân dân áp dụng vào đời sống, tư duy và lời ăn tiếng nói
hằng ngày. Đây là một thể loại văn học dân gian”[29, tr. 242].
Đỗ Bình Trị trong bài viết Những đặc điểm thi pháp của tục ngữ nhận
định: “Tục ngữ là những câu nói gọn chắc, xuôi tai, diễn đạt những kinh


13
nghiệm lâu đời của nhân dân về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con
người và xã hội; nó thường được nhân dân vận dụng trong suy nghĩ, trong
nói năng và trong những hoạt động thực tiễn của mình như làm ăn, giao tiếp,
ứng xử…”[42, tr. 372 – 379]
Chu Xuân Diên trong Từ điển văn học định nghĩa TN “là những câu nói
ngắn gọn, có nhịp điệu, có hình thức bền vững, được dùng trong lời nói hàng
ngày, thường có nhiều nghĩa, hình thành bằng cách liên tưởng loại suy” [21,
tr. 437]
Nguyễn Thái Hòa trong Tục ngữ Việt Nam – cấu trúc và thi pháp quan
niệm TN là một loại phát ngôn đặc biệt: “Tục ngữ là những phát ngôn hình
thành trong lời thoại hàng ngày. Đó là những đơn vị lời nói nhưng tồn tại
trong ký ức cộng đồng như là một đơn vị ngôn ngữ”, TN là “những phát ngôn
có sẵn”, “những phát ngôn đặc biệt […] và xem xét chúng theo cách nhìn
biện chứng giữa các phương diện: thể chất, cấu trúc và chức năng” [22, tr.

48].
Nguyễn Đức Dân trong “Đạo lý trong tục ngữ” định nghĩa: “Tục ngữ là
những câu nói ổn định về cấu trúc, phản ánh những tri thức, kinh nghiệm và
quan niệm (dân gian) của một dân tộc về thế giới khách quan, tự nhiên cũng
như xã hội” [5, tr. 358].
Nhìn chung các nhà nghiên cứu đã cố gắng để đưa ra một định nghĩa
hoàn chỉnh và bao quát nhất về TN, từ nội dung cho đến hình thức thể hiện
của thể loại VHDG đặc biệt này. Mỗi định nghĩa đều đạt được những giá trị
nhất định, tuy nhiên, theo chúng tôi, định nghĩa của tác giả bài “Đạo lý trong
tục ngữ” là phù hợp hơn cả. Tác giả không đứng ở một hướng, một ngành, mà
đã có sự khái quát bằng con mắt của một nhà ngôn ngữ học, tác giả nhìn nhận
về một thể loại của VHDG để đưa ra định nghĩa về TN. Đó là một định nghĩa


14
ngắn gọn, súc tích, bao quát được cả nội dung, hình thức, cấu trúc, chức năng
của thể loại TN trong kho tàng VHDG.
1.1.2. Nội dung và hình thức diễn đạt của tục ngữ
Được hình thành trong cuộc sống hàng ngày nên bản chất TN đòi hỏi sự
sáng rõ, logic, cô đọng, hàm súc, mang ý nghĩa khái quát cao, đó cũng chính
là điểm thống nhất chung của các nhà nghiên cứu khi nhận định về TN.
Chẳng hạn, khi nghiên cứu “Nội dung của tục ngữ” trong “Tục ngữ và câu
đố” Hoàng Tiến Tựu đã khẳng định: “Nói đến nội dung của tục ngữ Việt tức
là nói đến toàn bộ tri thức và kinh nghiệm sống của nhân dân ta trong trường
kì lịch sử của dân tộc đã được “cô” lại trong hàng ngàn, thậm chí hàng vạn
câu khác nhau” [47, tr. 114]. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định: “không một
thể loại văn học dân gian nào mà phạm vi đề tài lại rộng lớn như tục ngữ:
Hầu như tất cả mọi lĩnh vực của đời sống con người (tinh thần, vật chất, đấu
tranh thiên nhiên, đấu tranh xã hội, sự sống chết, việc hôn nhân, cưới hỏi
nuôi dạy con cái, quan hệ gia đình, họ hàng làng xóm, bè bạn,…) đều là đối

tượng phản ánh, nhận xét của tục ngữ” [47, tr. 114]. Điều này được cụ thể
hóa trong các công trình sưu tầm, biên soạn TN, tiêu biểu là: “Tục ngữ Việt
Nam” [9] và “Tổng tập văn học dân gian người Việt” [24].
Qua các công trình sưu tầm, biên soạn TN, chúng ta thấy, không một
lĩnh vực, phương diện nào trong cuộc sống lại không được TN quan tâm.
Điều này cho thấy sự mở rộng đến vô tận trong nội dung của TN, hoàn toàn
khác với các thể loại VHDG khác. “Có thể nói, ở đâu, lĩnh vực nào nhân dân
có kinh nghiệm, ở đó, lĩnh vực đó có tục ngữ” [28, tr. 242]. Nói cách khác,
“Chỉ riêng tục ngữ mới bao quát một phạm vi kinh nghiệm rộng rãi bao trùm
lên toàn bộ các lĩnh vực tự nhiên […], xã hội […], và con người […]. Tục
ngữ là thứ “trí khôn” dân gian có phạm vi đề tài toàn diện nhất trong các thể
loại văn học dân gian” [36, tr. 89]. Cụ thể các đề tài: đất nước, lịch sử; quan


15
hệ gia đình, xã hội; các hiện tượng tự nhiên, thởi tiết; lao động, nghề nghiệp;
đời sống vật chất và tinh thần; các quan niệm đa dạng về nhân sinh, vũ trụ.
Nội dung của một câu TN thường khá rộng và phức tạp, gồm cả nội
dung trực tiếp, nội dung gián tiếp, nội dung hẹp và nội dung mở rộng. Điều
này làm nên tính nhiều nghĩa, tính đa chiều trong phát ngôn của TN. Nội dung
ngữ nghĩa của TN không chỉ nằm trên bề mặt hình thức câu chữ, mà còn ẩn
sau lớp vỏ bọc ngôn từ và hoàn cảnh, mục đích sử dụng. Nó không chỉ phản
ánh kinh nghiệm được đúc kết từ các giác quan bên ngoài, mà còn được nhìn
nhận, suy ngẫm từ các giác quan bên trong tinh tế của con người như M.Gorki
nhận xét: “Tục ngữ diễn đạt rất hoàn hảo toàn bộ kinh nghiệm đời sống, kinh
nghiệm lịch sử xã hội của nhân dân” và “nội dung của một câu tục ngữ có thể
mở tung để viết ra thành một cuốn sách” [17, tr. 270 – 275]. Ví dụ câu TN:
“tức nước vỡ bờ” có nhiều cách lý giải:
Về hàm ngôn:


- Bờ đắp lên để chắn nước, giữ nước.
- Nước nhiều quá, ứ đầy làm vỡ bờ.
- Bờ bị vỡ thì không con giữ được nước.

Về hàm ý: khi vận dụng vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, câu TN có thể
có nhiều loại hàm ý khác nhau: hàm ý khuyên răn (không nên dồn ép người
quá đáng sẽ nảy sinh phản kháng); cảm thán; xác nhận (hậu quả của việc đày
ải, bóc lột quá mức);…
TN chứa đựng một khối lượng nội dung vô cùng to lớn, bao quát mọi
lĩnh vực, mọi phương diện của cuộc sống, thế nhưng nội dung rộng lớn ấy lại
được biểu đạt, thể hiện trong một hình thức nhỏ nhất, đơn giản nhất, hết sức
cô đọng, hàm súc, là những “câu nói ổn định về cấu trúc” [4, tr. 358], “Mỗi
đơn vị tục ngữ là một câu hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp mà nội dung chứa
đựng một ý (tức một phán đoán) trọn vẹn, thực hiện chức năng thông báo (tức


16
một bài học kinh nghiệm)” [17, tr. 91]. Chẳng hạn câu TN: “trâu chậm uống
nước đục” có thể ứng với các hoàn cảnh thực tế:
- Đi ăn cỗ (liên hoan) muộn, mọi thứ đều thiu nguội,…
- Đi buôn đến sau có thể hỏng việc.
- Lấy vợ muộn thì khó chọn được người mình yêu thích.
Và vô số trường hợp cụ thể nhưng được khái quát lại là: việc gì mà
để muộn đều mang lại kết quả không tốt.
Mỗi đơn vị TN được thể hiện dưới hình thức cực nhỏ, nhưng không vì
vậy mà TN bị xem nhẹ hơn so với các thể loại VHDG khác, hay lệ thuộc vào
bất cứ thể loại VHDG nào. Ngược lại, mỗi đơn vị TN dù có hình thức “gọn
nhẹ” nhưng vẫn là những “tác phẩm nghệ thuật” thực sự. TN là những câu nói
đạt trình độ nghệ thuật rất cao, tuân thủ những nguyên tắc “thi pháp” nhất
định trong cơ cấu tổ chức; đó là tính chất “hỗn đồng” của thể loại TN.

Cũng theo Hoàng Tiến Tựu: “Đơn vị “tác phẩm” của thể loại tục ngữ,
theo thói quen thường được gọi là “câu” vì nó ngắn”. Xét về số lượng từ ngữ
được dùng trong mỗi đơn vị tác phẩm, thì không thể loại VHDG nào dùng ít
từ và kiệm lời hơn TN. Tuy nhiên, cũng có một số câu TN được mở rộng, kéo
dài đến 14, 18, 20,… tiếng. Nhưng số câu TN nhiều lời như vậy rất ít, đại bộ
phận TN của người Việt chỉ dài từ bốn đến tám tiếng (âm tiết) và nó tồn tại
như là lời nói. Ví dụ:
- Lời nói gói bạc.
- Một lời nói, một đọi máu.
- Lời nói không cánh mà bay.
- Nói lời thì giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay.
Câu TN không chỉ ngắn gọn mà còn chặt chẽ, không một tiếng nào thừa.
Mỗi tiếng, mỗi từ đều cần thiết và đều đứng ở vị trí tối ưu đến mức chỉ một sự
chuyển dịch nhỏ cũng đủ phá vỡ toàn bộ câu TN. Từ ngữ chắt lọc trong một


17
hình thức hết sức ngắn gọn. Có thể ví mỗi câu TN như một công trình kiến
trúc mà từng chi tiết đều được tính toán chính xác đến cao độ.
Song hành với hình thức ngắn gọn, chặt chẽ, vần và nhịp cũng là đặc
điểm nổi bật trong cấu trúc TN. Hầu hết các câu TN đều có vần và vần bắc
cầu giữa hai hay nhiều vế của câu TN. Từ cách hiệp vần đã tạo nên nhịp, kể
cả những câu không bắt vần với nhau, như:
- Có mới, nới cũ.
- Chẳng ngon cũng thể sốt, chẳng tốt cũng thể mới.
- Mới yêu thì cũ cũng yêu; Mới có mĩ miều cũ có công lênh.
Vần và nhịp gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất
trong hình thức của TN, tạo nên kết cấu trọn vẹn, chặt chẽ, gọn chắc: “Kết
cấu tục ngữ, cân đối, chặt chẽ, dựa trên lập luận logích và tương quan giữa
các hiện tượng. Nó vừa mang chức năng cú pháp, vừa mang chức năng ngữ

nghĩa. Hai hình thức kết cấu cơ bản của tục ngữ là kết cấu một vế và kết cấu
hai vế” [29, tr. 247]. Từ ngữ chắc gọn trong một cấu trúc cực ngắn vừa làm
cho TN “lời ít, ý nhiều”, giúp TN dễ nhớ, dễ truyền.
Cấu trúc tỉnh lược là một trong những hình thức phổ biến của TN:
- Làm lớn thì làm láo.
- Làm việc phi pháp sự ác đến ngay.
Nhờ hình thức nén chặt ấy mà các thành tố tạo nên chúng có khả năng có
nghĩa biểu trưng cao và đều tham gia vào việc tạo nên một biểu trưng, biểu
hiện một nội dung khái quát cho toàn bộ cấu trúc.
Như vậy, giữa hình thức và nội dung của TN là một mối liên hệ đặc biệt,
vừa thống nhất vừa mâu thuẫn. Hình thức TN là lời nói rút gọn, tiết kiệm đến
mức tối đa, nhưng lại hàm chứa nội dung sâu sắc, “lời ít ý nhiều”, thậm chí có
sự đối lập giữa hình thức thể hiện với nội dung của câu TN: “Trong tục ngữ
Việt cũng như trong tục ngữ của nhiều dân tộc khác, thường những câu nhiều


18
lời lại ít ý, lời càng dài ra thì nghĩa càng thu hẹp lại (vì tính xác định cao
hơn)” [47, tr. 118]. Sự tương phản gay gắt giữa hình thức nhỏ và nội dung lớn
là điều có thực, đồng thời là một đặc điểm quan trọng của TN, làm nên sức
sống cũng như sự lôi cuốn và tính ứng dụng trong thực tiễn của loại hình
VHDG đặc biệt này.
1.1.3. Sự vận dụng tục ngữ
“Tục ngữ là giao điểm thú vị của tư duy trừu tượng và tư duy nghệ thuật;
vừa là những phán đoán làm cơ sở cho lập luận lại vừa là “bài thơ ngắn
nhất”; vừa là phát ngôn phong phú về nội dung lại vừa là văn bản nhỏ nhất”
[22, tr. 220]. Thật vậy, TN có quan hệ mật thiết với hầu hết các lĩnh vực đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. TN không chỉ đúc kết những kinh
nghiệm, những điều quan sát được trong quá trình lao động, những nhận xét
về mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng,… mà TN còn là công cụ

nhân dân lao động dùng để phát biểu những nhận thức của mình về các hiện
tượng lịch sử xã hội.
Không chỉ được vận dụng trong nói năng, giao tiếp hàng ngày, trong văn
thơ, mà TN còn được vận dụng để tìm hiểu phong tục tập quán, tâm lý dân
tộc: “Tục ngữ được nhân dân vận dụng vào mọi hoạt động của đời sống. Nó
giúp nhân dân có được kinh nghiệm để nhìn nhận, bình giá, ứng xử, thực
hành các kinh nghiệm vào cuộc sống. Trong ngôn ngữ, tục ngữ làm đẹp, làm
sâu sắc thêm lời nói, khiến lời nói “Không cánh mà bay” và giúp người ta
diễn đạt cả những điều khó diễn đạt hoặc không tiện nói ra trực tiếp” [29, tr.
117]. Quả thật không một thể loại VHDG nào được sử dụng thường xuyên,
rộng rãi, đa dạng và bám sát thực tại như TN. Cái nhìn của TN len lách vào
tất cả mọi lĩnh vực của đời sống và tâm lý con người không chỉ một thời đại,
một hoàn cảnh mà TN có thể bước từ thời đại này sang thời đại khác, từ châu
lục này sang châu lục khác và luôn luôn mới.


×