Tải bản đầy đủ (.pdf) (202 trang)

kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 202 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Cao

KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Cao

KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013



LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này, người viết đã
nhận được sự hướng dẫn tận tình và sự động viên, giúp đỡ của TS Nguyễn Thị
Ngọc Điệp. Tôi xin kính gởi lời tri ân chân thành đến cô!
Xin gởi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu trường ĐHSP, các Thầy cô giáo
khoa Ngữ văn, các Thầy cô phòng Sau đại học, Thư viện trường đã luôn tạo
điều kiện cho Tôi học tập, tra cứu, tham khảo tài liệu phục vụ cho quá trình
nghiên cứu.
Kính gửi lời cảm ơn đến những người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn
quan tâm, động viên, giúp đỡ để Tôi hoàn thành quá trình học tập và nghiên
cứu đề tài này!
Xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 17 tháng 11
năm 2012
Người viết

Nguyễn Thị Cao


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................. 3
MỤC LỤC ................................................................................... 4
A. PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................6
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ...................................................................7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................12
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................18
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................18
6. Cấu trúc của luận văn ........................................................................19


Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN
KỲ VÀ KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT ....................... 21
1.1 Khái quát về truyện cổ tích thần kỳ ................................................21
1.1.1 Khái niệm truyện cổ tích thần kỳ......................................................... 21
1.1.2. Đặc trưng của truyện cổ tích thần kỳ .................................................. 23
1.1.3. Giới thiệu về kho tàng truyện cổ tích thần kỳ các dân tộc Việt Nam. 27

1.2. Khái quát về kiểu truyện người lấy vật .........................................28
1.2.1. Khái niệm về kiểu truyện người lấy vật ............................................. 28
1.2.2. Cơ sở hình thành kiểu truyện người lấy vật ....................................... 31
1.2.3. Giới thiệu chung về kiểu truyện người lấy vật ................................... 33

Chương 2: KHẢO SÁT NHỮNG MÔ-TÍP CHỦ YẾU
TRONG KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT...................... 39
2.1. Khái niệm về mô-típ và giới thiệu chung về các mô-típ trong kiểu
truyện người lấy vật ................................................................................39
2.1.1. Khái niệm về mô-típ ........................................................................... 39
2.1.2. Giới thiệu chung về các mô-típ trong kiểu truyện người lấy vật........ 40

2.2. Phân tích các mô-típ chủ yếu ..........................................................43
2.2.1. Mô-típ sự ra đời thần kỳ ..................................................................... 43
2.2.2. Mô-típ người đội lốt vật...................................................................... 50
2.2.3. Mô-típ thách đố................................................................................... 54
2.2.4. Mô-típ tài năng thần kỳ ...................................................................... 62
2.2.5. Mô-típ cởi lốt và kết hôn .................................................................... 68
2.2.6. Mô-típ người em út bị hại ................................................................... 85
2.2.7. Mô-típ vật phù trợ ............................................................................... 90



Chương 3: KẾT CẤU VÀ Ý NGHĨA CỦA KIỂU TRUYỆN
NGƯỜI LẤY VẬT ................................................................... 95
3.1. Các kiểu kết hợp mô-típ để tạo thành cốt truyện cụ thể ..............95
3.1.1. Kiểu cốt truyện có hai mô-típ ............................................................. 96
3.1.2. Kiểu cốt truyện có ba mô-típ .............................................................. 97
3.1.3. Kiểu cốt truyện có bốn mô-típ ............................................................ 99
3.1.4. Kiểu cốt truyện có năm mô-típ ......................................................... 102
3.1.5. Kiểu cốt truyện có sáu mô-típ........................................................... 104
3.1.6. Kiểu cốt truyện có bảy mô-típ .......................................................... 106

3.2. Ý nghĩa của kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích ......110
3.2.1 Kiểu truyện người lấy vật phản ánh tín ngưỡng dân gian ................. 110
3.2.2. Kiểu truyện người lấy vật thể hiện triết lý nhân sinh của nhân dân . 115

C. KẾT LUẬN ........................................................................ 121


KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT TRONG TRUYỆN
CỔ TÍCH VIỆT NAM

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Truyện cổ tích hơn bất kỳ một thể loại văn học dân gian nào khác
ở chỗ nó đã xây dựng thành công một thế giới hiện thực trong mơ ước.
Nó rọi chiếu ánh sáng kỳ ảo của niềm hạnh phúc vào cuộc đời đầy bất
hạnh của con người, khiến họ yêu đời và sống mạnh mẽ hơn. Nhưng
truyện cổ tích không làm cho con người bị ru ngủ, bị lãng quên trong thế
giới thần tiên ấy mà khiến họ tích cực hành động để xây dựng và cải tạo
hiện thực theo hướng tốt đẹp. Mọi người nhớ và yêu thích truyện cổ tích
chính là ở khả năng cải tạo, biến đổi nhanh chóng, kỳ diệu, triệt để và

hợp lòng dân.
Trong xã hội hiện đại, khi cuộc sống của con người tương đối đầy
đủ về phương diện vật chất thì nhu cầu về văn hóa tinh thần là điều tất
yếu, con người có xu hướng tìm hiểu về văn hóa tâm linh, những phong
tục tâp quán, tín ngưỡng nguyên thủy ngàn đời, cội nguồn của dân tộc.
Tín ngưỡng dân gian luôn là vùng đất còn chứa nhiều điều bí ẩn, gợi sự
tò mò, thích thú khám phá những nét cổ sơ ấy, nó như đưa con người trở
về với xã hội nguyên thủy, trở về với tổ tiên, với những giá trị tinh thần
vô giá của mỗi dân tộc. Nghiên cứu về kiểu truyện người lấy vật trong
kho tàng truyện cổ tích các dân tộc cũng là một cách đưa ta về với cội
nguồn dân tộc. Việc người dân tôn sùng, cúng bái một vật nào đấy làm
thần phù trợ cho tộc người mình là nhu cầu không thể thiếu của đời
sống, thể hiện nét đẹp văn hóa trong tín ngưỡng dân gian và là một việc
làm cần thiết trong cuộc sống vốn còn nhiều khó khăn của cộng đồng
lúc bấy giờ.
Nghiên cứu kiểu truyện người lấy vật còn giúp chúng ta hiểu biết
thêm về nét đẹp văn hóa, về con người Việt Nam trong xã hội đa dân
tộc. Văn hóa là những giá trị tinh thần quý báu, phản ánh nét đẹp về


phong cách, lối sống và niềm tin sâu sắc vào thế giới thần bí siêu nhiên
nào đó. Sự tồn tại của yếu tố văn hóa, giúp cho con người trong xã hội
hiện tại có nhận thức sâu sắc và hoàn thiện hơn về nhân phẩm và đạo
đức, lối sống đầy nghĩa tình của tổ tiên xưa kia, đồng thời nét đẹp văn
hóa của xã hội đa dân tộc sẽ giúp chúng ta có cái nhìn rõ hơn, sâu sắc
hơn về tổ tiên, truyền thống văn hóa dân tộc để có cách sống phù hợp và
tốt đẹp hơn, một phong cách, lối sống thấm dậm nghĩa tình của người
Việt Nam.
Nghiên cứu về kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích giúp
chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn, thấy được cái hay, cái hấp dẫn của một

kiểu truyện cụ thể và vai trò của nó trong cấu trúc của tác phẩm cổ tích.
Một số truyện thuộc kiểu truyện người lấy vật còn được đưa vào chương
trình giảng dạy ở nhà trường phổ thông, vì vậy việc tìm hiểu về kiểu
truyện này giúp cho giáo viên có những hiểu biết cụ thể hơn, sâu sắc hơn
nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy văn học dân gian được thuận lợi
và đạt hiệu quả cao hơn.
Từ những lý do nêu trên chúng tôi chọn Kiểu truyện người lấy vật
trong truyện cổ tích Việt Nam để làm đề tài nghiên cứu trong luận văn
của mình, với mong muốn có cái nhìn toàn diện hơn về kiểu truyện
người lấy vật trong hệ thống kiểu truyện cổ tích Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về
truyện cổ tích, mỗi công trình tiếp cận thể loại này theo những hướng
khác nhau. Tiếp cận truyện cổ tích theo kiểu truyện mà cụ thể là kiểu
truyện người lấy vật là một hướng đi khá độc đáo, mới mẻ và cũng đã
được một số nhà nghiên cứu quan tâm.
Trong Từ điển văn học (tập 2), mục “Truyện cổ tích”, nhà nghiên
cứu Chu Xuân Diên đã nhấn mạnh, kiểu truyện người lấy vật không
những xuất hiện trong truyện cổ tích Việt Nam mà còn xuất hiện phổ
biến trong cổ tích các nước trên thế giới. “….kiểu truyện người lấy vật ở


Việt Nam gồm các truyện như: Sọ Dừa, Lấy vợ Cóc, Lấy chồng Dê, của
người Việt, truyện Chàng Bâu của người Mường, Chàng Ca đác của
người Thái, truyện Ếch lấy con vua của người Mèo… Kiểu truyện này
phản ánh những nét tiêu biểu của hiện thực xã hội Việt Nam thời xưa,
chứa đựng một cách tập trung những truyền thống sáng tác chủ yếu của
loại truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện được một
cách rõ ràng hơn cả tính quốc tế của loại truyện này” [52, tr.302]. Cũng

trong công trình trên, ông cho rằng có thể gọi các truyện trên là một kiểu
truyện “người đội lốt vật”. Cách gọi này của ông có sự liên hệ gần gũi
với kiểu truyện người lấy vật vì trong mỗi truyện việc kết hôn đều diễn
ra giữa người và vật. Vật ở đây lại chính là do con người đội lốt, cái lốt
vật như là sự thử thách lớn trong cuộc đời nhân vật.
Trong Khảo sát cấu trúc và ý nghĩa của một số típ truyện kể dân
gian Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam của Vũ Anh Tuấn, tác giả cho rằng
“truyện cổ tích mà quá trình hình thành và phát triển có một giai đoạn
song trùng về thời gian, đồng hiện trong không gian thần thoại, đó là
kiểu truyện người thần kì đội lốt. Từ dạng nguyên sơ nhất, kiểu truyện
này đã có cấu trúc và ý nghĩa riêng. Sự xâm nhập vào cấu trúc của nó
đôi ba mô-típ hoặc những chi tiết kiểu thần thoại là các yếu tố ngoại sinh
làm phong phú bản kể, tạo nên sắc thái riêng của kiểu truyện” [63,
tr.56]. Theo ông đây là một dạng truyện nguyên sơ của cổ tích và mang
đậm yếu tố thần kỳ, xuyên suốt trong công trình nghiên cứu của mình,
ông đã liệt kê những hình thức người thần kỳ đội lốt như: lốt chim, lốt
hổ, lốt cóc… các nhân vật chính đều đội lốt vật xấu xí, dị dạng. Mọi tình
tiết trong cấu trúc đều hướng vào sự khẳng định thuộc tính và phẩm chất
của nhân vật chính: lốt càng xấu, người càng đẹp, càng siêu phàm. Họ là
những người đại diện cho chính nghĩa, có những hành động cực kỳ cao
cả, đẹp đẽ, chính đáng trong những tình huống khó khăn, bảo vệ quyền
lợi cho những con người nghèo khổ, thấp cổ bé họng trong xã hội phân
chia giai cấp, phân biệt đối xử giữa người giàu với người nghèo.


Tác giả Nguyễn Thị Huế có bài viết Người mang lốt – mô típ đặc
trưng của kiểu truyện cổ tích về nhân vật xấu xí mà tài ba, tác giả cho
rằng nhân vật xấu xí trong truyện cổ tích thường là đối tượng của sự phê
phán, ghẻ lạnh của xã hội. Nhân vật thường mang những cái lốt xấu xí,
những cái lốt đó có thể là một con vật, hay một dị vật nào đó làm cho

con người ghê sợ, xa lánh. Chỉ có người con gái út xinh đẹp, nết na
trong truyện cổ tích luôn là người nhìn ra được những tài năng phi
thường ẩn sau hình hài xấu xí của nhân vật, chấp nhận lấy nhân vật xấu
xí ấy làm chồng. “Tính chất lý tưởng hóa của mô típ người mang lốt còn
thể hiện ở sự biến hình đẹp đẽ của nhân vật xấu xí, sau hôn nhân và nhờ
hôn nhân nhân vật mới được mô tả thành người xinh đẹp” [30, tr.60].
Trong bài viết này kiểu truyện về nhân vật xấu xí mà tài ba có những nét
tương đồng với kiểu truyện người lấy vật, nhân vật xấu xí mà tài ba có
thể là một nhân vật dị dạng hay nhân vật đội lốt vật. Nhân vật tuy xấu
nhưng có tài năng phi thường, tấm lòng nhân hậu, được trở lại thành
người đẹp đẽ ở cuối truyện.
Trong công trình nghiên cứu của mình, Nguyễn Bích Hà có bài
viết về Mô típ“sự ra đời thần kỳ” trong truyện Thạch Sanh, tác giả đã
liệt kê một số dạng khác nhau của sự sinh đẻ thần kỳ trong truyện cổ
tích, trong đó có dạng “đứa trẻ ra đời do người mẹ kết hợp với con vật
nào đó: người mẹ lấy khỉ, lấy cóc, lấy đại bàng, lấy rắn… Sau đó thụ
thai và có thể sinh ra trứng rồi nở ra con hoặc sinh con (Chàng rắn – Gia
rai); người mẹ lấy chó sau đó thụ thai và sinh con (Sự tích núi Tang ku
ban pha hu – Inđônêxia)” [25, tr.24]. Trong bài viết này sau khi đưa ra
các hình thức khác nhau về sự ra đời thần kỳ của nhân vật trong truyện
cổ tích, tác giả đã đưa ra nhận xét về sự ra đời thần kỳ của chàng trai trẻ
Thạch Sanh là do người mẹ cảm ứng với lực lượng siêu nhiên, thái tử
nhà trời đã đầu thai vào Thạch Sanh, đó cũng là một hình thức ra đời
thần kỳ xuất hiện trong kiểu truyện người lấy vật khá phổ biến trong
truyện cổ tích Việt Nam và thế giới.


Tác giả Lại Phi Hùng có bài viết về Những tương đồng và khác
biệt trong một số kiểu truyện cổ dân gian ở Lào và Việt Nam, tác giả đã
có sự so sánh vô cùng phong phú về ba kiểu truyện chàng trai khỏe,

người bất hạnh và người đội lốt vật. Trong đó, kiểu truyện người đội lốt
vật được tác giả so sánh chặt chẽ, khá công phu, đưa ra rất nhiều hình
thức mang lốt của nhân vật trong truyện cổ tích của hai nước. Theo ông,
đặc trưng chung của kiểu truyện người đội lốt vật đó là thẩm mỹ; một
chàng trai hoặc một cô gái nào đó ẩn mình dưới cái vỏ loài vật, có khi
nhỏ bé xấu xí, có khi lạ lùng kì dị, sau một thời gian thử thách, họ trút
bỏ lốt cũ, trở thành những chàng trai, cô gái trẻ đẹp, tài năng, hiếu hạnh,
đấu tranh giành lại được hạnh phúc vốn đã bị tước đoạt, tiêu diệt kẻ thù,
khẳng định vị trí, năng lực của những người mồ côi, người đội lốt, người
con út trong xã hội phụ quyền đã phân chia giai cấp. Qua đó, các nghệ
nhân dân gian khẳng định khát vọng vươn tới cái thiện, cái đẹp, phủ
định cái ác, cái xấu, thực hiện ước mơ công bằng, dân chủ đầy tinh thần
lãng mạn của người xưa.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Vân với luận án tiến sĩ Khảo sát truyện
cổ dân tộc Chăm, đã đưa ra nhóm cốt truyện người lấy ma qủy hoặc lấy
thú vật, quái vật. Tác giả cho rằng “cuộc hôn nhân giữa người với thú
vật hoặc quái vật chỉ là tạm thời, do hoàn cảnh bắt buộc. Thông thường
là người phụ nữ bị thú vật cướp đi làm vợ, họ bị bắt buộc phải sống cuộc
sống chồng vợ với thú vật, sinh con đẻ cái cho đến khi được người yêu,
chồng hay một dũng sĩ cứu được, đem trở về xã hội loài người. Quan hệ
giữa con người với thú vật, quái vật, hay qủy có lẽ cũng do xuất phát từ
quan niệm con người có thể giao cảm với thiên nhiên, với tự nhiên, với
chim muông, cầm thú, với thần linh, ma quỷ” [72, tr.75].
Tác giả Lê Hồng Phong có công trình nghiên cứu Tìm hiểu truyện
cổ Tây Nguyên - Trường hợp Mạ và K’ho. Trong chương “Cổ tích Mạ K’ho”, tác giả đề cập đến ba dạng chính của cổ tích Mạ - K’ho là cổ tích
về nhân vật mồ côi, cổ tích về nhân vật mang lốt; cổ tích về nhân vật
malai. Trong đó, cổ tích về nhân vật người mang lốt được ông trình bày


khá chi tiết “nhân vật mang lốt tuy xuất hiện nhiều dạng nhưng không

thuần nhất, manh nha từ huyền thoại, đã có những ông bà thần mang lốt
chim cho hạt lúa đầu tiên, ông thần mang lốt khổng lồ có tên là Yut
chống trời cao….Vì vậy, đến cổ tích, nhân vật mang lốt không chỉ
người, dù người mang lốt là nhân vật chính trong truyện về nhân vật
mang lốt” [53, tr.93]. Có các hình thức lốt mà nhân vật mang như: lốt
động vật, lốt dị dạng, lốt sự vật… Các hình thức lốt này nhìn chung có
liên quan đến giới động thực vật quen thuộc của núi rừng Tây nguyên,
với nền kinh tế săn bắt nguyên thủy, hoa quả mà con người hái lượm
được trong rừng, trên rẫy. Hệ thống những mô-típ chủ yếu mà tác giả sử
dụng, đã làm nổi rõ hơn những giá trị đích thực của cái lốt vật được
nhân vật khoác lên người trong suốt giai đoạn đầu đời. Qua các hình
thức lốt vật đó, dân gian muốn gởi gấm những khát khao về sự hoàn
thiện cái đẹp bên ngoài lẫn vẻ đẹp tâm hồn. Họ mong mỏi một sự thay
đổi tuyệt đối cho nhân vật bất hạnh, không may.
Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu về văn học dân gian cũng đã
bước đầu khái quát về kiểu truyện người lấy vật như Võ Quang Nhơn
với công trình Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, phần
khảo sát các hình tượng nhân vật trung tâm của thần thoại và truyện cổ
tích các dân tộc ít người Việt Nam. Phan Đăng Nhật với bước đầu tìm
hiểu về người đội lốt vật xấu xí và nhân vật mồ côi trong công trình Văn
học các dân tộc thiểu số Việt Nam (trước cách mạng tháng Tám); tác giả
Đặng Thái Thuyên với việc tìm hiểu Đề tài hôn nhân trong truyện cổ
tích thần kỳ Mường, cũng đề cập đến vấn đề kết hôn giữa người và vật
trong một số truyện cổ tích thần kỳ.
Trên đây, chúng tôi vừa trình bày một cách ngắn gọn về việc
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến kiểu truyện người lấy vật, các tác
giả đã có những đóng góp rất quý báu trong quá trình nghiên cứu về văn
học dân gian Việt Nam. Các tác giả đã đề cập một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp đến vấn đề người lấy vật trong truyện cổ tích thần kỳ, tuy nhiên
vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn



đề này. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài Kiểu truyện người lấy vật trong
truyện cổ tích Việt Nam để nghiên cứu, trên cơ sở muốn có cái nhìn hoàn
chỉnh hơn về đề tài này. Chúng tôi luôn trân trọng và tiếp thu những
công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước, và cố gắng hoàn
thiện hơn vấn đề này trong công trình nghiên cứu của mình.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi chọn kiểu truyện người lấy vật
trong truyện cổ tích Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu của mình. Qua
quá trình tìm hiểu, chúng tôi thấy có nhiều thể loại xuất hiện kiểu truyện
người lấy vật nhưng vì thời gian không cho phép chúng tôi chỉ giới hạn
khảo sát ở thể loại truyện cổ tích và chủ yếu lấy từ truyện cổ tích thần kỳ
của các dân tộc Việt Nam, lựa chọn những truyện có biểu hiện của kiểu
truyện người lấy vật để tìm hiểu.
Do tình hình tư liệu không được phong phú, nguyên nhân sâu xa
có lẽ công tác sưu tầm truyện cổ tích chưa thật sự đầy đủ nên có nhiều
dân tộc chúng tôi không tìm thấy truyện cần sử dụng cho đề tài này.
Công trình nghiên cứu chỉ dựa trên 56 truyện của 19 dân tộc anh em
như: Kinh, Thái, Mường, Mèo, Gia rai, Vân Kiều… để nghiên cứu. Có
thể nói đây là những tộc người tương đối lớn ở Việt Nam, có đời sống
văn hóa vật chất và tinh thần khá phong phú, nguồn truyện tương đối dồi
dào, phong phú ở tất cả các thể loại. Chúng tôi hy vọng số lượng truyện
được khảo sát trong luận văn này có thể phản ánh được những đặc điểm
của kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích của Việt Nam nói
chung và của các dân tộc thành phần (đã nêu trên) nói riêng.
Trong quá trình tìm hiểu về kho tàng truyện cổ tích các dân tộc
Việt Nam, chúng tôi nhận thấy trong kiểu truyện người lấy vật thì nhân
vật là “vật” có nhiều hình thức mang lốt khác nhau như: lốt động vật,

thực vật, hoa quả, đồ gia dụng… Do điều kiện không cho phép chúng tôi
không thể tìm hiểu hết tất cả các hình thức lốt trên mà chỉ tìm hiểu ở
hình thức lốt động vật, bởi vì qua tìm hiểu số lượng các truyện ở dạng


lốt động vật xuất hiện nhiều hơn so với các hình thức lốt còn lại, vì thế
chúng tôi giới hạn đối tượng nghiên cứu trong đề tài của mình là nhân
vật có hình thức lốt động vật. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ
bước đầu có sự so sánh, đối chiếu kiểu truyện người lấy vật trong cổ tích
Việt Nam với cổ tích các nước trong khu vực Đông Nam Á và thế giới.
Nguồn dẫn liệu
Chúng tôi tìm đọc hầu hết các tuyển tập truyện cổ của các dân tộc,
bao gồm trước và sau năm 1975. Từ các tuyển tập đó, chúng tôi chọn ra
được 56 truyện của 19 dân tộc để tìm hiểu. Sau đây là danh sách các
nguồn dẫn liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này.
Chúng tôi sắp xếp danh mục các truyện khảo sát theo thứ tự các dân
tộc.
Danh mục truyện khảo sát
STT

Tên truyện cổ tích

1

Người lấy cóc (Kinh)

2

Lấy chồng dê (Kinh)


3

Ông trạng lấy rùa (Kinh)

4

Nàng tiên cua và anh chàng đánh cá (Kinh)

5

Nàng tiên ốc (Kinh)

6

Chàng nhái (Kinh)

7

Chàng tôm (Kinh)

8

Cóc tiên (Kinh)

9

Chàng hến (Kinh)

10


Hoàng tử rắn và nàng hoa sen (Kinh)

11

Nàng cá măng (Thái)

12

Chàng rùa (Thái)


13

Chàng chồn (Thái)

14

Chuyện con cầy bay (Thái)

15

Chàng dê (Mèo)

16

Nàng Hơ Lúi (Ba Na)

17

Cóc và Hơ Bia Phu (Ba Na)


18

Chàng rể cọp (Dao)

19

Con chuột lông đỏ (Tày)

20

Cụ vách - ốc sên (Mường)

21

Lấy vợ cóc (Mường)

22

Con cum (ếch) ( Mường)

23

Mó nước ấm (Mường)

24

Lấy chồng rùa (Mường)

25


Anh chàng cá chuối (Mường)

26

Trăn thần (Chàm)

27

Hoàng tử rắn (Cao Lan)

28

Lấy chồng rắn (H’Mông)

29

Chàng rùa (H’Mông)

30

Người đội lốt mèo (Tà Ôi)

31

Chuyện chàng cóc (Tà Ôi)

32

Con nai thần (Cơ ho)


33

Chàng ếch – con trai thần mặt trời (Cơ ho)

34

Cô gái lấy chồng trăn (Xê Đăng)

35

Chàng rùa (Xê Đăng)

36

Nàng tiên cá (Xê Đăng)


37

Nàng út lấy chồng tôm (Churu)

38

Chàng trăn (Churu)

39

Chàng khỉ và nàng Ma Phun (Churu)


40

Chàng ếch (Churu)

41

Lấy chồng trăn (Vân Kiều)

42

Chàng rể cóc (Vân Kiều)

43

Chàng rể heo (Vân Kiều)

44

Nàng bò tót (Vân Kiều)

45

Truyện chồn và nàng H’Lúi (Gia rai)

46

Chàng lợn (Gia rai)

47


Chàng rắn (Gia rai)

48

Hrit và cô gái trong lốt da bò (Gia rai)

49

H’Bia Rác lấy chồng chồn (Gia rai)

50

Cây tông lông (Gia rai)

51

H’Lúi lấy chồng chồn (Gia rai)

52

Chàng chim cu gáy (Raglai)

53

Phò mã cóc (Raglai)

54

Lấy chồng rắn (Raglai)


55

Chàng cóc (Kơ Dong)

56

Chồng cóc (Ê Đê)

Danh mục các tuyển tập truyện cổ
1. Nguyễn Thị Ngọc Anh, Touneh Nai Chanh, Phan Xuân Viện (sưu tầm
và biên soạn) (2006), Truyện cổ Churu, Nxb Văn nghệ.


2. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, quyển 1,
tập 3-4, Nxb Giáo dục.
3. Chu Xuân Diên – Lê Chí Quế (1996), Tuyển tập truyện cổ tích Việt
Nam - phần truyện cổ tích người Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
4. Y Điêng, Hoàng Thao (Sưu tầm – biên soạn) (1978), Truyện Cổ Ê Đê,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
5/ Thu Hương (2006), Truyện cổ Vân Kiều, Nxb Văn hóa thông tin.
6. Thu Hương (2006), Truyện cổ Cơ ho, Nxb Văn hóa thông tin.
7. Thu Hương (2006), Truyện cổ Dao, Nxb Văn hóa thông tin
8. Bùi Văn Nguyên (1965), Truyện cổ Ba Na – Tây Nguyên, tập 1, Nxb
Hà Nội.
9. Bùi Văn Nguyên (1965), Truyện cổ Ba Na – Tây Nguyên, tập 2, Nxb
Hà Nội.
10. Hoàng Anh Nhân (1987), Truyện cổ Mường, Nxb Hà Nội.
11. Doãn Thanh, Thương Nguyễn, Hoàng Thao (1963), Truyện cổ dân tộc
Mèo, Nxb Văn học Hà Nội.
12. Nhiều tác giả, (Sưu tầm –biên soạn) (1978), Truyện cổ Dao, Nxb Văn

hóa dân tộc Hà Nội.
13. Nhiều tác giả, (Sưu tầm –biên soạn)(1980), Truyện cổ Thái, Nxb Văn
hóa dân tộc Hà Nội.
14. Nhiều tác giả, (Sưu tầm –biên soạn) (2001), Truyện cổ các dân tộc
miền núi Bắc Miền Trung, Nxb Thuận Hóa - Nghệ An –Thanh Hóa.
15. Truyện cổ Việt Bắc, (1974) (tập 2), Nxb Việt Bắc.
16. Đặng Nghiêm Vạn (1985), Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn –Tây
Nguyên, tập 1, Nxb Văn học Hà Nội.
17. Đặng Nghiêm Vạn (1985), Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn –Tây
Nguyên, tập 2, Nxb Văn học Hà Nội.
18. Lê Trung Vũ (1984), Truyện cổ Hmông, Nxb Hà Nội.


19. Viện văn học (1999), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, quyển 1,
tập 2, Nxb Giáo dục.
20. Lữ Huy Nguyên, Đặng Văn Lung (sưu tầm và biên soạn) (1996), Hợp
tuyển truyện cổ tích Việt Nam, tập 15- 16, Nxb Văn học.
Trên đây là những đầu sách có truyện phục vụ đề tài khảo sát, những sách
tham khảo không có truyện không được liệt kê trong danh mục.
Danh mục các dân tộc và phân bố truyện khảo sát
STT

Dân tộc

Số lượng truyện

1

Kinh


10

2

Thái

4

3

Mèo

1

4

Ba Na

2

5

Dao

1

6

Tày


1

7

Mường

6

8

Chàm

1

9

H’Mông

2

10

Tà Ôi

2

11

Cao Lan


1

12

Cơ ho

2

13

Xê Đăng

3

14

Churu

4

15

Vân Kiều

4

16

Gia rai


7

17

Raglai

3


18

Kơ Dong

1

19

Ê Đê

1

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi xác định việc tìm hiểu về kiểu truyện người lấy vật
trong truyện cổ tích Việt Nam sẽ giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn về
tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ, hiểu hơn về một kiểu truyện cụ thể và
cấu trúc của kiểu truyện ấy trong tác phẩm văn học dân gian. Đồng thời
việc tìm hiểu kiểu truyện này tạo cơ sở để giúp chúng ta hiểu thêm về
những nét văn hóa truyền thống vô cùng phong phú, đa dạng các dân
tộc, cũng như thấy được mối quan hệ giữa văn học với đời sống tín
ngưỡng dân gian.

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sẽ tiến hành làm rõ các
vấn đề về truyện cổ tích thần kỳ, kiểu truyện người lấy vật, chọn lọc
những tác phẩm thuộc kiểu truyện người lấy vật để khảo sát và tìm ra
những kết luận chung, lập nên các mô hình khái quát. Qua đó, chúng tôi
phân tích và nhấn mạnh vai trò của kiểu truyện người lấy vật trong cấu
trúc tác phẩm truyện cổ tích, sự tương đồng giữa kiểu truyện này với các
kiểu truyện khác. Khi tìm hiểu đề tài này, luận văn cũng cố gắng chỉ ra
những mối liên hệ giữa kiểu truyện người lấy vật với các tín ngưỡng
nguyên thủy, với văn hóa và con người trong xã hội xưa. Qua đó thấy
được nét đặc sắc của tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ, thấy được mối
quan hệ giữa văn học dân gian với văn hóa dân tộc.

5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát, thống kê
Đây là phương pháp được sử dụng nhiều trong quá trình nghiên
cứu, dựa trên cơ sở các nguồn tài liệu về truyện cổ tích chúng tôi tiến
hành khảo sát, chọn lọc, thống kê các truyện cổ tích thần kỳ thuộc kiểu
truyện người lấy vật và các tài liệu có liên quan phục vụ cho đề tài.


Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp
Chúng tôi tiến hành đối chiếu các truyện cổ tích thuộc kiểu truyện
người lấy vật nhưng tồn tại ở các dân tộc khác nhau của Việt Nam; đối
chiếu kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt Nam với cổ
tích các nước trong khu vực Đông Nam Á và thế giới; từ đó phân tích
các đối tượng để làm rõ vấn đề nghiên cứu. Tiếp theo là tiến hành tổng
hợp, lí giải dựa trên cơ sở kết hợp kết quả so sánh và phân tích.

Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Chúng tôi sử dụng phương pháp này, với mục đích nhìn nhận đối

tượng trong mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn hóa, dân tộc
học, xã hội học nhằm xem xét đối tượng trên nhiều phương diện và
hướng tiếp cận khác nhau.

6. Cấu trúc của luận văn
Cấu trúc của luận văn gồm có các phần chính như: phần Mở đầu,
Nội dung và Kết luận.
Phần nội dung luận văn có ba chương được khái quát như sau:
Chương 1: Khái quát về truyện cổ tích thần kỳ và kiểu truyện
người lấy vật. Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày khái quát chung
về truyện cổ tích thần kỳ. Bên cạnh đó, chúng tôi giới thiệu chung về
kiểu truyện, kiểu truyện người lấy vật, xác định cơ sở hình thành kiểu
truyện để tạo tiền đề đi vào nghiên cứu nội dung của kiểu truyện ở
những chương tiếp theo.
Chương 2: Khảo sát những mô-típ chủ yếu trong kiểu truyện
người lấy vật. Ở chương này, chúng tôi đi vào phân tích những mô-típ
chủ yếu tham gia vào cấu tạo cốt truyện của kiểu truyện người lấy vật,
trình bày các sơ đồ của từng mô-típ cụ thể, cũng như lý giải những vấn
đề liên quan đến kiểu truyện người lấy vật mà chúng tôi đang nghiên
cứu.


Chương 3: Kết cấu và ý nghĩa của của kiểu truyện người lấy vật.
Ở chương cuối này, người viết sẽ trình bày các kiểu liên kết giữa các
mô-típ lại với nhau tạo thành cốt truyện trong kiểu truyện người lấy vật,
và ý nghĩa của kiểu truyện người lấy vật trong mối tương quan với tín
ngưỡng nguyên thủy của các dân tộc, triết lý nhân sinh của nhân dân.
Ngoài ra, luận văn còn có thêm phần Phụ lục, giới thiệu phụ lục
của các truyện được khảo sát.



Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN
KỲ VÀ KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT
1.1 Khái quát về truyện cổ tích thần kỳ
1.1.1 Khái niệm truyện cổ tích thần kỳ
Hiện nay, các nhà nghiên cứu văn học dân gian tán thành việc
phân chia thể loại truyện cổ tích làm ba tiểu loại: truyện cổ tích loài vật,
truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt. Dĩ nhiên ranh giới
thực tế giữa các tiểu loại trong truyện cổ tích không phải lúc nào cũng rõ
ràng (cũng tương tự như ranh giới các thể loại thần thoại, truyền thuyết,
cổ tích). Trong ba tiểu loại này, chúng tôi chỉ chọn tiểu loại truyện cổ
thần kỳ để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài luận văn.
Việt Nam với 54 dân tộc anh em cùng tồn tại trên một dãy đất hình
chữ S, mỗi dân tộc đều có một kho tàng truyện cổ tích của riêng mình,
với số lượng tác phẩm lớn, đa dạng, phong phú mang nhiều giá trị đặc
trưng của từng dân tộc. Truyện cổ tích của các dân tộc còn phản ánh
nhiều nét đẹp về văn hóa, phong tục, tập quán từng vùng, miền, tìm hiểu
kho tàng cổ tích của mỗi dân tộc, bao giờ cũng tìm thấy cái riêng của
từng dân tộc hòa trong cái chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam, rộng
hơn nữa là cái chung của cộng đồng thế giới.
Truyện cổ tích thần kỳ là một bộ phận phong phú nhất trong kho
tàng truyện cổ tích Việt Nam, đa số những truyện cổ tích hay nhất ở mỗi
dân tộc đều thuộc về tiểu loại này. Các nhà nghiên cứu xem truyện cổ
tích thần kỳ là một tiểu loại của truyện cổ tích, vì nó có những đặc điểm
riêng về nhiều mặt, phân biệt với những cổ tích dân gian khác như
truyện cổ tích loài vật hay truyện cổ tích sinh hoạt thể hiện ở cách xây
dựng nhân vật, cốt truyện. Trong đó tiêu chí cơ bản để phân biệt chúng
với nhau là vai trò quan trọng của yếu tố thần kỳ, quá trình phát triển hệ
thống tình tiết của cốt truyện. Trong kho tàng truyện cổ tích, số lượng
các truyện cổ tích thần kỳ sưu tầm được thường nhiều hơn các tiểu loại



cổ tích khác. Các truyện như: Sọ Dừa, Lấy vợ cóc, Nàng tiên ốc, Chàng
rùa… là những truyện có tính chất lý tưởng hóa nhân vật với hình dáng
bên ngoài xấu xí, dị dạng nhưng hoàn thiện về tâm hồn, tài năng, đây
thực chất là lý tưởng hóa loại người thuộc tầng lớp dưới của xã hội lúc
bấy giờ.
Nhìn chung, trong tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ yếu tố kỳ diệu
đậm đà hơn so với so với các tiểu loại khác. Yếu tố thần kỳ không chỉ
tạo ra màu sắc ly kỳ, khác lạ và hấp dẫn cho truyện cổ tích mà nó còn có
ý nghĩa rất quan trọng, nếu thiếu nó bản thân nhân vật không thể vượt
qua được những thử thách gay go để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ công lý,
chính nghĩa.
Có người cho rằng, truyện cổ tích thần kỳ có nhiều yếu tố cổ xưa
liên quan đến những quan niệm thần thoại và tín ngưỡng của con người
thời thị tộc, bộ lạc nguyên thủy (như những cấm kỵ, hôn nhân huyết
thống, vấn đề thừa kế tài sản, tục hiến sinh…). Tuy nhiên, nội dung
chính của truyện cổ tích thần kỳ là phản ánh hiện thực của đời sống xã
hội có giai cấp. Chính vì vậy mà những nhân vật trung tâm của truyện cổ
tích thần kỳ là những con người thấp hèn trong xã hội như người đội lốt
xấu xí, người mồ côi, người con riêng, người em út… Hướng về đạo đức
thời thị tộc, truyện cổ tích thần kỳ thường miêu tả những nhân vật bất
hạnh ấy theo khuynh hướng lý tưởng hóa những phẩm chất đạo đức của
họ, giải quyết số phận cuộc đời của họ theo một kết cục có tính chất ước
mơ. Càng về sau này, với sự phát triển của xã hội có giai cấp, chủ đề về
đấu tranh xã hội dần dần đi sâu vào cốt truyện và những nội dung đấu
tranh giai cấp được lồng vào trong quan hệ gia đình, xã hội.
Một đặc điểm khác của truyện cổ tích thần kỳ là sự tưởng tượng và
hư cấu dựa trên cơ sở hiện thực và phi hiện thực (khác với truyện cổ tích
sinh hoạt chỉ dựa trên cơ sở hiện thực đời sống). Ở đây, cái có thực hoặc

có thể có thực được kết hợp, hòa lẫn vào cái thần kỳ hư ảo, không có
thực tạo thành một thể thống nhất làm nên một thế giới truyện cổ tích.
Hầu hết những vấn đề xã hội trong truyện cổ tích đều được giải quyết


một cách trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các lực lượng thần kỳ (bằng cách
hư cấu các phương tiện thần kỳ…).
Có thể thấy, nội dung truyện cổ tích thần kỳ rất phong phú và đa
dạng, thể hiện mọi mặt trong đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất và
chiến đấu. Truyện cổ tích thần kỳ còn thể hiện những quan điểm thẩm
mỹ, quan điểm nhân sinh, những tâm tư tình cảm, ước vọng của người
dân trong xã hội đã có sự phân chia giai cấp.
1.1.2. Đặc trưng của truyện cổ tích thần kỳ
Đặc trưng về nội dung:
Nội dung chính của truyện cổ tích thần kỳ là phản ánh hiện thực về
đời sống xã hội của con người và số phận con người trong xã hội có giai
cấp. Đó là số phận của những con người mồ côi, người đội lốt, người em
út bị xã hội hắt hủi, khinh rẻ như truyện Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Hà
rầm hà rạc, Cây khế, Nàng tiên cua và anh chàng đánh cá,... Con người
trong truyện cổ tích thần kỳ thường bất lực trước những khó khăn, thử
thách khắc nghiệt, khi đó lực lượng thần kỳ xuất hiện giúp cho nhân vật
vượt qua những khó khăn và xung đột của truyện sẽ được giải quyết. Cổ
tích thần kỳ phản ánh bi kịch gia đình đi từ quần hôn đến hôn nhân một
vợ một chồng, từ chế độ mẫu quyền sang phụ quyền, từ chế độ chưa có
giai cấp sang chế độ phân chia giai cấp như truyện Thạch Sanh, Hai anh
em, Chàng Sính, Chiếc bật lửa thần, Hòn trống mái,... Kẻ thống trị trở
nên giàu có hơn thông qua các hình thức áp bức bóc lột sức lao động,
chiếm đoạt của cải của những lao động nghèo. Người nghèo trở nên bần
cùng hơn, lam lũ hơn, là một thực tế đầy bất công trong xã hội có giai
cấp lúc bấy giờ. Truyền thống dân chủ xã hội công xã thời nguyên thủy

đã bị phá vỡ, mờ nhạt dần theo thời gian kéo theo số phận của con người
trong xã hội ấy cũng bị thay đổi.
Truyện cổ tích thần kỳ có khác so với truyện cổ tích loài vật và cổ
tích sinh hoạt trong thể loại truyện cổ tích. Trong đó, truyện cổ tích loài
vật vừa có nội dung nhận xét thực tiễn về đặc điểm của loài vật vừa tư


duy suy luận, giải thích về nguồn gốc ra đời của các con vật ấy. Còn
trong truyện cổ tích sinh hoạt thường không có hoặc có rất ít yếu tố thần
kỳ, các mâu thuẫn, xung đột xã hội giữa người với người được giải
quyết một cách hiện thực, không cần đến những yếu tố siêu nhiên. Nếu
có xuất hiện những yếu tố thần kỳ thì vẫn không giữ vai trò quan trọng,
nhiều khi chỉ là các chi tiết làm cho câu chuyện thêm vẻ li kì, hấp dẫn
hơn.
Đặc trưng về thi pháp:
Về nhân vật: nhân vật trung tâm trong truyện cổ tích thần kỳ chính
là những con người thấp hèn trong xã hội có giai cấp như người mồ côi,
người con riêng, người em út, người xấu hình dị dạng, người có tài lạ…
Đó là những kiểu nhân vật có tính chất phổ biến, thường xuất hiện nhiều
trong truyện cổ tích thần kỳ của các dân tộc. Nhân vật trong truyện cổ
tích thần kỳ thường ít được miêu tả về chân dung có chăng chỉ là sự giới
thiệu khái quát chung chung như: “một cô gái đẹp tuyệt trần”, “một
chàng trai khôi ngô tuấn tú”… Truyện cổ tích thần kỳ không miêu tả
tâm lý nhân vật, nhân vật bộc lộ tính cách qua hành động chứ không
phải qua tâm lý như nhiều thể loại khác.
Nhân vật trong truyện cổ tích đại diện cho một tầng lớp, một nhóm
người nào đó mang tính khái quát chung về một loại nhân vật. Đó là
nhân vật chức năng, loại nhân vật khá quen thuộc trong các thể loại tự
sự của văn học dân gian. Chẳng hạn như Sọ Dừa, chàng lợn, chàng
rắn,… là những người dị dạng xấu xí bị xã hội hắt hủi, coi thường, là

những con người thấp cổ bé họng đại diện cho người lao động bị áp bức,
bóc lột bất công, các hành động của các nhân vật đều mang chức năng
nhân vật thiện, nhân vật tốt. Sự chiến thắng của nhân vật chính diện còn
có sự đóng góp không nhỏ của lực lượng thần kỳ hay là yếu tố thần kỳ.
Trong truyện cổ tích, lực lượng thần kỳ này có thể là những vật thể quen
thuộc, những đồ vật quen thuộc được thổi vào những yếu tố hoang
đường, kỳ ảo, làm cho nó trở nên lung linh, huyền ảo và vô cùng hấp
dẫn. Lực lượng thần kỳ còn là những con vật kỳ ảo như ngựa thần, chim


thần, sói thần, cá biết nói, ngựa ỉa ra vàng, rắn hoá vàng,… Những con
vật nuôi hoặc hoang dã nhưng có thể biến hoá khôn lường, có thể nói
tiếng người hoặc can dự vào những hoạt động của xã hội loài người.
Chàng Sọ Dừa nhờ con gà biết nói tiếng người đã giúp cho chàng tìm lại
được vợ con trên đảo vắng. Yếu tố thần kỳ đóng một vai trò rất quan
trọng trong truyện cổ tích: ông bụt, bà tiên luôn tốt bụng, sẵn sàng giúp
đỡ con người trong lúc khó khăn, nhất là những em nhỏ bất hạnh, mồ
côi. Cô Tấm hiền lành, chịu khó được ông bụt nhiều lần ra tay giúp đỡ
nên thoát được nạn đày ải của mẹ con dì ghẻ và cuối cùng được trở
thành hoàng hậu. Đó chính là sự can thiệp của các lực lượng thần kỳ vào
cuộc sống của con người. Những con người dù thân hình dị dạng, đội lốt
vật xấu xí, nghèo khổ, đói rách, bị khinh khi… với bao thử thách nhưng
cuối cùng họ cũng trở thành những người giàu sang, phú quý, sống một
cuộc sống sung sướng và hạnh phúc. Một kết cục như thế không thể có
trong xã hội có giai cấp, cho nên truyện cổ tích đã phải nhờ đến các yếu
tố thần kỳ. Những yếu tố đó can thiệp vào truyện cổ tích để miêu tả hiện
thực cuộc sống, dẫn đến một kết cục có tính chất mơ ước đồng thời cũng
thể hiện những nét văn hoá, sự tín ngưỡng của người xưa đối với thiên
nhiên vạn vật và con người. Như vậy, nhân vật trung tâm trong truyện
cổ tích thần kỳ là nhân vật lý tưởng được tác giả dân gian xây dựng lên

để đối chiếu, so sánh với các nhân vật ở tuyến đối lập về đạo đức và tài
năng.
Về kết cấu cốt truyện: cốt truyện là một bộ phận có tính chất đặc
trưng quan trọng hàng đầu trong các tác phẩm thuộc loại hình tự sự. Cốt
truyện là một thể tổng hợp các hành động, sự kiện, phát triển một cách
cụ thể trong quá trình diễn tiến của câu chuyện. Truyện cổ tích thần kỳ
thường có kết cấu rõ ràng, rành mạch, dễ thuộc dễ nhớ và thường có cốt
truyện phức tạp hơn so với các tiểu loại truyện cổ tích khác. Cốt truyện
của nó thường có tính chất ly kỳ với chuỗi hành động, diễn biến liên tục
đến tận cùng của nhân vật chính qua những chiến đấu khắc phục mọi trở
ngại khác thường trên con đường đi tới mục đích. Truyện cổ tích thần kỳ


×