Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

nghệ thuật kể chuyện trong văn xuôi tự sự nguyễn khải (khảo sát phần truyện ngắn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4 MB, 174 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
…..0O0…..

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO

NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG VĂN XUÔI TỰ SỰ
NGUYỄN KHẢI
(KHẢO SÁT PHẦN TRUYỆN NGẮN)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh 11 – 2004


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
…..0O0…..

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO

NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG VĂN XUÔI TỰ SỰ
NGUYỄN KHẢI
(KHẢO SÁT PHẦN TRUYỆN NGẮN)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 32
Người hướng dẫn
GS.TSKH. Lê Ngọc Trà


Thành phố Hồ Chí Minh 11 – 2004


LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô trong Hội Đồng bảo vệ luận văn:
GS.TS. Nguyễn Văn Hạnh

Chủ tịch Hội Đồng

PGS.TS. Trần Hữu Tá

Ủy viên-Người phản biện 1

TS. Lâm Vinh

Ủy viên-Người phản biện 2

TS. Hoàng Thị Văn

Ủy viên-Thư ký Hội Đồng

GS.TSKH. Lê Ngọc Trà

Ủy viên-Người hướng dẫn

Xin chân thành cảm ơn Khoa Ngữ Văn, Phòng NCKH Sau Đại học
Đặc biệt là GS.TSKH. Lê Ngọc Trà, người thầy hướng dẫn khoa học đã tận tình
hướng dẫn, góp ý, tạo điều kiện giúp em hoàn thành được luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11-2004
Học viên: Nguyễn Thị Phương Thảo



MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................. 3
MỤC LỤC ................................................................................................... 4
DẪN NHẬP ................................................................................................. 6
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 6
2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................................. 7
3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................... 18
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 19
5. Đóng góp của luận văn .......................................................................................... 20
6. Kết cấu luận văn .................................................................................................... 21

CHƯƠNG 1: CHỦ THỂ KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN KHẢI ....................................................................................... 22
1.1. Chủ thể kể chuyện trong loại hình tự sự .......................................................... 22
1.2. Các hình thức chủ thể kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Khải .............. 23
1.2.1. Chủ thể kể chuyện kiểu "khách quan hóa" với ngôi kể thứ ba ................ 23
1.2.2. Chủ thể kể chuyện kiểu "chủ quan hóa" với hình tượng người kể chuyện
xưng "Tôi" ............................................................................................................. 40
1.3. Sự “Chuyển cực” rốt ráo đáng chú ý từ ngôi kể thứ ba sang ngôi kể thứ
nhất. ............................................................................................................................ 78

CHƯƠNG 2: CẤU TRÚC TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN KHẢI ....................................................................................... 90
2.1. Cấu trức trần thuật trong tác phẩm tự sự ....................................................... 90
2.2. Một số mô hình cấu trức trần thuật qua khảo sát bố cục trần thuật và việc
tổ chức điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải ............................ 91
2.2.1. Nguyễn Khải và lối viết truyện nêu vấn đề ................................................. 92
2.2.2. Nguyễn Khải và lối tự sự hay rẽ ngang, lồng ghép thành nhiều tầng bậc

trần thuật, đặt trong nhiều thời điểm tự sự (kể cả tự truyện) ............................ 104
2.2.3. Nguyễn Khải và lối trần thuật với kiểu lời thoại độc quyền .................... 110
2.2.4. Nguyễn Khải và những truyện kể mang đậm chất ký với nhiều hồi ức có
tính tư liệu............................................................................................................. 113


2.2.5. Nguyễn Khải và lối dẫn truyện bằng đường dây tâm lý - Một sự kế tục
xuất sắc từ Nam Cao. ........................................................................................... 117
2.2.6. Đảo lộn trình tự thời gian trần thuật ........................................................ 131

CHƯƠNG 3: GIỌNG TRẦN THUẬT CỦA NGUYỄN KHẢI......... 137
3.1. Giọng trần thuật ............................................................................................... 137
3.2. Giọng trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải ....................................... 138
3.2.1. Giọng điệu mang màu sắc quan niệm duy ý chí của giai đoạn sáng tác
trước 1980 ............................................................................................................. 138
3.2.2. Sự đa dạng, đa thanh trong giọng trần thuật của Nguyễn Khải từ sau 1980
............................................................................................................................... 142

KẾT LUẬN ............................................................................................. 151
PHỤ LỤC ................................................................................................ 154
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 161


DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay,
Nguyễn Khải là một trong những nhà văn được giới nghiên cứu phê bình văn học
đánh giá cao về sức lao động liên tục và bền bỉ. Góp mặt vào tiến trình vận động của
đời sống văn học dân tộc từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến những năm sau hòa
bình, tiếp tục luyện bút trong thời kỳ đổi mới, cho đến nay Nguyễn Khải vẫn không

ngừng tự làm mới mình. Không ít nhà văn cùng thời với ông nay đã hoặc đang có ý
định gác bút ; không ít hiện tượng một số cây bút trẻ chỉ sau vài sáng tác đã đuối sức
hụt hơi. Còn Nguyễn Khải vẫn miệt mài sáng tạo và cống hiến. Trên hành trình lao
động nghệ thuật của mình, có mặt kịp thời với những thay đổi trọng đại của thời cuộc
xã hội, của đời sống tinh thần - vật chất và ý thức tình cảm của con người, Nguyễn
Khải vừa giữ được những sự nhất quán cần thiết của ngòi bút, lại vừa liên tục vận
động, vượt qua cả những lối mòn của chính mình để làm nên một phong cách riêng
biệt, độc đáo, với những đóng góp đáng kể vào diện mạo và thành tựu của văn xuôi
Việt Nam hiện đại.
Hơn nửa thế kỷ lao động sáng tạo nghiêm túc và công phu, Nguyễn Khải đã tự
khẳng định mình ở nhiều thể loại : truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, ký, tạp văn. Với
một khối lượng khá lớn tác phẩm từng bước phản ánh kịp thời những nhiệm vụ cơ
bản của mỗi giai đoạn cách mạng và những vấn đề thiết thực của cuộc sống, thành
quả nghệ thuật của Nguyễn Khải đã được khẳng định qua nhiều giải thưởng lớn, mà
có lẽ, Giải thưởng văn học ASEAN 2000 và Giải thưởng Hồ Chí Minh 2000 chính là
những sự công nhận xác đáng nhất, vinh dự nhất ...
Cho đến nay, tác phẩm của Nguyễn Khải đã thu hút sự chú ý của nhiều thê hệ
nghiên cứu phê bình ở các Viện nghiên cứu và các trường đại học. Nhưng nhìn
chung, việc nghiên cứu về sáng tác của Nguyễn Khải - xét ở góc độ thi pháp học -vẫn
còn có phần tản mác, riêng lẻ. Đóng góp của ông vào thành tựu văn xuôi Việt Nam
hiện đại chưa được khảo sát thành hệ thống. Nếu có, chỉ ở góc độ một khứa cạnh,


chẳng hạn : mảng đề tài, giá trị nội dung, một nét nghệ thuật, ... hoặc cao hơn, về một
giai đoạn sáng tác trong đời văn Nguyễn Khải.
Ít nhiều tâm đắc với suy nghĩ của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn - một người
đặc biệt dày công nghiên cứu Nguyễn Khải - về "một công trình nghiên cứu riêng về
phong cách của Nguyễn Khải" [73.4 ,119], chúng tôi muốn qua chuyên luận này,
khảo sát nghệ thuật kể chuyện trong văn xuôi tự sự của nhà văn. Với khả năng hạn
hẹp của mình, chúng tôi không có tham vọng "dựng" được một chân dung phong

cách hoàn chỉnh về một nhà văn lớn của thời đại. Xuất phát từ những tìm tòi nghiên
cứu của người đi trước về sáng tác của Nguyễn Khải, vận dụng một số kiến thức về
lý luận văn học và văn xuôi hiện đại Việt Nam lãnh hội trực tiếp trong học tập cũng
như từ các tài liệu đọc được, chúng tôi muốn bổ sung, sắp xếp, hệ thống lại các vấn
đề có liên quan đến Nguyễn Khải theo một hướng mới, mong chỉ ra được một số đặc
điểm phong cách nổi bật trong nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Khải (ở thể loại
truyện ngắn), từ đó khẳng định đóng góp đặc sắc của nhà văn vào tiến trình hiện đại
hóa văn học Việt Nam. Hy vọng với chuyên luận này, chúng tôi có thể góp phần nhỏ
vào công trình nghiên cứu chung về Nguyễn Khải - một gương mặt văn chương vừa
quen thuộc lại vừa mới mẻ trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử nghiên cứu
Không tạo ngay được tiếng vang từ những tác phẩm đầu tay, được viết với tư
cách một phóng viên chập chững bước vào nghề văn (từ 1948 đến 1956), phải đến
1956, với Nằm vạ - một sáng tác "có thể chấp nhận được" và Xung đột (2 phần, 1957
- 1960), "người cầm bút" mặc áo lính Nguyễn Khải mới bắt đầu nghiệp văn chương,
thật sự dấn thân vào hành trình lao động sáng tạo nghệ thuật.
Sáng tác liên tục, đời văn Nguyễn Khải vừa gắn liền với những bước ngoặc
của lịch sử dân tộc, với mọi mặt vận động của đời sống xã hội và con người, vừa từng
lúc đem lại cho người đọc những ấn tượng mới mẻ về một phong cách nghệ thuật
ngày càng mang nét riêng biệt, độc đáo. Số lượng tác phẩm phong phú, đa dạng của
Nguyễn Khải tuy có phần "kén" độc giả (theo nhận định của một số nhà nghiên cứu
và cũng chính là lời tự nhận xét của tác giả), nhưng cũng chính nó đã tạo nên một sức
hút đặc biệt đối với giới phê bình nghiên cứu văn học. Từ cuối những năm 50 sang


những năm 60, Nguyễn Khải đã bắt đầu "làm rộn" các nhà nghiên cứu. Từ những
năm 70 trở đi, số lượng bài viết, công trình nghiên cứu về sáng tác của Nguyễn Khải
ngày càng nhiều. Có thể kể tên một số tác giả tiêu biểu đã ít nhiều tìm thấy nguồn
cảm hứng và có tâm huyết với sáng tác của Nguyễn Khải như: Phan Cự Đệ, Nguyễn
Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Vương Trí Nhàn, Trần Đình Sử, Phong Lê, Nguyễn Văn

Hạnh, Ngô Văn Phú, Lê Ngọc Trà, Chu Nga, Huỳnh Như Phương, Bích Thu, Đào
Thủy Nguyên, v.v...
Tùy cảm hứng tiếp cận, mục đích và phạm vi khai thác vấn đề, các nhà nghiên
cứu đã đề cập đến một số khía cạnh nổi bật trong nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn
Khải, với những mức độ đậm nhạt, nhiều ít khác nhau. Nhưng nhìn chung, các bài
viết, công trình đã có sự gặp gỡ ở những nhận định về thành công, hạn chế và đóng
góp của nhà văn về phương diện này.
Một trong những nét nổi trội trong lối tự sự của Nguyễn Khải mà nhiều nhà
nghiên cứu cùng đề cập, đó là chất hiện thực tỉnh táo, lối viết sắc sảo, nhạy bén, mang
tính chất phát hiện, đã làm nổi bật lên trong làng văn xuôi Việt Nam hiện đại sau
Cách mạng tháng Tám 1945 một Nguyễn Khải với "con mắt tinh đời" [37].
Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ, trong các bài viết của mình, nhiều lần đánh giá
cao lối văn có thế mạnh của "cái tỉnh táo sắc sảo mang nhiều tính chất phát
hiện” của Nguyễn Khải [28.4,15]. Chẳng hạn ý kiến sau đây của ông :
"Phong cách hiện thực tỉnh táo cũng tạo cho Nguyễn Khải một thứ ngôn ngữ
đặc biệt. Đó là một thứ ngôn ngữ trí tuệ, sắc sảo, đánh thẳng vào đối phương không
kiêng nể, sẵn sàng phơi trần ra ánh sáng mọi thứ mặt nạ giả dối, một thứ ngôn ngữ
mang tính chất chiến đấu, chân thật, khách quan, không cần một sự tô màu mỹ học lộ
liễu nào" [28.4,114-115].
Nhận định về một trong những đóng góp làm nên thành công của Nguyễn
Khải trong các tác phẩm Tầm nhìn xa, Chủ tịch huyện, nhà nghiên cứu Phong Lê,
trước đó, cũng đặc biệt chú ý đến nét sắc sảo đáng quý của nhà văn [69.1]. Hàng loạt
ý kiến - trước, sau - của các nhà nghiên cứu đều khẳng định đây là một trong những
ưu thế của Nguyễn Khải : Vũ Tú Nam [75], Hồ Phương [92], Hà Minh Đức [32.1],
Phan Hồng Giang [34.1], Song Thành [114], Nguyễn Văn Lưu [70], Lại Nguyên Ân


[4.2], Nguyễn Tuyết Nga [77], v.v... Nhà nghiên cứu Đoàn Trọng Huy nhận định
: "thông minh, sắc sảo, nhanh chóng tiếp cận đối tượng" chính là "hứng thú riêng
theo phong cách của ông", để "nhanh chóng tiếp cận đối tượng và muốn thẳng thắn

"lật áo" hay "đi guốc vào bụng" nhân vật" [53,87]. Theo nhà nghiên cứu Vương Trí
Nhàn, Nguyễn Khải nổi tiếng với "lối văn linh hoạt", mà nhờ đó ông đã thể hiện
được ''một phía khác của tài năng là rất tỉnh, không bao giờ chịu là tù nhân của
những ảo tưởng mê muội" [85.7, 245].
Một đặc điểm nổi bật khác ở Nguyễn Khải cũng được chú ý đến, là lối viết nêu
vấn đề. Chăm chú, tỉnh táo phát hiện và phản ánh hiện thực, mục đích của nhà văn,
cuối cùng, vẫn là vấn đề. Từ nhân vật, sự kiện, chi tiết... đến xung đột, giải quyết mâu
thuẫn ... trong tác phẩm của Nguyễn Khải đều phục vụ cho việc nêu vấn đề, để qua
đó, nhà văn sẽ khẳng định một chân lý, đưa ra một triết luận về một hiện tượng nào
đó của cuộc sống.
Nhà nghiên cứu Thành Duy nhận định : chính cách nêu và giải quyết vấn
đề "không theo lối kể lể, chạy theo sự việc" của Nguyễn Khải đã làm nên "một thành
công mới" của nhà văn trong quá trình sáng tạo [22,199]. Nhà nghiên cứu Ngô Thảo
cũng thấy rằng : Nguyễn Khải "kiên trì lối xây dựng tác phẩm nêu vấn đề..." [113.5],
văn ông "cốt diễn dẫn ý là chính nên không rậm rạp ..." [1 13.2], bởi ''điều quan tâm
trước tiên của nhà văn là vấn đề, tất cả những thứ khác đều đứng hàng thứ
hai" [113.1,293].
Khai thác chất triết luận trong tác phẩm của Nguyễn Khải, nhà nghiên cứu
Phan Cự Đệ nhận thấy Nguyễn Khải "luôn bận rộn và chật ních những vấn đề" [28.1]
; "Chất luận đề sẽ nâng cao tầm khái quát của các thể loại văn xuôi, gây một ấn
tượng tập trung và tác động mạnh mẽ đến người đọc, tránh được sự dàn trải kể lể
theo thời gian và sự kiện" [28.4,246 - 247]. Đồng điệu với nhận định của nhà nghiên
cứu Hà Minh Đức về khả năng "giỏi phát hiện vấn đề" [33.3,11] ở Nguyễn Khải, nhà
nghiên cứu Vương Trí Nhàn cũng chỉ ra, thế mạnh của Nguyễn Khải ở chỗ "đặc biệt
là biết khai thác đúng vào khía cạnh có vấn đề" mà không hề thấy có sự trùng lắp
[85.4,101], vấn đề là "điểm nhất quán trong tư duy", làm nên chất luận đề đậm đặc
trong tác phẩm của Nguyễn Khải [85.7].


Có thể thấy chỗ đồng quan điểm trong việc đánh giá đặc điểm nghệ thuật này ở

Nguyễn Khải qua khảo sát thêm hàng loạt ý kiến của các nhà nghiên cứu khác như:
Vũ Quần Phương (tác phẩm của Nguyễn Khải "cớ giá trị khảo luận triết học" [93]) ;
Lê Thành Nghị ( "triết lý là yếu tố đặc sắc trong sáng tác của Nguyễn Khải" [79,
335]) ; Đoàn Trọng Huy ( "ở tác phàm Nguyên Khải, chát chính luận nhiều khi nổi
lên như một thành phần lấn át, nhất là ở những sáng tác từ sau 1975. Rõ ràng là
Nguyễn Khải có hứng thú và nhu cầu chính luận..." [53,89]) ; Đinh Quang Tốn
(Nguyễn Khải có "lối viết khác người", luôn khởi từ vấn đề có chủ định trước [122]);
Nguyễn Hữu Sơn (văn Nguyễn Khải "không màu mè, không thiên về tả trời, mây,
non, nước. Bắt đầu vào trang viết là gặp ngay nhân vật, biến cố, sự
kiện..." [101,383]) ; Lại Nguyên Ân (Nguyễn Khải - "Người trần thuật ham nói
lý" [4.3 ,189]; Nguyễn Thị Bình (ở Nguyễn Khải, "hứng thú triết luận thường trực
làm thành một giọng điệu riêng" [8.2, 67]); v.v...
Điều đó cho thấy, đây là hai nét đặc điểm quan trọng trong nghệ thuật tự sự
của Nguyễn Khải, được giới nghiên cứu dành nhiều sự quan tâm.
Như một hệ quả tất yếu, nét ưu thế nổi bật nào cũng còn chỗ chưa kín cạnh của
nó. Ở những mức độ khác nhau, các nhà nghiên cứu cũng đề cập đến những hạn chế
trong đặc điểm nghệ thuật của Nguyễn Khải
Nhà nghiên cứu Chu Nga có nhận định :
"Đọc Nguyễn Khải đôi khi chúng ta rất thích thú thấy anh quả là thông minh
và sắc sảo, song chúng ta vẫn cứ muốn đòi hỏi ở ngòi bút hiện thực của anh một cái
gì khác nữa, chẳng hạn như một sự say mê, một tình cảm gắn bó, thương yêu nhiều
hơn nữa đối với con người", sự "lạnh lùng khách quan" đã khiến nhà văn "tự tước
mất của ngòi bút mình cái quyền tưởng tượng, cái yếu tố lãng mạn cách mạng mà
nhờ nó tác phẩm mới có được đôi cánh nâng tâm hồn ta lên những đỉnh cao của cuộc
đời (...) Tác phẩm anh hấp dẫn chúng ta căn bản bằng những vấn đề, những suy nghĩ
thuyết minh, những nhận xét sắc sảo, đôi khi làm giật mình người đọc. Vì vậy đọc
anh, chúng ta thấy phục và sợ nhiều hơn là yêu và say” [77,73 - 74].
Còn theo nhà nghiên cứu Văn Chinh, thì Nguyễn Khải "cần tỉnh táo hơn trong
phong cách triết lý" [12].



Khảo sát thêm nhiều ý kiến khác : Hồ Phương [91], Nguyễn Huệ Chi [13],
Nguyễn Phan Ngọc [83.2], Nguyễn Văn Hạnh [39.1 ; 39.2], Vương Trí Nhàn [85.7],
v.v... , sẽ thấy các nhà nghiên cứu cũng đều ít nhiều đồng tình với các nhận định trên.
Dành nhiều tâm huyết với sáng tác của Nguyễn Khải, nhà nghiên cứu Vương
Trí Nhàn đã chỉ ra con đường đi vào lòng người đọc theo lối rất riêng của nhà văn :
lối văn "lạnh" lúc đầu thường bị "kêu ca” đã từ chỗ khó tiếp cận, lâu ngày lại trở nên
quen thuộc với người đọc về sự hình thành "một cách viết" [85.7, 246 - 247].
Đa số các ý kiến đều cho rằng, "quen" với lối viết nêu vấn đề và mục đích triết
luận của Nguyễn Khải cũng chính là quen với hiện tượng nhà văn nhiều khi hơi sa
vào "sính triết lý". Thậm chí khi cần, ông sẵn sàng "khiến" nhân vật đi theo sự sắp
sếp của mình một cách lộ liễu, hoặc nhanh chóng giải quyết các mối quan hệ sao cho
triết luận vấn đề mà mình nhắm tới được thể hiện nhanh nhất, khiến người đọc nhiều
lúc bị "hẫng" bởi những hành trình dở dang của nhân vật, hay tính thiếu thuyết phục
của các chi tiết, của cách kết thúc tác phẩm [64 ; 72 ; ...]. Có lúc nhà văn hăng
hái "thuyết minh” hộ nhân vật [68] với tư cách "một người chủ đầy quyền lực" [35.1 ;
77], tự cho mình cái quyền "nâng" và "hạ" nhân vật tùy tiện, thậm chí "bỏ" nhân vật
ở "ngã ba đường" [28.1 ; 77 ; 13 ;...]. Có lúc nhà văn "lấn nhân vật" của mình [93.1]
bằng cách kể và phân tích nhiều hơn là miêu tả [28.1 ; 79 ; 85.4 ; 113.5 ;...]. Điều đó
khiến nhiều lúc tác phẩm Nguyễn Khải thiếu sự rung động đối với người đọc [83.1] ;
hoặc gây được chú ý bởi chất triết lý, nhưng lại có "nhiều đoạn trầm và hơi
khô" [74.2], lối viết mạnh mẽ, dứt khoát, không du dương, ngọt ngào, lôi cuốn đôi khi
làm cho tác phẩm thiếu độ "dày", "mọng" cần thiết [4.1], đôi khi còn "nặng nề, thiếu
sinh động" [103]; hoặc có khi vì nặng tính ghi chép nên khái quát nghệ thuật của tác
phẩm chưa cao [28.1].
Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức nhận định, chính vì nhiều lúc nặng chát duy lý,
nên sáng tác của Nguyễn Khải có cái cốt ly trí mà còn thiếu phần tươi thắm của da
thịt, có được cái khung vững mạnh của thân cành mà còn thiếu chất xanh tươi của
hoa lá [33.1,248 - 249]. Chất duy lý đôi khi hơi lộ liễu ở Nguyễn Khải khiến nhân vật
có lúc trở thành "cái loa phát ngôn" cho tư tưởng nhà văn, [28.1 ; 85.9 ; ...], chịu sự

đạo diễn của nhà văn ở mức đủ để phát ngôn cho triết luận đã định trước [70.1], hay


để qua đó nhà văn hướng tới "công bố tư liệu" [4.3,160]. Vì thế, theo nhà nghiên cứu
Vũ Cao, có một lúc, ở Nguyễn Khải, "cái tinh, cái sắc sảo có nhiều, người ta đọc
thấy hay, nhưng cuối cùng cái dư hương chưa để lại được nhiều lắm" [12,227]. Nhân
vật của Nguyễn Khải, vì thế, có khi "càng lúc càng đuối", chưa thật "thấm", không
"sống" bền [24]. Có lúc có những "sứt mẻ đáng tiếc" [35.1]. v.v...
Tuy vậy, các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy, chất "lạnh" , "cái sắc sao đôi khi
đến tàn nhẫn sẵn có" (từ dùng của nhà nghiên cứu Nguyễn Kim - [64]) không phải là
nét bản chất của Nguyễn Khải, bởi nó không có trong cái "tạng" của một nhà văn vốn
rất dễ xúc động, "cớ những phút rất yếu lòng" [85.3, 94] . Theo nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Hạnh, cái lạnh lùng của Nguyễn Khải phải được hiểu là cái "lạnh lùng
nghệ thuật'" góp phần đắc lực làm nên "phong cách hiện thực tỉnh táo" ở Nguyễn
Khải, nhằm "khách quan hóa sự kiện và nhân vật mà nhà văn miêu tả để gây một tác
động nghệ thuật mạnh hơn” [39.1,58]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng thì đánh giá
Nguyễn Khải "rất thành công" ở mặt này. Nhà văn - trong cách thức xây dựng hệ
thống nhân vật chính - phụ phục vụ ý đồ nghệ thuật của mình, đã tạo ra
những "nét", những "đỉnh điểm" để ""nhân vật chính đưa ra một triết lý bất ngờ
nhằm thỏa mãn trí tuệ người đọc" [26, 371].
Khen, chê cái "tạng" văn chương đặc biệt, khó lẫn của Nguyễn Khải, không ít
nhà nghiên cứu cũng đã nhìn thấy sự vận động "càng trở nên gần gũi với đông đảo
bạn dọc" [104,30] của ông từ những năm 1959, 1960, mà đặc biệt là từ 1975 trở đi.
Chẳng hạn ý kiến sau đây của nhà nghiên cứu Hồ Thế Hà : theo thời gian, những thay
đổi của cuộc sống đã khiến Nguyễn Khải ngày càng "uyển chuyển hơn, bên cạnh cái
sắc sảo của óc nhận xét thông minh và tỉnh táo, cái thắm thiết của tình cảm đã hiện
dần ra và mỗi lúc một rõ nét hơn' [38, 58 - 62].
Một trong những cách tân trong lối trần thuật của Nguyễn Khải là sự chuyển
đổi vai người kể chuyện, vấn đề này tuy chỉ mới được khảo sát ở một giới hạn nhất
định (về số lượng công trình nghiên cứu, mức độ nghiên cứu), nhưng bước đầu, các

nhà nghiên cứu đã ít nhiều chú ý đến sự xuất hiện của chủ thể trần thuật "Tôi" ngày
càng nổi trội trong những trang viết của Nguyễn Khải.


Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn nhận xét : Nguyễn Khải đã công khai đưa
tiểu sử riêng vào sáng tác từ sau 1975, chuyển cực từ "đóng chặt cửa" sang mở cửa
thế giới riêng tư, "tìm cách đưa tất cả cuộc đời riêng, lai lịch riêng lên trang giấy,
gần như cái gì phục vụ được cho trang viết thì đưa ra hết" [85.5,112]. Đọc những
trang viết về Hà Nội của Nguyễn Khải sau 1975, nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn
chú ý đến sự "cuốn hút, hấp dẫn' của phương pháp kể chuyện ngôi thứ nhất, "viết về
người thân trong họ hàng hay bạn bè cũng là viết về những khát khao và những được
mất của mình, đem chính cuộc đời mình ra làm chất liệu để sáng tác' [121, 381]. Nhà
nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn cũng có nói đến khả năng nhập vai nhân vật "tôi", thuật
chuyện thật đa dạng, sinh động của Nguyễn Khải, có khi với tư cách "người chứng
kiến, xác nhận", có khi với tư cách "người trong cuộc, tự nếm trải, giãi bày [101,37].
Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình thì chú ý đến Nguyễn Khải một ngòi
bút "khiêm nhường" qua nhiều trang viết mang "tính tự thuật, tự chiêm
nghiệm” [8,138 - 139]. . . .
Nhà nghiên cứu Nguyễn Tuyết Nga chú ý đến Nguyễn Khải - người kể các
mẫu chuyện với "sự khác biệt làm nên sự độc đáo cho bút ký, tạp văn” : "Đôi khi,
nhà văn tự biến mình thành một nhân vật tham gia vào câu chuyện đế dẫn dắt, tạo
tranh luận, hoặc như một dẫn chứng về một lối nghĩ, một lối hành động không đúng
mà ông đang muốn phê phán" [78, 394].
Nghiên cứu nhân vật "Tôi" trong truyện ngắn Nguyễn Khải từ 1980 đến nay,
tác giả Lê Thị Hồ Quang đánh giá : "Nhân vật "Tôi" là một hình tượng khá đặc sắc
của Nguyễn Khải, một cái tôi đầy ý thức, luôn tự phân tích, xem xét và không ngại
"chường mặt" mình trên trang viết" [96,123], với nhiều nét duyên khác nhau.
Tác giả cũng chỉ ra "hạn chế không tránh khỏi" qua lối chuyển cực của Nguyễn Khải,
nói như nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, "từ cực đoan nọ đến cực đoan kia” [85.5,
112] . Theo nhà nghiên cứu Lê Thị Hồ Quang, nó khiến tác phẩm của ông nhiều khi

trở nên "lặp, đơn điệu", khiến lối văn "nhìn nhận, đánh giữ" của ông không phải lúc
nào cũng hợp với mọi tạng người, nhất là với giới trẻ. Tuy vậy, tác giả cũng mạnh
dạn đánh giá cao đóng góp của Nguyễn Khải : với việc xây dựng chủ thể


"Tôi”, Nguyễn Khải đã có "một sáng tạo đặc sắc riêng" trong việc xây dựng "kiểu
con người tụy thức của văn học giai đoạn mới".
Sự thay đổi giọng điệu văn chương ở Nguyễn Khải là vấn đề được nhiều nhà
nghiên cứu đặc biệt chú ý. Trong đó, một số tác giả, khi khảo sát những chặng đường
văn Nguyễn Khải, vẫn xem Mùa lạc và loạt tác phẩm viết ở nông trường Điện Biên
như một dấu hiệu "chín" của nhà văn, mà bẵng một lúc sau đó, người ta vẫn mong
Nguyễn Khải tìm lại được cho mình chất giọng "tha thiết, đắm đuối", "đầm ấm, nhẹ
nhàng, thiết tha rung động" [85.5, 88 ], với nhiều đoạn "ham ta cảnh" khiến người
đọc ngạc nhiên, trước tình cảm say sưa trọn vẹn của một con người "hoàn toàn hòa
mình với cuộc sống"
Sức hút đôi với giới nghiên cứu văn xuôi tự sự của Nguyễn Khải về phương
diện này chính là ở lối viết vẫn thiên về khám phá, “tóm bắt” một cách tinh nhạy, sắc
sảo, nhưng lại không ngừng vận động qua từng thời kỳ, ngày càng "ấm nóng", "đôn
hậu", "khoan hòa" [74.4 ; 85.5 ; 78 ; 104 ; 28.3 ; 93 ; ...].
Nhận xét khái quát về sự chuyển đổi giọng điệu văn chương Nguyễn Khải, nhà
nghiên cứu Lê Ngọc Trà viết:
"Giọng người kể chuyện vẫn thông minh, lôi cuốn như trước đây, nhưng mỗi
ngày một mềm mại, uyển chuyển hơn. Trong cái nói đi đã có cái nói lại, bên cạnh sự
tự tin đã có cái tự chế giễu mình, cuộc sống đã được nhìn từ nhiều phía khác nhau ...)
Bản thân lời kể chuyện cũng giàu chất suy tư hơn, cái nghĩ đã thấm đượm nỗi buồn
của người nhận ra ý nghĩa của thời gian và quy luật của đời sống" [123.2, 22 -23].
Khác một chút trong lối diễn đạt, nhưng cũng cùng sự nắm bắt, cảm nhận, nhà
nghiên cứu Vương Trí Nhàn viết về giọng văn Nguyễn Khải: ''Một cách nhìn có lui
có tới, có thế này và có thế kia (...) từng trải hơn, nhẹ nhõm hơn” [85.5, 119].
Theo nhiều nhà nghiên cứu, từ lối văn một giọng với cái nhìn xuôi chiều, phục

vụ cho mục đích triết luận đến lối viết không ngừng khơi gợi đối thoại, Nguyễn Khải
đã có ý thức phối hợp nhiều giọng văn khác nhau. Và chính ở đây, ông đã có đóng
góp lớn vào việc hình thành “Lối văn hiện đại của thế kỷ XX" trong văn học ta [104,
29].


Nhà nghiên cứu Bích Thu cho rằng, ở Nguyễn Khải đã hình thành "lối văn tiểu
thuyết đa thanh, hiện đại", các hiện tượng, vấn đề được Nguyễn Khải nhìn nhận,
miêu tả "bởi sự phức hợp giọng điệu mang nhiều tiếng nối : giọng tác giả, giọng
nhân vật, giọng người kể chuyện với nhiều sắc thái, âm điệu khác nhau, hòa trộn,
đan xen, tranh cãi, đối lập" [1 19.1, 122 - 123].
Nhiều nhà nghiên cứu đã "bắt" được những sắc thái giọng điệu phong phú làm
nên một phong cách không trộn lẫn ở Nguyễn Khải : vẫn sắc sảo mà vẫn đôn hậu ;
hóm hỉnh có duyên ; vừa triết lý tranh biện lại vừa cà kê, tâm tình, chia sẻ ; vừa
chiêm nghiệm, thâm thúy, sâu sắc lại vừa pha ngang tưng tửng, châm biếm, cười cợt,
giễu nhại và tự giễu nhại ; ưu thế trong việc chắt lọc lối nói khẩu ngữ khi trang
nghiêm trân trọng, khi đôn hậu trầm tư, khi thân mật suồng sã... [93 ; 85.5 ; 4.2 ; 14 ;
53 ; l01 ; 119.2 ;...]. Nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương đã khẳng định, chỉ có giọng
văn đa thanh mới đủ khả năng phục vụ mục đích triết luận, và "Nguyễn Khải có ý
thức rất rõ rằng ngôn ngữ đơn thanh sẽ khổng có đủ hiệu lực trong việc phân tích
các vấn đề phức tạp của đời sống", và tất yếu, trong bảng pha màu ngôn ngữ của nhà
văn "không thể thiếu tính phức điệu” nhờ đó, "nội dung của tác phẩm không bao giờ
trùng khít với chính nó, mà vẫn có những khoảng trống chừa ra cho những liên
tưởng của người đọc" [93.3, 362].
Chú ý đến hiện tượng càng về sau Nguyễn Khải càng có "biết bao khác
biệt" [85.5], nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ, ngay từ cuối những năm 60, đã nhìn thấy
những dấu hiệu chuyển biến ở văn xuôi tự sự của Nguyễn Khải : "càng về sau càng
gắn kết chặt chẽ (...) với nhiều đoạn trữ tình phụ đề ngọt ngào, thi vị” [281,121]. Đó
cũng là sự tin tưởng chắc chắn của nhà nghiên cứu Vũ Cao , tin rằng "Nguyễn Khải
sẽ dần dần khắc phục bớt nhược điểm và chỗ mạnh riêng của anh ngày càng mạnh

để tạo nên những tác phẩm có sức rung động sâu sắc, có nhân vật hoàn chỉnh
hơn" [12, 228]
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cũng nêu ra thêm một đặc điểm làm nên
sự "khác biệt", "không thể trộn lẫn” trong phong cách Nguyễn Khải : khả năng dung
hòa nét "khô", "đơn điệu" ở những đoạn văn sính triết lý bằng cách "xổ giọng phong
tục", đưa vào văn chương "giọng điệu dân dã, địa phương". Tuy "thành phần ngôn


ngữ này ở trong tác phẩm Nguyễn Khải càng về gần đây càng hơi ít đi, (...), nhưng
khi cảm thấy cần, anh vẫn biết dùng lại một cách hiệu quả” [4.2,121]. Về mặt này,
theo nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, Nguyễn Khải - cùng với lớp nhà văn như Kim
Lân, Võ Huy Tâm, Vũ Tú Nam, Ngô Ngọc Bội, ... có thể được coi như lớp hậu duệ,
tiếp bước, duy trì và phát triển truyền thống văn xuôi phong tục. Các nhà văn đã khai
thác, thể hiện khả năng quan trọng của ngôn ngữ tự sự chủ yếu ở khía cạnh miêu tả
ngôn ngữ, xử lý chất giọng địa phương [4.1] ...
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh có nhận định về một phương diện văn
chương góp phần làm nên phong cách Nguyễn Khải, qua những trang viết về Hà Nội
và những con người của một thời Hà Nội xa xưa “Lấp lánh bụi vàng" : sự chiêm
nghiệm, lịch lãm đã đưa văn Nguyễn Khải tiến đến gần sự "sang". Đó là những trang
viết sang của một người "thích nói chuyện sang, thích nói giọng sang" [74.8, 322].
Nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn thì chỉ ra, "văn của Nguyễn Khải đã tiến gần đến
sự sang", với những chi tiết miêu tả đã qua mà khiến người ta "cứ bâng khuâng
mãi" [121, 378] . Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn - tuy không nói cụ thể như thế cũng ít nhiều đề cập đến phương diện này ở Nguyễn Khải : ngày càng trải đời, tinh
tế, lịch lãm, có những nghiệm sinh sâu sắc từ quá khứ [101,138]. Hay với nhà nghiên
cứu Lại Nguyên Ân, văn Nguyễn Khải về sau chuyển sang "giọng găm trầm, tâm thế
hồi cố thích ngoái lại quá khư” [4.1,148 - 149]. Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Thị
Kim Anh thì chú ý đến giọng điệu ngày càng trĩu nặng nỗi nhân sinh của nhà văn [1].
Nhà nghiên cứu Vũ Quần Phương đã tìm ra lối đọc thích hợp với văn chương
Nguyễn Khải:
"Chỉ khó mấy trang vào truyện, khi nhập vào mạch nghĩ của anh rồi rất dễ bị

cuốn theo anh. Thâm trầm nhưng sáng rõ, sâu sắc mà cụ thể. Và cách nói thì rất giản
dị (...) Đọc anh, có cảm giác như cùng anh trò chuyện, anh khám, phá và ta cũng
khám phá" [92, 345]
Thâm nhập, khám phá cốt cách văn chương của Nguyễn Khải, nhà nghiên cứu
Vương Trí Nhàn vừa chỉ ra được những sự vận động đổi mới của nhà văn, lại vừa
thấy được sự nhất quán ở ông :


"Vế mặt bút pháp thì trước sau Nguyễn Khải vẫn trung thành với mình
: vẫn thích lối kể hơn lối tả. Vẫn không để ý nhiều tới cốt truyện, cái hình dáng của
câu chuyện, mà tập trung vào việc làm nổi một nhân vật, một kiểu người, một cách
sống. vẫn có một giọng văn vừa tự nhiên, vừa duyên dáng, cái duyên dáng dân dã,
chứ khống phải do làm điệu làm dáng mà có. Dẫu sao, cho đến hôm nay, tương ứng
với các nội dung nhân bản kia, giọng văn ấy mới trở nên hiền hòa thuần thục như
chưa bao giờ nó từng cớ" [85.5, 119].
Thấy được đặc điểm vừa nhất quán, vừa có sự đổi thay, phát triển trong lối văn
tự sự của Nguyễn Khải, trong Luận án Tiến Sĩ Ngữ văn 2000 của mình, tác giả
Nguyễn Văn Kha cũng có viết : "Cái mới ở Nguyễn Khải không nảy sinh từ chỗ phá
bỏ cái cũ, mà là mở rộng, làm đa dạng, phong phú hơn từ cái cốt ban đầu sẵn có,
không ngừng đổi mới nhưng cũng hết sức nhất quán" [57, 67 - 70].
Sự nghiệp sáng tác đa dạng, phong phú và quá trình hình thành một phong
cách nghệ thuật riêng biệt trong đời văn Nguyễn Khải - nhìn chung - quả đã có một
sức hút mạnh mẽ với giới nghiên cứu văn chương, nhất là ở phương diện nghệ thuật
tự sự. Tuy nhiên, điểm qua hệ thống các bài viết, công trình nghiên cứu về tác phẩm
Nguyễn Khải, đặc biệt là ở phương diện này, theo chúng tôi, thật sự vẫn còn thiếu
một công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, toàn diện, sâu sắc. Khảo sát các ý
kiến đánh giá, đóng góp, nhận định của các nhà nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy việc
tiếp cận nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Khải trước nay hoặc thiên về bao quát,
tổng hợp, hoặc thiên về một khía cạnh nào đó, ở một dung lượng nhất định. Nhưng,
những ý kiến, nhận định trên đều có những chỗ xác đáng, mà từ đó, có thể gợi ra tiếp

những hướng nghiên cứu khoa học sâu hơn về Nguyễn Khải.
Kế thừa, học tập, vận dụng và tổng hợp nguồn tài liệu phong phú có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu từ các nhà khoa học đi trước, trình bày những ý kiến riêng của
một lớp bạn đọc Nguyễn Khải trong giai đoạn mới, chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu
nghệ thuật kể chuyện trong văn xuôi tự sự của Nguyễn Khải và phát triển nội dung
nghiên cứu này thành một luận văn nghiên cứu khoa học.


3. Phạm vi nghiên cứu
Nguyễn Khải là một trong những nhà văn hiện đại có những đóng góp đáng kể
vào diện mạo và tiến trình văn học hiện đại Việt Vàm sau 1945 ở nhiều phương diện
nội dung và nghệ thuật, nên nghiên cứu Nguyễn Khải, không thể tách rời hai phương
diện này.
Tuy vậy, do nhu cầu nghiên cứu và những hạn chế nhất định của bản thân, của
nguồn tư liệu và quỹ thời gian cho phép, chúng tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu nghệ
thuật kể chuyện của Nguyễn Khải.
Mặt khác, do Nguyễn Khải là nhà văn có sức viết dồi dào, với hệ thống sáng
tác đa dạng, phong phú về thể loại, nên việc nghiên cứu sâu toàn bộ tác phẩm của ông
về phương diện nghệ thuật thật sự đòi hỏi nhiều sự đầu tư công phu. Trong giới hạn
khả năng, chúng tôi chỉ đi sâu vào nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện trong truyện
ngắn Nguyễn Khải.
Nhưng, vì ở Nguyễn Khải, đôi lúc có sự không dứt khoát trong việc xác định
thể loại tác phẩm, đôi lúc ranh giới thể loại sáng tác của nhà văn không được rõ ràng,
nên khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Khải, chúng tôi chủ yếu dựa trên các đầu sách
mà trong giới hạn tìm kiếm, có thể có được. Trong đó, ngay bản thân các nhà xuất
bản cũng chưa thật dứt khoát, thống nhất trong việc xác định tên gọi hợp lý về thể
loại cho các tác phẩm, là truyện, truyện ngắn hay truyện vừa, chưa kể trường hợp
được biệt loại trong truyện nghề. Chẳng hạn, các sáng tác Những người già, Lính
chữa cháy được xếp vào phần tạp văn trong "Truyện ngắn và tạp văn Nguyễn
Khải" (Nxb Trẻ, Tp. HCM 1997); và là truyện ngắn trong "Tuyển tập truyện ngắn

Nguyễn Khải" (Nxb Hội Nhà Văn, H. 2002). Hiện tượng này có thể thây trong hàng
loạt các tác phẩm khác của nhà văn, như : Chuyện người tổ trưởng máy kéo, Hãy đi
xa hơn nữa, Tầm nhìn xa, Người trở về, Một giọt nắng nhạt, Cái thời lãng mạn, Sư
già chùa Thắm và ông đại tá về hưu, Danh dự, sống ở đời. Cho nên, trên thực tế, sự
khảo sát truyện ngắn Nguyễn Khải cũng nằm trong giới hạn tương đối về thể loại, và
theo chúng tôi nghĩ, không nên có sự dứt khoát, rạch ròi. Có như thế, việc nghiên cứu
sẽ không bị rơi vào phiến diện, gượng ép, mà từ những tác phẩm cụ thể được khảo
sát, chúng tôi vừa có thể đưa ra cái nhìn hệ thống hơn về những đặc điểm nghệ thuật


riêng của truyện ngắn Nguyễn Khải, đồng thời thấy được sự thống nhất chung, những
ảnh hưởng chung trong toàn bộ văn mạch của ông - một trong những gương mặt văn
chương đặc biệt không ngừng phấn đấu, dấn thân trên hành trình lao động sáng tạo
nghệ thuật, không ngừng tự vượt mình với những cuộc cách tân làm thành những dâu
ấn đáng chú ý của một phong cách riêng biệt, không thể lẫn lộn.
Ngoài ra, phục vụ cho mục đích tìm hiểu sự học tập, kế thừa và những ảnh
hưởng qua lại giữa Nguyễn Khải với bối cảnh văn chương thời đại và các phong cách
văn chương khác, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có tiến hành liên hệ, đối
chiếu, so sánh sáng tác của Nguyễn Khải với sáng tác của một số tác giả văn học
trước - cùng thời và sau ông , như : Nam Cao, Nguyên Hồng, Thạch Lam, Nguyễn
Quang Sáng, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phan Thị Vàng Anh,...
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau đây :
PHƯƠNG PHÁP HỆ THỐNG
Đây là một trong những phương pháp bao trùm trong thi pháp học. Nói đến hệ
thống là nói đến chỉnh thể, trong đó có các yếu tố và những mối quan hệ tự thân giữa
các yếu tố ấy với nhau. Sử dụng phương pháp hệ thống là thao tác cần thiết để xác lập
được tính nhất quán trong phong cách nghệ thuật của một nhà văn. Bởi vì, những đặc
điểm nghệ thuật đưa ra nghiên cứu, khảo sát không chỉ hiện diện trong một vài tác

phẩm riêng lẻ, mà nó trở thành yếu tố bền vững trong suốt một chặng đường lao động
nghệ thuật, suốt một đời văn. Với Nguyễn Khải, dù có những cách tân đến ngạc nhiên
, trước sau ông vẫn giữ được những nét nhất quán trong ngòi bút. Trên cái nền ấy,
mới có một Nguyễn Khải không ngừng tìm tòi, làm những cuộc tự vượt mình trong
từng giai đoạn văn học, nhưng không vượt khỏi "cái đường ray nghệ thuật" căn bản
của mình.
Sử dụng phương pháp này, chúng tôi muốn nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện
trong truyện ngắn Nguyễn Khải theo hướng khảo sát từng yếu tố của nghệ thuật kể
chuyện vào hệ thống chung là nghệ thuật kể chuyện, phân tích những mối quan hệ
giữa các yếu tố đó với nhau, đồng thời, đặt nghệ thuật kể chuyện trong truyện ngắn


Nguyễn Khải vào tiến trình vận động và phát triển chung của thể tự sự dân tộc của
văn học Việt Nam hiện đại sau 1945.
PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH - SO SÁNH
Áp dụng phương pháp này, chúng tôi muốn làm rõ những đặc điểm nổi bật
trong nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Khải. Ngoài việc đối chiếu, so sánh sáng tác
của nhà văn trong từng giai đoạn để chỉ ra những điểm khắc phục, kế thừa và phát
huy, chúng tôi còn tiến hành so sánh với sáng tác của các tác giả khác : Nam Cao,
Nguyên Hồng, Thạch Lam, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Huy Thiệp, Phan Thị Vàng
Anh,... để thấy được nét riêng của phong cách nghệ thuật của nhà văn ở thể loại này.
PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ PHÂN LOẠI
Khảo sát nghệ thuật kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Khải, nhất thiết
phải chỉ ra được những thành công, hạn chế, những sự khắc phục và phát huy của nhà
văn trong từng giai đoạn sáng tác. Cho nên, sử dụng phương pháp thống kê phân loại,
chúng tôi muốn đưa ra được những cứ liệu cụ thể, chính xác trong quá trình nghiên
cứu, nhằm tăng tính thuyết phục cho những vấn đề được trình bày trong luận văn.
Các phương pháp trên đây có mối quan hệ mật thiết với nhau và được chúng
tôi kết hợp sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
5. Đóng góp của luận văn

Nói đến nghệ thuật kể chuyện, thì đối tượng là tác phẩm tự sự. Với Nguyễn
Khải, văn xuôi tự sự được nhà văn vận dụng vào nhiều thể loại sáng tác khác nhau :
tiểu thuyết, bút ký, truyện ngắn, tạp văn,... ở đây, phạm vi quan tâm của chúng tôi
được giới hạn trong thể loại truyện ngắn.
Tuy góp mặt từ sau 1945 và không có sự phân định thời kỳ sáng tác như các
nhà văn Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Tuân, v.v..., nhưng con đường
lao động sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Khải cũng có những bước chuyển biến nhất
định, gắn liền với những khúc quanh lịch sử của Cách mạng và thời đại. Ở mỗi giai
đoạn, Nguyễn Khải được bạn đọc và giới nghiên cứu quan tâm, chú ý ở những
phương diện khác nhau.
Chúng tôi muốn tiến hành khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Khải qua các
chặng đường văn ấy, để qua đó, thấy được rõ hơn độ "chín" của nghệ thuật kể chuyện


của Nguyễn Khải ở các chặng sáng tác từ sau 1975 - với những đóng góp, thành tựu,
những thay đổi thi pháp có tính quyết định cho việc hình thành một phong cách nghệ
thuật, một trong những gương mặt văn chương đặc biệt của thời đại về sức viết và
tinh thần lao động, phấn đấu không mệt mỏi trong sáng tạo nghệ thuật.
Nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Khải, chúng tôi
không có tham vọng chỉ ra được tất cả những đặc điểm nghệ thuật của nhà văn, mà
chỉ muốn tập trung khảo sát thấu đáo những đặc điểm nổi bật, sở trường độc đáo góp
phần làm nên diện mạo phong cách văn chương Nguyễn Khải, khẳng định vị trí và
tiếng nói riêng, sự phát triển về nghệ thuật và sự trưởng thành của nhà văn trong suốt
quá trình vận động của văn học Việt Nam hiện đại từ sau 1945 cho đến nay.
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu các bình diện sau của
truyện ngắn Nguyễn Khải :
-Chủ thể kể chuyện
-Cấu trúc trần thuật
-Giọng trần thuật
6. Kết cấu luận văn

Ngoài các phần : Mục lục, Dần nhập, Kết luận và Thư mục tham khảo, luận
văn tập trung giải quyết các nội dung chính sau đây :
Chương 1: Chủ thể kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Khải
Chương 2: Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải
Chương 3 : Giọng trần thuật của Nguyễn Khải


CHƯƠNG 1: CHỦ THỂ KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN KHẢI
1.1. Chủ thể kể chuyện trong loại hình tự sự
Nếu ở tác phẩm trữ tình, tính chủ quan được coi là "nguyên tắc tái hiện và thuyết
phục người đọc" [108,372] trong quá trình tiếp cận thế giới cảm xúc suy tư của người
nghệ sĩ, thì ở tác phẩm tự sự, tính khách quan đước coi là yếu tố góp phần quan trọng
trong việc quyết định sự thành công của nhà văn. Bởi, việc phản ánh, tái hiện lại thực
tại đời sống thông qua "một người kể chuyện nào đó" [108, 375], luôn gợi cho người
đọc cảm tưởng về những cái có thật, giống như thật.
Dĩ nhiên, cái gọi là "khách quan" của tự sự cũng chỉ được hiểu trong tính cách
tương đối. Vì suy cho cùng, văn học không nằm ngoài chuyện đời, chuyện người,
được nhìn nhận, suy gẫm, bình luận, phán xét,... qua lăng kính chủ quan của người
nghệ sĩ. Với tự sự, để tăng tính thuyết phục, lăng kính chủ quan đã được "khách quan
hóa". Nói cách khác, đó là "sự thống nhất, biện chứng giữa chủ quan và khách
quan”, là một thứ "ảo giác về tính khách quan của văn học, là cái khách quan mang
tính thứ hai, so với tính khách quan triết học có tính thứ nhất” [108, 375].
Khách quan một cách nghệ thuật, tác phẩm tự sự đưa người đọc thâm nhập vào
biển cả vô tận của cuộc sống đang sống đời sống thứ hai của nó, ở những phương
diện, mức độ, quy mô khác nhau. Ở đó, người đọc được trò chuyện với người và tự
chiêm nghiệm, đối thoại với chính mình.
Trong quá trình tiếp nhận văn chương ấy, không thể không nhắc đến vai trò
dẫn dắt rất quan trọng của chủ thể kể chuyện, dù ở bất kỳ hình thức, mức độ nào.
Chủ thể kể chuyện là một yếu tố không thể thiếu trong loại hình tự sự. Dù

được gọi dưới những cái tên khác nhau như : người kể chuyện, người thuật chuyện,
người trần thuật, người dẫn chuyện,... thì chung quy, đó vẫn là "chủ thể của lời kể
chuyện, người đứng ra kể trong tác phẩm văn học" [122.1, 149 ].
Với nhiệm vụ kể lại câu chuyện, chủ thể kể chuyện là đường dẫn, nhịp cầu nối
người đọc với những chân dung đời sống (con người, sự kiện,...) đã được tái tạo, khái
quát hóa từ đời sống thứ nhất.


1.2. Các hình thức chủ thể kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Khải
Đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong tác phẩm tự sự, chủ thể kể
chuyện không chỉ thực hiện nhiệm vụ dẫn chuyện, mà còn là yếu tố thể hiện trình độ
sáng tạo của nhà văn. Lịch sử phát triển của văn học (nói chung) và loại hình tự sự
(nói riêng) cho thấy, chủ thể kể chuyện "cớ thể xuất hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau" [122.1 , 149]. Có thể, đó là người đứng ra kể chuyện của người khác, hoặc là
tự kể về mình, hoặc cùng kể với nhân vật, hoặc trao cho nhân vật quyền tự sự.
Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Khải cũng đã vận dụng nhiều hình thức
chủ thể kể chuyện khác nhau.
1.2.1. Chủ thể kể chuyện kiểu "khách quan hóa" với ngôi kể thứ ba

Hình thức ngôi kể thứ ba (chủ thể kể chuyện vô nhân xưng) được Nguyễn Khải
vận dụng khá đắc lực trong nhiều truyện ngắn của ông, nhất là những truyện được
viết trước năm 1980.
Trong lịch sử loại hình tự sự, dạng chủ thể kể chuyện "vô nhân xưng" là hình
thức xuất hiện sớm nhất và hiện diện dài theo các thời kỳ văn học với một tần số cao.
Ở ngôi kể thức ba, người kể chuyện - đứng từ điểm nhìn bên ngoài, với vai trò toàn
năng - như biết rõ tất cả những gì có liên quan tới câu chuyện : tình tiết, xung đột,
những mối quan hệ, kể cả thế giới nội tâm của nhân vật. Có điều, vừa ẩn mình ở đâu
đó trong suốt câu chuyện, người kể "vô nhân xưng" ấy còn tỏ ra mình -ngoài việc
biết và kể lại - tuyệt không có một sự can dự nào trong đó. Mặc dù trên thực tế, đó
cũng chính là người nắm quyền phán xét, quyết định tất cả mọi vấn đề trong suốt

mạch tự sự. Ở dạng này, "người kể thường ít để lại dấu vết riêng của mình, cả về
phương diện nội dung tinh thần và hình thức ngữ pháp của văn bản" [122.1, 149].
Tuy vậy, trong từng thời kỳ văn học, hình thức "vô nhân xưng" cũng được các
nhà tự sự vận dụng ở những mức độ khác nhau.
Thời kỳ văn học dân gian hình thành, tồn tại và phát triển, nhu cầu khẳng định
tiếng nói tác giả, việc xác định bản quyền cá nhân đối với mọi hoạt động sáng tạo,
trong đó có văn học nghệ thuật, không được chú ý. Đây là thời kỳ của sự chiếm lĩnh
của ý thức cộng đồng, tập thể trong mọi lĩnh vực đời sống tinh thần và vật chất của


người bình dân. Cho nên, "vô nhân xưng" trong các truyện kể dân gian - từ những
câu chuyện thần kỳ thể hiện cách nhìn nhận và đánh giá thế giới tự nhiên theo kiểu
nguyên hợp, đến những câu chuyện phản ánh các quan hệ xã hội của người bình dân
- có ý nghĩa riêng gắn liền với thời đại ra đời của nó. Ở đó, không chỉ đơn thuần là
"ẩn mình", "không để lại dấu vết", mà còn là "tập thể", tập thể kể. Sau cái cốt truyện
đầu tiên được hình thành bởi một - cá - nhân - nào - đó, thì trong suôi quá trình được
lưu truyền, được tiếp tục sống những đời sống khác nhau trong những không gian,
thời gian khác nhau, tác phẩm sẽ được nhiều chủ thể kể. Tập thể kể, ai kể cũng được.
Đó là quá trình đồng sáng tạo đặc biệt không thể tìm thấy trong văn học viết : tiếng
nói cá nhân hòa trong tiếng nói cộng đồng, không có phong cách riêng. Nhu cầu thể
hiện tiếng nói của "tôi", dấu ấn của "tôi" không tồn tại, ngay cả khi tác phẩm được
người kể thêm bớt, sửa chữa về chi tiết. Có điều, người kể nào cũng luôn cho thây
rằng, khoảng cách giữa họ và cái được kể là xa lắm, không xác định được, là "chuyện
đời xưa” với những "ngày xửa ngày xưa, xưa kia, lâu lắm rồi...", ở đó, người kể
không thuộc về cái thế giới mà anh ta đang mở ra trước mắt người đọc, người nghe.
Sự ẩn mình như thế vẫn tiếp tục được vận dụng trong lối tự sự thời kỳ trung
đại, từ loại truyện thần kỳ đến loại truyện Nôm (khuyết danh hay hữu danh). Mặc dù
quan điểm Nho gia ngày càng chiếm ưu thế thống trị, nhưng chủ thể kể chuyện vẫn
ẩn mình rất sâu. Khoảng cách không gian - thời gian vẫn tồn tại trong vùng ý thức
của người kể chuyện, so với câu chuyện mà họ ghi lại hay kể ra. Ngay cả khi người

kể tỏ ra bức xúc trước một cảnh tình, một vấn đề nào đó, bản thân sự chia sẻ cũng
được đặt trong một khoảng cách nhất định. Chẳng hạn, khi chia sẻ với cảnh ngộ cô
Kiều trong những lúc "giật mình, mình lại thương mình xót xa” thì chủ thể kể trong
Truyện Kiều vẫn không thuộc về cái không gian "Rằng năm Gia Tĩnh triều
Minh" được mào đầu trong tác phẩm. Hay khi Nguyễn Đình Chiểu tỏ thái độ đồng
tình đồng điệu với các nhân vật Quán, Ngư, Tiều, những con người tượng trưng cho
quan điểm đạo đức và thái độ thương ghét của nhân dân, thì người tự sự vẫn thuộc
một không gian, thời gian khác so với câu chuyện được kể lại : "Trước đèn xem
truyện Tây Minh, Ngẫm cười hai chữ nhân tình éo le. Ai ơi lẳng lặng mà nghe ...Có
người ở huyện Đông Thành...".


Tự sự Việt Nam khoảng ba mươi năm đầu thế kỷ XX đánh dấu sự giao thoa
giữa hình thức kể "vô nhân xưng" với lối xưng danh "tôi, chúng tôi". Nếu Hoàng
Ngọc Phách, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu gieo sự mới mẻ, lãng mạn của cái "Tôi" trữ
tình vào mạch tự sự, phá vỡ cái quy củ, nền nếp khắc khe kiểu "phi ngã" của phong
kiến, thì Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, ... vẫn tiếp tục lối kể truyền thống với chủ
thể kể chuyện vô hình, đó là chưa kể tới chất giọng đăng đối biền ngẫu vẫn còn
vương vân trong mạch tự sự ít nhiều đã đặt chân vào sự vận động hiện đại hóa của cả
một nền văn học. Tuy nhiên, trong mạch tự sự có vẻ như hoàn toàn khách quan kia,
người đọc đã ít nhiều thấy thấp thoáng bóng dáng người trần thuật. Có nghĩa là, cái
khoảng cách không ngằn mé giữa người kể và câu chuyện vốn là một thể thức trong
tự sự dân gian, hay sự ẩn mình trong văn học trung đại đã bắt đầu bị công phá. Chẳng
hạn, trong truyện ngắn sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn, chủ thể kể chuyện vô
nhân xưng đã thể hiện rất rõ dấu ấn của mình qua những đoạn văn bày tỏ thái độ bất
bình trước sự vô trách nhiệm của tên quan phụ mẫu vô lương tâm, hay sự thương cảm
trước tình cảnh thê thảm của người dân trong cơn đê vỡ :
"Ôi ! Trăm hai mươi lá bài đen đỏ, có cái ma lực gì mà đun đủi cho quan mê
được như thế ? ... Này, này đê vỡ mặc đê, nước sông dầu nguy, không bằng nước bài
cao thấp. Đứng trên đê mà đốc kẻ cắm cừ, người đổ đất, lắm nỗi lầm than, sao bằng

ngồi trong đình, đã sẵn kẻ bốc nọc, người chia bài, nhiều đường thú vị.
Than ôi ! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu,
nha lại ngồi nghiêm trang, lính hầu rầm rập, thì đố ai dám bảo rằng : gần đó có sự
nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ
thú, còn ai nghĩ đến mà chẳng động tâm, thương xốt đồng bào huyết mạch !...
...Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước
tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống
không chỗ ở, người chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình
cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết".
Trong tự sự hiện đại, với hình thức ngôi kể thứ ba, dù lời kể có vẻ vô tư, khách
quan, câu chuyện vẫn có vẻ cứ thế mà diễn tiến, như tự nó vốn có như vậy, nhưng
người đọc đã cảm thấy có một sợi dây vô hình gắn kết toàn bộ yếu tố của mạch tự sự


×