Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

nghiên cứu tiểu thuyết “tên của đóa hồng” của umberto eco nhìn từ lý thuyết giải cấu trúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (921.92 KB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Hương Thảo

NGHIÊN CỨU TIỂU THUYẾT
“TÊN CỦA ĐÓA HỒNG” CỦA UMBERTO ECO
NHÌN TỪ LÝ THUYẾT GIẢI CẤU TRÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Hương Thảo

NGHIÊN CỨU TIỂU THUYẾT
“TÊN CỦA ĐÓA HỒNG” CỦA UMBERTO ECO
NHÌN TỪ LÝ THUYẾT GIẢI CẤU TRÚC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 60 22 02 45
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN HỮU HIẾU

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tiêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Hương Thảo

1


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học nước
ngoài với đề tài “Nghiên cứu tiểu thuyết Tên của đóa hồng của Umberto Eco
nhìn từ lý thuyết giải cấu trúc”, tôi đã nhận được sự quan tâm của Ban chủ
nhiệm khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, của quý thầy
cô giảng dạy chuyên ngành Văn học nước ngoài (Cao học khóa 23 – Đại học Sư
phạm Tp. Hồ Chí Minh). Đặc biệt, tôi đã nhận được sự giúp đỡ hết sức tận tình
và nhiệt tâm của Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu, người trực tiếp hướng
dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin kính gửi lời cảm ơn đến Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu,
Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, quý thầy cô, các phòng ban của trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (Phòng Sau đại học, Thư viện trường) và gia
đình, bạn bè đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Người thực hiện

Nguyễn Thị Hương Thảo

2



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... 2
MỤC LỤC ............................................................................................................ 3
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 5
I. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................5
II. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................7
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................11
IV. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................13
V. Cấu trúc luận văn ..............................................................................................14

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN........................................................................... 17
1.1. Từ lý thuyết cấu trúc đến giải cấu trúc luận ................................................17
1.1.1. “Giải cấu trúc” – vấn đề thuật ngữ ............................................................17
1.1.2. Giải cấu trúc trong phê bình văn học ........................................................22
1.2. Lý thuyết “Giải cấu trúc” của Jacques Derrida và tác phẩm “Tên của đóa
hồng” của Umberto Eco ..............................................................................................26
1.2.1. Nguyên tắc giải cấu trúc của Jacques Derrida ..........................................26
1.2.2. “Tác phẩm mở” - “Tên của đóa hồng”của Umberto Eco - và lý thuyết giải
cấu trúc của Jacques Derrida .........................................................................................32
Tiểu kết chương 1: ..................................................................................................38

Chương 2. DẤU VẾT VÀ NGƯỢC XUÔI PHÁT TÁN ................................ 40
TRONG MÊ CUNG TIỂU THUYẾT ............................................................. 40
2.1. Dấu vết – kí hiệu không chứa cái biểu đạt ....................................................40

3



2.1.1. Thế giới được “đọc” qua kí hiệu ...............................................................41
2.1.2. Những tranh luận về tội ác ........................................................................47
2.1.3. Sự đảo ngược của thế giới .........................................................................51
2.2. Từ Ngược xuôi phát tán đến mê cung văn bản ............................................56
2.2.1. Phát tán những câu chuyện .......................................................................57
2.2.2. Phát tán những văn bản .............................................................................62
2.2.3. Phát tán các diễn ngôn ..............................................................................67
Tiểu kết chương 2: ..................................................................................................77

Chương 3. SỰ TRÌ BIỆT CỦA VĂN BẢN ..................................................... 79
3.1. Kéo dài và mở rộng biểu tượng......................................................................79
3.1.1. Thư viện ....................................................................................................82
3.1.2. Những con số và biểu tượng tôn giáo .......................................................88
3.2. Tính bất khả quyết của những cặp phạm trù ...............................................92
3.2.1. Chúa Trời và Quỷ dữ ................................................................................92
3.2.2. Chân lý và cái cười ...................................................................................96
Tiểu kết chương 3: ................................................................................................101

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 106
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 112

4


MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Xuất hiện ở phương Tây vào những năm 60 của thế kỉ XX, giải cấu trúc
đã trở thành một trào lưu tư tưởng có tính chất khuynh đảo nền lí luận đương

thời, đặc biệt là triết học và phê bình văn chương. Lấy chủ nghĩa cấu trúc làm
điểm tựa, trước nó, tác phẩm văn học được nghiên cứu dưới góc độ tác giả, nhà
phê bình chú ý tới hoàn cảnh lịch sử, xã hội, tiểu sử, tư tưởng nhà văn. Đến lượt
chủ nghĩa cấu trúc cùng một số đại diện tiêu biểu như R. Jakobson với thi học,
Iu. Lotman với cấu trúc văn bản nghệ thuật, và Jonathan Culler với thi pháp học
cấu trúc, tác phẩm được xem xét như một chỉnh thể cấu trúc nằm gọn trong văn
bản với những biểu hiện mang tính chất quy luật, khép kín với hai tầng: cái biểu
đạt và cái được biểu đạt. Tác phẩm được coi là đối tượng trung tâm và duy nhất
của nghiên cứu, phê bình. Phản ứng lại chủ nghĩa cấu trúc, giải cấu trúc luận đã
mở ra thời kì thứ ba của nghiên cứu và tiếp nhận. Qua đó, tác phẩm nghệ thuật
được đặt trong xu hướng đối thoại với độc giả và đối thoại với chính nó, phát tán
tối đa chiều kích và dung lượng phản ánh. Giới hạn của ngôn ngữ và kết cấu bị
phá vỡ, văn bản được nhìn qua lăng kính vạn hoa, sản sinh vô hạn về nghĩa, mở
ra cùng sự tiếp nhận của độc giả.
Cùng với thủ pháp sáng tác của trào lưu hậu hiện đại, nghiên cứu theo tinh
thần giải cấu trúc luận là chìa khóa mở ra những lớp màn bí ẩn đằng sau mê lộ
của ngôn từ. Theo Nguyễn Minh Quân trong bài viết “Lý thuyết và phê bình văn
học đương đại: từ cấu trúc luận đến giải cấu trúc” thì “Một văn bản càng có
tính chất siêu hình chừng nào, càng nhiều ý nghĩa chừng nào và càng có tính
chất phổ thông chừng nào thì càng khích động lối đọc giải cấu trúc chừng đó”
[63]. Và tiểu thuyết “Tên của đóa hồng” của nhà văn người Ý Umberto Eco là
một tác phẩm như thế.
5


Umberto Eco được coi là một trong những hiện tượng lớn nhất của văn
chương nửa sau thế kỉ XX ở châu Âu. Trước khi là một tiểu thuyết gia, Umberto
Eco được biết đến như một học giả uyên bác về ký hiệu học, một nhà thần học,
một chuyên gia về triết học trung cổ, “ông có mặt trong danh sách của hai mươi
nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực

của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học” [66]. Vị
Giáo sư danh dự trường Đại học Bologne ở Italia - Umberto Eco - vẫn thường
coi mình là một “giáo sư đại học viết tiểu thuyết vào những ngày Chủ nhật”
[49] . Xuất phát điểm ấy hình thành nên một ngòi bút xuất sắc, cảm quan văn
chương giao thoa cùng kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực khoa học: kí hiệu học,
thần học, tôn giáo. Đồng thời, trí tuệ bậc thầy ấy chủ trương đả phá sự sùng bái
tri thức một cách tuyệt đối, như ông đã từng nói “con người biết cười vào chân
lý, làm cho chân lý cười lên, vì chân lý duy nhất chính là bài học để giải phóng
chúng ta ra khỏi sự đam mê chân lý một cách mù quáng” [28, tr.536]. Tiểu
thuyết đầu tay của Eco mang tên “Tên của đóa hồng” ra đời vào năm 1980 đã
tạo được cơn chấn động trong cơn lốc của tiểu thuyết đương đại. Ẩn dưới lớp áo
trinh thám bí ẩn, toàn bộ tác phẩm là cuộc đối thoại đa chiều từ quá khứ, đến
hiện đại, tới tương lai của những quan điểm khác nhau về lịch sử, tôn giáo. Kho
tàng ẩn dụ khổng lồ dẫn dắt người đọc đến những mã khác nhau, tìm ra những
mã diễn giải không hề được định sẵn. Bản thân nhà văn Umberto Eco không hẳn
đồng tình với cách đọc giải cấu trúc với tính chất “cho phép người đọc tạo ra
(...) những cách đọc không giới hạn và không kiểm nghiệm được” [9, tr.141].
Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy rằng giải cấu trúc luận là
một hướng nghiên cứu hoàn toàn thích hợp với một tác phẩm mang đậm tính
siêu hình, đồ sộ về mặt dung lượng phản ánh cũng như giá trị về mặt tư tưởng
như “Tên của đóa hồng”. Tính chất phức tạp, chằng chịt biểu hiện của tính chất
liên văn bản, của các hình thức diễn ngôn, tính đa trị của biểu tượng, nhân
vật,...đã tạo nên một “siêu tiểu thuyết” có thể luận giải từ góc độ giải cấu trúc.
6


Với đề tài “Nghiên cứu tiểu thuyết “Tên của đóa hồng” nhìn từ lý
thuyết giải cấu trúc”, chúng tôi có mong muốn khám những tầng sâu ý nghĩa
còn được ẩn chứa trong tác phẩm mang tầm tư tưởng lớn của một học giả uyên
bác như Umberto Eco bằng phương pháp “đọc kĩ” (close reading) của lý thuyết

giải cấu trúc. Đời sống của một tác phẩm văn học thực sự mở ra khi nó rời khỏi
bàn viết của tác giả. Với một tác phẩm lớn như “Tên của đóa hồng”, được coi là
“thiên truyện tường minh sâu sắc những vấn đề lý thuyết về ký hiệu học và tác
phẩm mở của Eco” [66], tư tưởng và ý nghĩa của nó mang giá trị thời đại và thôi
thúc người đọc ý hướng quay ngược thời gian, đối thoại cùng quá khứ trong bối
cảnh hiện đại,
Như Umberto Eco đã viết: “Văn bản đã hoàn tất, và tự nó nảy sinh
những tương quan ngữ nghĩa mới của nó. Dù lúc viết ra có chủ ý hay không, giờ
đây đứng trước những câu hỏi hay những thách thức đa nghĩa, chính tôi cũng
khó khăn khi diễn dịch điều mâu thuẫn (...). Có lẽ tác giả nên từ giã dương thế
khi viết xong. Để khỏi cản trở hành trình của văn bản” [28, tr.552]. Những gì
Umberto Eco nhắn gửi tới người đọc ở những dòng cuối cùng trong cuốn sách
chính là một tất yếu của văn bản một khi nó được sản sinh. Nhìn tiểu thuyết
“Tên của đóa hồng” từ góc độ giải cấu trúc, người viết không chỉ muốn tìm ra
những ẩn số về mặt nội dung trong tác phẩm, mà mục đích sâu xa hơn đó là tìm
ra những yếu tố đã làm nên tính hấp dẫn của tiểu thuyết. Đồng thời, chúng tôi có
cơ hội tiếp xúc với một tác phẩm có giá trị, mang tầm cỡ quốc tế bằng một con
đường mới - lý thuyết giải cấu trúc.
II. Lịch sử vấn đề
Tiểu thuyết “Tên của đóa hồng” của Umberto Eco được ra đời vào năm
1980 tại châu Âu và được sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả với số sách bán
được hơn 10 triệu bản in. Năm 1989, lần đầu tiên cuốn sách được giới thiệu đến
độc giả Việt Nam qua bản dịch của dịch giả Đặng Thu Hương. Hành trình dài

7


của tác phẩm diễn ra đồng thời cũng là một hành trình dài của quá trình tìm hiểu
và nghiên cứu tác phẩm đồ sộ và tầm cỡ này.
Tình hình nghiên cứu lý thuyết Giải cấu trúc ở Việt Nam:

Giải cấu trúc (deconstruction) là một trào lưu tư tưởng bắt nguồn từ
Pháp, vào những năm 60 của thế kỉ XX với những tên tuổi lớn như Michel
Foucault, Jacques Lacan, Roland Barthes, Jacques Derrida. Tại Việt Nam, giải
cấu trúc đã được một số nhà lý luận phê bình đề cập đến với cương vị là những
vấn đề lý thuyết. Trong bài viết “Giải cấu trúc và nghiên cứu, phê bình văn học
hôm nay” của GS.TS Trần Đình Sử trên trang web phebinhvanhoc.com.vn năm
2012, đã nêu ra một điểm khác biệt của giải cấu trúc trong tương quan với chủ
nghĩa cấu trúc trước đó. Đồng thời, ông nêu ra năm lý thuyết đưa đến giải cấu
trúc. Đó là chủ nghĩa đối thoại của nhà tư tưởng Nga M. Bakhtin, tư tưởng giải
cấu trúc của nhà triết học Pháp. J. Derrida (1966), lí thuyết ngôn ngữ hành vi của
nhà ngữ học Mĩ J. L. Austin, lý thuyết về ngữ cảnh và lí thuyết liên văn bản. GS.
TS Trần Đình Sử nhận định “Giải cấu trúc cũng phê bình tác phẩm văn học
theo lối đọc kĩ, phơi bày những tư tưởng, cấu trúc, ngôn từ “bị bỏ sót”,
những“nghĩa đang ngủ yên trong văn bản” nhằm phát hiện ý nghĩa mới…GIẢI
Nó cũng vạch ra những ý tưởng xem ra là mới mà kì tình rất cũ, vạch ra các liên
văn bản được lắp ghép khéo léo vào các sáng tác mới, những bắt chước vụng về,
những lối mòn quen thuộc.” [66].
Sau bài viết của GS. TS Trần Đình Sử là bài viết của PGS.TS La Khắc
Hòa:“Giải cấu trúc luận theo cách hiểu của tôi”. Trong bài viết này, PGS. TS
La Khắc Hòa đã khái quát quá trình hình thành và phát triển của giải cấu trúc
luận, đồng thời ông cũng đưa ra quan niệm về mặt thuật ngữ “giải cấu trúc luận
thường được giải thích như khái niệm đồng nghĩa với “hậu cấu trúc luận” [60].
Cũng như Trần Đình Sử, La Khắc Hòa đưa ra năm nền tảng hình thành nên giải
cấu trúc. Trong đó, có thể thấy điểm gặp gỡ của cả hai đó là coi yếu tố liên văn
bản và hệ thống ký hiệu (trong quan niệm của J. Derrida) chính là những yếu tố
8


hình thành nên giải cấu trúc. Một số bài nghiên cứu khác đáng chú ý như “Hậu
cấu trúc luận/ giải cấu trúc” của nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, “Giải kiến

tạo là gì” của Ngô Tự Lập cũng góp phần làm rõ hơn lý thuyết giải cấu trúc và
nhìn chung không có sự đối nghịch nào với những lý thuyết trước đó.
Về các bản dịch, có thể kể đến bài viết “Chủ nghĩa hậu cấu trúc của
Terry Eagleton” được Thiệu Bích Hường dịch từ cuốn Literary theory, An
introduction, do nhà xuất bản University of Minnesota Press ấn hành 1983. Bản
dịch được đăng trên Tạp chí Văn học nước ngoài số 4 năm 2008. Ngoài những
vấn đề cơ bản của chủ nghĩa cấu trúc, bài viết chủ yếu đề cập đến vấn đề nữ
quyền trong văn học.
Đặc biệt, gần đây có bản dịch của dịch giả Dương Thắng từ bản tiếng
Pháp về bài viết của Lucie Guillemette và Josiane Cossette ở Đại Học Tổng Hợp
Trois – Rivières, Québec, Canada, mang tên “Di sản của Derrida:
Déconstruction và Différance”. Trong bài viết, tác giả đã nêu ra khá rõ về
những đặc điểm cần lưu ý của giải cấu trúc (hay còn gọi là giải kiến tạo). Đó là
lý thuyết Différance “lấy từ différence có nghĩa là sự khác biệt, bằng cách thay
chữ e bằng chữ a, hai từ này viết sẽ khác nhau nhưng khi đọc lên thì giống
nhau” [56]. Thuật ngữ này đã được Nguyễn Duy Bình dịch là “sự trì biệt”.
Theo đó, có thể hiểu sự trì biệt (Differance) như sự phá hủy tính đồng nhất, sự
sùng bái danh tính và sự thống trị của bản thân trước người khác, cho thấy sự
khác nhau giữa những cái được viết ra với những cái được nói ra, đồng thời sự
trì biệt là hiện thân của tính bất khả giải, không thể chạm đến cái đích cuối cùng,
mà luôn biến đổi, đang trong trạng thái thay đổi không ngừng và “không bao
giờ biểu đạt trọn vẹn” [59].
Trên đây là một vài công trình bước đầu nghiên cứu về giải cấu trúc luận
tại Việt Nam những năm gần đây. Nhìn chung, các công trình lý luận đã bước
đầu đưa khái niệm giải cấu trúc đến với lý thuyết phê bình của nước nhà với
những kiến giải gần gũi và dễ tiếp nhận.
9


Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết “Tên của đóa hồng” của Umberto Eco:

Trên thế giới, đã có khá nhiều công trình viết về tiểu thuyết “Tên của đóa
hồng”. Ngay cả tác giả của nó - nhà văn Umberto Eco - cũng đã viết cuốn tiểu
luận “Những phản hồi về “Tên của đóa hồng” (Reflections on THE NAME OF
THE ROSE) năm 1985. Ngoài ra, còn có Bài luận về “Tên của đóa hồng”
(Essay on The Name of the Rose) của Joseph Rosenblum viết năm 1992. Trong
bài viết của mình, J. Rosenblum bàn về nội dung của tiểu thuyết, lý giải chủ đề,
ý nghĩa, một số biểu tượng và nhân vật. Đồng thời, ông còn đề cập đến bối cảnh
phê bình tác phẩm sau khi nó ra đời. Nhìn chung, bài viết tập trung lý giải nội
dung của tác phẩm mà chưa chú ý đến nghệ thuật và không đề cập đến vấn đề
giải cấu trúc. Do sự hạn chế về tư liệu, nên người viết chưa thể thâu tóm hết
những công trình lớn thực sự nghiên cứu về tác phẩm này.
Gần đây, tại Việt Nam có một vài công trình nghiên cứu về tác Umberto
Eco có thể kể đến như bài viết “Xung quanh vấn đề diễn giải và siêu diễn giải
của Umberto Eco: Một vài liên tưởng thiết thực” của Đặng Thị Hạnh được đăng
trên Tạp chí Văn học nước ngoài, số 2, năm 2005. Bài viết trình bày tóm lược
những quan điểm về Umberto Eco về “Diễn giải và lịch sử, Siêu diễn giải các
văn bản và Giữa tác giả và văn bản”. Trong đó, có nói đến vấn đề diễn giải, sự
đồng sáng tạo của độc giả khi tiếp nhận tiểu thuyết “Tên của đóa hồng” (một
khía cạnh của giải cấu trúc): “Eco thấy thú vị về một số nguồn những nhà
nghiên cứu hoặc người đọc phát hiện thấy khi đọc “Tên của bông hồng”: Có
những nguồn ông đã sử dụng một cách hoàn toàn có ý thức và ông sung sướng
thấy người đọc đã khám phá được cái mà ông đã giấu rất khéo léo với mục đích
dẫn người đọc tìm ra cho được. Có những nguồn hoàn toàn xa lạ với ông, và
ông cũng vui thích vì có ai đó tin rằng ông đã dẫn lại một cách bác học đến
thế”. [9, tr.142]

10


Bài viết của Nguyễn Văn Dân trên Tạp chí Văn học nước ngoài, số 7, năm

2011 với nhan đề “Nhà ký hiệu học Umberto Eco với lý thuyết về tác phẩm mở”
đã giới thiệu quan niệm của tác giả người Ý Eco về “Thi pháp tác phẩm mở”,
đồng thời chỉ ra 7 mã ngôn ngữ mà Umberto Eco định hướng cho người đọc tiếp
cận tác phẩm của mình.
Năm 2009, luận văn Thạc sĩ của Hoàng Thị Ngọc Anh: “Diễn ngôn
truyện kể trong tiểu thuyết “Tên của đóa hồng” của Umberto Eco” ra đời, thể
hiện mối quan tâm của độc giả và giới phê bình về tác phẩm nhiều ẩn số và đồ
sộ này. Luận văn thiên về nghiên cứu cấu trúc của truyện kể qua diễn ngôn của
người kể chuyện, diễn ngôn của nhân vật và phối cảnh trần thuật, thời gian trần
thuật trong cấu trúc truyện kể “Tên của đóa hồng”.
Gần đây nhất, tháng 10 năm 2013, là bài nghiên cứu của nhóm tác giả Tô
Thùy Quyên – Bùi Thị Hồng – Hà Thị Thới (học viên Cao học trường Đại học
Sư phạm TP.HCM) với nhan đề: “Tên của đóa hồng” của Umberto Eco có phải
là tiểu thuyết trinh thám?”. Bài nghiên cứu đã vận dụng 8 nguyên tắc của
Todorov về loại hình tiểu thuyết trinh thám, để chứng minh và tìm ra thể loại
thật sự của nó - giả trinh thám (một biểu hiện của giải cấu trúc về thể loại). Đây
là một bài viết có tính chất định hướng cho người đọc về mặt thể loại trước khi
tiếp cận tác phẩm.
Nhìn chung, các bài viết, công trình nghiên cứu về Umberto Eco ở Việt
Nam tuy chưa nhiều nhưng gần đây có xu hướng gia tăng. Tuy đã có “chạm
ngõ” giải cấu trúc, xong vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về
vấn đề này trong tác phẩm của Umberto Eco nói chung, và tiểu thuyết “Tên của
đóa hồng” nói riêng.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “Nghiên cứu tiểu thuyết “Tên của đóa hồng” của Umberto Eco
nhìtừ lý thuyết giải cấu trúc” chúng tôi nghiên cứu tác phẩm thông qua bản dịch

11



của Lê Chu Cầu, do hai nhà xuất bản phối hợp ấn hành là Nxb Văn học và Nxb
Nhã Nam, năm 2013.
Để hiểu và vận dụng lý thuyết giải cấu trúc trong nghiên cứu một tác
phẩm là điều khá phức tạp. Do đó, về mặt lý luận, chúng tôi đi từ chủ nghĩa cấu
trúc trong văn học để hiểu thế nào là giải cấu trúc. Để tránh trường hợp nhiễu
loạn về quan điểm, chúng tôi chọn lý thuyết giải cấu trúc của Jacques Derrida,
người đã đưa giải cấu trúc lên đỉnh cao, có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến giới học
thuật và nghiên cứu. Qua đó, chúng tôi ứng chiếu những đặc trưng và biểu hiện
của lý thuyết giải cấu trúc, làm tâm điểm để phân tích và lý giải. Các từ khóa
trong lý thuyết giải cấu trúc được vận dụng trong việc phân tích và luận giải vấn
đề trong tác phẩm “Tên của đóa hồng” ở một số bình diện nhất định và phù
hợp. Theo đó, công việc giải cấu trúc được tiến hành bằng ba khái niệm: Dấu vết
(Trace), Phát tán (Dissemination), và Trì biệt (Differance):
- Tính chất dấu vết qua những dấu hiệu và phúng dụ trong tác phẩm
- Tính chất phát tán của văn bản trong kết cấu và diễn ngôn.
- Tính đa trị của một số biểu tượng nổi bật trong tác phẩm.
Ngoài ra, luận văn quan tâm đến tính liên văn bản (vốn được xem là hiện
thân của lý thuyết giải cấu trúc) và xem xét tính nhị nguyên của một số phạm trù
được Umberto Eco nêu ra với tinh thần giải cấu trúc: “Mỗi phạm trù đều có dấu
vết của phạm trù đối lập nó” [51].
Qua đó, những vấn đề về tư tưởng, tôn giáo, lịch sử, triết học dần dần
được phơi bày, hé lộ câu chuyện của nó qua lối viết uyên bác, chằng chịt những
đối thoại, liên văn bản của Eco. “Tên của đóa hồng” tự nó đã là một phúng dụ
vĩ đại về những vấn đề lớn của thời đại. Để tìm hiểu nó, người viết chú trọng
khai thác những ẩn nghĩa bề sâu - cái được coi là mục đích của lý thuyết giải cấu
trúc trong nghiên cứu văn học.

12



IV. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
riêng lẻ lẫn tích hợp nhằm đi tìm mạch ngầm của văn bản, tìm cách diễn giải
thích hợp cho tác phẩm. Phương pháp đầu tiên là phương pháp thống kê. Bằng
việc đọc kĩ tác phẩm, việc đầu tiên giúp chúng tôi nhìn nhận và khai thác tác
phẩm là chọn lọc và thống kê những chi tiết, hình ảnh có vấn đề, nhằm đi tìm
trục liên kết giữa chúng với nhau. Đây là cách thức đầu tiên trong cuộc hành
trình khám phá và diễn giải cuốn tiểu thuyết. Phương pháp thống kê là công cụ
đắc lực cho để triển khai phân tích và tổng hợp. Không chỉ vậy, việc thống kê
còn có ý nghĩa khảo sát tính chất liên văn bản, sự xuất hiện của biểu tượng,… từ
đó phát hiện ra mối quan tâm của tác giả cũng như định vị con đường nghiên
cứu tác phẩm.
Phương pháp thống kê đồng thời hỗ trợ cho phương pháp phân tích cấu
trúc. Với ý nghĩa tìm ra được cấu trúc tác phẩm, phương pháp phân tích góp
phần làm sáng tỏ những vấn đề, tạo xung lực mạnh mẽ cho việc cảm nhận tác
phẩm. Đây là cuốn tiểu thuyết dày đặc các tín hiệu ngầm, vì thế, phân tích là
phương pháp rất quan trọng trong việc tìm ra ý nghĩa sâu xa trong tư tưởng tác
giả. Phương pháp này, là nền tảng để chúng tôi xây dựng trên nó cách nhìn giải
cấu trúc, và phương pháp giải cấu trúc. Cách tiến hành phương pháp này dựa
theo những tư tưởng của Jacques Derrida nhằm làm sáng tỏ vấn đề.
Ngoài ra, để có cái nhìn bao quát về tác phẩm, cũng như những vấn đề
xung quanh nó, phương pháp đối chiếu so sánh nhằm khái quát hóa những nét
chung của nó với những tác phẩm khác, và vạch ra sự khác biệt giữa nó với
những yếu tố khác nhau trong cùng một văn bản. Trong ý nghĩa đó, phương
pháp đối chiếu so sánh còn góp phần làm tăng sức thuyết phục luận văn. Sau khi
tìm hiểu những vấn đề, chúng tôi sử dụng phương pháp tổng hợp để nhìn nhận

13



và đánh giá tác phẩm, tạo một cái nhìn toàn diện và nhất quán của các vấn đề
nơi tác phẩm này.
V. Cấu trúc luận văn
Luận văn được triển khai thành ba phần: phần dẫn nhập, phần nội dung và
phần kết luận. Trong phần nội dung có ba chương. Chương 1 khái quát những
vấn đề lý thuyết cơ bản, tạo đà tìm hiểu tác phẩm. “Giải cấu trúc” là một thuật
ngữ với quá trình hình thành phức tạp và được nói bởi nhiều quan điểm khác
biệt. Chúng tôi sẽ đưa ra những cách hiểu khác nhau về nội hàm chữ “Giải cấu
trúc” (Deconstruction), và những biểu hiện của giải cấu trúc. Vấn đề lí thuyết rất
quan trọng trong việc nghiên cứu và định hướng lộ trình khám phá tác phẩm.
Trong Chương 1, chúng tôi xác định chủ nhân của lý thuyết giải cấu trúc mà
chúng tôi coi nó là điểm tựa: Giải cấu trúc luận của Jacques Derrida. Để tìm hiểu
giải cấu trúc luận theo tư tưởng của Derrida, chúng tôi liên hệ tới nguồn gốc đã
sản sinh ra nó – thuyết cấu trúc cùng những hệ tư tưởng mà nó chịu ảnh hưởng
(Phân tâm học của Freud, quan niệm về vô thức của Jacques Lacan, thời kì tiền
thân của giải cấu trúc với những lý thuyết nhà tư tưởng Roland Barthes). Từ đó,
chúng tôi nêu trình bày những biểu hiện của giải cấu trúc trong phê bình văn
học.
Với việc xác định tư tưởng giải cấu trúc của Derrida là chìa khóa dẫn
đường cho tác phẩm, luận văn tiến hành đi tìm những nguyên tắc giải cấu trúc
của Derrida thông qua những từ khóa tiêu biểu trong lý thuyết của ông. Đồng
thời từ đó xác lập mối quan hệ giữa tiểu thuyết “Tên của đóa hồng” và lý thuyết
này. Để làm rõ điều này, chúng tôi liên hệ tác phẩm với chính những tư tưởng
của Umberto Eco về thi pháp của tác phẩm “mở”. Bằng con đường này, chúng
tôi chứng minh được sự tương quan giữa tiểu thuyết “Tên của đóa hồng” – một
tác phẩm “mở” – với lý thuyết giải cấu trúc – một cách đọc “mở”.
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

14



1.1. Từ lý thuyết cấu trúc đến giải cấu trúc luận
1.1.1. “Giải cấu trúc” - vấn đề thuật ngữ
1.1.2. Giải cấu trúc và phê bình văn học
1.2. Lý thuyết “giải cấu trúc” của Jacques Derrida và tác phẩm “Tên của
đóa hồng” của Umberto Eco
1.2.1. Nguyên tắc giải cấu trúc của Jacques Derrida
1.2.2. “Tác phẩm mở” - “Tên của đóa hồng”của Umberto Eco - và lý
thuyết giải cấu trúc của Jacques Derrida
Chương 2 sử dụng hai lý thuyết: Dấu vết (Trace) và Phát tán
(Dissemination) để diễn giải tác phẩm, và bộc lộ kĩ thuật viết của nhà văn. Với
hai khái niệm này, chúng tôi mong muốn “tháo dỡ” những tầng nghĩa và truy hồi
đường dây huyết mạch của tác phẩm. Trong đó, kết cấu của văn bản được xem
như sự phát tán không ngừng của các văn bản, các cốt truyện, và sự đối thoại đa
âm của diễn ngôn. Từ đó, cho thấy tính chất giải cấu trúc và tư duy thẩm mĩ của
nhà văn Umberto Eco trong sáng tác văn chương.
Chương 2. DẤU VẾT VÀ NGƯỢC XUÔI PHÁT TÁN TRONG MÊ CUNG
TIỂU THUYẾT
2.1. Dấu vết – kí hiệu không chứa cái biểu đạt
2.1.1. Thế giới được “đọc” qua kí hiệu
2.1.2. Những tranh luận về tội ác
2.1.3. Sự đảo ngược của thế giới
2.2. Từ Ngược xuôi phát tán đến mê cung văn bản
2.2.1. Phát tán những câu chuyện
2.2.2. Phát tán những văn bản
2.2.3. Phát tán các diễn ngôn
Ở Chương 3, chúng tôi giải cấu trúc tác phẩm dựa vào từ khóa quan trọng
nhất của lý thuyết: khái niệm Trì biệt (Differance). Khái niệm trì biệt được nhìn
nhận dưới góc độ biểu tượng và tính nhị nguyên của những cặp khái niệm. Về
15



biểu tượng, chúng tôi lựa chọn biểu tượng Thư viện – điểm mấu chốt nảy sinh
những vấn đề của tác phẩm, biểu tượng lớn nhất của cuốn tiểu thuyết. Ngoài ra
chúng tôi hướng sự tập trung vào khai thác các biểu tượng tôn giáo xuất hiện với
tần số dày đặc trong tác phẩm dưới nhiều góc độ, nhằm cho thấy sự trượt nghĩa,
tính chất kéo dài và mở rộng nghĩa của những biểu tượng. Về tính nhị nguyên
của khái niệm, chúng tôi xoay quanh hai vấn đề lớn nhất trong tác phẩm: Chúa
Trời - Quỷ dữ và Chân lý - Cái cười. Từ đó, chủ đề tư tưởng của tác phẩm được
hiển lộ.
Chương 3. SỰ TRÌ BIỆT CỦA VĂN BẢN
3.1. Kéo dài và mở rộng biểu tượng
3.1.1. Thư viện
3.1.2. Những con số và biểu tượng tôn giáo
3.2. Tính bất khả quyết của những cặp phạm trù
3.2.1. Chúa Trời và Quỷ dữ
3.2.2. Chân lý và cái cười
Phần Kết luận mang tính chất tổng kết, khái quát con đường giải cấu trúc
trong tiểu thuyết “Tên của đóa hồng”, nêu lên tư tưởng của tác phẩm và định
hướng giải cấu trúc như một cách đọc khả dụng đối với tiểu thuyết đương đại.

16


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Từ lý thuyết cấu trúc đến giải cấu trúc luận
1.1.1. “Giải cấu trúc” – vấn đề thuật ngữ

Giải cấu trúc là một phương pháp nghiên cứu triết học, văn học xuất hiện
tại Pháp những năm 1960, được chính thức khởi nguồn từ nhà triết học người

Pháp Jacques Derrida qua tác phẩm “Of Grammatology”. Trong tác phẩm này,
lần đầu tiên, Jacques derrida đã sử dụng từ “Deconstruction” - “Giải cấu trúc”
như một lý thuyết phản hồi (và phản ứng) lại chủ nghĩa cấu trúc vốn đã tồn tại
và trở thành thống soái trong lĩnh vực nghiên cứu các ngành khoa học xã hội từ
đầu thế kỉ XX. Bằng cách vạch ra những mâu thuẫn nội tại trong chủ nghĩa cấu
trúc, giải cấu trúc phủ nhận tính đơn nhất, bền vững, tính duy nhất đúng trong
mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Nói cách khác lý thuyết giải
cấu trúc được xem như một nhánh phái sinh từ chủ nghĩa cấu trúc.
Trong “Từ điển tiếng Pháp”, thuật ngữ này được định nghĩa theo hai cách
sau:
- Về ngữ pháp: “Deconstruction là sự thay đổi, sự ngắt quãng cấu trúc và bố
cục của từ trong câu với mục đích tạo ra nghĩa khác, nghĩa mới với những từ
tương tự” [67].
- Về cơ học: Deconstruction chỉ sự sự tháo rời, tháo dỡ, phân rã.
Giải thích về thuật ngữ giải cấu trúc, ý kiến của Barbara Johnso được trích từ
“Từ điển thuật ngữ văn học và lý thuyết văn học”, như sau : “Giải cấu trúc”
không đồng nghĩa với “sự phá hủy”. Thực chất, nó gần với nghĩa gốc của từ
“phân tích”, theo từ nguyên học có nghĩa là “tháo ra, mở ra” (undo) - một sự
đồng nghĩa thực sự với “de - construct”. Giải cấu trúc một văn bản không thể
tiến hành bởi sự nghi ngờ ngẫu nhiên hoặc sự phá hủy có tính võ đoán, mà bằng
cách tháo gỡ một cách cẩn thận những tầng nghĩa mâu thuẫn nhau trong chính
văn bản đó. (Barbara Johnso nhấn mạnh) Nếu có bất cứ điều gì bị tiêu hủy trong
17


cách đọc giải cấu trúc thì đó không phải là văn bản, mà đó là quyền thống trị
một cách tuyệt đối giữa biểu hiện này với một biểu hiện khác. Một cách đọc giải
cấu trúc là một cách đọc trong đó hướng đến sự phân tích nét đặc trưng của sự
khác biệt quan trọng của văn bản với chính nó.


1

“Deconstruction” trong Bách

khoa toàn thư của lý thuyết văn học đương đại (Encyclopedia of Contemporary
Literary Theory) định nghĩa: chủ nghĩa giải cấu trúc được hình thành ở Pháp từ
cuối những năm 60 của thế kỉ XX và có ảnh hưởng sâu rộng trong giới phê bình
Anh Mỹ do Jacques Derrida đề xướng. Nó tiêu biểu cho sự phản ứng trước
những phong trào lý thuyết và triết học đầu thế kỉ XX có thể kể đến như hiện
tượng học của E. Husserl, F. Saussure và chủ nghĩa cấu trúc Pháp, và thuyết
phân tâm học của S. Freud và J. Lacan. Chủ nghĩa giải cấu trúc theo J. Derrida
gồm có hai nhiệm vụ: trước hết, nó bày ra cái tự nhiên mơ hồ của “có một trung
tâm” diễn ngôn, cái phụ thuộc vào sự thật, sự có mặt, nguồn gốc hoặc tương tự
chúng. Thứ hai, là sự lật đổ lý thuyết siêu hình bằng cách thay thế những ranh
giới của khái niệm. Chủ nghĩa giải cấu trúc tìm kiếm sự tồn tại bên ngoài của
những hệ thống tư tưởng truyền thống để đặt áp lực lên ranh giới của chúng và
để thử thiết lập mà không cần tra xét, nghi ngờ chúng. Như để thay thế cho sự
hạn hẹp của lý thuyết siêu hình truyền thống, các dấu vết Derrida thấy không thể
thiếu đối với cả chủ nghĩa cấu trúc và hiện tượng học, thì giải cấu trúc tán thành
1

Deconstruction is not synonymous with “destruction”, however. It is in fact much closer

to the original meaning of the word 'analysis' itself, which etymologically means 'to undo'- a
virtual synonym for 'to de-construct'. The deconstruction of a text does not proceed by
random doubt or arbitrary subversion, but by the careful teasing out of warring forces of
signification within the text itself [my ialics]. If anything is destroyed in a deconstructive
reading, it is not the text, but the claim to unequivocal domination of one mode of signifying
over another. A deconstructive reading is a reading which analyses the specificity of a text's
critical difference from itself. [35, tr. 209-210].


18


xóa bỏ mọi giới hạn của những giải thích và một tác phẩm không còn bị giới hạn
về mặt ngữ nghĩa và không còn neo ở bất kỳ cái biểu hiện nào 1. “The Blackwell
Dictionary of Western Philosophy” nhấn mạnh, nếu như chủ nghĩa siêu hình học
ở phương Tây trước đây được hình thành dựa trên sự đối lập giữa các phạm trù
chẳng hạn như nói/ viết, tâm hồn/ thể xác, cái siêu việt/ cái kinh nghiệm, giữa
Chúa Trời/ Quỷ dữ, trong mỗi cặp khái niệm đó sẽ có cái được xem như vượt
trội hơn hẳn cái còn lại. Đến chủ nghĩa giải cấu trúc, nó chủ trương xóa bỏ quan
niệm về cái vượt trội trong một cặp đối lập bằng cách đặt ra câu hỏi làm thế nào
mà chúng có tính khả thi nhất trong tùy những ngữ cảnh cụ thể. Nó là một lối
phân tích hoặc phê bình về ý nghĩa của các biểu thức ngôn ngữ bằng cách tham
gia vào việc sử dụng của chúng hoặc chức năng của chúng khi tham gia trong
các hoạt động của con người. Derrida chứng minh rằng giả sử khái niệm được
cho là yếu thế hơn trong mỗi cặp đối lập có đặc điểm tương tự với cái khái niệm
được cho là vượt trội hơn, và không có căn cứ nào để trao quyền ưu tiên cho cái
này vượt qua cái kia. Sau đó, ông thay thế sự đối lập bằng cách giới thiệu một
khái niệm bao quát toàn bộ mà nó tránh được sự cố định và xác định mà một
khái niệm thông thường chứa đựng.
Có hai cách dịch phổ biến với chữ “deconstruction”: giải cấu trúc và giải
kiến tạo. Trong luận văn này, chúng tôi chọn sử dụng thuật ngữ “giải cấu trúc”,
vì tính phổ biến của nó, đồng thời phản ánh khá chính xác nguồn gốc và đặc
trưng của lý thuyết này - xuất phát từ chủ nghĩa cấu trúc. Kết cấu là sự sắp đặt,
1

“For Derrida deconstruction’s task twofold: first, to expose the problematic nature of all
‘centred’ discourses, those which depend on concepts such as truth, presence, origin or their
equivalents, second, to overturn metaphysics by displacing its conceptual limits. Deconstruction seeks

to inhabit the margin of traditional systems of thought in oder to put pressure on their border and to
test their unexamined foundation). As an alternative to strictures of the metaphysics tradition, the
vestiges of which Derrida sees as still integral to both structuralism and phenomemology,
deconstruction celebrates limitless interpretation and an unrestricted semantic play that is no longer
anchored in any signified” [41, tr. 25].

19


tổ chức các thành phần trong một thực thể nhất định. Trong đó bao hàm những
yếu tố có sự tương quan với nhau, làm thành một hệ thống. Chủ nghĩa cấu trúc
đặc biệt quan tâm đến những đối lập, vì đó chính là cơ sở tạo nên mối tương
quan cấu trúc. Chủ nghĩa cấu trúc vì thế là một hệ thống kết cấu đóng và mang
tính toàn vẹn. Chủ nghĩa cấu trúc bắt đầu với lý luận về kết cấu ngôn ngữ của
Ferdinand de Saussure (1857- 1913). Với ông, ngôn ngữ là một hệ thống và
chính là một loại kết cấu. Hệ thống ấy do mối quan hệ giữa ngữ âm và ý nghĩa
tạo thành. Đó không phải là sự kết hợp giữa một sự vật với một tên gọi mà là
một khái niệm với một hình ảnh âm thanh nào đó do công đồng ngôn ngữ lựa
chọn, được xem như một hệ thống kí hiệu. Theo Saussure, ngôn ngữ là một hệ
thống kí hiệu, tất cả kí hiệu đều có thể được chia thành cái biểu đạt và cái được
biểu đạt. Con đường đi từ cái biểu đạt đến cái được biểu đạt của kí hiệu là rõ
ràng và xác định. Khởi nguyên từ lý thuyết ngôn ngữ học của Saussure, chủ
nghĩa cấu trúc tiếp tục phát triển với lý luận về xã hội cấu trúc của C. Lévi Strauss. Nhà xã hội học Lévi - Strauss ứng dụng chủ nghĩa cấu trúc vào việc
nghiên cứu thần thoại cổ Hy Lạp Oedipe. Ông đánh giá ngôn ngữ và thần thoại
là như nhau. Nếu “ngôn ngữ có thể được chia thành ngôn ngữ và lời nói, thì
thần thoại có kết cấu thần thoại và câu chuyện thần thoại”. Theo đó, ông đọc
thần thoại này theo bốn khung. Khung một đề cao qua hệ huyết thống, khung hai
phủ nhận quan hệ này (tiêu biểu là sự kiện Những người Spartol tiêu diệt nhau,
Oedipe giết cha, Etéocle giết cha). Như vậy, hai khung này phủ định nhau.
Khung thứ ba liên quan đến sự tiêu diệt các quái vật (tức phủ nhận nguồn gốc

động vật của con người). Trong khi đó khung thứ tư lại cho thấy còn người vẫn
còn dấu vết động vật ( Labdacos - cha của Laios - “người chân thọt”, Oedipe “người có bàn chân sưng phồng”). Như vậy, với bốn khung tạo thành hai cặp
tương quan và đối lập nhau, vừa phủ định nhưng đồng thời khẳng định nhau
trong một hệ khép kín. Cái nhìn nghị nguyên của chủ nghĩa cấu trúc đến Jacques
Lacan bắt đầu lung lay khi ông không chấp nhận quan niệm của Saussure về
20


biểu đạt và cái được biểu đạt. Ông cho rằng hai phạm trù này không phải là hai
mặt của một tờ giấy, mà bản thân cái biểu đạt đã hàm chứa cái được biểu đạt,
còn cái được biểu đạt thì luôn chuyển dịch. Là một nhà phân tâm học, ông chủ
trương tìm về và “đọc lại” Freud. Ông sử dụng lý thuyết ngôn ngữ học kết cấu
kết hợp với phân tâm học, cho ra luận điểm nổi tiếng: vô thức được cấu trúc như
ngôn ngữ và là sản phẩm của ngôn ngữ. Theo đó, cái biểu đạt chính là ý thức, nó
tự hiển lộ, còn cái được biểu đạt chính là phần vô thức. Khi ấy, mối quan hệ
giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt không còn theo công thức một - một, mà
một cái biểu đạt có thể tương đương với vô vàn cái được biểu đạt, tùy vào hoàn
cảnh. Cách nhìn vô thức mang cấu trúc như ngôn ngữ của J. Lacan đã đưa chủ
nghĩa cấu trúc chạm ngõ giải cấu trúc. Đến năm 1966, cánh cửa giải cấu trúc
chính thức mở ra với hệ thống lý luận của nhà triết học Jacques Derrida và tạo
nên một làn sóng mạnh mẽ trong giới học giả châu Âu. (Chúng tôi sẽ trình bày
rõ hơn về phần này ở phần sau).
Như vậy, để hiểu về thuật ngữ “Deconstruction” là không hề đơn giản, và
nhất quán. Từ những định nghĩa, chữ “Deconstruction” – Giải cấu trúc có thể
được hiểu như sau:
- Đây là trào lưu tư tưởng chống lại chủ nghĩa siêu hình ở phương Tây thế
kỉ XIX, phản đối thuyết nhị nguyên và chủ nghĩa cấu trúc.
- “Deconstruction” có thể được hiểu theo tinh thần: “tháo ra, mở ra” một
văn bản bằng cách tìm những mâu thuẫn nội tại của văn bản chứ không phải phá
hủy văn bản ấy.

- Trong cách đọc giải cấu trúc tạo ra những nghĩa mới cho văn bản, đi tìm
cho nó những cái “được biểu đạt” có thể xảy ra. Giải cấu trúc xóa bỏ ranh giới
của những phạm trù đối lập và quan niệm về cái “chiếm ưu thế hơn”. Nó quan
tâm đến khả năng xảy ra của khái niệm thay vì xem xét tính chất trung tâm/ phái
sinh của khái niệm.
Trước sự đa dạng và phức tạp của vấn đề lý thuyết, chúng tôi chọn đại
21


diện tiêu biểu nhất - cha đẻ của chủ nghĩa giải cấu trúc - lý thuyết của Jacques
Derrida làm điểm tựa để giải quyết vấn đề trong luận văn.
1.1.2. Giải cấu trúc trong phê bình văn học

Thế kỉ XX chứng kiến nhiều cuộc đảo chính về đời sống tinh thần của
nhân loại. Có thể kể ra ba cú sốc của thời đại khiến toàn bộ nền lí luận truyền
thống lung lay, đó là: chủ nghĩa Marx, thuyết tương đối của Enstein và phân tâm
học của Sigmund Freud (1856 – 1939). Đối với văn học nghệ thuật, học thuyết
phân tâm của Freud có thể được xem là chiếc chìa khóa vạn năng mở ra thời đại
mới của nghiên cứu và phê bình. Và giải cấu trúc ra đời không gì khác hơn
chính là sự cộng hưởng lối phê bình hiện đại bắt rễ sâu từ thuyết phân tâm học.
Bằng thành tựu mở ra cánh cửa vô thức của loài người, hàng loạt những
vấn đề trong đó có quá trình sáng tác văn chương được hé lộ. Trong một công
trình của mình, Freud đã khẳng định “vô thức chính là tâm thần” [26, tr. 34],
như vậy không có nghĩa rằng mọi tư duy đều là vô thức, nhưng nó được hình
thành trước tiên từ vô thức. Tầng vô thức của con người là nơi sâu kín nhất.
Theo ông, vô thức được biểu hiện qua hai xung năng “xung năng có dục tính và
xung năng tự bảo tồn mình. Chúng ta sẽ thấy tư duy vô thức là một dạng tư duy
bị ước muốn chế ngự và luôn luôn là một tư duy đi tìm lạc thú, không phục tùng
trình tự thời gian, cũng không phục tùng sự hợp lí.” [24, tr.36]. Ngôn ngữ của
vô thức chính là những giấc mơ. Trong ý nghĩa này, Freud quan niệm rằng “tác

phẩm văn học trước hết là môt giấc mơ” [24, tr.12] vì nó “nhìn lại” những ham
muốn của vô thức, những mặc cảm của bản thân, đặc biệt là phức cảm Oedipe.
Sở dĩ Freud thiết lập mối quan hệ giữa giấc mơ và ngôn ngữ bởi vì, ông cho
rằng hai đối tượng này là “kí hiệu của sự ham muốn”. Chính vì được xem như
những kí hiệu, nên giấc mơ cũng có thể có ngữ pháp và lí giải riêng của nó. Đối
với Freud, quá trình sáng tạo văn học đồng nhất với giấc mơ tỉnh thức. Khi sáng
tác, tác giả có thể đang ở trong trạng thái bị thôi thúc với những ham muốn bên

22


trong, những kỉ niệm thơ ấu, sự kìm nén trong vô thức của cá nhân. Ngoài ra,
nhà văn nhà thơ còn sử dụng những yếu tố của vô thức tập thể, từ những huyền
thoại, những sự kiện nguyên thủy đã khuất lấp đâu đó trong tâm trí để sáng tạo
văn chương. Như vậy, quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ có hai mặt:
Nghệ sĩ giống như người bị bệnh nhiễu tâm, rút lui khỏi thực tế không thỏa
mãn để đi vào thế giới tưởng tượng, song trái lại vẫn phải đặt chân vào thực
tế. Những sáng tạo, những tác phẩm nghệ thuật của ông là những thỏa mãn
tưởng tượng cái ham muốn vô thức, giống như mộng; cũng như mộng, chúng
có chung tính cách là một thỏa hiệp, bởi chúng cũng phải tránh xung đột
không che đậy với sức mạnh dồn nén. [24, tr.30 - 31].
Bằng vô thức, Freud đã chỉ ra cách đọc những chủ đề huyền thoại như bức
tranh Moise của Michel Angel, người phụ nữ im lặng, người phụ nữ hoàn hảo
đồng nghĩa với cái chết, phức cảm Oedipe,… Khi đọc những văn bản này, Freud
đã cho thấy những tầng khác trong văn bản. Ngoài những câu chữ thể hiện trên
trang giấy, Freud còn đi tìm những mã khác đằng sau văn bản – tìm cái vô thức
đã dẫn dắt và chi phối văn bản ấy. Khi một tác phẩm được hình thành đã thể
hiện tính nước đôi của nó. Trong văn bản của mình, tác giả không hoàn toàn làm
chủ và kiểm soát được hết những tầng ý nghĩa của văn bản được chuyển tải
trong tác phẩm. Vô thức của cá nhân lẫn vô thức tập thể đôi khi là chất liệu để

nhà văn sáng tác. Như vậy, từ phân tâm học của Freud, đã có những mầm móng
về tính đa cực của tác phẩm được phản ánh trong văn bản và bên dưới văn bản.
Có thể nói, phân tâm học là nền tảng đầu tiên cho tất cả những lí luận tư
tưởng về sau, đặc biệt là tư duy hậu hiện đại, trong đó có giải cấu trúc. Phương
pháp phê bình văn chương theo hướng phân tâm học phát triển trong suốt thế kỉ
XX. Trong đó, có thể kể đến Jacques Delattae với nghiên cứu về vấn đề đồng
tính nam trong các nhân vật của cá nhà văn Andre Gide, Marcel Proust và Henri
de Montherlant, hay tính huyễn tưởng trong sáng tác của Alain Robbe – Grilet.
Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ nhất trong lý thuyết phê bình văn học xuất
23


×