Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.19 MB, 130 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Thị Dĩnh

NGỮ NGHĨA CỦA DANH TỪ ĐƠN VỊ
TIẾNG VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ
NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Thị Dĩnh

NGỮ NGHĨA CỦA DANH TỪ ĐƠN VỊ
TIẾNG VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ
NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số

: 66 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRỊNH SÂM



Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình Cao học và Luận văn này, người viết xin
chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giảng dạy của quý thầy cô trong tổ bộ môn
Ngôn ngữ của khoa Ngữ văn trường Đại học Sư Phạm TP HCM.
Người viết xin gửi lời tri ân sâu sắc tới PGS.TS Trịnh Sâm. Thầy đã
dành nhiều thời gian định hướng, hướng dẫn, góp ý giúp người viết hoàn
thành Luận văn.
Ngoài ra, để hoàn thành Luận văn này người viết đã nhận được sự giúp
đỡ quý báu của người thân trong gia đình, quý thầy cô Phòng sau Đại học
trường ĐHSP TPHCM, đồng nghiệp và Ban giám hiệu trường THPT
Nguyễn An Ninh .
Tác giả

Phạm Thị Dĩnh


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 8

4. Phương pháp nghiên cứu và sưu tầm tài liệu ........................................... 9
5. Ý nghĩa của đề tài ................................................................................... 10
6. Bố cục của luận văn................................................................................ 10
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ...................................................................... 12
1.1. Tổng quan về ngôn ngữ học tri nhận................................................... 12
1.1.1. Khái niệm...................................................................................... 12
1.1.2. Một số xu hướng chính ................................................................. 13
1.2. Danh từ đơn vị tiếng việt ..................................................................... 14
1.2.1. Khái niệm...................................................................................... 15
1.2.2. Vấn đề thuật ngữ.......................................................................... 16
1.2.3. Phân loại ....................................................................................... 21
1.2.4. Danh từ đơn vị và danh từ khối trong danh ngữ .......................... 26
1.2.5. Đặc điểm của danh từ đơn vị ........................................................ 30
1.3. Tiểu kết ................................................................................................ 43
Chương 2. NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM DANH TỪ ĐƠN VỊ ĐỘNG,
THỰC VẬT .................................................................................................. 44
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến cách sử dụng DĐV ............................ 44


2.1.1. Phân định các sự vật theo “chiều” không gian ............................. 45
2.1.2. Những định hướng không gian khi mô tả sự vật .......................... 45
2.2. Ngữ nghĩa của DĐV động vật ............................................................. 47
2.2.1. Danh từ đơn vị động vật lâm thời ................................................. 47
2.2.2. Danh từ đơn vị động vật chính danh ............................................ 49
2.3. Ngữ nghĩa của DĐV thực vật .............................................................. 59
2.3.1. Danh từ đơn vị thực vật lâm thời .................................................. 59
2.3.2. Danh từ đơn vị thực vật chính danh ............................................. 62
2.4. Một số nhận xét ................................................................................... 82
2.5. Một số ẩn dụ từ DĐV tiếng Việt ......................................................... 87
2.5.1. Ẩn dụ ............................................................................................ 87

2.5.2. Ẩn dụ của danh từ đơn vị động, thực vật ..................................... 89
KẾT LUẬN .................................................................................................. 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 98
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DK

: danh từ khối

DĐV

: danh từ đơn vị

CL

: chất liệu

ĐV

: đơn vị

ĐĐ

: đếm được

HT


: hình thức

DND

: danh từ đơn vị trội về nội dung

DHT

: danh từ đơn vị trội về hình thức

DTĐVQU

: danh từ đơn vị qui ước

DT

: danh từ

DN

: danh ngữ

(*)

: không được chấp nhận, không đúng với
cách nói của người Việt

±

: thế đối lập có/không



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa bốn tiêu chí [± đơn vị],[±
đếm được], [± hình thức], [± chất liệu]. ...............................................23
Bảng 2: Tiêu chí phân biệt giữa DHT và DND ..................................................24
Bảng 3: Bảng phân loại danh từ đơn vị ................................................................25
Bảng 4: Bảng nhiệm vụ của trung tâm danh ngữ theo Nguyễn Tài Cẩn......28
Bảng 5: Cấu trúc danh ngữ của Nguyễn Tài Cẩn ..............................................30
Bảng 6: Cấu trúc danh ngữ của Dư Ngọc Ngân .................................................31
Bảng 7: Bảng khảo sát kết quả bầy/đàn trênwww. Google.com.vn ..............53
Bảng 8 : Bảng tham tố nghĩa của danh từ đơn vị động vật chính danh .........58
Bảng 9: Các tham tố nghĩa của danh từ đơn vị thực vật ..................................86
Bảng 10: Những cách thức ẩn dụ của danh từ đơn vị động, thực vật .............92


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiếng Việt, danh từ chiếm một số lượng lớn. Danh từ có nhiều
tiểu loại, mỗi tiểu loại có đặc điểm ngữ nghĩa - ngữ pháp khác nhau. Trong
số những tiểu loại danh từ thì danh từ đơn vị là vấn đề rất thú vị nhưng cũng
rất phức tạp. Thú vị vì những từ ngữ đó ta thường xuyên sử dụng trong đời
sống, trong giao tiếp nhưng theo phản xạ tự nhiên, nay tìm hiểu được ngữ
nghĩa - ngữ pháp của chúng, nên từ đó ta có cách sử dụng đúng, sử dụng
hay. Phức tạp là bởi vì có quá nhiều quan điểm về danh từ đơn vị, có những
quan điểm đối lập nhau, có những vấn đề không dễ dàng giải quyết. Do xuất
phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau nên vấn đề thuật ngữ về chúng
cũng chưa thống nhất. Mặt khác, trước đây ngôn ngữ học truyền thống khi

nghiên cứu về danh từ đơn vị thường quan tâm đến mặt cú pháp hơn là mặt
ngữ nghĩa và tri nhận.
Ngôn ngữ học tri nhận là một khuynh hướng ngôn ngữ học ra đời vào
những năm 80 của thế kỉ XX với nhiệm vụ trung tâm là nghiên cứu mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy của con người, nghiên cứu cách con người
nhận thức thế giới qua lăng kính ngôn ngữ. Ngôn ngữ học tri nhận đã giúp
người viết trả lời những câu hỏi: Vì sao một đơn vị sự vật lại có thể kết hợp
được với nhiều danh từ đơn vị khác nhau? Vì sao chọn dùng danh từ đơn vị
này mà không dùng danh từ đơn vị khác? Cái gì cho phép ta tập hợp danh từ
đơn vị vào những nhóm khác nhau? Từ đó, người viết hiểu được cách thức
mà người Việt dùng các danh từ đơn vị để mô tả các thuộc tính không gian
của vật thể (như: hình dáng, kích cỡ, tư thế) và từ đó xếp loại chúng.
Với hai lí do trên, người viết đã mạnh dạn chọn đề tài này làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình với hi vọng thông qua góc nhìn
của ngôn ngữ học tri nhận ta có thể suy đoán về một cách thức riêng của


2

người Việt trong việc ý niệm hóa, phạm trù hóa, phân loại và mô tả thế giới
khách quan.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1 Danh từ đơn vị trong ngôn ngữ học tiền tri nhận
Khi nghiên cứu về từ loại tiếng Việt, nhà nghiên cứu Việt ngữ nào cũng
dành một phần không nhỏ cho từ loại danh từ. Trong từ loại danh từ, người
ta không quên nhắc tới danh từ đơn vị. Từ trước đến nay, danh từ đơn vị
được gọi bằng những tên gọi khác nhau: tiền danh từ (Phan Khôi), loại tự
(Lê Văn Lý, Trần Trọng Kim, Phạm Tất Đắc), phó danh từ (Nguyễn Kim
Thản), loại từ (Nguyễn Tài Cẩn, Lưu Vân Lăng, Nguyễn Phú Phong), danh
từ chỉ loại (Lê Cận, Quang Thiều, Diệp Quang Ban) và danh từ đơn vị

(Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân Hạo, Dư Ngọc Ngân, Nguyễn Thị Ly Kha, Lê
Ni La). Điều này phản ánh sự phức tạp của loại từ này, đồng thời cũng phản
ánh bản chất ngữ nghĩa cú pháp của nó. Đinh Văn Đức cho danh từ đơn vị là
hư từ, là lớp từ công cụ rỗng nghĩa, xuất hiện bên cạnh danh từ để phân loại
danh từ, cá thể hóa danh từ. Lưu Vân Lăng cho rằng danh từ đơn vị nằm
giữa ranh giới hư từ và thực từ, Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban xem
nó là thực từ.
Quan niệm về danh từ đơn vị không hoàn toàn đồng nhất. Có bốn
khuynh hướng nổi bật sau:
2.1.1. Khuynh hướng thứ nhất
Khuynh hướng này không nhắc đến thuật ngữ danh từ đơn vị, xem
những từ như cái, chiếc, con, quyển, ngôi… là loại từ, là một từ loại tồn tại
độc lập bên cạnh những từ loại khác. Khuynh hướng này cho rằng, về bản
chất loại từ là hư từ, chuyên đảm đương chức năng phụ trợ cho danh từ. Loại
từ không có ý nghĩa từ vựng, không có khả năng đứng độc lập và chức năng
của chúng là cá thể hóa danh từ. Đại diện tiêu biểu của khuynh hướng này


3

có thể nhắc đến Phạm Tất Đắc, Trần Trọng Kim, Bùi Đức Tịnh, Lê Văn Lý,
Nguyễn Kim Thản…
Phạm Tất Đắc, Trần Trọng Kim gọi danh từ đơn vị là loại tự. Cả hai
ông đều định nghĩa “loại tự là tiếng đặt trước một danh tự để chỉ danh tự ấy
thuộc về loại nào”[14, tr26; 25, tr45]. Hai tác giả này chia loại tự thành loại
tự chung (gồm con và cái) và loại tự riêng (vốn là những danh tự dùng để
chỉ một loại, một giống, một hạng như chim bồ câu, chim chích chòe, chim
sáo; người thợ nề, người bù nhìn, người tài xế…). Có thể thấy hai tác giả
này đưa ra danh sách loại từ quá ít ỏi và có những quan niệm nhầm lẫn. Ví
dụ như các từ hoa (sen), hoa (đào), hoa (cúc), cá (thu), cá (rô), cá

(trê)…cũng được hai ông xem là loại tự. Theo Nguyễn Tài Cẩn, những từ
như “hoa sen”, “lá chuối”, “hột dưa” “đều là những từ tổ bình thường, đặt
theo quan hệ chính phụ. Yếu tố đầu bao giờ cũng là một danh từ chỉ sự vật,
còn giữ nguyên nghĩa gốc của chúng, đúng như khi chúng dùng một mình”
[3, tr.194].
Trong tác phẩm “Sơ thảo về ngữ pháp Việt Nam”, Lê Văn Lý cho rằng
từ loại tiếng Việt gồm: tự loại A (danh tự), tự loại B (động tự), tự loại B,
(tĩnh tự), tự loại C1 (ngôi tự), tự loại C2 (số tự), tự loại C3 (phụ tự). Theo đó
ông đưa ra định nghĩa về loại tự như sau: “loại tự là những chứng tự của tự
loại A; chúng cho phép ta nhận định được những tự ngữ nào thuộc tự loại A
và đồng thời chúng cũng xếp những tự ngữ đó vào một loại riêng biệt”. [35,
tr.50]. Ông chia loại tự thành ba tiểu loại: loại tự cho những danh tự chỉ
người, loại tự cho những danh tự chỉ loài vật và loại tự cho những danh tự
chỉ sự vật. Bỏ qua bước xác định tiêu chí nhận diện loại từ, ông liệt kê 171
loại từ và miêu tả cụ thể cách dùng chúng.
Không dùng thuật ngữ loại từ nhưng Nguyễn Kim Thản trong tác phẩm
“Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt” cũng tán đồng quan điểm này. Ông cho
rằng những từ như bài, bản, bông, bức, cái, chiếc, con, đứa, tấm…là phó


4

danh từ, luôn đứng phụ cho danh từ, có tác dụng chỉ sự vật riêng lẻ, chỉ đơn
vị tự nhiên, nằm giữa ranh giới hư từ và thực từ. Ông định nghĩa “Phó danh
từ là những từ chỉ đơn vị tự nhiên của sự vật, phục vụ cho danh từ để cá thể
hóa sự vật và có những khả năng kết hợp như danh từ” [47, tr167]. Ông cho
rằng: “công dụng ngữ pháp chủ yếu của phó danh từ là làm công cụ ngữ
pháp để cá thể hóa danh từ, nghĩa là làm một thứ trợ phụ từ. Song, phó danh
từ còn có khả năng thay thế cho danh từ”. Tuy nhiên chính ông cũng thừa
nhận điểm chưa ổn trong quan niệm của mình “Gọi là phó danh từ thì nói

chung có thể được nhưng khi chúng chỉ đơn vị động tác thì lại không đủ, bởi
vì chúng không làm phó cho danh từ nào cả (ví dụ: tát một cái)” [47, tr165]
2.1.2. Khuynh hướng thứ hai
Khuynh hướng này cho rằng danh từ đơn vị và loại từ hoàn toàn khác
nhau. Đại diện tiêu biểu của khuynh hướng này là Lưu Vân Lăng và Nguyễn
Phú Phong. Lưu Vân Lăng cho rằng “Khi đứng trước một danh từ khác, một
số danh từ đơn vị đã mất đi một phần nội dung ngữ nghĩa, chỉ còn lại một
phần có tác dụng xác định chủng loại và đơn vị của danh từ đặt sau, nên
mới chuyển thành loại từ. Như vậy nó không còn là danh từ đơn vị nữa. Do
đó loại từ nhất thiết phải đứng trước danh từ” [32, tr.139]. Danh từ đơn vị,
theo ông, phải vừa có “nội dung” vừa có “hình thức”, đứng ở vị trí trung tâm
danh ngữ, kết hợp với lượng từ, loại từ, chỉ định từ,…đảm nhận chức năng
cú pháp như đề ngữ, bổ ngữ; còn loại từ chỉ là một nhóm nhỏ trong hạn từ,
chuyên làm thành tố phụ cho hạt nhân danh từ. Nó không thể một mình làm
thành tố cú pháp, giữ riêng một chức năng cú pháp, mà chỉ có thể cùng với
danh từ hạt nhân đứng sau đảm nhận chung một chức năng cú pháp nào đó.
Ông đề nghị: đưa loại từ ra khỏi danh từ, coi nó là một loại phụ từ chuyên
hạn định cho hạt nhân danh từ. Vì danh từ đơn vị chủ yếu định lượng còn
loại từ chủ yếu định tính, định loại.


5

Nguyễn Phú phong cho rằng “loại từ phải được xem như là định từ của
danh từ, một định từ mà chức năng định lượng là chính vì nó bất biến, còn
chức năng gia nghĩa cho danh từ thì phụ, phụ với ý nghĩa là một biến số có
thể đi từ zerô đến “đầy” [41, tr.13]. Dựa vào chức năng định đơn vị của loại
từ, ông quan niệm “những từ nào biểu đạt một khái niệm phân lập có thể
đếm được đều có thể sử dụng làm loại từ” [41, tr.13]
2.1.3. Khuynh hướng thứ ba

Khuynh hướng này thừa nhận thuật ngữ danh từ đơn vị và cho rằng loại
từ là một tiểu loại nằm trong nhóm này.
Trong tác phẩm “Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại”, Nguyễn
Tài Cẩn đã khảo sát rất kĩ danh từ đơn vị. Theo ông, “trong số những danh
từ chung không tổng hợp, trước hết cần phải tách những kiểu như “chiếc,
đứa, con, cây, thước, cân, xu, giờ, miếng, đàn, tá, lần, lượt…thành một tiểu
loại riêng. Đây là tiểu loại danh từ dùng để chỉ đơn vị đo lường, đơn vị tính
toán” [3, tr.17]. Ông cho rằng loại từ là một tiểu loại của danh từ đơn vị
“Trong danh từ đơn vị, trước hết cần phải kể đến nhóm thường được gọi là
loại từ. Đây là một nhóm không có ý nghĩa từ vựng rõ ràng và chuyên dùng
để phục vụ việc đếm thành từng cá thể, thành từng đơn vị tự nhiên của sự
vật cũng như phục vụ việc phân chia sự vật vào các loại” [3, tr.123]. Loại từ
được ông xếp vào hệ thống công cụ từ để dạng thức hóa danh từ “Nói đến
các công cụ từ dùng để dạng thức hóa danh từ và diễn đạt các phạm trù ngữ
pháp của từ loại này, trước hết phải kể đến nhóm mà ta quen gọi là nhóm
loại từ”. [3, tr.187]
Lê Ni La dùng tiêu chí [± đơn vị] phân chia danh từ tiếng Việt thành
danh từ khối và danh từ đơn vị. Tác giả tiếp tục dùng tiêu chí [± chất liệu] để
phân loại danh từ đơn vị thành hai loại: danh từ đơn vị có tính trội về nội
dung và danh từ đơn vị hình thức thuần túy. Tác giả cho rằng “theo quan
điểm của chúng tôi, những từ vốn quen được gọi là loại từ là một mảng của


6

DĐV hình thức thuần túy, chỉ đơn vị các đối tượng tự nhiên (phân biệt với
các đối tượng khác: hành động, thời gian, không gian, trạng thái, quá trình,
tính chất). Vì vậy, cách gọi DĐV tự nhiên trước đây rất thích hợp với loại
từ” [29, tr.73].
2.1.4. Khuynh hướng thứ tư

Khuynh hướng này cho rằng thuật ngữ loại từ không tồn tại, đó chỉ là
một chức năng nghĩa học, xem danh từ đơn vị là một tiểu loại của danh từ.
Tác giả tiêu biểu của khuynh hướng này gồm Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân
Hạo, Nguyễn Thị Ly Kha…
Nguyễn Tài Cẩn không có sự phân biệt rạch ròi giữa loại từ và danh từ
đơn vị nữa mà gọi chung là danh từ đơn vị “trong tiếng Việt, còn có những
từ chỉ đơn vị qui ước như tấn, tạ, cân, lạng, thước, tấc, lít, đoàn, dãy, mớ,
miếng…chúng không tồn tại riêng rẽ như ở nhiều ngôn ngữ khác mà tồn tại
song song với các từ chỉ đơn vị tự nhiên như anh, ông, con, cái, cuốn,
bức…Trong tiếng Việt, cả hai nhóm đó đều tập hợp lại với nhau, tạo thành
một loại lớn gọi chung là những từ chỉ đơn vị” [4, tr.209]. Theo ông, danh
từ đơn vị là một trong hai thành tố trung tâm của đoản ngữ có danh từ làm
trung tâm “T1 (chỉ danh từ đơn vị) là trung tâm chỉ về đơn vị đo lường; T2
là trung tâm chỉ về sự vật được đem ra kế toán đo lường. T1 nêu chủng loại
khái quát, T2 nêu sự vật cụ thể. T1 là trung tâm về mặt ngữ pháp, T2 là
trung tâm về mặt ý nghĩa từ vựng. Đứng về mặt liên hệ với thực tế mà xét,
T2 có phần quan trọng hơn; nhưng đứng về mặt tìm hiểu quy tắc ngôn ngữ
mà xét thì T1 có phần quan trọng hơn.”
Cao Xuân Hạo là người đã quyết liệt chỉ ra sai lầm của các nhà nghiên
cứu khi sử dụng thuật ngữ “loại từ”. Ông cho rằng “trong lịch sử ngôn ngữ
học, thuật ngữ “loại từ” là sản phẩm của một sự hiểu lầm vĩ đại” [19,
tr.380]. Theo ông, danh từ khối là một thứ khối chưa phân lượng cho nên
thường đi với “loại từ” vốn có tác dụng phân lượng cái khối ấy ra. Thuật ngữ


7

“loại từ” lẽ ra dùng cho những danh từ khối như bò, sách thì phải hơn vì
trong danh ngữ con bò, bò là định ngữ cho biết các đơn vị động vật thuộc
chủng loại nào. Ông đưa ra định nghĩa về danh từ đơn vị (count nouns)

“danh từ đơn vị là những danh từ chỉ những hình thức tồn tại của những
thực thể phân lập trong không gian, trong thời gian hay trong một chiều nào
khác được hình dung như giống với không gian, có thể được tri giác tách ra
khỏi bối cảnh và khỏi các thực thể khác” [19, tr.392]. Với tiêu chí [± đếm
được], ông đã phân danh từ đơn vị thành hai loại: các danh từ hình thức
thuần túy (205 từ) và danh từ vừa có thuộc tính nội dung vừa có hình thức
tồn tại phân lập (225 từ). (Xem bảng ở phần Phụ lục 2)
Trong luận án tiến sĩ, Nguyễn Thị Ly Kha đã dùng tiêu chí [± đơn vị]
để tăng thêm thế đối lập giữa danh từ đơn vị và danh từ khối. Tác giả cho
rằng “danh từ đơn vị là loại danh từ biểu thị hình thức tồn tại của thực thể
hoặc biểu thị những sự vật được ngôn ngữ đối xử như những thực thể phân
lập, có kích thước xác định, có thể phân lượng hóa được, dùng để chỉ đơn vị
của thực thể, chuyên đảm đượng chức năng thành tố chính trong cấu trúc
danh ngữ” [23, tr42]. Với tiêu chí [± đơn vị] tác giả đã chia danh từ đơn vị
thành hai loại: danh từ đơn vị có tính trội về hình thức (gồm 405 từ) và danh
từ đơn vị có tính trội về nội dung (gồm 449 từ). (Xem bảng ở phần Phụ lục
3)
Có thể nói, dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tiền tri nhận, các nhà
nghiên cứu có những quan điểm chưa thống nhất và những vấn đề tranh cãi
của danh từ đơn vị xoay quanh địa hạt ngữ pháp.
2.2. Danh từ đơn vị trong ngôn ngữ học tri nhận
Ngôn ngữ học tri nhận là một xu hướng nghiên cứu ngôn ngữ mới,
được nhiều nhà Việt ngữ quan tâm. Những đề tài về ngôn ngữ học tri nhận
được đăng tải trên Tạp chí Ngôn ngữ cũng được người đọc tìm tòi học hỏi
nhằm có thêm những hiểu biết sâu sắc cho luận văn. Có thể kể đến “Khảo


8

luận ẩn dụ tri nhận” của Trần Văn Cơ [8], “Dòng sông và cuộc đời” (tri nhận

của người Việt về sông nước) của Trịnh Sâm [4], “Ngôn ngữ học tri nhận là
gì?” của Trần Văn Cơ [5], “Cảm nhận và suy nghĩ về tầm nhìn kinh điển
trong hướng đi của ngôn ngữ học tri nhận” của Nguyễn Lai [28], “Về
khuynh hướng ngôn ngữ học tri nhận” của Lê Quang Thiêm [50], “Tri nhận
thời gian trong tiếng Việt” của Nguyễn Đức Dân [11]…
Dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, danh từ đơn vị càng được
khám phá đầy đủ hơn. Tác phẩm “Ngôn ngữ học tri nhận từ lí thuyết đại
cương đến thực tiễn tiếng Việt” của tác giả Lý Toàn Thắng đã có những
chương nghiên cứu sâu sắc về danh từ đơn vị. Tác giả đã đưa ra những cách
mô tả danh từ đơn vị theo đặc trưng “chiều” không gian, những định hướng
không gian khi mô tả sự vật. Theo tác giả, “loại từ ẩn chứa trong nó một
cách nhìn, một cách tri nhận về sự vật ấy” [49, tr.303] và những sự kiện về
nghĩa và cách dùng của các loại từ và các danh từ chỉ đơn vị qui ước cho
phép ta nghĩ đến một cách thức riêng của người Việt trong việc phạm trù
hóa và phân loại các sự vật của thế giới bên ngoài con người. Tác phẩm đã
góp phần lí giải được cách thức mà người Việt sử dụng danh từ đơn vị cho
các sự vật. Những gợi ý của tác giả trong cuốn sách này là tài liệu vô cùng
quí giá cho người viết luận văn.
Những công trình nghiên cứu trên là những cơ sở để nghiên cứu ngữ
nghĩa của danh từ đơn vị trong tiếng Việt dưới góc nhìn của ngôn ngữ học
tri nhận. Dù ở những góc độ và quan điểm khác nhau, song các tài liệu trên
là nguồn tư liệu đáng quí giúp cho người viết tìm hiểu, rút kinh nghiệm, vận
dụng lý thuyết vào nghiên cứu danh từ đơn vị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu, luận văn hướng vào đối tượng là danh
từ đơn vị tiếng Việt.


9


Đây là một phạm trù lớn vì cách mở rộng của ngữ pháp tiếng Việt hiện
đại không chỉ bó hẹp trong cách hiểu loại từ trong các ngôn ngữ Ấn- Âu. Do
vậy, luận văn cần giới hạn đề tài. Cụ thể đối tượng khảo sát của luận văn
gồm hai mảng danh từ đơn vị: danh từ đơn vị dùng cho động vật (gọi tắt là
danh từ đơn vị động vật), theo khảo sát của chúng tôi gồm có 19 đơn vị
chính danh. Và danh từ đơn vị dùng cho thực vật (gọi tắt là danh từ đơn vị
thực vật), chúng tôi đã khảo sát gồm 74 đơn vị.
Khi khảo sát ngữ nghĩa của danh từ đơn vị trong tổ hợp “danh từ đơn vị
+ danh từ thực vật” và “danh từ đơn vị + danh từ động vật”, do nhóm danh
từ đơn vị qui ước dùng cho động, thực vật như kí, cân, yến, mét, tạ, tấn...ít
thể hiện (chứ không phải không thể hiện) sự tri nhận của người Việt nên
luận văn không khảo sát nhóm từ này.
4. Phương pháp nghiên cứu và sưu tầm tài liệu
Ngoài những phương pháp, thủ pháp thông dụng mà bất kì một công
trình nghiên cứu nào cũng phải vận dụng như sưu tầm, phân loại, trong luận
văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
4.1. Phương pháp hệ thống cấu trúc
Danh từ là một hệ thống từ vựng, danh từ đơn vị là một tiểu hệ thống
nằm trong hệ thống lớn hơn. Danh từ đơn vị động vật và danh từ đơn vị thực
vật cũng là một tiểu hệ thống của danh từ đơn vị. Như vậy, mặc dù mô tả
ngữ nghĩa tri nhận của hai tiểu hệ thống nêu trên nhưng chúng tôi cũng chú
ý đến những đặc điểm về mặt cấu trúc, hình thức, nội dung, đồng thời đặt
chúng vào trong hệ thống.
4.2. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa tri nhận
Luận văn này không đi quá sâu vào chi tiết các nét nghĩa của một danh
từ đơn vị biểu hiện mà thông qua sự hoạt động của chúng trong giao tiếp cố
gắng khái quát thành các ý niệm, các phạm trù, tức là cách thức mà người
Việt tri nhận.



10

4.3. Phương pháp thống kê ngôn ngữ học
Bên cạnh những nhận định có tính chất định tính, luận văn còn chú ý
đến phương pháp thống kê. Tuy con số chưa lớn lắm, nhưng trong phạm vi
mà chúng tôi khảo sát, các số liệu thống kê sẽ là những phương tiện củng cố
cho những phân tích của luận văn.
5. Ý nghĩa của đề tài
5.1. Về mặt lí luận
Luận văn này không có tham vọng giải quyết những vấn đề phức tạp về
mặt lí thuyết của danh từ đơn vị. Thông qua việc mô tả những danh từ đơn
vị, luận văn góp phần chỉ ra sự khác biệt giữa loại từ trong các ngôn ngữ Ấn
- Âu với danh từ đơn vị trong tiếng Việt, trong đó có danh từ đơn vị động
vật và danh từ đơn vị thực vật
5.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận trong việc mô tả
ngữ nghĩa của các danh từ đơn vị từ các đặc trưng “chiều” không gian. Việc
phân biệt các nét nghĩa giữa các danh từ đơn vị sử dụng cho cùng một đơn vị
sự vật sẽ giúp cho việc sử dụng danh từ đơn vị trong từng hoàn cảnh giao
tiếp trở nên chính xác hơn.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập giới thiệu lí do chọn đề tài, lịch sử nghiên cứu,
đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và đóng góp của đề tài, luận
văn tập trung vào hai chương:
Chương một tập trung làm sáng tỏ cơ sở lí luận của đề tài. Cụ thể gồm
hai phần. Phần thứ nhất giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về Ngôn ngữ
học tri nhận. Phần thứ hai giúp người đọc tìm hiểu về thuật ngữ, phân loại,
đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của danh từ đơn vị trong ngôn ngữ học tiền
tri nhận. Đây sẽ là những cơ sở lí thuyết soi sáng cho những vấn đề cụ thể
trong chương hai.



11

Chương hai cũng gồm hai phần. Phần thứ nhất miêu tả ngữ nghĩa của
danh từ đơn vị động vật và danh từ đơn vị thực vật dưới góc nhìn của ngôn
ngữ học tri nhận, các tham tố nghĩa của chúng. Và để giúp người đọc hình
dung một cách rõ ràng về danh từ đơn vị đang miêu tả chúng tôi cũng mạnh
dạn chọn lọc một số hình ảnh, hình minh họa. Phần thứ hai chúng tôi tập
trung vào một số ẩn dụ của danh từ đơn vị nhằm thấy được cách thức, đặc
điểm ẩn dụ của danh từ đơn vị. Từ đó, luận văn góp phần giúp người đọc
thấy rõ hơn đặc điểm tri nhận của người Việt qua danh từ đơn vị.
Phần cuối của luận văn là danh sách tài liệu tham khảo và phần phụ lục.
Phần phụ lục giới thiệu bảng danh sách danh từ đơn vị mà chúng tôi khảo sát
để làm luận văn. Đồng thời, chúng tôi cũng giới thiệu thêm ba bảng danh
sách danh từ đơn vị của Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thị Ly Kha và Lê Ni La.


12

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan về ngôn ngữ học tri nhận
1.1.1. Khái niệm
Những công trình nghiên cứu lý thuyết Ngôn ngữ học tri nhận trên thế
giới rất phong phú. Trong lĩnh vực ứng dụng lý thuyết Ngôn ngữ học tri
nhận vào nghiên cứu Việt ngữ, tác giả Lý Toàn Thắng và Trần Văn Cơ đã
có những đóng góp lớn lao. Những tiền đề lý luận về ngôn ngữ học tri nhận
được trình bày dưới đây đều được tham khảo từ những nghiên cứu của hai
tác giả này.
Ngôn ngữ học tri nhận là một trường phái nghiên cứu ngôn ngữ mới,

xuất hiện từ những năm cuối thập kỉ 60 đầu thập kỉ 70 của thế kỉ XX. Nhưng
thời điểm ra đời của ngôn ngữ học tri nhận thường được tính là năm 1989,
thời điểm các nhà khoa học tham dự Hội thảo đã quyết định thông qua nghị
quyết thành lập Hội ngôn ngữ học tri nhận và sau đó bắt đầu xuất bản tạp chí
“Cognitive Linguistics”.
Khoa học tri nhận và ngữ pháp tạo sinh của Chomsky chính là đòn bẩy
cho sự ra đời của ngôn ngữ học tri nhận. Cùng với tâm lí học tri nhận, ngôn
ngữ học tri nhận trở thành ngành học trung tâm của khoa học tri nhận.
Vậy “tri nhận” là gì? Thuật ngữ này được dịch ra từ một từ của tiếng
Anh là cognition. Từ này có nguồn gốc từ tiếng Latinh, do sự hợp lại của hai
từ: cognitio (có nghĩa là nhận thức) và cognitatio (có nghĩa là tư duy, suy
nghĩ). [8, tr.18]. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận Mỹ khi đặt nền móng cho
ngôn ngữ học tri nhận đã dùng thuật ngữ “Cognitive Linguistics”. Tri nhận
chính là quá trình nhận thức, quá trình tư duy của con người, quá trình con
người phản ánh thế giới khách quan vào ý thức của mình. Tri nhận, hiểu
theo nghĩa hẹp, là cách thức mà con người nhận thức thế giới, theo nghĩa


13

rộng, là toàn bộ tri thức được trải nghiệm, là sự hiểu biết được tích lũy của
một cộng đồng dân tộc hay của một cá nhân.
Tóm lại, có thể nói rằng, ngôn ngữ học tri nhận “đó là một trường phái
mới của ngôn ngữ học hiện đại, tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở
vốn kinh nghiệm và sự tri giác của con người về thế giới khách quan cũng
như cái cách thức mà con người ý niệm hóa và phạm trù hóa các sự vật và
sự tình của thế giới khách quan đó”. [49, tr.13].
1.1.2. Một số xu hướng chính
“Ngôn ngữ học tri nhận là một khuynh hướng trong khoa học về ngôn
ngữ ra đời vào nửa sau thế kỉ XX có đối tượng nghiên cứu đặc thù là mối

quan hệ giữa ngôn ngữ và các quá trình tư duy của con người (bao gồm trí
tuệ, sự hiểu biết, sự thông hiểu, trí nhớ, ý niệm hóa thế giới,…) trên cơ sở
kinh nghiệm và suy luận logich”. [8, tr53].
Đối tượng cụ thể của ngôn ngữ học tri nhận là ngôn ngữ trong tư cách
là một trong những khả năng tri nhận và một trong những cấu trúc tri nhận
của con người. Ngôn ngữ học tri nhận nghiên cứu một cách bao quát và toàn
diện chức năng tri nhận (nhận thức) của ngôn ngữ. Ngôn ngữ vừa là sản
phẩm của hoạt động tri nhận vừa là công cụ của hoạt động tri nhận của con
người. Ngôn ngữ là cửa sổ để đi vào thế giới tinh thần của con người, là
phương tiện để đạt đến những bí mật của quá trình tư duy. Có thể nói, “ngôn
ngữ học tri nhận giương cao ngọn cờ “hướng tới con người”. Nó nghiên cứu
ngôn ngữ trong mối quan hệ với con người- con người suy nghĩ, con người
hành động. Đối tượng của ngôn ngữ học tri nhận là ngôn ngữ tự nhiên của
con người với tư cách là một bộ phận cấu thành của nhận thức” [8, tr40 -41].
Ngôn ngữ học tri nhận theo nghĩa hẹp được hiểu là ngữ nghĩa học tri
nhận Mỹ và ngữ pháp học tri nhận Mỹ với các tên tuổi như Lakoff G,
Johnson M, Langacker R.W…và một số học giả Châu Âu như Taylor J,
Haiman J…Theo nghĩa rộng, ngôn ngữ học tri nhận còn nghiên cứu ngữ


14

nghĩa học khung, ngữ pháp kết cấu, loại hình học tri nhận, lí thuyết ngữ
nghĩa…
Ngôn ngữ học tri nhận có ba xu hướng tiếp cận nghiên cứu.
(i) Xu hướng thứ nhất quan tâm đến “kinh nghiệm”. Với cách tiếp cận
này, nhà ngôn ngữ học tri nhận sẽ khảo sát những vấn đề như các phạm trù
tri nhận, các sơ đồ hình ảnh, các mô hình điển dạng khi phạm trù hóa các sự
vật, nội dung và cấu trúc tri nhận của các ẩn dụ.
(ii) Xu hướng thứ hai quan tâm đến mức độ “nổi trội” của các cấu trúc

ngôn ngữ, cụ thể là việc các thông tin được lựa chọn và sắp xếp trong câu
như thế nào. Trong cách tiếp cận này, nhà ngôn ngữ học tri nhận quan tâm
đến nguyên lí tách biệt “hình” và “nền”.
(iii) Xu hướng thứ ba quan tâm đến mức độ “thu hút sự chú ý” của các
yếu tố và các bình diện khác nhau của một sự tình. Với cách tiếp cận này,
nhà ngôn ngữ học tri nhận tập trung khảo sát khái niệm “khung” tức là một
tập hợp tri thức mà người nói có được về một sự tình nào đó.
Thông qua ngôn ngữ học tri nhận, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thấy
được những khác biệt trong việc ngôn ngữ cấu trúc hóa thế giới, những khác
biệt trong cách nhìn thế giới của ngôn ngữ, những khác biệt về định hướng
không gian… của người bản ngữ. Từ đó chúng ta có thể thấy được cách thức
tri nhận thế giới của dân tộc đó.
1.2. Danh từ đơn vị tiếng việt
Theo ngữ pháp truyền thống, danh từ là từ gọi tên người, nơi chốn hay
sự vật. Ngữ pháp cấu trúc luận cho rằng danh từ là lớp từ có khả năng kết
hợp với yếu tố chỉ lượng, kết hợp với mạo từ và có khả năng đảm nhận vị trí
trung tâm trong cấu trúc danh ngữ. Chú ý tới cả phương diện ngữ nghĩa, khả
năng kết hợp và chức vụ cú pháp, có thể nói, từ góc độ đại cương, danh từ là
từ loại có ý nghĩa phạm trù sự vật, có các phạm trù ngữ pháp giống, số,
cách, thực hiện các chức năng ngữ pháp khác nhau trong câu như chủ ngữ,


15

bổ ngữ, định ngữ.
Danh từ tiếng Việt có những đặc điểm sau: Thường làm chủ ngữ,
không độc lập làm vị ngữ, có khả năng độc lập làm thành ngữ đoạn, tham
gia vào thế đối lập đơn vị/khối, có thể kết hợp với số đếm, lượng từ, từ chỉ
định, có thể kết hợp với giới từ làm trạng ngữ.
Dựa vào tiêu chí [± đếm được], Cao Xuân Hạo đã phân từ loại danh từ

thành hai tiểu loại: danh từ khối và danh từ đơn vị. Trên cơ sở thành tựu
nghiên cứu của ngữ pháp truyền thống, một số vấn đề ngữ nghĩa của danh từ
đơn vị, trong đó có danh từ đơn vị động vật và danh từ đơn vị thực vật, đang
thu hút sự chú ý của nhiều nhà ngôn ngữ học tri nhận.
1.2.1. Khái niệm
DĐV là một vấn đề nghiên cứu rất phức tạp. Mỗi nhà Việt ngữ khi
nghiên cứu về DĐV đều đưa ra thuật ngữ gọi tên và khái niệm dựa trên
những tiêu chí khác nhau.
Dựa vào chức năng xác định chủng loại, Lê Văn Lý cho rằng “loại tự
là những chứng tự của tự loại A; chúng cho phép ta nhận định được những tự
ngữ nào thuộc tự loại A, và đồng thời chúng cũng xếp những tự ngữ đó vào
một loại riêng biệt nữa [35,tr51]. Đồng tình với Lê Văn Lý, Lưu Vân Lăng
cũng cho rằng “loại từ vốn là DĐV, nhưng khi đặt trước một danh từ khác
thì nghĩa từ vựng của nó ít nhiều bị giảm, chỉ còn tác dụng đơn vị hóa sự vật
cho danh từ đứng sau, đồng thời xác định rõ danh từ này thuộc loại nào. Có
thể định nghĩa loại từ là từ xác định rõ chủng loại và đơn vị cho danh từ đặt
ngay sau nó” [31, tr.17].
Nhờ sự nghiên cứu sâu hơn, bao quát hơn về DĐV, một số nhà Việt
ngữ phát hiện ra bản chất của DĐV là giúp người bản ngữ phân lập các sự
vật trong mối quan hệ với danh từ. Ý nghĩa hình thức của chúng mới là
chính. Trong nhận thức của người bản ngữ, chất liệu là cái rất cần phải có
một hình thức ngôn ngữ chia cắt sự vật tương hợp với việc đo đếm. Lâu dần


16

người Việt tự động đơn vị hóa tất cả những gì biểu đạt bằng danh từ...xuất
phát từ chức năng phân lập thực thể của DĐV, Đinh Văn Đức - Kiều Châu,
khi chỉ ra nguyên nhân xuất hiện của loại từ, đã đưa ra khái niệm “chúng là
những đơn vị hình thức của danh từ, giúp người bản ngữ phân lập các sự vật

trong khi tri nhận chúng” [13,tr138] . Nguyễn Phú Phong thừa nhận “Loại từ
là một tác tử dùng để định đơn vị. Đó là đặc tính bất biến của loại từ, dùng
để định nghĩa của loại từ”. [41, tr13]. Cao Xuân Hạo, sau khi chỉ rõ những
sai lầm của một số nhà Việt ngữ về thuật ngữ “loại từ”, đã đưa ra định nghĩa
“DĐV (count nouns) là những danh từ chỉ những hình thức tồn tại của các
thực thể phân lập trong không gian, trong thời gian hay trong một chiều nào
khác được hình dung như giống với không gian, có thể được tri giác tách ra
khỏi bối cảnh và khỏi các thực thể khác, kể cả các thực thể cùng tên” [19 ,
tr392].
Từ những điều đã trình bày trên, ta có thể đi đến một định nghĩa khái
quát cho DĐV tiếng Việt như sau: “DĐV là loại danh từ biểu thị hình thức
tồn tại của thực thể hoặc biểu thị những sự vật được ngôn ngữ đối xử như
những thực thể phân lập, có kích thước xác định, có thể phân lượng hóa
được, dùng để chỉ đơn vị của thực thể, chuyên đảm đương chức năng thành
tố chính trong cấu trúc danh ngữ” [ 23 , tr42]
Dựa vào đặc tính này, ta có thể nói, những từ nào biểu đạt một khái
niệm phân lập (notion discréte) có thể đếm được (comptable) đều có thể sử
dụng làm DĐV.
1.2.2. Vấn đề thuật ngữ
Trong tiếng Anh, khi đi kèm với danh từ không đếm được, người Anh
sử dụng danh từ đơn vị. Ví dụ: A bar of chocolate (một thanh sôcôla, a cup
of coffee (một ly cà phê), two lumps of sugar (hai viên đường), two loaves
of bread (hai ổ bánh mì), a slice of beef (một lát thịt bò), a bottle of bear
(một chai bia), a litre of bear (một lít bia), some cubes of ice (vài viên đá).


17

Khi sử dụng với danh từ tập hợp hoặc những vật có cấu tạo từ hai bộ
phận trở lên ghép lại, người Anh cũng sử dụng danh từ đơn vị. Ví dụ: a pair

of glasses (một chiếc kính), a pair of scissors (một cái kéo), a pair of shoes
(một đôi giày), a herd of cattle (một bầy gia súc), a school of fish (một bầy
cá), a crowd of people (một đám đông), a flock of birds (một đàn chim), a
bunch of flowers (một bó hoa) [51]
Trong tiếng Việt, ta thấy một loạt các từ như ngôi (nhà), dãy (tre), đàn
(cừu), buồng (chuối), thanh (gỗ), viên (đá), lá (thư), chiếc (thuyền)…luôn
xuất hiện trước các danh từ chỉ người, động vật, thực vật, vật vô sinh. Các từ
này đã, đang trở thành đối tương nghiên cứu thu hút các nhà Việt ngữ. Tuy
nhiên, khi nghiên cứu, mỗi tác giả, do xuất phát từ những quan điểm và góc
nhìn khác nhau, đã đưa ra những thuật ngữ khác nhau để gọi tên những từ
ngữ này.
Trương Vĩnh Kí miêu tả hai từ con, cái và gọi chúng là “appellatifs”
(từ gọi chung) [26, tr.22] và những từ như bản, bận, bộ…ông gọi là
“numéraux ou noms numériques” (từ chỉ số hay loại) [26, tr.30]. Có người
gọi chúng là loại - tự (Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm, Phạm
Tất Đắc), loại từ ( Lê Văn Lý, Lưu Vân Lăng, Nguyễn Tài Cẩn, Phan Ngọc,
Nguyễn Phú Phong…), tiền danh từ (Phan Khôi), phó danh từ (Nguyễn Lân,
Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Minh Thuyết), danh từ đơn vị (Nguyễn Tài Cẩn,
Cao Xuân Hạo, Dư Ngọc Ngân, Nguyễn Thị Ly Kha…)
Riêng thuật ngữ loại từ được nhiều nhà nghiên cứu Việt ngữ sử dụng.
Nó thường được quan niệm như một hư từ, “rỗng nghĩa”, một thứ công cụ
ngữ pháp có chức năng phân loại danh từ. Một số nhà nghiên cứu Việt ngữ
không thừa nhận loại từ là một danh từ vì họ cho rằng loại từ rỗng nghĩa và
không có hay ít khả năng xuất hiện độc lập, điều này trái ngược với ngữ
pháp của một danh từ.
Thực ra loại từ không rỗng nghĩa mà chỉ rỗng về phần chất liệu của
nghĩa, còn phần hình thức tồn tại phân lập của nó không thể thiếu vì thiếu


18


chúng thì phần còn lại (do danh từ không đếm được (viết tắt là [- ĐĐ] biểu
thị) không thể kết hợp với số từ và rất khó kết hợp với các định ngữ.
Cao Xuân Hạo đã chỉ rõ những quan niệm sai lầm về loại từ. Ông cho
rằng, loại từ là một tên gọi sai lầm của những nhà nghiên cứu ngôn ngữ
phương Tây “trong lịch sử ngôn ngữ học, thuật ngữ “loại từ” là sản phẩm
của một sự hiểu lầm vĩ đại. Tất cả các nhà ngữ học phương Tây khi lần đầu
tiếp xúc với tiếng Hán và các ngôn ngữ phương Đông khác đều lấy làm lạ
khi thấy trong các thứ tiếng này, trước các danh từ mà họ cứ tưởng là tương
đương hoàn toàn với các danh từ chỉ vật (object nouns) của tiếng họ,thường
đặt những từ không rõ nghĩa và khó lòng dịch ra bằng một từ của tiếng châu
Âu, hình như là để chỉ loại lớn như vô sinh vật, thực vật, động vật, người…
Họ liền đặt cho các từ đó cái tên “classifier” và gọi các tiếng hữu quan là
“classifier languages” (những ngôn ngữ có loại từ) để đối lập với các ngôn
ngữ khác, đặc biệt là tiếng châu Âu” [19, tr.380]
Bên cạnh đó, như đã trích dẫn ví dụ trong tiếng Anh ở trên, ngôn ngữ
nào trên thế giới cũng có loại từ. Hơn nữa, loại từ không phải là một từ loại
mà là “ý nghĩa phân loại”. Mặt khác, phân loại không phải là bản chất của
riêng loại từ, các danh từ khối cũng có chức năng cú pháp là làm định ngữ
chỉ loại. Ví dụ:
Tôm càng xanh/ thẻ/ đất/ sú/ hùm
Bò giống/ thịt/sữa
Heo nái/ rừng/nhà/ thịt
Trong các danh ngữ kể trên, các thành tố thứ hai cũng có tác dụng giúp
chỉ loại.
Ngoài ra, tiêu chí [± độc lập] dùng để khẳng định loại từ không phải là
danh từ không thỏa đáng vì có những danh từ chính danh cũng không độc
lập. Ví dụ:
Không thể nói: Chiếc rất đẹp



×