Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

nguyễn công trứ với thể tài hát nói

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 137 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ HOÀI DƯƠNG

NGUYỄN CÔNG TRỨ VỚI THỂ TÀI HÁT NÓI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2005



MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................................3
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................6
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ......................................... 6
2.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ............................................................ 8
3.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VĂN ĐỀ ......................................................................... 12
4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: ........................................................................... 18
5.CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN: ................................................................................ 19

CHƯƠNG: NGUYỄN CÔNG TRỨ -CON NGƯỜI VÀ VĂN CHƯƠNG .......20
1.1.CON NGƯỜI .......................................................................................................... 20
1.1.1.Con người với hoàn cảnh lịch sử - xã hội ........................................................ 20
1.1.2.Con người và hệ tư tưởng ................................................................................ 21
1.2.VĂN CHƯƠNG ...................................................................................................... 24
1.2.1.Về nội dung ...................................................................................................... 24
1.2.2.Về nghệ thuật ................................................................................................... 27

CHƯƠNG 2: THỂ TÀI HÁT NÓI .......................................................................33


2.1.HÁT NÓI - MỘT LOẠI HÌNH VĂN NGHỆ ........................................................ 33
2.2.HÁT NÓI - MỘT THỂ TÀI VĂN HỌC ................................................................ 35
2.2.1.Lý do hình thành hát nói - thể tài văn học ....................................................... 35
2.2.2.Quá trình hình thành và phát triển của hát nói - thể tài văn học ...................... 36
2.2.3.Một số đặc điểm chính ..................................................................................... 38
2.2.3.1.Cấu trúc một bài hát nói........................................................................... 38
2.2.3.2.Cách hiệp vần ........................................................................................... 43

3


2.2.3.3.Số chữ và cách ngắt nhịp trong câu ......................................................... 44
2.2.4.Một sốbài hát nói của các tác giả thế kỷ XIX - nửa đầu thếkỷ XX ................. 46

CHƯƠNG 3: HÁT NÓI NGUYỄN CÔNG TRỨ................................................58
3.1.HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI.............................................. 58
3.1.1.Con người nhập thế với chí nam nhi và mộng công danh ............................... 60
3.1.2.Con người chán nản, Ưu du ............................................................................. 67
3.1.3.Con người hành lạc, hưởng nhàn ..................................................................... 70
3.1.4.Con người đa tình ............................................................................................ 80
3.2.KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT ................................................ 90
3.2.1.Không gian nghệ thuật ..................................................................................... 90
3.2.2.Thời gian nghệ thuật ........................................................................................ 95
3.3.NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT .............................................................................. 104
3.3.1.Câu thơ ........................................................................................................... 104
3.3.1.1.Số câu và số tiếng trong câu................................................................... 104
3.3.1.2.Kiểu câu .................................................................................................. 108
3.3.2.Từ ngữ ............................................................................................................ 113
3.3.2.1.Từ tự xưng .............................................................................................. 113
3.3.2.2.Từ phiếm chỉ ........................................................................................... 115

3.3.2.3.Khẩu ngữ ................................................................................................ 117
3.4.THI LIỆU ............................................................................................................. 122
3.4.1.Thi liệu dân gian ............................................................................................ 122
3.4.2.Thi liệu từ điển tích điển cố và tác phẩm văn học viết .................................. 128

KẾT LUẬN ...........................................................................................................132

4


TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................134

5


MỞ ĐẦU

1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX được đánh
giá là đỉnh cao, là "giai đoạn rực rỡ nhất” trong cả quá trình văn học dân tộc thời trung
đại. Văn học thời kỳ này phát triển chưa từng có nhờ vào những đóng góp to lớn của
những tác giả xuất sắc. Với một văn tài rực rỡ và những khắc khoải, đau đáu về số phận
đớn đau của con người trong bi kịch kiếm tìm hạnh phúc, họ đã tạo ra một loạt tác phẩm
ưu tú, những kiết tác văn chương của muôn đời. Khẳng định dấu ấn riêng đậm nét của
mình, mỗi người mỗi vẻ, họ đã góp phần làm nên diện mạo sáng sủa, rạng rỡ cho cả một
giai đoạn văn học. Nguyễn Công Trứ cũng là một trong số những tác giả ấy.
Nguyễn Công Trứ lưu danh trong lịch sử nước nhà là một nhà chính trị tài ba, một
nho tướng văn võ song toàn, "một người có tài kinh bang tế thế" [14; tr.381]. Còn đối với
văn học, ông là một thi sĩ tài hoa nổi bật với cái dáng vẻ ngạo nghễ, phóng túng và một
giọng văn đầy ương ngạnh, đầy bản lĩnh, đầy ý chí. Nói như Nguyễn Khoa Điềm: "Có

Nguyễn Công Trứ, cây đàn văn học Việt Nam có đủ dây vũ dây văn, mà ông chính là sợi
dây vũ cường tráng luôn luôn rung lên những âm sắc nam nhi sảng khoái làm phong phú
cung đàn văn chương đất nước" [53; tr.290]. Thật vậy, sáng tác văn chương Nguyễn
Công Trứ đã tạo được những dấu ấn hết sức độc đáo, ấn tượng về phong cách sáng tác
cũng như cách khai phá nghệ thuật của ông trong tương quan với các tác giả cùng thời
khác. Điều này được thể hiện ở tất cả các sáng tác của ông, nhưng nổi bật nhất vẫn phải
kể đến những bài hát nói viết bằng chữ Nôm.
Trong giai đoạn văn học từ nửa cuối TK XVIII đến nửa đầu TK XIX, các tác giả
ngoài việc tiếp tục phát triển những thể thơ phú Đường luật còn hướng ngòi bút đến
những thể thơ của dân tộc với cách vận dụng tiếng Việt nhuần nhuyễn, tinh tế và sáng
tạo. Người ta thường nhắc đến các tác giả tiêu biểu như Hồ Xuân Hương với sự Việt hóa
thơ Đường ở mức tối đa tạo nên tên tuổi "Bà chúa thơ Nôm", Đoàn Thị Điểm với bản

6


dịch Chinh phụ ngâm khúc và Nguyễn Gia Thiều với Cung oán ngâm khúc đã làm sống
lại thể song thất lục bát, Nguyễn Du với Truyện Kiều đã làm nên sự thăng hoa tột đỉnh
của ngôn ngữ dân tộc bằng những câu lục bát.. Và dĩ nhiên, không ai quên Nguyễn Công
Trứ với công đầu trong việc đưa hát nói vào văn học và biến nó trở thành một trong
những thể tài văn học độc đáo mang đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Cùng với hát nói,
Nguyễn Công Trứ đã góp thêm một thành tựu to lớn cho nền văn học dân tộc thời kỳ này.
Vậy mà, có điều lạ là sự tiếp nhận và xem xét các giá trị văn chương của ông, trong
đó có hát nói, chưa dễ dàng được thống nhất như là ỏ các tác giả tầm cỡ tương đương
khác cùng thời với ông. Những ý kiến khen, chê khá nhiều. Văn chương Nguyễn Công
Trứ cũng từng bị quăng quật, kết tội oan uổng giống như chính cuộc đời thăng giáng của
ông vậy. Có lẽ do cuộc đời cũng như văn chương ông nhiều khi có những sự "lạ mắt trải
tai", "trái với cái tục kiến của người đời" khiến cho người đời sau dù xem sử ông, đọc
văn ông nhưng vẫn "không sao khám phá được cái tâm sự" [46; tr.49] của ông chăng?
Vậy thì, trong giai đoạn đổi mới của đất nước hiện nay, việc tìm về với những giá trị của

hát nói Nguyễn Công Trứ là một việc làm cần thiết khi chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta là gìn giữ và phát huy một nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, khi
người ta đang cố gắng làm tất cả những gì có thể để tạo ra cầu nối với di sản xưa, để
khiến cho văn chương quá khứ của dân tộc khỏi bị mai một, để "tạo ra sự đồng cảm với
người xưa, để làm những tri âm tri kỷ với những con người đã gửi tâm hồn vào giấy
mực..." [Đoàn Lê Giang - dẫn theo 36; tr.3].
Mặt khác, xét về phương diện thực tiễn, Nguyễn Công Trứ là một trong những tác
giả thuộc giai đoạn văn học trung đại được đưa vào giảng dạy Ương chương tành phổ
thông trung học. Một thực tế cho thấy có rất ít học sinh thực sự yêu thích và am hiểu về
văn học trung đại, đặc biệt là những tác phẩm viết theo thể hát nói (của Nguyễn Công
Trứ, Chu Mạnh Trinh...). Kiến thức của các em về hát nói không nhiều, không đủ để có
thể tiếp cận với loại tác phẩm ấy một cách tự tin, chính xác và đúng đắn, nhất là những
bài hát nói chứa đầy chất ngang tàng, phóng khoáng của Nguyễn Công Trứ mà không
phải ai cũng dễ dàng hiểu được. Thực hiện đề tài này chúng tôi có dịp để bổ sung, mở

7


rộng kiến thức cho riêng mình, và lấy đó làm hành trang cho công tác giảng dạy sau này,
giúp học sinh có cái nhìn rõ ràng hơn, đầy đủ hơn về một trong những thể thơ đặc trứng
của thơ ca dân tộc để từ đó có khả năng đi vào tìm hiểu, khai thác một bài hát nói cụ thể.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: Nguyễn Công Trứ
với thể tài hát nói.
Có thể thấy, hát nói là một bộ phận hợp thành quan trọng của di sản văn học
Nguyễn Công Trứ, hơn thế, chất hát nói đã trở thành máu thịt trong phong cách sáng tác
của ông. Nguyễn Viết Ngoạn đã gọi ông là "Ông hoàng hát nói" [34; tr.85]. Đi vào đề tài
này, chúng tôi cũng không ngoài mục đích nào khác là mong muốn góp thêm một tiếng
nói vào việc khẳng định vai trò lớn lao của Nguyễn Công Trứ trong quá trình hoàn thiện,
bổ sung, sáng tạo để hát nói từ một điệu thức âm nhạc thành một thể tài văn học, và đĩnh
đạc bước vào nền văn học trung đại Việt Nam; trên cơ sở đó, xác lập những giá trị làm

nên sự khác biệt của hát nói Nguyễn Công Trứ với các sáng tác hát nói của các tác giả
khác về các mặt đề tài, quan niệm sống, hình tượng nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật...

2.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Với tên gọi "Nguyễn Công Trứ với thể tài hát nói", chúng tôi muốn đề cập tới
mảng sáng tác được coi là tiêu biểu cho sự nghiệp văn chương của nhà thơ trung đại này.
Xuất phát từ những cơ sở lý thuyết nền tảng về nguồn gốc hình thành và phát triển nói
chung của thể tài hát nói, chúng tôi muốn nhấn mạnh vào những thành tựu của Nguyễn
Công Trứ trong việc phát triển hát nói từ một loại hình văn nghệ dãn gian trở thành một
thể tài văn học. Những thành tựu ấy chủ yếu không phải được lý giải trên phương diện
lịch sử mà được xem xét qua phản ánh văn học. Nói cách khác, đó chính là ở cái cách
ông dùng hát nói để thể hiện mình.
Như vậy, chúng tôi đặt văn đề đối tượng nghiến cứu chính ở đây là hát nói Nguyễn
Công Trứ - với tư cách là một thể tài văn học dùng để nói chứ không phải để hát - với
những đặc điểm nội dung và nghệ thuật của nó. Dĩ nhiên, hát nói không phải là tất cả
những gì giá trị của văn nghiệp Nguyễn Công Trứ, nhưng chính mảng sáng tác này có

8


một vai trò quan trọng trong việc tạo nên những dấu ấn đậm nét của hiện tượng văn học
đặc sắc Nguyễn Công Trứ.
Việc đưa ra đối tượng nghiên cứu như trên cũng đã xác định được phạm vi nghiên
cứu của đề tài. Nghĩa là chúng tôi sẽ xem xét những đặc điểm nội dung và nghệ thuật của
hát nói Nguyễn Công Trứ để qua đó góp thêm một cách nhìn về sự sáng tạo hát nói của
người được mệnh danh là "Ông hoàng hát nói" này.
Tất nhiên việc này phải được thực hiện trong các mối liên hệ - nghĩa là chúng tôi
không chỉ nghiên cứu ở riêng hát nói mà còn có sự liên hệ với các mảng sáng tác còn lại
của ông cũng như đặt trong sự đối sánh với các sáng tác hát nói khác của một số tác giả
cùng thời hoặc sau Nguyễn Công Trứ.

Về tư liệu hát nói Nguyễn Công Trứ, nhìn chung có khá nhiều nguồn. Tuy nhiên,
ương quá trình thực hiện luận văn, do điều kiện có hạn nên chúng tôi chỉ tập trung xem
xét 4 văn bản có tính chất tuyển tập là Sự nghiệp và thơ văn của Uy Viễn tưởng công
Nguyễn Công Trứ (Lê Thước), Việt Nam ca trù biên khảo (Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng
Huề), Thơ văn Nguyễn Công Trứ (Trương Chính) và Nguyễn Công Trứ - Tác giả, tác
phẩm, giai thoại (Nguyễn Viết Ngoạn) (theo thứ tự là các văn bản số 46,10, 5, 34 trong
mục Tài liệu tham khảo).
Trong quá trình xem xét, chúng tôi nhận thấy:

9


10


Từ bảng nhận xét trên, có thể thấy VB10 có số bài trùng ít nhất so với 3 văn bản còn
lại. Do đó, tạm không xét đến những bài ở dạng tồn nghi (tức là chưa thật sự chắc chắn
đó có phải là sáng tác của Nguyễn Công Trứ hay không), chúng tôi xác định phạm vi
nghiên cứu hát nói Nguyễn Công Trứ là những bài có mặt ở cả 3 văn bản 46, 5, 34. Tức
là chúng tôi thừa nhận và tiếp thu sự chọn lọc của những người đi trước, nhất là VB34 vì
đây là văn bản mới nhất thống kê về tác phẩm Nguyễn Công Trứ trong đó có hát nói.
Bên cạnh đó, ở một số chi tiết, chúng tôi còn tham khảo thêm tư liệu lịch sử, giai
thoại và các công trình nghiên cứu, lý luận, phê bình của nhiều tác giả khác có liên quan
với đề tài luận văn.

11


3.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VĂN ĐỀ
Nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ không phải là một việc làm mới đây. Trong suốt

quá bình dày công tìm hiểu về lịch sử văn học trung đại Việt Nam từ trước đến nay, các
nhà nghiên cứu cũng đã dành cho Nguyễn Công Trứ những quan tâm nhất định.Từ một
số công trình đầu tiên như "Nam thi hợp tuyển" (Nguyễn Văn Ngọc, 1927), "Sự nghiệp và
thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ" (Lê thước, 1928), đến nay số lượng
những công trình nghiên cứu liên quan đến con người và văn chương Nguyễn Công Trứ
có khá nhiều; gồm các loại như: lý thuyết lịch sử văn học, giới thiệu-phê bình-khảo cứubiên soạn, danh nhân văn hóa hoặc giai thoại, tổng hợp về cuộc đời, sự nghiệp thi ca...
Khác với Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ có xuất thân khá rõ ràng, hầu như
không có gì để tranh cãi. văn đề đáng quan tâm hơn hết chính là con người và thơ văn
ông. Những nhận định xoay quanh mảng này khá phong phú, có tương đồng, có dị biệt,
có khen, có chê, có đề cao thái quá và cũng có phê phán gay gắt, nhưng tựu trung lại, đều
đã thể hiện được những hiểu biết sâu sắc của các nhà nghiên cứu về thân thế, con người
và sự nghiệp của nhà thơ Nguyễn Công Trứ.
1. Viết về con người Nguyễn Công Trứ, nhìn chung, các tác giả đều đưa ra những
nhận xét khá đầy đủ và chính xác về tính cách, phẩm chất và tài năng của ông. Việc chia
cuộc đời Nguyễn Công Trứ thành ba giai đoạn: thời vị đạt, thời làm quan, thời về hưu và
căn cứ vào đó cùng với những sự kiện xã hội để đánh giá, nhận xét cũng là một cách mà
các nhà nghiên cứu thường làm.
Có khá nhiều ý kiến khen ngợi, tán tụng về con người Nguyễn Công Trứ với một tài
năng xuất chúng và những công trạng hiển hách. Có thể kể ra đây một số ý kiến tiêu biểu
như nhận xét của cụ Lê Thước trong "Sự nghiệp và thơ văn của Uy Viễn tướng công
Nguyễn Công Trứ" xuất bản năm 1928: Nguyễn Công Trứ thực sự là "một bậc vĩ nhân"
"nói về công thời công rất lớn, nói về đức thời đức rất dày, nói về ngôn thời ngôn luận
văn chương rất có giá trị"[46; tr.3], là một "bậc anh hùng hào kiệt, lập phẩm rất cao, giữ
lòng rất chính"[46; tr.19]; đánh giá của học giả Dương Quảng Hàm trong "Việt Nam văn
học sử yếu": Nguyễn Công Trứ là "một người có tài kinh bang tể thế, lúc làm quan thì tận
12


tụy với chức vụ và lập nên công nghiệp hiển hách, đến khi về hưu lại biết gác bỏ danh lợi
mà sinh hoạt trong cảnh an nhàn”[14; tr.381]...

Quá trình nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ từ trước đến nay được chia ra nhiều giai
đoạn: trước năm 1945, từ 1945 đến 1975 và từ 1975 đến nay. Dưới sự soi rọi của chủ
nghĩa duy vật Mác - Lênin, nhiều tác giả đã phát hiện ra những hạn chế cũng như những
mâu thuẫn ương tư tưởng Nguyễn Công Trứ, đồng thời lý giải chúng được góc độ khoa
học, căn cứ vào mối tương quan giữa cá nhân và thời đại bấy giờ; từ đó có cách đánh giá
toàn diện hơn về con người của nhà thơ Uy Viễn. Có những hạn chế của Nguyễn Công
Trứ được nêu ra và được nhà nghiên cứu thanh minh hộ, đơn cử như cách lý giải của GS.
Nguyễn Lộc trong cuốn "Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX tập II” về sự "xa lìa lập trường nhân dân trong các văn đề xã hội" [23; tr.341] của
Nguyễn Công Trứ: "Đi "dẹp giặc"- mà phần lớn là đàn áp các phong trào nông dân khởi
nghĩa - thực ra Nguyễn Công Trứ không có ý thức mình làm một việc phản bội lại quyền
lợi của nhân dân để bảo vệ một chính quyền độc tài chuyên chế" [23; tr.308]; nhưng cũng
có những hạn chế bị nhà nghiên cứu phê phán một cách gay gắt, không nhượng bộ... Tất
cả những ý kiến đó, cùng với sự phát hiện về những mâu thuẫn trong Nguyễn Công Trứ:
"đề cao công hầu khanh tướng, cũng lại đả kích công hầu khanh tướng; đề cao bảo vệ
luân lý Khổng Mạnh một cách khá tích cực nhưng lại sống phóng túng ngoài vòng lễ
giáo;(...); lạc quan tin tưởng và bi quan chán nản; nhập thế mà lại xuất thế"[ 33; tr.228]
rồi đi vào lý giải đó chính là một sự diễn biến từ cực này sang cực kia một cách tất yếu
khi xã hội phong kiến nhà Nguyễn ngày càng suy sụp, đã là những cơ sở nền tảng cho các
nhà nghiên cứu đi vào tìm hiểu văn thơ của ông.
2. Khi viết về thơ văn Nguyễn Công Trứ, mỗi tác giả tuy có một cách khai thác
theo những khía cạnh khác nhau, nhưng tựu trung lại, đều đã nói được một số nét nổi bật
về nội dung tư tưởng và nghệ thuật trong các sáng tác của ông như tính chất phóng túng,
tính chất thoát li hưởng nhàn, tính chất bình dân...; đồng thời có những đánh giá nhất định
về địa vị của nhà thơ Hy Văn trong nền văn học quốc âm. Cũng như khi viết về con

13


người Uy Viễn, những ý kiến xoay quanh thơ văn ông cũng khá phong phú và không phải
lúc nào cũng tương đồng với nhau.

Trong lời nhận xét ngắn gọn, khái quát về Nguyễn Công Trứ và thơ văn nói chung
của ông, học giả Dương Quảng Hàm đã viết: "Văn ông không thiên về tình cảm buồn rầu
như phần nhiều thơ ca của ta mà ý tứ mạnh mẽ, từ điệu rắn rỏi khiến người đọc cũng
thấy hăng hái phấn khởi lên”[14; tr.381]. Đây cũng là điểm gặp gỡ của khá nhiều nhà
nghiên cứu khác khi nói về giọng văn của cụ Thượng Trứ. Ví như nhận xét của các tác
giả cuốn "Văn học sử Việt Nam tiền bán thế kỷ XIX" Văn ông rắn rỏi, xác thực, thật là
khẩu khí của người thích hoạt động, (...), giọng văn ông không bi sầu thảm thiết..." [41;
tr.367]; hoặc như ý kiến của một tác giả nước ngoài tên là Georges Cordier: "Giọng văn
cụ Thượng Trứ cường tráng như con ngựa lên yên khó lòng kìm hãm nổi...”Đây được coi
là giọng điệu đặc trưng của thơ văn Ngô Trai. Những tác giả sau này khi nghiên cứu về
Nguyễn Công Trứ cũng có chung quan điểm như thế.
Tuy nhiên, không phải lúc nào các nhà nghiên cứu cũng tỏ thái độ khen ngợi như
vậy. Cũng có lúc họ phát biểu ý kiến theo hướng ngược lại.
Trong cuốn "Việt Nam văn học sử giản ước tân biên", Phạm Thế Ngũ khi nhận xét
về thơ luật Đường của Nguyễn Công Trứ đã cho rằng: "Người vừa đọc thơ Xuân Hương,
Thanh Quan yêu những lời thanh tao tuyệt nhã của bà Huyện hoặc những câu bóng bẩy ý
nhị của họ Hồ, đọc đến thơ luật của Nguyễn Công Trứ cảm thấy thật là vô vị" vì "nghệ
thuật vừa rẻ vừa thấp, âm điệu kém êm ái, chữ dùng xô bồ, toàn một giọng thất tế trắng
trợn"[31; tr.526]. Có thể thấy, tác giả Phạm Thế Ngũ hoàn toàn không tán thành lối viết ít
gò ép về niêm luật và cách dùng chữ nôm na, bình dân, không câu nệ của Nguyễn Công
Trứ. Ong nhìn nhận nó như là một thất bại của nhà thơ Ngô Trai trong việc sáng tác thơ
luật Đường. Lý do tác giả Phạm Thế Ngũ đưa ra cũng khá đơn giản. Đó là vì thơ Đường
vốn là "thứ thơ nhằm dẫn khởi hơn là nói thẳng" trong khi cụ Nguyễn lại "ưa nói huỵch
toét ra ráo"[37; tr.528], cho nên trong thơ mới ít có "cái "ý tại ngôn ngoại" của thi ca
thuần tuy" mà "thường chỉ là sự chắp vần khá dung tục"[37;tr.530].

14


Theo suy nghĩ của chúng tôi, điều mà Phạm Thế Ngũ nhận xét không sai nhưng

trong cách viết của ông lại có phần hơi thái quá. Đúng là Nguyễn Công Trứ không hay sử
dụng những ngôn từ quá cầu kỳ, mang tính chất kinh điển mà thiên về những từ ngữ dân
dã, nôm na; nhưng như vậy không có nghĩa là toàn bộ thơ ông đều thấp kém, rẻ mạt về
mặt nghệ thuật. Nếu thật sự thơ Uy Viễn chỉ là "sự chắp vần khá dung tục" thì tại sao tác
giả Lê Thước lại có thể dành những lời đánh giá cao như thế này cho thơ ông: "Cụ chỉ
dùng những tiếng người ta thường đọc, thường nghe, nói ra tức là thành văn, không nắn
nót, chạm gọt như các văn sĩ khác. Lời văn của cụ vừa nhẹ nhàng, vừa chất phác, trồng
vào không thấy gì là cao kỳ, mà đọc lên nghe rất thú vị, trông vào không có gì làm thâm
thúy, mà đọc lên ý thật dồi dào, lời không chải chuốt mà hay, văn không trau dồi mà
lịch"[46; tr.46]? Rõ ràng, khẳng định chắc chắn như Phạm Thế Ngũ là có phần hơi phiến
diện và chủ quan.
Tuy vậy, cũng phải nói rằng trong số các tư liệu mà chúng tôi đã tham khảo thì ý
kiến trên của ông Phạm Thế Ngũ không hẳn là duy nhất. Trong cuốn "Văn học Việt Nam
nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX", tác giả Nguyễn Lộc cũng đưa ra một nhận xét
tương tự: "Câu thơ không chạm trổ, đẽo gọt, giữ nguyên được vẻ chân chất cửa sự việc,
cửa ý nghĩ. Nhiều câu thơ cửa Nguyễn Công Trứ mộc mạc đến nôm na mà vẫn gây xúc
cảm là vì thế. Nhưng mặt khác, nghĩ thế nào viết ra thế ấy nên thơ ông không tránh khỏi
có lúc dàn trải, thiếu cô đọng, câu thơ không có chiều sâu, không có hiện tượng ý ở ngoài
lời... "[23; tr.337]. Chúng tôi cho rằng, viết như Nguyễn Lộc là hợp lý hơn bởi lẽ cách
viết ấy thể hiện được sự nhìn nhận toàn diện về thơ cụ Trứ. Nó đồng thời chỉ ra được
những điểm mạnh và yếu trong cùng một cách thể hiện của Nguyễn Công Trứ. Đánh giá
như vậy là có tính khách quan và khoa học.
Nhiều tác giả sau này khi viết về nghệ thuật thơ luật Đường Nguyễn Công Trứ cũng
đã có những nhìn nhận khác hơn. Họ thấy được giá trị và cả sự tiến bộ ở thơ luật của ông
so với thơ của giai đoạn trước. Trong số đó có giáo sư Lê Trí Viễn. Giáo sư cho rằng, đến
Nguyễn Công Trứ, thể loại Đường luật bát cú đã "được nâng lên một mức rõ so với
trước"[49; tr.260]. Tuy sự khẳng định này còn chung chung, chưa có ý nêu rõ những biểu

15



hiện của sự tiến bộ ấy nhưng đó cũng vẫn là một lời đánh giá đáng trân trọng dành cho
thơ luật của một nho sĩ tài tử, tài hoa.
Riêng về hát nói Nguyễn Công Trứ, chúng tôi không thấy có ý kiến nào khác ngoài
sự khen ngợi và trân ữọng dành cho những tác phẩm thuộc thể loại này của nhà thơ. Đây
là mảng sáng tác giành được sự quan tâm nhiều nhất của các nhà phê bình. Rất nhiều nhà
nghiên cứu đã dành nhiều công sức cho việc sao lục lại các bài hát nói của nhà thơ Hy
Văn. Trong số các công trình biên khảo về tác phẩm hát nói của Nguyễn Công Trứ, đầu
tiên phải kể đến là cuốn "Sự nghiệp và thơ văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công
Trứ" của cụ Lê Thước. Cuốn sách này đã là nền tảng cho tất cả những sự thu thập biên
khảo về tác phẩm hát nói Nguyễn Công Trứ sau này như hợp tuyển "Thơ văn Nguyễn
Công Trứ" của Lê Thước - Hoàng Ngọc Phách - Trương Chính (1958), "Việt Nam ca trù
biên khảo" của Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề (1962), "Thơ văn Nguyễn Công Trứ" của
Trương Chính (1983)... và gần đây nhất là "Nguyễn Công Trứ - Tác giả, tác phẩm, giai
thoại'' của Nguyễn Viết Ngoạn (2002).
Đồng thời với việc biên khảo các sáng tác hát nói Nguyễn Công Trứ, các nhà
nghiên cứu cũng có nhiều phát hiện về những đặc điểm độc đáo riêng biệt của hát nói
Nguyễn Công Trứ cả về nội dung và nghệ thuật.
Trong cảm nhận của nhiều người, hát nói Nguyễn Công Trứ "lôi cuốn như dòng
sông chảy, ầm ầm như thác đổ, biểu thị đúng cái thân thể của ông và qua đó hiểu được
cái giai cấp sĩ phiệt mà ông cố bênh vực và níu chặt lấy"[32; tr.111]. Còn theo Lưu
Trọng Lư, chảy trôi trong thể tài ấy là "một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một
đội cảm tử" "chưa từng có trong văn chương Việt Nam"[24] Chính nhờ những nét nghệ
thuật tiêu biểu ấy mà hát nói Nguyễn Công Trứ có một chỗ đứng khá vững chãi ương nền
văn học quốc âm, sánh vai cùng các thể tài cổ điển khác như thơ luật Đường, phú... và
còn được coi là một trong những "cơ sở để hình thành thể thơ mói tám chữ"[23; tr.340]
trong giai đoạn những năm ba mươi của thế kỷ XX.
Càng ngày sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình văn học dành cho hát nói
Nguyễn Công Trứ lại càng nhiều hơn, họ cũng cố gắng đi vào tìm hiểu hát nói ở những


16


khía cạnh chi tiết hơn. Chẳng hạn như Nguyễn Xuân Kính với bài tham luận "Nét riêng
của Nguyễn Công Trứ trong việc sử dụng thi liệu dân gian"[31; tr.108]. Trong Hội thảo
chuyên đề Nguyễn Công Trứ - con người, cuộc đời và thơ" tổ chức tại Trường viết văn
Nguyễn Du (1994) đã có nhắc đến cách vận dụng thi liệu dân gian trong hát nói của cụ
Trứ và coi đây là một nét nghệ thuật đáng chú ý. Một số tác giả khác lại đi vào phân tích
từng tác phẩm hát nói cụ thể để trên cơ sở đó có cái nhìn chung về hát nói Nguyễn Công
Trứ như Trần Thị Băng Thanh với bài viết "Bài ca ngất ngưởng - lời thơ tuyên
ngôn"[31;tr.84]...
Đồng thời với việc ngợi ca hát nói như trên là sự khẳng định về vai trò đặc biệt của
Nguyễn Công Trứ đối với thể tài này. Tất cả những ai nghiên cứu về hát nói của Uy Viễn
đều ghi nhận công lao phát triển hát nói của ông. "Ông là người dẫn độ ca trừ từ một lối
hát dân gian để đưa nó về với sự hoàn chỉnh của thể hát nói" (Ngô Văn Phú) [31; tr.103].
Lưu Trọng Lư thậm chí đã coi công lao đó là một "phép thần".
Ngày nay, con người và thơ văn Nguyễn Công Trứ đã nhận được sự lưu tâm nhiều
hơn của giới nghiên cứu văn chương, mà gần đây nhất là công trình của tiến sĩ Nguyễn
Viết Ngoạn: "Văn đề con người cá nhân và cá tính sáng tạo trong sáng tác văn chương
Nguyễn Cồng Trứ". Đấy là công ứình tác giả nghiên cứu để bảo vệ học vị tiến sĩ năm
2003. Trong công ưình này, TS.Nguyễn Viết Ngoạn đã đi vào tìm hiểu con người cá nhân
và cá tính sáng tạo của Nguyễn Công Trứ, từ đó đã phần nào phát hiện và lý giải được
những mâu thuẫn toong con người và văn thơ ông nói chung và ở hát nói nói riêng. Đặc
biệt, về thể tài hát nói, Nguyễn Viết Ngoạn đã lần đầu tiên tôn vinh Nguyễn Công Trứ là
"Ông hoàng Hát nói" [36; tr.159]. Đây là một sự đánh giá cao về vai trò của Nguyễn
Công Trứ trong việc hình thành và phát triển hát nói với tư cách là một thể tài văn học.
Với cổng trình này, TS. Nguyễn Viết Ngoạn đã giúp người đọc có cái nhìn cặn kẽ hơn về
thơ văn Nguyễn Công Trứ cả về nội dung lẫn nghệ thuật.
Trên đây, chúng tôi vừa điểm qua một số nét chính về quá trình nghiên cứu Nguyễn
Công Trứ và thơ văn ông từ trước đến nay. Có thể thấy, đã có rất nhiều ý kiến, nhận xét

của các nhà nghiên cứu được bộc lộ theo những quan điểm và khía cạnh khác nhau. về

17


con người Nguyễn Công Trứ, những đánh giá của giới nghiên cứu có thể coi là trọn vẹn
khi đã giải quyết được khá nhiều khúc mắc trong cách nhìn nhận về nhà nho văn võ song
toàn này. về thơ văn ông, đặc biệt là thể tài hát nói, đã có nhiều công trình mở ra những
hướng nhìn mới về một thể tài được coi là khá khó đối với việc tiếp nhận này.
Tuy nhiên, đánh giá một cách chung nhất thì những nghiên cứu về hát nói Nguyễn
Công Trứ vẫn chỉ dừng lại ở mức độ riêng lẻ trong một phạm vi gói gọn của một bài tạp
chí hay một phần nhỏ của một chương sách, mà chưa thực sự đi theo một hệ thống chi
tiết, cụ thể của một công trình nghiên cứu chuyên biệt. Điều đó cho thấy, hát nói Nguyễn
Công Trứ, mặc dù đã ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu phê
bình văn học, nhưng có lẽ vẫn chưa được sâu đậm như đối với các tác gia Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du...
Vì thế, khi thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ góp thêm một tiếng nói
vào công việc nghiên cứu thơ văn Nguyễn Công Trứ nói chung và hát nói của ông nói
riêng, dù không nhiều nhiùig cũng hy vọng sẽ tạm đủ để khoảng cách giữa hát nói
Nguyễn Công Trứ với người đọc sẽ được rút lại ngắn hơn.

4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Dựa trên nền tảng lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, căn cứ
vào đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu, luận văn đã xác định các tiêu chí
về cơ sở lý luận và vận dụng phương pháp như sau:
*Từ cơ sở lý luận văn học kết hợp văn hóa học để xác định quá trình hình thành,
phát triển cũng như những đặc điểm chung của thể tài hát nói và lấy đó làm cơ sở nền
tảng để đi vào nghiên cứu riêng về hát nói Nguyễn Công Trứ.
* Vận dụng phương pháp hệ thống, so sánh, thống kê để nghiến cứu cấu trúc nội tại
hiện tượng văn học Nguyễn Công Trứ, đặc biệt là những thành tựu về hát nói thể hiện ở

những dấu ấn riêng biệt, đậm nét cá nhân của ông.
* Tiếp cận thi pháp học để nghiên cứu về những đặc điểm nội dung và nghệ thuật
của hát nói Nguyễn Công Trứ.

18


5.CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày
thành 3 chương chính như sau:
Chương 1: Nguyễn Công Trứ- Con người và văn chương
Chương 2: Thể tài hát nói
Chương 3: Hát nói Nguyễn Công Trứ

19


CHƯƠNG: NGUYỄN CÔNG TRỨ -CON NGƯỜI VÀ VĂN
CHƯƠNG

1.1.CON NGƯỜI
Nguyễn Công Trứ, tự Tồn Chất, hiệu Ngô Trai, biệt hiệu Hy Văn, tiểu huý là Củng,
là người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tình Hà Tĩnh. Xét về thân thế, nguồn gốc, sự
nghiệp của Nguyễn Công Trứ, không có gì phải bàn cãi vì đã quá rõ ràng, đầy đủ và chi
tiết. Nhưng khi nói về con người ông, với rất nhiều những mâu thuẫn trong tư tưởng,
trong lập trường, ương cách hành xử ở đời..., thì còn khá nhiều những băn khoăn.
Nguyễn Công Trứ sinh năm 1778, mất năm 1858. Như vậy, có thể nói, Nguyễn
Công Trứ đã sinh ra và lớn lên giữa bản lề của hai thế kỷ sóng gió (thế kỷ XVIII - XIX)
với nhiều biến động khôn lường. Và chính điều này đã có những tác động rất lớn đến tư
tưởng, quan niệm và cách hành động của Nguyễn Công Trứ trong suốt cuộc đời ông. Vì

thế, để hiểu về con người Nguyễn Công Trứ, không thể tách rời con người ra khỏi mối
tương quan với thời đại được.
1.1.1.Con người với hoàn cảnh lịch sử - xã hội
Thời đại mà Nguyễn Công Trứ sống vắt qua hai thế kỷ khiến ông trỏ thành chứng
nhân của một giai đoạn lịch sử đặc biệt. Tuổi ấu thơ của ông trôi qua trong lúc tình hình
xã hội càng lúc càng trở nên rối ren với những đối đầu liên tiếp giữa các tập đoàn phong
kiến Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn và sự xuất hiện của triều đại Tây Sơn. Chế độ phong kiến
Việt Nam lúc này đi vào con đường khủng hoảng bế tắc. Tầng lớp nho sĩ trí thức chia
thành "ba bè bảy mối" với nhiều chính kiến dị biệt, hành vi trái ngược. Nhóm thì trung
thành với lý tưởng phò Lê, chủ yếu là các vị khoa bảng; nhóm thì mạnh dạn ra hợp tác
với triều đại Tây Sơn; còn có nhóm lại trông xa hơn, quay về phương Nam để đón một
chiều gió mới. Xã hội loạn lạc, kỷ cương đổ vỡ, đời sống luân lý điên đảo. Sau này, khi
Gia Long lên ngôi (1802), một mặt chiêu dụ cựu thần nhà Lê ra thu dụng, mặt khác chủ

20


trương tập quyền và sát hại công thần, trả thù Tây Sơn tàn khốc, dân tình lại thêm một
phen khốn đốn.
Chính sự phức tạp này đã để lại những dấu vết mâu thuẫn sâu xa trong con người
Nguyễn Công Trứ. Một mặt, ông nhận thức được sự thất thế của lập trường phò Lê, thẳng
thắn ra ủng hộ tân triều với một lòng trung thành và ý thức vươn lên, dù trong cảnh khó
khăn nghèo túng vẫn luôn gắng công đèn sách, đi thi từ lần đầu tiên năm 1807 cho mãi
đến năm 1819 mới đậu được giải nguyên và ra làm quan cốt cho thỏa niềm khát vọng
thiết tha, sôi nổi muốn được đem tài kinh luân thi thố với đời vốn đã nung nấu từ lâu; mặt
khác, ông cũng tỏ thái độ bất mãn với những mệnh lệnh độc đoán, những đối xử bất công
vô lý của nhà vua triều Nguyễn với mình. Một mặt ông hăm hở bước vào thời cuộc với
tâm thế của một nhà nho hành đạo, của một trang nam nhi hồ hởi chí tang bồng, của một
con người hành động; mặt khác lại mang trong mình khuynh hướng ẩn dật ngao du cho
quên thế sự phũ phàng của một nhà nho ẩn mình ngoài vòng cương tỏa. Hai tư tưởng an

phận tri túc và cầu tiến hưởng thụ luôn xung đột nhau, và có lẽ đây chính là mâu thuẫn
lớn nhất trong con người Nguyễn Công Trứ.
1.1.2.Con người và hệ tư tưởng
Nhà Nguyễn, sau khi lấy lại vương quyền, đã tìm cách khôi phục lại địa vị của Nho
giáo vốn đã phần nào mờ nhạt trong suốt những năm nội chiến loạn lạc giữa các tập đoàn
phong kiến trước đó. Sở dĩ nhà Nguyễn làm vậy là vì họ thấy được vai trò của Nho giáo
trong việc tạo ra sự ổn định xã hội, nhất là trong giai đoạn đầu. Cũng cần phải khẳng
định, Nho giáo là hệ tư tưởng thống trị không riêng gì cho triều Nguyễn, mà cho tất cả
mọi triều đại phong kiến Việt Nam, nhất là từ thế kỷ XV. Trải qua một lịch sử phát triển
lâu dài, khi du nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã là một hệ thống tư tưởng hoàn thiện, trở
thành một thứ công cụ thống trị đắc lực về tinh thần cho các vương triều. Với nhà
Nguyễn cũng vậy. Mở đầu là Gia Long, sau đó là các đời vua tiếp theo, nhà Nguyễn càng
ngày càng khai thác triệt để những mặt có lợi từ phía Nho giáo để củng cố cho địa vị của
vương triều. Nho giáo trở thành quốc giáo, chữ Hán lấy lại vị trí độc tôn, và con đường
tiến thân chỉ là khoa cử nơi cửa Khổng sân Trình. Như vậy, dưới triều Nguyễn, về tổng

21


thể, xã hội vẫn vận động trong khuôn khổ của thể chế tập quyền chuyên chế quan liêu với
sự thống trị của một ý thức hệ Nho giáo phong kiến nghiêm ngặt và hà khắc hơn bao giờ
hết; nhưng mặt khác ương xã hội cũng đã bắt đầu nảy sinh nhiều định hướng mới nhằm
phá vỡ sự thống trị đó.
Rõ ràng, phải nhìn nhận, việc nhà Nguyễn chọn Nho giáo là hệ tư tưởng trụ cột,
cùng với việc xây dựng những luật lệ hà khắc như Bộ luật Gia Long (Hoàng triều luật lệ)
hay lệ Tứ bất, không ngoài mục đích nào khác là để củng cố vương quyền; tức là vì lợi
ích của giai cấp thống trị phong kiến, chứ không hướng tới cuộc sống của nhân dân.
Chính sách trọng nông chỉ là hình thức vì mọi quyền lợi đều tập trung về giai cấp địa chủ.
Nhà Nguyễn còn phạm sai lầm trong việc thực hiện chính sách "bếmôn tỏa cảng" khiến
cho công nghiệp thủ công bị đình đốn, nền kinh tế hàng hóa, vốn manh nha từ sớm với sự

ra đời của các chợ -đô thị kiểu phương Đông, phát triền một cách chậm chạp. Điều này
đã khiến cho xã hội dưới triều đại nhà Nguyễn ngày càng đi vào con đường khủng hoảng.
Mặc dù vậy, sự xuất hiện tuy còn ít ỏi của các yếu tố về một nền kinh tế đô thị, đời
sống văn hóa - tinh thần đô thị cũng đủ để hình thành nên một môi trường mới trong xã
hội: môi trường thị dân, môi trường kinh tế - văn hóa phi cổ truyền. Tư tưởng thị dân xuất
hiện và trở thành xu thế chính nhằm đòi hỏi hưởng lạc, hạnh phúc, chống lại thói an bần
lạc đạo. Nhu cầu bộc lộ tình cảm của con người - cá nhân ngày càng ứở nên mạnh mẽ.
Trên cơ sở kinh tế và tư tưởng như thế, trong tầng lớp các nhà Nho đã có sự phân hóa
thành phần một cách tương đối. Ngoài hai thành phần truyền thống là nhà nho hành đạo
và nhà nho ẩn dật, đã hình thành và phát triển thêm một kiểu nữa: nhà nho tài tử. Gọi là
tương đối, vì thật ra đôi khi cũng khó phân biệt rạch ròi một nhà nho hành đạo^ một nhà
nho ẩn dật với một nhà nho tài tử. Trên thực tế, nhiều khi chất tài tử có thể có cả ở người
hành đạo lẫn ẩn dật. Nên chăng chỉ phân biệt sự đối lập giữa nhà nho chính thống (nhà
nho quân tử - cai trị) và nhà nho tài tử?
Nhà nho tài tử, trước hết, vẫn là một môn đồ xuất chúng của "cửa Khổng sân
Trình", nhưng ở họ có những suy nghĩ khoáng đạt và mới lạ hơn. Nhà nho tài tử luôn tâm
niệm về "tính trội" của mình và bị hấp dẫn bởi hình tượng "người trượng phu" - con

22


người của trí tuệ, tài năng và hoài bão, ước mơ. Khác với nhà nho hành đạo, người tài tử
coi "tài" và "tình" chứ không phải là đạo đức làm nên giá tri của con người, coi công
danh và sự nghiệp là một cuộc thử tài, trổ tài chứ không lấy đó làm mục đích chính để
theo đuổi suốt cuộc đời và bị lệ thuộc vào nó [50; tr.73->100]. Và cũng khác với nhà nho
ẩn dật, nhà nho tài tử không chọn cách "mai danh ẩn tích" để đối phó với thời cuộc, mà
sấn sàng, hăm hở nhập thế với phong thái phóng khoáng và bay bổng. Nhà nho tài tử phá
vỡ quan niệm sống, quan niệm hành xử vốn rất rành mạch lâu nay bằng cách trộn lẫn
chúng lại. Họ như đã ngầm tuyên bố về giá trị con người - con người cá nhân, con người
"cái tôi" chứ không phải là "cái ta". Và từ đó, họ trở thành chủ nhân của một nền văn học

chứa đựng mầm mong chống Nho giáo, hướng về nhân đạo chủ nghĩa. Họ đã tạo ra sự
đột biến của văn học thời kì này bằng cách cho ra đời những thể loại mới như ngâm khúc,
truyện Nôm, và đặc biệt phải kể đến hát nói với công đầu sáng tạo thuộc về Nguyễn Công
Trứ. Hát nói vốn là một điệu thức của ca trù, có hình thức kết cấu khá phóng khoáng về
số câu, số tiếng, cũng như không có những qui định chặt chẽ đến mức gắt gao, nghiêm
nhặt như thơ luật Đường. Là một người tài tử, khi bắt gặp những đặc điểm này của hát
nói, cộng thêm tư tưởng, ý thức cá nhân về giá trị con người (sở thích cá nhân, tự do
phóng khoáng, và thụ hưởng lạc thú, muốn thoát vòng kiềm tỏa) đang trỗi dậy rất mạnh
mẽ, Nguyễn Công Trứ dễ dàng nhận thấy hát nói chính là "đất diễn" của mình. Mảnh đất
ấy là nơi màu mỡ để những hạt mầm của ý thức về cái tôi cá nhân trong tư tưởng Nguyễn
Công Trứ sinh sồi, nảy nở một cách tự nhiên, không gò bó. Thế nhưng, có một điều đặc
biệt ở Nguyễn Công Trứ là trên mảnh đất hát nói màu mỡ ấy không nảy nở những hạt
mầm của chất tài tử với thú hành lạc, hưởng nhàn, đa tình, đa tài; mà còn có cả những
quan niệm triết lí sống hoàn toàn là của nhà nho chính thống như "chí nam nhi", "chí làm
trai", khát vọng lập danh để trả nợ tang bồng...
Như vậy, trong Nguyễn Công Trứ, tồn tại song song hai tư tưởng của hai con người
rất khác nhau. Một là ý thức lập công danh, dấn thân nhập thế bằng con đường khoa cử,
coi tân triều nhà Nguyễn là thời vận thi thố tài năng theo đúng cách hành xử của một
người xuất thân từ Nho gia, học theo Nho gia và bản thân cũng là một Nho gia chính

23


thống. Và một là sự tung hoành, tự khẳng định mình bằng hai chữ Tài - Tình đậm chất
một nhà nho tài tử. Theo chúng tôi, không thể coi đây là mâu thuẫn trong tư tưởng hay
con người Nguyễn Công Trứ, vì thực chất, hai con người này - một chính thống, một tài
tử - không hề xung khắc nhau, mà ngược lại, bổ sung cho nhau để làm nên cái nhìn toàn
diện về nhà thơ này. Hai tính chất ấy hòa cùng nhau, đan xen trong suốt cuộc đời Nguyễn
Công Trứ, tạo nen cái chất "tài tử - hào kiệt" [Đoàn Lê Giang - dẫn theo 46; tr.67] cả
trong con người lẫn văn chương của ông.


1.2.VĂN CHƯƠNG
Nguyễn Công Trứ sáng tác khá nhiều, nhưng phần lớn đã bị thất lạc, hiện nay chỉ
còn khoảng trên dưới 100 bài. Ông viết nhiều thể loại khác nhau như thơ luật Đường,
phú, hát nói, tuồng, câu đối. Cuốn biên khảo "Sự nghiệp và thơ văn của Uy Viễn tướng
công Nguyễn Công Trứ" của tác giả Lê Thước đã ghi tất cả 52 bài thơ luật, 63 bài hát nói,
1 bài phú (Hàn nho phong vị phú ), 2 tuồng hát (Tửu hội, Lý Phụng Công) và nhiều câu
đối (khoảng trên 20 câu đối Nôm và Hán) [46; tr.489]. So với những nhà thơ đương thời,
đó là một số lượng khá lớn. Văn chương ông có nhiều đặc điểm, mà đặc điểm nào cũng
nổi bật, dễ thấy.
1.2.1.Về nội dung
Có thể thấy ngay, nội dung thơ Nguyễn Công Trứ khá phức tạp và luôn có sự biến
chuyển tuy theo từng giai đoạn của cuộc đời ông, từ lúc trẻ tuổi "hăm hở chí trai hồ thỉ"
(chữ của Phạm Thái), háo hức nợ công danh cho đến khi về già vỡ mộng, chán chường
trước thực tế phũ phàng. Đó là sự phản ánh chân thực nhất và sâu sắc nhất về đời sống
nội tâm cũng như những quan niệm sống, những tư tưởng chủ đạo của nhà thơ Uy Viễn.
Đề tài trong thơ khá phong phú, đa dạng và có phần rất mâu thuẫn nhau; căn cứ vào đó,
có thể chia thơ ông thành các loại như thơ lãng mạn, thơ hiện thực, thơ hành lạc, thơ triết
lý, thơ cầu nhàn...
Tuy nhiên, tựu trung lại, theo chúng tôi, nội dung văn chương Nguyễn Công Trứ
được thể hiện chủ yếu ở những khía cạnh sau:

24


1.2.1.1. Thơ ông là tiếng ca hào sảng về quan niệm làm trai và khát vọng lập danh.
Nguyễn Công Trứ viết nhiều về "nợ công danh”, về "chí tang bồng", về những hoài bão
ước mơ của một con người đầy tâm huyết với cuộc đời. Quan niệm về chí nam nhi và
khát vọng lập danh luôn sóng đôi với nhau. Với kẻ "tu my nam tử", đó trước hết là bổn
phận, là trách nhiệm và nghĩa vụ:

Nhập thế cục bất khả vô công nghiệp
Xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân thân
(Đã vào đời không thể không có sự nghiệp
Mới lọt lòng đã có ngay đạo làm tôi)
(Nghĩa người đời)
sau là cách để thử sức mình cho thỏa chí, là sự tự khẳng định chính mình:
Quyết tang bồng cho phỉ chí trượng phu
(Đường công danh)
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Đi thi tự vịnh)
Trước và sau Nguyễn Công Trứ, chưa có ai viết về "chỉ nam nhi" một cách hăm hở,
say sửa và đầy nhiệt huyết như thế. Ông nói tới điều đó ương thơ không chỉ một mà là rất
nhiều lần, như muốn khẳng định nhiều hơn, rõ hơn về khát vọng muốn được cống hiến
hết sức mình. Đó là một triết lý sống nhập thế đầy tích cực.
1.2.1.2. Bên cạnh đó, thơ ông còn là sự thể hiện của triết lý hành lạc, hưởng nhàn.
Triết lý này tồn tại song song cùng thái độ sống nhập thế tích cực làmột sự bổ sung trọn
vẹn cho nội dung thơ Nguyễn Công Trứ. Nhập thế nhưng vẫn hưởng nhàn, hành động mà
vẫn hành lạc. Hai triết lý sống ấy không tách rời ở từng giai đoạn cuộc đời nhà thơ mà
tồn tại cùng lúc. Ở Nguyễn Công Trứ, ngoài khát vọng lập danh, còn có một nhu cầu, một

25


×