Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

phát triển kĩ năng ghi chép của học sinh trung học phổ thông trong giờ đọc hiểu văn bản văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.2 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Nữ Huyền Thanh Thủy

PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG GHI CHÉP
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ MINH

Trần Nữ Huyền Thanh Thủy

PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG GHI CHÉP
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn văn học
Mã ngành: 60 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THANH BÌNH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ hỗ trợ,
động viên của thầy cô, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Phòng sau đại học - trường Đại học Sư Phạm
thành phố Hồ Chí Minh, Ban giám hiệu và tổ Ngữ Văn trường Trung học phổ thông
Nguyễn Thái Học – Khánh Hòa, những nơi đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi được học
tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Nguyễn Thị Hồng Nam vì sự giúp
đỡ nhiệt tình của cô trong quá trình tôi làm luận văn.
Tôi xin đặc biệt gửi lời tri ân đến thầy Trần Thanh Bình, người trực tiếp
hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn tất cả thầy cô, cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2014
Trần Nữ Huyền Thanh Thủy


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Các số
liệu, kết quả phân tích trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây.
TP. HCM, ngày 28 tháng 9 năm 2014
Người viết

Trần Nữ Huyền Thanh Thủy


MỤC LỤC
Trang phụ bìa

Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh sách các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NĂNG LỰC GHI CHÉP CỦA HỌC
SINH THPT ......................................................................................... 11
1.1. Một số vấn đề lý luận về kĩ năng ghi chép của HS ........................................ 11
1.1.1. Hoạt động ghi chép dưới góc nhìn của lý luận dạy học. ......................... 11
1.1.2. Kĩ năng ghi chép trong môn Ngữ văn ..................................................... 15
1.2.Thực trạng việc ghi chép bài của HS trong giờ đọc hiểu ................................ 21
1.2.1. Phân tích thực trạng dựa trên thực tế khảo sát......................................... 21
1.2.2. Nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém kĩ năng ghi chép của HS................... 32
Kết luận chương 1 ................................................................................................... 37
Chương 2. BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG GHI CHÉP CHO HS
TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU .................................................................. 38
2.1. Rèn luyện phương pháp ghi chép theo dàn ý ................................................. 39
2.1.1. Phương pháp ghi chép theo dàn ý ............................................................ 39
2.1.2. Bài tập rèn luyện phương pháp ghi chép theo dàn ý ............................... 40
2.2. Phát triển kĩ năng ghi chép TM ...................................................................... 46
2.2.1. Phương pháp ghi chép TM (Taking and Making) ................................... 46
2.2.2. Bài tập phát triển kĩ năng ghi chép TM ................................................... 47
2.3. Rèn luyện kĩ năng ghi chép bằng sơ đồ tư duy .............................................. 53
2.3.1. Ghi chép bằng sơ đồ tư duy ..................................................................... 53


2.3.2. Bài tập rèn luyện kĩ năng ghi chép bằng sơ đồ tư duy ............................ 55
2.4. Một số lưu ý chung khi thực hiện các kĩ thuật ghi chép ................................ 62

2.4.1. Lưu ý đối với HS ..................................................................................... 62
2.4.2. Lưu ý đối với GV..................................................................................... 63
Kết luận chương 2 ................................................................................................... 65
Chương 3. THỰC NGHIỆM .................................................................................. 66
3.1. Mục tiêu thực nghiệm ..................................................................................... 66
3.2. Yêu cầu thực nghiệm ...................................................................................... 66
3.3. Quy trình thực nghiệm.................................................................................... 66
3.4. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ................................................................. 67
3.5. Tiến hành thực nghiệm ................................................................................... 67
3.5.1. Chuẩn bị ................................................................................................... 67
3.5.2. Giao bài tập cho HS chuẩn bị ở nhà ........................................................ 68
3.5.3. Tổ chức các tiết học thực nghiệm ............................................................ 68
3.5.4. Thu thập và xử lý kết quả thực nghiệm ................................................... 68
3.6. Rút kinh nghiệm sau mỗi lần thực nghiệm..................................................... 86
3.7. Nhận xét chung ............................................................................................... 88
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 90
DANH MỤC BÀI VIẾT ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 93
PHỤ LỤC


DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ

STT

Viết tắt

1


GV

Giáo viên

2

HS

Học sinh

3

SGK

Sách giáo khoa

4

SGV

Sách giáo viên

5

THPT

Trung học phổ thông

6


THCS

Trung học cơ sở

7

NXB

Nhà xuất bản

8

Tr.

Trang

9

SL

Số lượng

10

TL

Tỉ lệ

11


ĐHSP

12

Tp. HCM

Đại học sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1.

Thống kê các nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém kĩ năng ghi chép
của HS ................................................................................................. 33

Bảng 2.1.

Hệ thống câu hỏi đọc hiểu văn bản ..................................................... 42

Bảng 2.2.

Phiếu ghi nhận kết quả hoạt động nhóm ............................................. 45

Bảng 2.3.

Mô hình ghi chép theo phương pháp TM............................................ 46

Bảng 2.4.


Mẫu ghi chép nội dung bài học (dành cho văn xuôi) theo phương
pháp TM .............................................................................................. 48

Bảng 2.5.

Mẫu ghi chép nội dung bài học (dành cho thơ) theo phương pháp
TM ....................................................................................................... 49

Bảng 2.6.

Phiếu học tập so sánh, đối chiếu ......................................................... 52

Bảng 2.7.

Phiếu học tập đánh giá từ hay ............................................................. 52

Bảng 2.8.

Hệ thống câu hỏi đọc hiểu phân loại theo 6 chiếc nón tư duy ............ 59

Bảng 3.1.

Kết quả học lực học kì 1 của lớp thực nghiệm. ................................... 67

Bảng 3.2.

Số lượng bài ghi của từng kĩ thuật ghi chép ở lần 1............................ 69

Bảng 3.3.


Số lượng bài ghi của từng kĩ thuật ghi chép ở lần 2............................ 69

Bảng 3.4.

Số lượng bài ghi của từng kĩ thuật ghi chép ở lần 3............................ 69

Bảng 3.5.

Phân tích chất lượng bài ghi theo phương pháp dàn ý ........................ 70

Bảng 3.7.

Phân tích chất lượng bài ghi theo phương pháp ghi chép TM ............ 73

Bảng 3.9.

Phân tích chất lượng bài ghi theo phương pháp sơ đồ tư duy ............. 76

Bảng 3.10.

Những hạn chế cơ bản và cách khắc phục .......................................... 86


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Minh họa mẫu ghi chép bài đọc hiểu của HS lớp 12 ............................... 28
Hình 1.2. Minh họa mẫu ghi chép bài đọc hiểu của HS lớp 11 ............................... 29
Hình 1.3. Minh họa mẫu ghi chép bài đọc hiểu của HS lớp 10 ............................... 30
Hình 2.1. Minh họa mô hình sơ đồ tư duy............................................................... 53
Hình 2.2. Minh họa mô hình sơ đồ tư duy của một tác phẩm văn học .................... 55
Hình 2.3. Minh họa mô hình sơ đồ sáu chiếc nón tư duy ........................................ 57

Hình 2.4. Minh họa mô hình sơ đồ sáu chiếc nón tư duy của một tác phẩm
văn học ..................................................................................................... 59
Hình 3.1. Sản phẩm thực nghiệm ghi chép theo phương pháp dàn ý ...................... 72
Hình 3.2. Sản phẩm thực nghiệm ghi chép theo phương pháp TM......................... 75
Hình 3.3. Sản phẩm thực nghiệm ghi chép theo phương pháp sơ đồ tư duy .............. 77
Hình 3.4. Sản phẩm thực nghiệm ghi chép theo phương pháp sơ đồ tư duy .............. 77
Hình 3.5. Sản phẩm ghi chép theo phương pháp sơ đồ tư duy ................................ 78
Hình 3.6. Các biên bản đánh giá các tiết dạy thực nghiệm ..................................... 82


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết số 29-NQ/TW về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, nhấn mạnh: “…Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học…”. Theo đó, trong định
hướng xây dựng chương trình sau 2015, môn Ngữ văn cần coi trọng mục tiêu hình
thành và phát triển năng lực ngữ văn, mà trước hết là năng lực giao tiếp với việc sử
dụng thành thạo 4 kỹ năng cơ bản: đọc, viết, nghe, nói, sau đó mới là những kỹ
năng khác. Trong những kỹ năng vừa nêu, đọc và viết được coi là những kỹ năng
trọng yếu, là sự cụ thể hóa 2 trục: Đọc văn – Làm văn của môn Ngữ văn theo quan
điểm tích hợp hiện nay. Kỹ năng đọc ở đây được hiểu là năng lực đọc hiểu văn bản
văn học. Kỹ năng viết chính là năng lực tạo lập văn bản của học sinh. Tuy nhiên,
không nên hiểu hoạt động viết của HS đơn thuần chỉ là viết những bài làm văn định
kỳ theo yêu cầu của chương trình. Hoạt động viết phải được nhìn thấy ở phạm vi
rộng hơn. Đó là kĩ năng tạo lập các loại văn bản khác nhau. Ngoài văn bản nghị
luận, HS còn phải viết được một lá đơn, một biên bản, một bài cảm nhận… về các
vấn đề của cuộc sống. Một loại hoạt động viết cũng rất đáng được chú ý rèn luyện
cho HS, chính là hoạt động ghi chép bài học trên lớp. Hoạt động này bao gồm việc

HS ghi chép bài học, xử lý thông tin thu nhận được trong lúc đọc hiểu văn bản; biến
lời giảng của giáo viên, kết quả hoạt động, thảo luận của các bạn…thành kiến thức
của riêng mình.
Thực tế việc dạy học Ngữ văn hiện nay chưa chú trọng đến việc rèn luyện các
kĩ năng viết cho HS, trong đó có kĩ năng ghi chép bài học trên lớp. Tình trạng đọc chép, chiếu - chép, chép – chép vẫn còn tồn tại trong hầu hết các giờ học Văn. Trừ
một số ít lớp chuyên lớp chọn, HS có khả năng tự ghi bài (mà chủ yếu cũng là ghi
nhanh lời giảng của thầy cô) còn lại thì HS hầu như phụ thuộc vào bài ghi/đọc của
GV. Vở học của HS thực chất là một bản sao lại giáo án của GV một cách thụ động
và vở ghi của các em trong lớp hầu như là giống nhau.


2

Tình trạng đó xuất phát từ hai nguyên nhân:
Thứ nhất là do quá trình đổi mới phương pháp dạy học được thực hiện không
triệt để. Từ phương pháp giảng văn sang phương pháp đọc hiểu là cả một thách thức
đối với GV, nhất là những GV lâu năm quen với cách dạy cũ. Chỉ thay đổi bằng
công nghệ thông tin, một vài hoạt động nhóm trong giờ học, không đủ sức để làm
nên sự đột phá về phương pháp trong giờ đọc hiểu. Cuối cùng thao tác chính vẫn là
GV đọc/ghi bài giảng cho HS, không khác mấy so với cách dạy truyền thống.
Thứ hai là do sự chậm trễ thay đổi kiểm tra đánh giá. Thành tích, kết quả thi
cử vẫn là một áp lực mà chưa có trường học phổ thông nào, chưa có GV nào đủ sức
vượt qua. Một số GV có ý thức đổi mới phương pháp dạy đọc hiểu, đưa khá nhiều
phương pháp mới vào tiết học như là dạy học hợp tác, dạy học dựa trên sự phản hồi,
dạy học nêu vấn đề, sử dụng Nhật kí đọc sách…với mục đích nâng cao năng lực
đọc hiểu văn bản cho HS. Giờ học đọc hiểu nhìn chung có nhiều khởi sắc. HS được
tạo điều kiện để được trình bày, thể hiện cảm xúc, sự sáng tạo trong quá trình tiếp
nhận tác phẩm. Tuy nhiên, khi mà đề thi, cách đánh giá một bài làm của HS chủ yếu
vẫn dựa vào tiêu chí kiến thức, thì GV cuối cùng vẫn phải quay về với việc đọc chép, chiếu - chép, chép - chép để đảm bảo chất lượng, thành tích cho các kì thi. HS
dù được phát biểu rất nhiều, được khuyến khích sáng tạo thì cuối cùng vẫn phải ghi

lại những lời giảng của GV cho đủ kiến thức theo yêu cầu kiểm tra, đánh giá.
Thực trạng đó đòi hỏi chúng ta cần phải quan tâm đến việc hình thành cho HS
phương pháp tự ghi chép bài học, xử lý kiến thức trên lớp theo khả năng, trình độ
tiếp thu của chính các em. Khi đó, mỗi bài ghi của HS sẽ là một “biên bản” của tiết
học. Mỗi HS có một biên bản tiết học riêng của mình, không giống với bất kì bạn
nào trong lớp, nhưng cũng sẽ đạt được “chuẩn chung” về kỹ năng, kiến thức mà GV
muốn đạt được.
Có thể nhìn thấy từ cách thức ghi chép đó một số kết quả tích cực ban đầu. Từ
việc chọn lọc những ý kiến của thầy cô, các bạn, HS sẽ nâng cao khả năng phân
tích, tổng hợp, nhận xét để đưa vào bài ghi của mình những điều cốt lõi nhất, trọng
tâm nhất. Tự ghi chép cũng đem đến cho HS khả năng thâm nhập vào tác phẩm một
cách sâu sắc hơn vì HS phải tập trung lắng nghe, theo dõi các hoạt động diễn ra


3

trong tiết học, thậm chí là tham gia vào quá trình tạo nghĩa cho văn bản...Như vậy
thì mới có thể tích lũy được nhiều thông tin cho bài ghi của mình. Qui luật ghi nhớ
của não bộ cũng cho thấy việc chúng ta tự thân trải nghiệm kiến thức bằng chính
những ghi chép của mình, với vốn ngôn ngữ của bản thân, sẽ làm cho chúng ta ghi
nhớ mọi thứ tốt hơn, lâu bền hơn. Bên cạnh đó nếu được hướng dẫn phương pháp
ghi chép tốt, HS không chỉ có thể ghi lại nội dung bài học, mà còn có cơ hội thể
hiện những suy nghĩ của cá nhân bằng những lưu ý riêng bên lề trang giấy; những
thắc mắc băn khoăn muốn được trao đổi với thầy cô và bạn bè trong và ngoài giờ
học. Việc làm này có một ý nghĩa nhất định trong việc góp phần nâng cao năng lực
đọc hiểu, giống như một cách thức HS phản hồi hay đối thoại đối với tác phẩm sau
khi đọc. Khi được thực hiện một cách nhuần nhuyễn, việc tự ghi chép bài học có hệ
thống còn là một biện pháp để HS rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ, khả năng
triển khai luận điểm, trình bày luận cứ…Nó là một cách để HS nâng cao năng lực
tạo lập văn bản về sau, một năng lực rất cần sự tư duy mạch lạc, rõ ràng và sự diễn

đạt chính xác.
Theo tìm hiểu, chúng tôi thấy rằng thực tế đã có nhiều tài liệu nghiên cứu các
kỹ thuật ghi chép. Có thể kể đến các phương pháp như phương pháp Cornell,
phương pháp ghi dàn ý, phương pháp lập bản đồ…Những phương pháp này đã
được thực hiện và có những ưu điểm không thể phủ nhận. Tuy nhiên, hướng dẫn
cách thức để ghi chép một bài học Ngữ văn trong trường phổ thông, sao cho phù
hợp với mục tiêu đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng giờ dạy đọc hiểu, thì cho
đến nay vẫn là điều mà chúng ta chưa thực sự quan tâm. Chúng ta tránh nhắc nhở
cụm từ “Các em ghi…” nhưng thực chất cách dạy, cách đọc chép của chúng ta vẫn
như là một sự ngầm thỏa hiệp điều này.
Với những lý do đó, ở vị trí là những người trực tiếp đứng lớp trong trường
phổ thông, chúng tôi mong muốn nghiên cứu đề tài “Phát triển kĩ năng ghi chép
của HS THPT trong giờ đọc hiểu văn bản văn học” như là một sự đóng góp vào
quá trình thực hiện đổi mới dạy học Ngữ văn. Giá trị thực tiễn của nó sẽ giúp các
GV đứng lớp giảm bớt một gánh nặng trong tiết dạy; giúp giờ đọc hiểu thực sự
thành một buổi đối thoại với HS về tác phẩm mà không bị áp lực đảm bảo kiến thức


4

chi phối quá nhiều.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đổi mới cách thức ghi chép cho HS trong giờ đọc hiểu là một biện pháp góp
thêm vào quá trình đổi mới giờ học Ngữ văn, nhằm tăng cường tính tích cực của
HS. Việc đổi mới này từ lâu đã được GV Ngữ văn hiểu là sự kết hợp đổi mới hai hệ
phương pháp: hệ phương pháp chung và hệ phương pháp đặc thù của môn Ngữ văn.
Hệ phương pháp chung là những phương pháp dạy học hướng về người học mà tất
cả các môn học đều áp dụng theo quan điểm cải cách giáo dục. Trong các phương
pháp dạy học tích cực được các nhà giáo dục kể tới, người ta chú ý nhiều đến việc
dạy cho HS cách học. Trong tài liệu Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình

và sách giáo khoa (2006), Trần Bá Hoành nêu quan điểm “muốn nâng cao hiệu
quả dạy học thì phải dạy cách học” [19, tr.151]. Từ đó, khi đề xuất các phương
pháp dạy cách thu nhận thông tin cho người học, tác giả nêu ra các cách thức như:
tiếp cận các nguồn thông tin, đọc lướt bài khóa, tìm ý chính và ghi chép. Về việc
hướng dẫn HS ghi chép, người viết cho rằng: “…sẽ có hiệu quả hơn nếu biết ghi
chép chủ động, cố gắng hiểu được càng nhiều càng tốt trong khi thu nhận thông
tin” [19, tr.153]. Tác giả cũng có gợi ý một số biện pháp GV nên chú ý để HS có
thói quen ghi chép chủ động. Theo đó, bài trình bày của GV phải có dàn bài hợp lý
với những ý chính phụ rõ ràng, phải đặt ra những vấn đề để HS suy nghĩ liên hệ,
phải thu vở HS để kiểm tra, chỉ ra những điểm cần cải tiến…Tài liệu cũng nêu ra
một số dấu hiệu để nhận biết một bài ghi theo phong cách học chủ động gồm có
những gì. Những vấn đề đó rất có giá trị thực tiễn, tuy thế, nó lại được trình bày
tương đối ngắn gọn, cô đọng và vẫn chưa thành hệ thống phương pháp để GV có
thể tham khảo và áp dụng trong chuyên môn của mình.
Trước đó, cùng một quan điểm dạy cho HS cách học, trong tài liệu Tổ chức
quá trình dạy học (1993), Lê Khánh Bằng đề cập đến phương pháp ghi chép trong
chương XIV: Tổ chức công tác tự học của HS đại học. Một trong những cách thức
để người đọc có thể lĩnh hội kiến thức, hình thành kỹ năng kỹ xảo, cũng như tìm tòi
tri thức mới, đó chính là Phương pháp nghe giảng và ghi chép. Trong phần này, tác
giả nêu lên ba khâu để có thể nghe giảng tốt, làm cơ sở để ghi chép tốt: “Nghe giảng


5

trên lớp như thế nào cho tốt? Có nên vừa nghe giảng vừa ghi chép không? Đây là
những vấn đề tâm lý và giáo dục khá phức tạp và còn chưa được nghiên cứu đầy
đủ” [4, tr.179]. Tác giả cho rằng thông qua bài ghi, có thể đánh giá năng lực của
một HS: “Ta thấy cách ghi chép gắn liền với sự hiểu biết và trình độ lĩnh hội của
HS. Nếu không hiểu bài giảng thì không thể có bài ghi tốt được. Vì vậy, xem bài ghi
của một HS, ta có thể biết được mức độ nắm bài của HS đó” [4, tr.181]. Từ việc xác

định tầm quan trọng của bài ghi, người viết có lưu ý: “…phải biết tập trung chú ý
vào mỗi một luận điểm của bài giảng, và nhanh chóng nắm lấy những điều cơ bản,
quan trọng nhất (…). Đối với các môn xã hội, cần đảm bảo tính chính xác và tính
logic của các luận điểm, luận cứ, luận chứng” [4, tr.181]. Ngoài ra tài liệu cũng có
gợi ý một số hình thức ghi chép, ví dụ như chia trang giấy thành hai phần, cần viết
sao cho nhanh…Quan trọng hơn, phần này có đề cập đến việc để giúp cho HS có
thể nghe giảng và ghi chép được thuận lợi, GV nên chuẩn bị những gì. Có thể xem
đó là những gợi ý bước đầu về phương pháp hướng dẫn HS ghi chép. Tuy vậy, bản
thân tác giả cũng thừa nhận, “rất khó thực hiện đồng thời có kết quả cả hai việc
nghe giảng và ghi chép” [4, tr.180] và nhấn mạnh “đây là một việc rất khó khăn,
các thầy giáo cần quan tâm giúp đỡ HS và nên có những công trình nghiên cứu về
vấn đề này” [4, tr.180]. Tuy chưa thành một hệ thống phương pháp hoàn chỉnh,
nhưng có thể nói đây là một tài liệu rất có ích cho những GV nào muốn triển khai
nghiên cứu trong môn học do mình đứng lớp.
Một số tác giả khác khi nghiên cứu phương pháp học cũng đều có đề cập đến
việc ghi chép. Ví dụ như tài liệu nghiên cứu Học và dạy cách học (2004) của
Nguyễn Cảnh Toàn [49]. Ở đó người viết cũng nói đến các phương pháp học như
Phương pháp đọc sách và ghi chép; Phương pháp hỏi; Phương pháp nghe giảng
bài và ghi chép; Phương pháp ghi nhớ thông tin…khi hướng dẫn người học các
phương pháp thu nhận thông tin. Trong đó, đáng chú ý là hai phương pháp: Phương
pháp đọc sách và ghi chép và Phương pháp nghe giảng bài và ghi chép. Về việc
ghi chép tài liệu, tác giả liệt kê ra khá nhiều cách. Ví dụ: ghi chép kiểu đề cương,
ghi chép kiểu trích dẫn, ghi chép theo luận đề, ghi tóm tắt, ghi chép tự do…Đây là
những kiểu ghi chép mà GV có thể tham khảo khi muốn vận dụng vào việc hướng


6

dẫn HS ghi chép bài học. Đây cũng là một nguồn tham khảo rất có ích tuy vẫn còn ở
dạng lý thuyết khá chung chung mà chưa có sự triển khai minh họa cho một môn

học cụ thể nào.
Có một công trình nghiên cứu về phương pháp học mà chúng tôi rất quan tâm,
đó là quyển sách Phương pháp học tập siêu tốc (2010), Bobbi Deporter - Mike
Hernaki [16]. Sách được viết với một phong cách trẻ trung, hóm hỉnh khiến người
đọc cảm thấy việc học thực chất rất nhẹ nhàng, thú vị. Nó là một niềm vui khi
chúng ta biết cách học khoa học và phù hợp với phong cách của mình. Chúng tôi
đặc biệt chú ý ở chương 7: Kĩ thuật ghi chép công nghệ cao. Trong chương này,
ngoài việc lý giải tại sao phải học cách ghi chép thì quan trọng nhất là tác giả đã đề
xuất hai phương pháp ghi chép hiệu quả là lập bản đồ tư duy và phương pháp sử
dụng ghi chép TM. Đáng ghi nhận ở đây là cách tác giả phân tích ưu khuyết của
phương pháp ghi chép truyền thống theo kiểu dàn ý; ưu điểm của hai phương pháp
mới, các bước vận dụng phương pháp cùng với các mẹo nhỏ khi ghi chép. Tất cả
được trình bày rất khoa học, rõ ràng và sinh động. Đây là nguồn tài liệu khá quan
trọng để chúng tôi lấy làm nền tảng cho luận văn của mình. Chúng tôi sẽ dựa vào
những gợi ý này để áp dụng vào việc hướng dẫn HS ghi chép trong quá trình đọc
hiểu.
Một số tài liệu chúng tôi tìm hiểu trên mạng internet cũng có đề cập khá nhiều
đến việc hướng dẫn kĩ năng ghi chép trong quá trình học tập. Ví dụ như phương
pháp ghi chép Cornell, chia trang giấy thành ba phần để ghi theo những mục đích
khác nhau; phương pháp lập sơ đồ tư duy, viết theo dàn ý…Đó đều là những kĩ
thuật tốt, có khả năng ứng dụng cao, nhưng nếu không được sự hướng dẫn cụ thể
của GV, tự bản thân HS phổ thông khó mà có thể thực hiện được, nhất là đối với
môn Văn.
Nói đến các phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn Ngữ văn theo tinh
thần đổi mới, người ta thường nói nhiều đến phương pháp dạy học đọc hiểu thay vì
giảng bình, phân tích trước đây. Ở đó, GV chú ý đến việc hình thành kĩ năng kiến
tạo nghĩa cho văn bản, kĩ năng lắng nghe, phản hồi, kĩ năng hợp tác...(chủ yếu là
các kĩ năng đọc, nghe, nói) để phát huy tính tích cực cho HS. Riêng kĩ năng viết thì



7

chưa được chú ý đến nhiều, trong khi đáng lẽ ra nó lại là khâu quan trọng nhất, có
vai trò tổng hợp những gì mà HS thu nhận được sau giờ học. Việc rèn luyện kĩ năng
viết gần như được giao phó cho giờ học Làm văn. Trong các giáo trình phương
pháp dạy học văn quen thuộc như Phương pháp dạy học văn [29] hay Phương
pháp dạy học tiếng Việt [1], các nhà nghiên cứu trình bày khá kĩ lưỡng về những kĩ
năng viết - tạo lập văn bản trong phần phương pháp dạy học Làm văn nhưng không
thấy đề cập đến kĩ năng viết - ghi chép trong giờ giảng văn. Và hầu hết những tài
liệu đề cập đế kĩ năng viết mà chúng tôi tìm hiểu bước đầu cũng đều là những công
trình nghiên cứu về kĩ năng làm văn, kĩ năng tạo lập văn bản. Mảnh đất nghiên cứu
kĩ năng ghi chép trong giờ học Văn nói riêng và các môn xã hội nói chung hầu như
vẫn còn bị bỏ ngỏ.
Chính vì thế chúng tôi tìm thấy rất ít tài liệu nghiên cứu về vấn đề ghi chép bài
học trong giờ đọc hiểu. Nếu có chỉ là những công trình nghiên cứu về việc ghi chép
làm biện pháp hỗ trợ cho việc đọc hiểu. Tài liệu nước ngoài mà chúng tôi có được
là quyển Phương pháp dạy đọc hiểu văn bản (2007), Taffy E. Raphael – Efrieda H.
Hiebert. Trong quyển sách này, tác giả nêu lên quan điểm: “…viết và đọc cùng
đóng vai trò là những vấn đề nhận thức cơ bản và là những quá trình nhận thức
mang tính giao tiếp xã hội” [41, tr.59]. Người nghiên cứu đã hướng dẫn HS thực
hành nhiều loại ghi chép: ghi chép bên lề sách, nhật ký thư, nhật ký đọc
sách…Thông qua những hoạt động trên, HS hình thành được năng lực đọc hiểu, có
thể tham gia vào quá trình tiếp nhận văn bản văn học trong nhà trường. Đây là một
tài liệu tham khảo khá bổ ích cho GV nếu muốn đổi mới phương pháp dạy học văn.
Kế thừa những đề xuất đó, chúng tôi thấy có công trình nghiên cứu Tác động của
hoạt động ghi chép đối với kĩ năng đọc văn bản của HS, (2011), Nguyễn Thị Kim
Oanh, Nguyễn Thị Hồng Nam [35]. Tác giả bài viết giới thiệu các loại ghi chép tự
do và ghi chép theo gợi ý. Mục đích chính cũng vẫn là để góp phần rèn kĩ năng đọc
văn bản cho HS, chứ chưa thật chú ý đến rèn luyện kĩ năng ghi chép cho HS, làm
nền tảng cho kĩ năng tạo lập văn bản. Ngoài ra, chúng tôi cũng đọc được bài viết

Nhật ký văn học như một biện pháp dạy học đối thoại (2009) của Lê Linh Chi
[13]. Trong đó tác giả có đề cập đến hoạt động ghi nhật ký văn học như một cách


8

thức đối thoại, giao tiếp với tác phẩm. Nhưng giống như công trình vừa nêu, nó
cũng chỉ là một hoạt động hỗ trợ cho quá trình đọc hiểu mà thôi.
Từ những vấn đề vừa trình bày, có thể thấy phương pháp, kĩ thuật ghi chép là
một trong những cách thức quan trọng để phát triển khả năng tự học, khả năng tư
duy sáng tạo của người học. Đã có nhiều đề xuất về phương pháp ghi chép giúp HS
nâng cao hiệu quả của hoạt động ghi chép, tuy nhiên câu hỏi đặt ra là HS có thể thu
nhận được gì từ sau mỗi giờ đọc hiểu nếu không được hướng dẫn để chủ động ghi
chép bài học một cách khoa học, đầy đủ? Liệu có phải sau những hoạt động rất
phong phú trong giờ đọc hiểu, thao tác cuối cùng của HS vẫn phải là chép bài theo
lời đọc của GV? Rõ ràng là các nhà nghiên cứu chưa thực sự quan tâm đến vấn đề
này. Cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu phương pháp hướng dẫn
cho HS THPT tự ghi chép bài trong giờ đọc hiểu văn bản văn học.
Những điều đó vừa là thuận lợi, vừa là thách thức cho người viết đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu thực trạng việc dạy học đọc hiểu văn bản văn học trong nhà trường
phổ thông. Cụ thể là việc sử dụng cách thức đọc chép thay vì áp dụng phương pháp
dạy học tích cực.
- Nghiên cứu phương pháp hiệu quả để rèn luyện kĩ năng tự ghi chép bài trong
giờ đọc hiểu văn bản văn học của HS để nâng cao năng lực Ngữ văn cho HS theo
định hướng dạy học phát triển năng lực.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khảo sát thực trạng việc ghi chép bài học của HS trong giờ đọc hiểu văn bản
văn học thông qua việc khảo sát, lấy ý kiến thăm dò của HS và GV.
- Tìm hiểu vai trò của việc ghi chép trong giờ đọc hiểu tích hợp với kĩ năng

nghe, nói, đọc; hướng tới hoàn thiện 4 kĩ năng: đọc, viết, nghe, nói.
- Dựa vào kết quả nghiên cứu từ hai bước trên, luận văn sẽ đề xuất các biện
pháp để phát triển kĩ năng tự ghi chép bài học cho HS trong giờ đọc hiểu văn bản
văn học.
- Tiến hành thực nghiệm để kiểm tra hiệu quả của cách thức mà luận văn đề
xuất.


9

5. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn khảo sát tình hình ghi chép của HS và việc GV hướng dẫn HS tự
ghi chép bài trong giờ đọc hiểu trước và sau thực nghiệm.
- Nghiên cứu phát triển kĩ năng ghi chép cho HS thông qua hệ thống bài tập
rèn luyện các kĩ thuật ghi chép.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc ghi chép trong giờ học,
chủ yếu là ghi chép bài học; không mở rộng nghiên cứu về hoạt động ghi chép tài
liệu nói chung và các loại hoạt động ghi chép hỗ trợ cho việc đọc hiểu văn bản văn
học.
- Khảo sát và thực nghiệm vấn đề ghi chép bài học đối với HS lớp 11 THPT.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp quan sát
- Quan sát giờ dạy học đọc hiểu để nắm được tình hình ghi chép bài của HS
trước và sau khi có sự hướng dẫn phương pháp sử dụng các kĩ thuật ghi chép.
- Quan sát có kèm theo thiết bị hỗ trợ (máy chụp ảnh) để đánh giá chính xác
hơn về chất lượng những sản phẩm ghi chép của HS trước và sau thực nghiệm.
7.2. Phương pháp điều tra giáo dục
- Lập bảng hỏi để điều tra trên diện rộng với số lượng lớn người dạy và học để
tìm hiểu nhận thức, thái độ, hành vi của họ về vấn đề ghi chép của HS trong giờ học

Văn.
- Phỏng vấn trực tiếp để trưng cầu ý kiến, quan điểm của người dạy, người học
về đề tài.
7.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Tìm hiểu bản chất, nguồn gốc, nguyên nhân của vấn đề dựa trên việc phân
tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn.
- Đề xuất giải pháp dựa trên những cơ sở khoa học và thực tiễn đó.


10

7.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Vận dụng những lý thuyết đã được đề xuất ở phần nghiên cứu vào thực tế
giảng dạy để đánh tính khả thi của đề tài.
- Đánh giá các sản phẩm thu nhận được của HS để rút ra bài học kinh nghiệm,
tiến tới điều chỉnh nội dung nghiên cứu cho phù hợp hơn với điều kiện giảng dạy
thực tế.
8. Đóng góp của luận văn
8.1. Về lý luận
Luận văn đóng góp thêm một góc nhìn mới về vấn đề rèn luyện kĩ năng viết
cho HS trong giờ đọc hiểu, ngoài quan niệm thông thường xem việc rèn luyện kĩ
năng viết là nhiệm vụ của phân môn Làm văn.
8.2. Về thực tiễn
- Việc khảo sát và thực nghiệm giúp HS và GV nhìn nhận lại tầm quan trọng
của việc ghi chép bài học trong giờ đọc hiểu. Từ đó thay đổi cách thức dạy và học
hiện nay.
- Những đề xuất của luận văn cung cấp một cách thức hướng dẫn HS ghi chép
bài trong giờ đọc hiểu để HS và GV có thể tham khảo và áp dụng trong điều kiện có
thể.



11

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NĂNG LỰC GHI CHÉP
CỦA HỌC SINH THPT
1.1. Một số vấn đề lý luận về kĩ năng ghi chép của HS
1.1.1. Hoạt động ghi chép dưới góc nhìn của lý luận dạy học
1.1.1.1. Khái niệm “ghi chép”, “kĩ năng ghi chép”
Trong tiếng Anh, khái niệm “ghi chép” (“take note”) được hiểu là bản viết tóm
tắt ngắn gọn nội dung nào đó để ghi nhớ hay để tham khảo cho lần sau. Ghi chép
theo nghĩa này được dùng trong rất nhiều lĩnh vực, phạm vi khác nhau. Người ta có
thể ghi chép trong lúc làm việc, họp hành, nghiên cứu, học tập... Ở trong lớp học,
ghi chép là hoạt động viết nhằm mục đích lưu lại những thông tin mà thầy cô và
bạn bè đã trình bày, cũng như ghi lại những cảm xúc, suy nghĩ, cảm nhận…của cá
nhân HS về bài học.
Bản ghi chép chính là bức tranh thu nhỏ của những ngôn từ, lời nói, thông tin,
cảm xúc được trình bày ở trên lớp. Nó phản ánh sự tập trung cũng như sự hiểu bài,
sự cẩn thận của người ghi chép. Như vậy, có thể nói ghi chép là một trong những kỹ
năng quan trọng mà HS cần có khi tham gia vào bất kì lớp học nào.
Có nhiều cách định nghĩa về khái niệm kĩ năng. “Kĩ năng” theo nghĩa hẹp là
những thao tác, những cách thức thực hành, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có
thể thực hiện một hoạt động nào đó trong môi trường quen thuộc. “Kĩ năng” hiểu
theo nghĩa rộng, bao hàm những kiến thức, những hiểu biết, trải nghiệm,… giúp cá
nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh thay đổi.
Từ cách định nghĩa như thế, chúng ta có thể hiểu, “kĩ năng ghi chép” trong giờ
học là cách thức thực hiện thao tác viết bằng cách vận dụng kiến thức, kinh nghiệm
sử dụng ngôn ngữ để ghi lại thông tin bài học cũng như trải nghiệm cá nhân trong
giờ học.
1.1.1.2. Đặc trưng của hoạt động ghi chép bài học trên lớp
- Ghi chép bài học là biểu hiện của tự học có phương pháp. Ngày nay, khi mà

xã hội đang có những biến đổi cực kì sâu sắc và toàn diện với tốc độ cao, thì việc


12

HS chỉ học đủ những kiến thức mà GV cung cấp rõ ràng là một kiểu học không còn
phù hợp. Cần phải thay đổi quan niệm “Học tập một thời” thành “Học tập suốt đời”.
Muốn học tập suốt đời, HS cần được trang bị những phương pháp học hiệu quả để
có thể tự học tập nghiên cứu. Phương pháp học là cách thức hoạt động của người
học trong quá trình lĩnh hội tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo cũng như tìm tòi tri
thức mới. Chỉ khi có phương pháp học thì HS mới có thể theo kịp xã hội và tự trang
bị kiến thức cho mình theo dòng chảy không ngừng của thời đại. Trần Bá Hoành có
viết: “Muốn phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học thì cần phải
rèn luyện phương pháp học tập cho HS, coi đây không phải là một phương tiện
nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu quan trọng của dạy học. Trong
một xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh, với sự bùng nổ thông tin, khoa học và
công nghệ phát triển như vũ bão thì việc dạy học không thể hạn chế ở chức năng
dạy kiến thức mà phải chuyển mạnh sang dạy phương pháp học” [19, tr.40].
Nói tới phương pháp học thì cốt lõi nhất là phương pháp tự học. “Tự học là
một hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững tri thức, kĩ năng và
thái độ do chính bản thân người học tiến hành ở trên lớp hay ở ngoài lớp, theo hoặc
không theo chương trình sách giáo khoa đã được ấn định” [4, tr.169]. Nếu rèn
luyện cho HS có được kĩ năng, phương pháp, thói quen tự học thì sẽ tạo được cho
các em lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có trong mỗi người. Mặt khác, con
người chỉ thật sự nắm vững cái mà chính mình đã chiếm lĩnh được bằng hoạt động
tự lực của bản thân. Bằng con đường đó, người học không chỉ có kiến thức vững
vàng mà còn có được niềm hứng thú trong quá trình học tập. Thuyết kiến tạo kiến
thức cũng chỉ ra rằng: học tập là tự kiến tạo kiến thức. Tư tưởng nền tảng của thuyết
kiến tạo là đặt vai trò của chủ thể nhận thức lên hàng đầu trong quá trình nhận thức.
Cụ thể việc học chỉ có thể được thực hiện trong hoạt động tích cực của người học,

vì chỉ từ những kinh nghiệm và kiến thức mới của bản thân thì mới có thể thay đổi
và cá nhân hóa những kiến thức và khả năng đã có.
Một số nhà nghiên cứu giáo dục có cùng chung quan điểm ở việc xác lập hệ
thống các phương pháp học mà người học cần nắm vững để phục vụ cho mục tiêu
tự học của mình.


13

Theo các tài liệu giáo dục học [4], [19], [49] phương pháp học có thể được
chia thành 2 hệ thống nhỏ: Các phương pháp thu nhận thông tin và các phương
pháp xử lý thông tin.
Các phương pháp thu nhận thông tin gồm có các phương pháp chủ yếu:
• Phương pháp đọc sách và ghi chép
• Phương pháp hỏi
• Phương pháp nghe giảng và ghi chép
• Phương pháp nhớ
• Học trong sự tập trung tư tưởng cao độ
• Phương pháp sử dụng từ điển.
Các phương pháp xử lý thông tin gồm có:
• Diễn đạt ý kiến
• Đặt câu hỏi
• Nghiên cứu theo nhóm
• Lập sơ đồ
• Viết đoạn văn
• Sắp xếp khái niệm
• Viết tóm tắt từ các bản ghi chép
Trong cả phương pháp thu nhận thông tin và xử lý thông tin đều có thể nhìn
thấy tầm quan trọng của phương pháp ghi chép. Dù là Đọc sách và ghi chép, Nghe
giảng và ghi chép, Lập sơ đồ hay Viết tóm tắt…thì cũng là hoạt động tự học một

cách có ý thức, có phương pháp, biểu hiện cho năng lực thu thập và xử lý thông tin
linh hoạt, có chiều sâu. Năng lực này là năng lực do chính HS tự rèn luyện cho
mình trong cả quá trình học tập từ cấp dưới lên cấp trên, từ lớp nhỏ đến lớp lớn.
Nếu không tự trang bị những phương pháp học này thì dù có được nhồi nhét bao
nhiêu kiến thức, HS vẫn chỉ học lại những gì thầy cô đã truyền đạt, không thể nào
trở thành một người có khả năng học tập suốt đời.
- Khác với quá trình nhận thức khoa học, trong quá trình học tập, một phần tri
thức HS lĩnh hội được bằng con đường lắng nghe lời diễn giảng của GV và những


14

thảo luận phản hồi của bạn bè trong lớp. Nhưng chỉ lắng nghe không chưa đủ mà
còn phải kết hợp với sự phân tích tổng hợp, so sánh bằng các thao tác tư duy và sự
thông hiểu. Và việc ghi chép là hoạt động phản ánh lại quá trình đó một cách trung
thực, đầy đủ nhất. Nếu HS chỉ đơn thuần chép lại lời giảng/đọc của thầy cô thì
chúng ta sẽ không thấy ở đó quá trình tư duy, khả năng phân tích, phán đoán, sáng
tạo của HS. Ngược lại, nếu bài ghi chép là do HS chủ động viết theo dụng ý của
mình, thể hiện cách nhìn, cách đánh giá về bài học bằng văn phong của chính các
em thì ở đó, chúng ta sẽ thấy đầy đủ năng lực và thái độ tự học đúng đắn của HS.
Nói cách khác, kĩ năng ghi chép của HS là sự biểu hiện của nhiều năng lực:
năng lực tư duy, năng lực nghe, nói, xử lý thông tin… Đó thực sự là một thách thức
đối với HS. Vì các hoạt động đó diễn ra gần như là đồng thời cùng với nhau. Hoặc
là có thể ghi chép nhưng lúc đó lại không thể phân tích, suy nghĩ nhiều về điều đã
nghe thấy, cảm thấy. Hoặc là lắng nghe, theo dõi, tham gia thảo luận, nắm được vấn
đề nhưng lại không thể ghi chép một cách đầy đủ, khoa học. “Tâm lý học chỉ ra
rằng việc thực hiện đồng thời 2 loại hoạt động chỉ có thể có được trong điều kiện
một trong hai hoạt động đó đã trở nên thành thạo ở mức gần như tự động hóa” [4,
tr.180]. Vì vậy HS phải có kĩ năng viết nhanh, viết chính xác thì mới có thể ghi
chép được. Mà ngay trong cả điều kiện đó, việc thông hiểu bài học cũng bị giảm sút

đi một cách đáng kể.
Để có thể làm tốt tất cả mọi thứ cùng một lúc, HS phải tiếp nhận một cách có
lựa chọn tất cả những thông tin nhận được. Quá trình này đòi hỏi HS phải có sự
hoạt động tư duy rất tích cực mới có thể lĩnh hội được văn bản và làm tốt công việc
ghi chép của mình. Hoạt động tư duy đó có một số biểu hiện sau:
• Nhanh chóng nắm bắt được logic của bài học, phác họa được sơ đồ/dàn ý
bài học.
• Vận dụng toàn bộ kiến thức nền của mình để so sánh phân tích vấn đề nào
đã biết, vấn đề nào cần chú ý để trao đổi thêm.
• Nắm bắt vấn đề nào được giải quyết giống như phán đoán của mình, vấn đề
nào có những cách nhìn nhận khác nhau từ thầy cô, bạn bè…


15

• Tổng hợp những nội dung chủ yếu, những cách thức tiếp cận bài học để ghi
chép và ghi nhận lại vào vở.
Ghi theo cách của mình là cách ghi đảm bảo tính độc lập, tính sáng tạo. Độc
lập trong cách suy nghĩ, triển khai hệ thống ý, cách lựa chọn từ ngữ, cách diễn đạt
nội dung… Sáng tạo trong việc tạo ra những biểu tượng mới, trong cách ghi nhận
những điều mới mẻ, những phát hiện muốn chia sẻ trao đổi…Điều này tạo nên sự
hứng thú trong quá trình tham gia tiết học và ghi chép, làm cho những ấn tượng về
bài học ở lại lâu hơn trong trí óc của các em.
- GV đóng một vai trò không thể thiếu trong một bài ghi thành công của HS.
Vai trò đó bắt đầu từ khâu hướng dẫn HS chuẩn bị chu đáo cho bài học, cho đến
việc tổ chức lớp học, vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp, cách sử dụng
thời gian, cách tạo những khoảng lặng…Tất cả đều phải được thực hiện có dụng ý
để khuyến khích HS phát huy vai trò tích cực chủ động của mình trong giờ học. Từ
vai trò tích cực trong học tập đến sự chủ động ghi chép bài học là một khoảng cách
rất gần, đủ để HS thêm yêu thích giờ học một cách tự nhiên, hứng thú. Không thể

có một bài ghi tốt cho HS nếu GV vẫn trung thành với phương pháp dạy học truyền
thống, truyền đạt một chiều. Chỉ khi tư duy dạy học của GV thay đổi thì mới có thể
tạo cơ hội cho HS được chủ động ghi chép trong giờ học. Mặc dù quá trình đổi mới
phương pháp giáo dục đã diễn ra từ rất lâu nhưng không phải không có những GV
vẫn giữ quan điểm dạy học truyền thống, truyền thụ tri thức một chiều. Họ vẫn cho
rằng nếu không có bài giảng chuẩn của GV thì HS sẽ không thể nắm được bài học,
không thể học hành, thi cử đến nơi đến chốn. Cho nên có thể nói, chính phương
pháp dạy học của GV là đòn bẩy quan trọng giúp cho HS phát triển được năng lực
ghi chép bài học chủ động.
1.1.2. Kĩ năng ghi chép trong môn Ngữ văn
1.1.2.1. Yêu cầu của việc phát triển kĩ năng ghi chép trong giờ đọc hiểu
a. Bám sát mục tiêu dạy học Ngữ văn
- Mục tiêu dạy Ngữ văn theo chương trình hiện hành được khái quát thành 3
mục tiêu chính [5]:
+ Trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về


16

ngôn ngữ và văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam – phù hợp với
trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp
nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là phương
pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống.
+ Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia
đình, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập tự cường, lí tưởng xã
hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh trách nhiệm công
dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn
hóa của dân tộc và nhân loại.

Đây là những mục tiêu của chương trình giáo dục định hướng nội dung, chú
trọng việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học mà không chú trọng đến chủ thể
người học cũng như khả năng ứng dụng tri thức đã học trong những tình huống cụ
thể. Chính vì vậy mà sản phẩm giáo dục là những con người mang tính thụ động,
thiếu kĩ năng giao tiếp, thiếu năng lực xã hội, bị hạn chế khả năng sáng tạo và năng
động mặc dù được trang bị rất đầy đủ những kiến thức phổ thông, cơ bản.
- Trong khi đó, chương trình giáo dục định hướng năng lực lại xác định những
mục tiêu của môn học Ngữ văn theo tinh thần chung như sau [23]:
+ Giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp ở tất cả các hình thức: đọc, viết,
nói và nghe, trong đó bao gồm cả năng lực thu nhập và xử lí thông tin từ nhiều
nguồn khác nhau để viết và nói nhiều vấn đề trong học tập và cuộc sống.
+ Thông qua những tác phẩm văn học đặc sắc, giúp học sinh phát triển năng
lực thẩm mĩ, khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu giá trị nhân bản
và thân phận của con người; giúp học sinh biết đọc và có hứng thú đọc tác phẩm
văn học.
+ Giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, đặc biệt là năng lực tư duy phản
biện, sự tự tin, tính tự lập và tinh thần cộng đồng.
+ Giúp học sinh hình thành và phát triển phương pháp học tập, nhất là phương
pháp tự học để có thể tự học suốt đời và biết ứng dụng những kiến thức và kĩ năng


×