Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

quan hệ ngoại giao của triều nguyễn nửa đầu thế kỉ 19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 168 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

ĐINH THỊ DUNG

QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA TRIỀU NGUYỄN
NỬA ĐẦU THẾ KỈ 19

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2001



MỤC LỤC
MỤC LỤC .....................................................................................................................1
T
8
0
1

T
8
0
1

LỜI CAM ĐOAN .........................................................................................................3
T
8
0
1



T
8
0
1

MỞ ĐẦU........................................................................................................................4
T
8
0
1

T
8
0
1

1. Mục đích – ý nghĩa nghiên cứu: .................................................................................... 4
T
8
0
1

T
8
0
1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: ............................................................................................ 6
T

8
0
1

T
8
0
1

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ................................................................................ 9
T
8
0
1

T
8
0
1

4. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu: ............................................................................. 9
T
8
0
1

T
8
0
1


5. Những đóng góp của luận án: ...................................................................................... 11
T
8
0
1

T
8
0
1

CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH QUỐC TẾ, KHU VỰC VÀ VIỆT NAM NỬA ĐẦU
THẾ KỶ 19 ..................................................................................................................12
T
8
0
1

T
8
0
1

1.1. Hoàn cảnh quốc tế và khu vực nửa đầu thế kỷ 19:................................................. 12
T
8
0
1


T
8
0
1

1.2. Tình hình Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19: .................................................................. 17
T
8
0
1

T
8
0
1

CHƯƠNG 2: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI TRUNG QUỐC
NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19 ..............................................................................................29
T
8
0
1

T
8
0
1

2.1. Những đặc điểm dẫn đến việc hình thành đường lối ngoại giao của triều Nguyễn
với Trung Quốc nửa đầu thế kỷ 19: ................................................................................ 29

T
8
0
1

T
8
0
1

2.1.1. Đặc điểm lịch sử: ................................................................................................... 29
T
8
0
1

T
8
0
1

2.1.2. Đặc điểm địa lý: .................................................................................................... 30
T
8
0
1

T
8
0

1

2.1.3. Đặc điểm chính trị - xã hội: ................................................................................... 30
T
8
0
1

T
8
0
1

2.1.4. Đặc điểm tư tưởng: ................................................................................................ 34
T
8
0
1

T
8
0
1

2.2. Đường lối, chính sách ngoại giao của triều Nguyễn đối với Trung Quốc trong nửa
đầu thế kỷ 19: .................................................................................................................... 35
T
8
0
1


T
8
0
1

2.2.1. Vấn đề: “Sách phong” và “Triều Cống”: .............................................................. 37
T
8
0
1

T
8
0
1

2.2.2. Các họat động ngoại giao khác giữa triều Nguyễn và Trung Quốc trong nửa đầu thế
kỷ 19: ............................................................................................................................... 51
T
8
0
1

T
8
0
1

2.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Trung Quốc trong

nửa đầu thế kỷ 19: ............................................................................................................ 56
T
8
0
1

T
8
0
1

2.3.1. Xét về phía triều Nguyễn: ..................................................................................... 56
T
8
0
1

T
8
0
1

2.3.2. Xét về phía nhà Thanh (Trung Quốc). .................................................................. 60
T
8
0
1

T
8

0
1

CHƯƠNG 3: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI NƯỚC PHÁP
NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19 ..............................................................................................62
T
8
0
1

T
8
0
1

3.1. Việt Nam và Pháp - Những cuộc tiếp xúc đầu tiên cho đến cuối thế kỷ 18: ........ 62
T
8
0
1

T
8
0
1

3.1.1. Việt Nam và Pháp (thế kỷ 16 - thế kỷ 18): ........................................................... 62
T
8
0

1

T
8
0
1

1


3.1.2. Quan hệ giữa Nguyễn Ánh - Gia Long và người Pháp vào cuối thế kỷ 18: ......... 65
T
8
0
1

T
8
0
1

3.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Pháp nửa đầu thế kỷ 19:..................... 72
T
8
0
1

T
8
0

1

3.2.1. Việt Nam trong tầm nhìn của Pháp: ...................................................................... 72
T
8
0
1

T
8
0
1

3.2.2. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Gia Long (1802 - 1819): ............. 74
T
8
0
1

T
8
0
1

3.2.3. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Minh Mạng (1820 - 1840) .......... 80
T
8
0
1


T
8
0
1

3.2.4. Quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp thời Thiệu Trị (1841 - 1847) và đầu thời
Tự Đức (1847 - 1883): .................................................................................................... 91
T
8
0
1

T
8
0
1

3.3. Những nhận xét về quan hệ của triều Nguyễn với nước Pháp trong nửa đầu thế kỷ
19: ....................................................................................................................................... 95
T
8
0
1

T
8
0
1

CHƯƠNG 4: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC

XIÊM LA, CHÂN LẠP, VẠN TƯỢNG TRONG NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19 ........101
T
8
0
1

T
8
0
1

4.1. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19: .. 101
T
8
0
1

T
8
0
1

4.1.1. Quan hệ Việt Nam - Xiêm La từ đầu cho đến cuối thế kỷ 18: ............................ 101
T
8
0
1

T
8

0
1

4.1.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19: ... 104
T
8
0
1

T
8
0
1

4.1.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Xiêm La trong nửa đầu
thế kỷ 19: ....................................................................................................................... 116
T
8
0
1

T
8
0
1

4.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với nước Chân Lạp trong nửa đầu thế kỷ
19: ..................................................................................................................................... 119
T
8

0
1

T
8
0
1

4.2.1. Quan hệ Việt Nam và Chân Lạp cho đến năm 1807: .......................................... 119
T
8
0
1

T
8
0
1

4.2.2. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Chân Lạp trong nửa đầu thế kỷ 19: .. 122
T
8
0
1

T
8
0
1


4.2.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với Chân Lạp trong nữa
đầu thế kỷ 19: ................................................................................................................ 128
T
8
0
1

T
8
0
1

4.3. Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với tiểu vương quốc Lào - Vạn Tượng trong
nửa đầu thế kỷ 19: .......................................................................................................... 132
T
8
0
1

T
8
0
1

4.3.1. Những bước đầu tiên trong quan hệ của Việt Nam với các tiểu quốc Lào: ........ 132
T
8
0
1


T
8
0
1

4.3.2. Quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Vạn Tượng cho đến 1831: ..................... 134
T
8
0
1

T
8
0
1

4.3.3. Những nhận xét về quan hệ ngoại giao của Việt Nam với tiểu vương quốc Lào Vạn Tượng trong nửa đầu thế kỷ : ................................................................................ 141
T
8
0
1

T
8
0
1

KẾT LUẬN ...............................................................................................................144
T
8

0
1

T
8
0
1

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................153
T
8
0
1

T
8
0
1

PHỤ LUC ..................................................................................................................164
T
8
0
1

T
8
0
1


2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, nếu có gì gian dối tôi xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.

T P. HCM ngày 20 tháng 4 năm 2001
T
2
4

Nghiên cứu sinh
T
7
3

Đinh Thị Dung
T
7
3

3


MỞ ĐẦU
1. Mục đích – ý nghĩa nghiên cứu:
Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
T
7

3

Những đóng g óp và hạn c hế của triều Nguyễn, đ ặc biệt trên lĩnh vực ngoại giao trong
T
7
3

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1


tiến trình xây dựng phát triển đất nước trong nửa đầu thế kỷ 19, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề
thời sự và khoa học trong nghiên cứu lịch sử nói chung và nghiên cứu lịch sử quan hệ ngoại
giao nói riêng. Ví dụ như vấn đề: Tại sao tuy đã tận tâm nỗ lực để xây dựng một quốc gia
phong kiến độc lập, thống nhất, tự chủ, khẳng định tư thế của Việt Nam trong khu vực, triều
Nguyễn cuối cùng lại không có một đối sách hợp lý để “giữ nước” có hiệu quả? Qua quan hệ
ngoại giao của triều Nguyễn, những bài học kinh nghiệm lịch sử nào cho đến nay vẫn còn
nguyên tính thời sự nóng bỏng, trong quan hệ ngoại giao Việt Nam hiện đại với xu thế “mở
cửa”, “hội nhập”?... Nếu triều Nguyễn của thế kỷ 19 đã “đóng cửa”, thì tại sao, nguyên nhân
nào đưa tới đường lối “đóng cửa” ấy? Thực chất và hậu quả của ngoại giao “đóng cửa” ? v.v...
Đó là những vấn đề mà khi thực hiện đề tài “ Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn trong nửa
đầu thế kỷ 19” chúng tôi mong muốn và cố gắng tìm ra câu trả lời.
Ý nghĩa khoa học :
TU
7
3

U

Những năm 80 của thế kỷ 20 trở lại đây, những vấn đề trong lịch sử Việt Nam cận đại và
T
7
3

7
T3
6

7
T3

6

7
T3
6

7
T3
6

lịch sử triều Nguyễn đang thu hút sự chú ý của đông đảo giới nghiên cứu, trong đó vấn đề
ngoại giao của triều Nguyễn là vấn đề được sự quan tâm đặc biệt. Nghiên cứu quan hệ ngoại
2
T4
7
3

2
T4
7
3

giao của triều Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ 19 nhằm khôi phục bức tranh lịch sử ngoại giao
của Việt Nam trong nửa thế kỷ là cần thiết để tăng cường sự hiểu biết về vị trí của Việt Nam
trên trường quốc tế thế kỷ 19. Nghiên cứu quan hệ ngoại giao của Việt Nam dưới triều Nguyễn
còn để biết phạm vi quốc tế chủ yếu, ảnh hưởng đến các vấn đề ngoại giao, nội trị và tiến trình
lịch sử đất nước. Đồng thời thực hiện đề tài quan hệ ngoại giao còn nhằm mục đích là sáng tỏ
hơn những nhân tố chủ quan và khách quan góp phần hình thành nên đường lối ngoại giao
phong kiến Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 19.
Quan hệ ngoại giao của Việt Nam với nhà Thanh (Trung Quốc) là mối quan hệ chủ yếu

T
7
3

trong các mối quan hệ ngoại giao từ trước cho đến nửa đầu thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn, nó chi

4


phối và có tác động đến tất cả các mối quan hệ của Việt Nam với các nước khác. Đây là vấn đề
2
T4
7
3

2
T4
7
3

nhạy cảm và quan trọng trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam.
Về quan hệ ngoại giao của Việt Nam với phương Tây, điển hình là nước Pháp, cũng là
T
7
3

mối quan hệ cần được xem xét dưới nhiều góc độ. Khi nghiên cứu quan hệ này, chúng tôi cố
gắng lý giải đường lối ngoại giao của triều Nguyễn đối với Pháp. Trên cơ sở lý giải đó, luận án
rút ra những tiền đề đưa đến việc hoạch định đường lối ngoại giao của triều đình Huế, và góp
một đánh giá thỏa đáng hơn về những đóng góp và hạn chế của vương triều này.

Quan hệ của triều Nguyễn với các nước láng giềng như Xiêm La, Chân Lạp, Vạn Tượng
T
7
3

7
T3
1

7
T3
1

cũng là vấn đề lý thú và cần được nghiên cứu một cách nghiêm t úc, khách quan trong đó nếu
7
T3
6

7
T3
6

7
T3
1

7
T3
1


như quan hệ của triều Nguyễn với nước Xiêm La trong nửa đầu thế kỷ 19 là mối quan hệ về cơ
bản là hòa hiếu, bình thường thì với Vạn Tượng và Chân Lạp là hai quốc gia luôn có những
biến động chính trị trong nửa đầu thế kỷ 19, quan hệ của triều Nguyễn với hai nước này là một
7
T3
6

7
T3
6

loại hình quan hệ trong quan hệ khu vực lúc bấy giờ. Trên cơ sở n guồn thư t ịch cổ, những tư
7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

liệu thành văn ghi chép về quan hệ giữa ba nước, chúng tôi cố gắng tái hiện lịch sử quan hệ
ngoại giao Việt Nam - Vạn Tượng, Việt Nam - Chân Lạp trong 50 năm đầu của thể kỷ 19. Đây

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

là những mối quan hệ lịch sử ít nhiều không mang tính chất bình đẳng. Qua quan hệ của Việt
7
T3
6

7
T3
6

Nam với ba nước này cũng như với Trung Quốc, chúng tôi sẽ góp phần xác định kiểu quan hệ
7
T3
6


7
T3
6

ngoại giao có tính phổ biến giữa các quốc gia phương Đông.
Nghiên cứu đề tài này, luận án cũng mong được góp phần tìm hiểu thêm các đường lối,
T
7
3

chính sách đối ngoại của các nước là đối tượng ngoại giao của Việt Nam như: Trung Quốc,
Pháp, Xiêm La,...trong nửa đầu thế kỷ 19, thời điểm mà chủ nghĩa tư bản phương Tây tăng
cường sự xâm nhập Châu Á.
Cuối cùng đề tài còn nhằm mục đích phục vụ cho việc giảng dạy chuyên đề ở đại học và
T
7
3

tập hợp một hệ thống tư liệu về lịch sử ngoại giao Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho người
nghiên cứu về lịch sử và lịch sử ngoại giao.
Ý nghĩa thực tiễn:
TU
7
3

Hiện nay tình hình thế giới và khu vực có nhiều thay đổi. Việt Nam đang bước vào thời
T
7
3


kỳ “mở cửa”, tăng cường hội nhập với thế giới, thực hiện đa phương, đa dạng hóa ngoại giao.
Do vậy, việc nghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam c ó ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Qua việc
7
T3
1

7
T3
1

nghiên cứu này, chúng ta có điều kiện nhìn lại những trang sử ngoại giao đầy biến động của
7
T3
1

7
T3
1

5


dân tộc. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử từ thành công hay thất bại trên lĩnh
vực ngoại giao của triều Nguyễn. Triều Nguyễn là quá khứ rất gần với hiện tại nên những bài
học này có ý nghĩa thực tiễn cao đối với quan hệ ngoại giao trong thời đại của chúng ta.
Nghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19 nhằm rút ra bài học về quan
T
7
3


hệ biện chứng giữa nội trị và ngoại giao. Từ bài học của quá khứ chúng ta có thể xây dựng nên
những luận cứ khoa học cho đường lối ngoại giao hiện đại của Việt Nam trước yêu cầu hội
nhập, mở cửa và tăng cường mở rộng các mối quan hệ với khu vực và các mối quan hệ quốc tế
rộng lớn hơn.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Về quan hệ ngoại giao và những họat động ngoại giao của triều Nguyễn từ trước cho đến
T
7
3

nay, có nhiều sử gia trong và ngoài nước đề cập đến, nhưng tất c ả đều chưa thành một công
7
T3
1

7
T3
1

trình nghiên cứu chuyên biệt và chuyên sâu. Các tác phẩm của Quốc sử quán triều Nguyễn
như “ Đại Nam thực lục” “Quốc triều chính biên” đã cung cấp những hoạt động ngoại giao của
các vua Nguyễn theo hình thức biên niên. Đây là nguồn tư liệu có độ tin cậy cao, song bộ sử
này được viết ra theo quan điểm của Triều Nguyễn.
Các tác phẩm khác như “Việt sử thông giám cương mục” được viết vào cuối thế kỷ 19
T
7
3

cũng có nhiều thông tin v ề ngoại giao Triều Nguyễn.

7
T3
1

7
T3
1

Nguồn thư tịch cổ quan trọng còn lại cho đến nay là những t ập Châu bản c ủa Triều
T
7
3

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

Nguyễn. Đó là những giấy t ờ được vua xem qua hoặc chấm vào một dấu son, hoặc cho ý kiến.

7
T3
1

7
T3
1

Những tờ Châu bản được đóng theo từng Bộ, đã cho chúng ta biết toàn bộ sinh hoạt của đất
nước ta kể cả lĩnh vực ngoại giao.
Một cuốn sử quan trọng khác là “Hoàng triều bang giao đại điển” gồm 16 quyển, gom
T
7
3

7
T3
1

7
T3
1

góp công văn giao thiệp của Việt Nam với Trung Quốc từ 1789 - 1815. Cuốn “Lịch sử
7
T3
1

7
T3

1

hiến c hương loại chí” được viết từ 1809 - 1821 của Phan Huy Chú cũng có đề cập đến quan hệ
7
T3
1

7
T3
1

Việt Nam - Trung Quốc cuối thế kỷ 18.
Tiếp đến còn có sách “Đại Nam liệt truyện” ghi chép về một số nước lân cận, tạo điều
T
7
3

kiện cho chúng ta hiểu hơn các đối tượng mà triều Nguyễn có quan hệ ngoại giao.
Ngoài ra, một số tác phẩm mang tính tổng quát như “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”
T
7
3

đã nêu những điển chế về bộ Lễ và ngoại giao. “Minh Mạng chính yếu” cũng có đề cập đến
6


nhiều s ự kiện n goại giao thời Minh Mạng. “Quốc Triều sử t rí Vạn Tượng nghi lục” của tác
7
T3

1

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1


giả Ngô Xuân Lãng cũng có đề c ập đến quan hệ Việt Nam - Vạn Tượng trong một giai đoạn
7
T3
1

7
T3
1

ngắn (1827 - 1828).
Từ thời Pháp thuộc đến trước năm 1975,các hoại động ngoại giao thời các vua đầu triều
T
7
3

2
T4
7
3

2
T4
7
3

7
T3
1

7

T3
1

Nguyễn cũng được giới thiệu trong các tác phẩm như “Sơ thảo lược sử” của Minh Tranh (xuất
bản năm 1955), “Coup d' oeil sur histoire d' Annam” của Đỗ Đình Nghiêm, “Quốc sử đi biên”
2
T4
7
3

2
T4
7
3

7
T3
1

7
T3
1

của Phan Thúc Trực, “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim, “Việt Nam ngoại giao sử” của
7
T3
1

7
T3

1

Ưng Trình, “Chống xâm lăng” của Trần Văn Giàu, “Việt sử tân biên” của Phạm Văn Sơn,
“Lịch sử Việt Nam sơ giảng” của Văn Tân v.v... nhưng tất cả chỉ được viết dưới dạng
7
T3
1

sách giáo khoa hay những biên khảo, chưa trình bày một cách toàn diện và chuyên khảo về
7
T3
1

lĩnh vực ngoại giao Triều Nguyễn. Các tác giả Lê Hữu Thu, Nguyễn Thế Anh, Dương Quảng
Hàm, Đào Duy Anh... đều có viết về triều Nguyễn nói chung nhưng không đi sâu vào quan hệ
2
T4
7
3

2
T4
7
3

ngoại giao.
Một số giáo trình lịch sử Việt Nam cận đại cũng đã viết về triều Nguyễn và tình hình xã
T
7
3


7
T3
6

7
T3
6

hội Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực. Gần đây có các nhà “Huế học” như Phan Thuận An, Mai
Khắc Ứng, Nguyễn Đắc Xuân... đều có những công trình nghiên cứu về triều Nguyễn, giúp
chúng ta phần nào hình dung cuộc đời của vua và chúa Nguyễn trong từng bối cảnh lịch sử cụ
thể.
Các Luận án Tiến sĩ, Thạc sĩ nghiên cứu về triều Nguyễn trên từng khía cạnh cụ thể cũng
T
7
3

được thực hiện thành công khá nhiều như luận án Tiến sĩ Nguyễn Minh Tường về pháp luật
7
T3
6

7
T3
6

Triều Nguyễn, luận án của Thạc sĩ Phan Kim Dung về đường lối ngoại giao của Nguyễn Ánh
Gia Long... cung cấp cho giới nghiên cứu những thông tin và cách tiếp cận mới về triều
Nguyễn.

Những công trình chuyên về lĩnh vực ngoại giao giữa Việt Nam và một số nước như
T
7
3

“Lịch sử quan hệ Trung - Việt” của Tatsuroo Yamamoto (Nhật Bản) nghiên cứu quan hệ Việt
- Trung từ khi Khúc Thừa Dụ giành được quyền tự chủ đến n ăm 1884. Đây là một công trình
7
T3
1

7
T3
1

nặng về trình bày sự kiện.
Các nhà nghiên cứu phương Tây, chủ yếu là các tác giả người Pháp như M. Gaultier,P.
T
7
3

7
T3
6

7
T3
6

7

T3
6

7
T3
6

Cultru, Georges Taboulet, Maybon, A. Launay v.v...đều có những công trình về lịch sử Việt

7


Nam nói chung và về triều Nguyễn nói riêng. Đó là những sách giáo khoa và mang tính tổng
quát chung, hoặc về từng vị vua Nguyễn riêng biệt.
Công trình nghiên cứu quan hệ giữa triều Nguyễn với nước ngoài không nhiều lắm và
T
7
3

mang tính chất phổ thông như: “Histoire du Vietnam” của Masson André (Pháp), “The
smaller dragon a political history of Vietnam” của Buttinger Joseph (Anh), Jean Cheneaux có
tác phẩm: “Contribution à l’histoire de la nation Vietnamienne”...
Vào những năm 60 của thế kỷ 20 có một tác giả Việt Nam hoàn thành luận án Tiến
T
7
3

sĩ t ại Pháp với đề tài “ Thiên c h úa giáo và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam 1857 - 1914”
7
T3

1

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
6

7
T3
6

cũng đã có nhiều lý giải về mối quan hệ Việt Nam - Pháp. Mội tác phẩm gây sự chú ý trong
7
T3
6

7
T3
6


7
T3
6

7
T3
6

giới nghiên cứu là cuốn “ Đại Nam đối điện với Pháp và Trung Hoa 1847 - 1885” của Tsuboi
7
T3
6

7
T3
6

- một giáo sư Nhật Bản. Tsuboi đã đề cập đến một vài mối quan hệ của triều Nguyễn với các
nước nhưng sơ lược và khái quát.
Sách chuyên khảo, chuyên sâu về ngoại giao triều Nguyễn không nhiều. Năm 1948,
T
7
3

2
T4
7
3


2
T4
7
3

7
T3
6

7
T3
6

Phan Khoang có xuất bản cuốn “ Việt - Pháp bang giao sử lược” chỉ phân tích quan hệ của
7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6


Triều Nguyễn với nước Pháp.
Từ năm 1985 đến 1998, tuy giới nghiên cứu trong và ngoài nước đã công bố nhiều công
T
7
3

trình có giá trị, phản ánh nhận thức mới về triều Nguyễn, nhưng vấn đề quan hệ ngoại giao của
triều Nguyễn với một số nước vào nửa đầu thế kỷ 19 vẫn chưa được nghiên cứu hệ thống và cụ
thể.
Nhận thức được tầm quan trọng những vấn đề trong lịch sử cận đại, và những t ác động
T
7
3

7
T3
1

sâu sắc của thời kỳ lịch sử này đối với tiến trình lịch s ử cận đại, chúng tôi đã chọn đề tài
7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1


về lĩnh vực quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn. Kế thừa tất cỏ các công trình trên, luận án cố
gắng nghiên cứu có h ệ thống hơn, sâu sắc hơn về quan hệ ngoại giao dưới các triều vua đầu
7
T3
1

7
T3
1

thời Nguyễn.
Ngoài các tư liệu nói trên, luận án còn tham khảo các bài viết có liên quan đến đề
T
7
3

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7

T3
6

tài trên các tạp chí chuyên ngành trong nước như: Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu Đông Nam
7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

Á... và các tạp chí nước ngoài như: B.E.F.E.O, B.S.E.I, R.I, F.A...Những nguồn tư liệu đều
được kiểm tra, đối chiếu, xử lý, phân loại theo yêu cầu của luận án. Mặc dù rất cố gắng, chúng

tôi vẫn chưa đủ khả năng và không có điều kiện để tham khảo trực tiếp nhiều tài liệu hiện nay
đang nằm trong kho lưu trữ của Pháp và một số nước khác trên thế giới.
8


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn là một vấn đề rất rộng, do khả năng có
T
7
3

7
T3
6

7
T3
6

hạn và để bảo đảm độ sâu của đề tài, luận án tập trung nghiên cứu các mối quan hệ ngoại giao
của triều Nguyễn với một vài nước tiêu biểu như:
- Quan hệ ngoại giao với Thanh triều (Trung Quốc). Đây là nước láng giềng có mối quan
T
7
3

7
T3
6


7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

hệ lâu đời với Việt Nam, có cùng chung với Việt Nam một biên giới khá dài.
- Quan hệ ngoại giao với Pháp, một đại diện của phương Tây và là nước trong nửa sau
T
7
3

thế kỉ 19 xâm lược và đô hộ Việt Nam.
- Quan hệ ngoại giao giữa Triều Nguyễn với Xiêm La, Chân Lạp và Vạn Tượng. Đây là
T
7
3

7
T3
6

7
T3

6

2
T4
7
3

2
T4
7
3

ba nước trong cùng khu vực cũng có quan hệ lâu đời với Việt Nam. Tính chất, nội dung của
quan hệ giữa Việt Nam và ba nước trên có liên quan chặt chẽ đến sự nghiệp bảo vệ và phát
triển đất nước Việt Nam.
Nhìn chung, quan hệ ngoại giao của Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 19 có rất nhiều đối
T
7
3

tượng để nghiên cứu. Song không gian chính vẫn là Việt Nam với các quốc gia láng giềng phía
Bắc như Trung Quốc, phía Nam và Tây Nam như: Xiêm La, Vạn Tượng, Chân Lạp và mở
rộng sang nước Pháp.
Thời gian nghiên cứu được xác định trong nửa đầu thế kỷ 19, từ thời Gia Long cho đến
T
7
3

đầu thời Tự Đức (1802 - 1858).
Để có cơ sở phân tích, lí giải vấn đề, luận án sẽ mở rộng thời gian ngược về trước thời

T
7
3

Gia Long để có thể trình bày vấn đề một cách hệ thống hơn.

4. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu:
Phương pháp nghiên cứư.
TU
2
4

U

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả dựa trên quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác T
7
3

Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và cơ sở phương pháp luận nghiên cứu khoa học để trình bày
phân tích, nhận định các mối quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn, từ đó rút ra bản chất, quy
luật, khuynh hướng chủ đạo của sự vận động, phát triển các sự kiện hiện tượng lịch sử. Hơn
đâu hết, với một vương triều có thể nói là hết sức phức tạp lâu nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm
7
T3
6

7
T3
6


đánh giá khác nhau, nhiều khi trái ngược nhau, việc vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể để
nghiên cứu càng là yêu cầu cần đặt lên hàng dầu.
9


Khi thực hiện đề tài, tác giả dùng phương pháp hệ thống và so sánh, đối chiếu lịch sử để
T
7
3

nghiên cứu. Tác giả không tách rời quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn với toàn bộ những
hoạt động khác của vương triều này đồng thời cũng không tách rời việc nghiên cứu quan hệ
ngoại giao triều Nguyễn với truyền thống quan hệ ngoại giao của nước ta trong lịch sử, với bối
cảnh chung của các nước trong khu vực. Việc nhìn nhận đối lượng trong tính hệ thống và
7
T3
6

7
T3
6

trong các mối quan hệ có tính so sánh đó sẽ góp phần làm nổi bật thực chất, đặc điểm và
có những đánh giá khách quan hơn, khoa học hơn về những đóng góp và
2
T4
7
3

2

T4
7
3

hạn chế của triều Nguyễn nên lĩnh vực ngoại giao cũng như về vai trò, trách nhiệm lịch sử của
7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

triều Nguyễn nói chung.
Nguồn tư liêu
TU
2
4

Luận án được thực hiện dựa trên nhiều nguồn tư liệu khác nhau:
T
7

3

7
T3
6

- Thư tịch cổ về các nước Đông Nam Á.
T
7
3

- Tư liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn như bộ “ Đại Nam thực lục”, “Khám Định Đại
T
7
3

Nam hội điển sự lệ “, “Đại Nam liệt truyện”,”Minh Mệnh chính yếu”, “Mục lục Châu bản
triều Nguyễn”, “Quốc triều chánh biên toát yếu”... Những sử liệu này được viết bằng chữ Hán,
tác giả luận án dựa vào bản dịch của Viện sử học.
- Các giáo trình lịch sử Việt Nam, các chuyên đề, luận văn, luận án được viết bằng tiếng
T
7
3

Việt, Pháp, Anh, Nga. Những tài liệu sử học thế giới và Đông Nam Á như: “Lịch sử Trung
Quốc” của Nguyễn Hiến Lê, “Trung Quốc sử lược” của Phan Khoang, “Lịch sử quan hệ Hoa
- Việt” của Quách Đình Dĩ, “Thanh Số cảo”...”Lịch sử Thái Lan”,” Lịch sử vương quốc Thái
7
T3
6


7
T3
6

Lan” của Lê Văn Quang, “Lịch sử Đông Nam Á thời cổ”,”Chân Lạp phong thổ ký” của Châu
Đạt Quan, “Lịch sử Lào”, “Lịch sử Lào - Viên Chăn” của Vi-ra-vông (Nguyễn Thế Vĩnh
dịch), “Lịch sử Cam-pu-chia”... Những tài liệu này được sử dụng để thực hiện các nội dung
quan hệ giữa triều Nguyễn với các nước trên.
- Các tư liệu liên quan đến đề thi, từ các tạp chí, báo tiếng Việt và tiếng Pháp cũng là
T
7
3

2
T4
7
3

2
T4
7
3

nguồn tham khảo quan trọng.
- Ngoài ra những tư liệu từ các hội nghị khoa học về triều Nguyễn được tổ chức
T
7
3


7
T3
6

7
T3
6

trong nước, tư liệu từ các hội nghị khu vực Đông Nam Á... cũng được tác giả tham khảo khi
7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

thực hiện đề tài.
10

7
T3
6


5. Những đóng góp của luận án:

Qua sưu tầm, xử lý, nghiên cứu nhiều nguồn tư liệu khác nhau, tác giả nêu lên được các
T
7
3

vấn đề sau:
- Khôi phục một cách hệ thống, hoàn chỉnh về cơ bản lịch sử ngoại giao Việt Nam nửa
T
7
3

đầu thế kỷ 19. Nội dung - thực chất - tính chất của các mối quan hệ ngoại giao trên.
- Luận án xác lập những tiền đề văn hóa, chính trị, lịch sử để làm sáng tỏ những đặc điểm
T
7
3

có tính quy luật trong việc hoạch định những đường lối, chính sách ngoại giao của triều
7
T3
6

7
T3
6

Nguyễn. Trên cơ sở đó, luận án nêu lên những đóng góp và hạn chế của quan hệ ngoại giao
triều Nguyễn, tác động của nó đối với tiến trình lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19.
- Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những nhận định, đánh giá đã có về ngoại giao triều
T

7
3

Nguyễn, tác giả mong muốn đưa ra vài kết luận theo nhận thức mới về triều Nguyễn, về giai
cấp phong kiến và chế độ phong kiến trong lịch sử dân tộc.
- Từ những kinh nghiệm ngoại giao của triều Nguyễn cũng như của lịch sử ngoại giao
T
7
3

7
T3
6

7
T3
6

thời phong kiến, luân án góp phần rút ra những bài học có tính thực tiễn đối với ngoại giao thời
2
T4
7
3

2
T4
7
3

hiện đại.


11


CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH QUỐC TẾ, KHU VỰC VÀ VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ 19
1.1. Hoàn cảnh quốc tế và khu vực nửa đầu thế kỷ 19:
Một nội dung quan trọng của lịch sử thế giới thời cận đại vào đầu thế kỷ 19 là sự phát
T
7
3

triển và toàn thắng của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới. Châu Âu và Bắc
Mỹ đã tiến hành Cách mạng tư sản từ thế kỷ 16 và đến những năm 50 của thế kỷ 19 thì hoàn
7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6


thành cách mạng tư sản. Chủ nghĩa tư bản trở thành hệ thống thế giới và giai cấp tư sản trở
2
T4
7
3

2
T4
7
3

thành giai cấp thống trị - có quyền lực vô hạn về kinh tế. Để phát triển và tăng cường lợi nhuận
về kinh tế, giai cấp tư sản đã cách mạng hóa công nghiệp, cải tiến kỹ thuật thực hiện cuộc cách
mạng công nghiệp từ thế kỷ 18 cho đến giữa thế kỷ 19, để đưa lại một nước thay đổi lớn lao
7
T3
6

7
T3
6

trong kinh tế. Lao động bằng máy móc ra đời, thay thế cho lao động thủ công chân tay
đã đưa năng suất lao động lên cao chưa từng có.
7
T3
6

7
T3

6

Trong nửa đầu thế kỷ 19, do những tiến bộ vượt bậc về kinh tế của khoa học kỹ thuật thời
T
7
3

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

cận đại, giai cấp tư sản ở các cường quốc phương Tây đã có thể tiến xa hơn trong hành trình
7
T3
6

7
T3

6

tìm kiếm và khám phá ra những vùng đất xa xôi mà trước khi họ chưa có khả năng, điều kiện
để đặt chân đến. Lợi dụng những phát kiến về địa lý, những tiến bộ về khoa học kỹ thuật, giai
7
T3
6

7
T3
6

cấp tư sản phương Tây tăng cường tìm kiếm xâm lược thuộc địa nhằm đáp ứng cho sự phát
triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở chính quốc. Một trong những nhân tố tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tìm kiếm và xâm lược thuộc địa của tư bản Âu - Mỹ là sự tiến bộ của ngành giao
2
T4
7
3

2
T4
7
3

7
T3
6

7

T3
6

thông vận tải. Năm 1830, trên thế giới có không quá trên 332 km đường sắt, đến năm 1870 con
7
T3
6

7
T3
6

số trên trở thành 200.000 km. Năm 1807, chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước đầu tiên xuất hiện
7
T3
6

7
T3
6

trên thế giới, đến năm 1836 ở Anh - một trong những nước đầu tiên làm cách mạng tư sản
7
T3
6

7
T3
6


7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

thành công - đã có 500 tàu thủy hoạt động.
Ngoài sự phát triển của đường sắt, đường thủy, đường hàng không cũng đạt những thành
T
7
3

tựu đáng kể. Ngành viễn thông cũng đã phát triển nhanh chóng và tạo điều kiện thuận lợi tăng
cường sự hiểu biết của phương Tây đối với phương Đông hoang sơ và giàu có. Cuộc cách
mạng công nghiệp đầu tiên của chủ nghĩa tư bản trong thế kỷ 18, 19 đã tạo điều kiện cho việc
mở mang đất của thực dân được tăng cường. Những đế quốc dần hình thành với nhiều vùng
7
T3
6


7
T3
6

đất, nhiều dân tộc khác nhau.

12


Như vậy, vào đầu thế kỷ 19 cùng với sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản trên thế giới là sự
T
7
3

tăng cường xâm nhập và n ô dịch thuộc địa của phương Tây. Quá trình phát sinh, phát triển của
7
T3
2

7
T3
2

2
T4
7
3

2
T4

7
3

chủ nghĩa tư bản gắn liền với sự xâm lược thuộc địa. Ngay trong buổi bình minh của chủ nghĩa
tư bản, vào thế kỷ 16 thì đại bộ phận của châu Mỹ - Latinh đã trở thành thuộc địa của đế quốc
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Nhiều vùng duyên hải châu Á, châu Phi cũng không t hoát khỏi số
7
T3
1

7
T3
1

phận trở thành thuộc địa của tư bản phương Tây. Từ cuối thế kỷ 18 vì những lý đo kinh tế 7
T3
2

chính trị như đã trình bày, việc xâm chiếm thuộc địa được g iai cấp tư sản thống trị các nước
7
T3
2

7
T3
1

7
T3
1


đẩy mạnh. Nói một cách khác, chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển thì nguy c ơ đe đọa độc
7
T3
1

7
T3
1

lập của các nước phương Đông càng trở nên nghiêm trọng.
Giai cấp tư sản phương Tây đã đi khắp nơi trên thế giới để tìm đến mọi mục tiêu có thể
T
7
3

thâm nhập. Họ không từ bất cứ một thủ đoạn nào từ mua chuộc, lừa bịp đến dùng vũ lực, đàn
áp quân sự và núp dưới chiêu bài đi truyền giáo, thương mại... để che đậy âm mưu xâm lược
của mình.
Hầu hết các nước tư bản phương Tây đều có những lý do xác đáng để biện minh cho việc
T
7
3

đi tìm và xâm chiếm thuộc địa của mình. Chính sách bành trướng thuộc địa là động cơ chung
lôi cuốn các nước châu Âu, và nội dung chủ yếu trong đường lối đối ngoại của tư bản phương
2
T4
7
3


2
T4
7
3

Tây là xâm lược thuộc địa. Thuộc địa là nơi có ý nghĩa quan trọng đặc biệt với chính quốc: nơi
cung cấp lương thực, nguyên liệu, nhiên liệu, nhân công; nơi tiêu thụ hàng hóa của chính quốc
và đem lại nguồn lợi n huận kếch xù cho nhà tư bản. Do tầm quan trọng của thuộc địa như vậy,
7
T3
1

7
T3
1

nên giai cấp tư sản phương Tây đã bất chấp mọi luật lệ, quyền lợi của các dân t ộc phương
7
T3
1

7
T3
1

Đông để tìm cách xâm nhập vào châu Á, Phi, Mỹ - Latinh.
Vào thế kỷ 19, hầu hết các quốc gia châu Á, Phi, Mỹ - Latinh đang ở trong giai đoạn phát
T
7

3

triển của chế độ phong kiến. Ở một số nước thuộc châu Phi c òn ở trong tình trạng bộ lạc và
7
T3
2

7
T3
2

7
T3
2

7
T3
2

thậm chí đang còn tồn tại chế độ cộng sản nguyên thủy. Đầu thế kỷ 19 châu Phi đã tự làm suy
yếu mình bởi những cuộc xung đột và nội chiến liên miên và trở thành đối tượng cho tham
vọng của các quốc gia tư bản Tây phương.
Cùng số phận với châu Phi là khu vực châu Mỹ - Latinh, nhiều đất đai ở châu Mỹ T
7
3

2
T4
7
3


2
T4
7
3

Latinh bị Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha xâm chiếm. Đến đầu thế kỷ 19 thì toàn bộ châu Mỹ Latinh đã mất độc lập. Thực dân phương Tây đã tìm mọi cách thiết lập trật tự của chúng trên

13


khu vực châu Mỹ - Latinh nhằm kìm hãm các dân tộc châu Mỹ - Latinh trong yếu kém, lạc hậu
để dễ bề thống trị và nô dịch.
Bước vào thế kỷ 19, châu Á đang ở trong giai đoạn phát triển của chế độ phong kiến.
T
7
3

2
T4
7
3

2
T4
7
3

Nhìn riêng lẻ từng quốc gia thì chúng ta thấy vẫn có sự phát triển nhất định nhưng so sánh với
7

T3
6

7
T3
6

phương Tây đã tiến hành cách mạng công nghiệp thì châu Á có trình độ phát triển chậm chạp
2
T4
7
3

2
T4
7
3

và kém hơn. Đa số các vương quốc phong kiến châu Á đều có nền kinh tế nông nghiệp, kỹ
thuật canh tác lạc hậu, năng suất lao động thấp, chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến phần nào
triệt tiêu động lực sản xuất của người lao động, đời sống nông dân, nhân dân lao động nói
chung lâm vào cảnh bần cùng. Công - thương nghiệp cũng chẳng khá hơn, mọi hoạt động của
thương mại đều bị trở ngại lớn, đó là chính sách “bế quan” , một chính sách mà hầu như nước
châu Á nào cũng áp dụng như một cách tự vệ trước nguy cơ xâm nhập của phương Tây.
Trung Quốc, Nhật Bản, Xiêm La, Việt Nam... đều từ chối mở cửa thông thương với bên
T
7
3

ngoài. Tại Trung Quốc chính sách này được tăng cường từ giữa đời Thanh. Cuối thế kỷ 18 đến

đầu thế kỷ 19, nhà Thanh chỉ mở một cửa biển Quảng Châu để thông thương với nước ngoài.
Nhật Bản dưới sự trị vì của Xô-gun cũng đóng cửa không chịu thông thương với nước ngoài
và chỉ mở cửa bể Nagasaki. Xiêm, Việt Nam và một số quốc gia Đông Nam Á cũng khước từ
mọi đề nghị thông thương của phương Tây, trong khi “điều quan trọng là chủ nghĩa tư bản
không thể tổn tại và phát triển rộng nếu không thường xuyên mở rộng phạm vi thống trị của
nó, không khai thác những xứ sở mới và không lôi cuốn các xứ sở cũ không phải tư bản chủ
nghĩa vào cơn lốc kinh tế thế giới” [35,766]. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì nhu cầu
thuộc địa càng gia tăng, giai cấp tư sản tìm mọi cách mở cửa vào thị trường châu Á, trong
7
T3
6

7
T3
6

khi xã hội châu Á vẫn tiếp tục ở trong “giấc mộng của sự bế quan”. Các nước châu Á từ chối
7
T3
6

7
T3
6

quan hệ với phương Tây, cố thủ trong một đường lối đối ngoại “tự cô lập”. Tất cả điều đó
khiến cho châu Âu ý thức được ưu thế của mình, người phương Tây thực tế hơn, khoa học hơn
và vật chất hơn trong công cuộc đi chinh phục đất đai. Họ đã lợi dụng sự lạc hậu, yếu kém về
kinh tế, chính trị, xã hội của các nước châu Á để bắt ép hoặc dùng ưu thế về sức mạnh quân sự,
buộc giai cấp cầm quyền các nước này “mở cửa”, mở đường cho công cuộc đi “khai hóa” một

cách có hệ thống vào đầu thế kỷ 19. Lịch sử của phong trào đấu tranh chống thực dân đầu thế
kỷ 19 ở phương Đông cho thấy một điều là giáo, mác, gươm, đao không thể nào đương đầu nổi
với vũ khí kỹ thuật tối tân của phương Tây. Tuy nhiêu tinh thần và ý chí bất khuất của
các dân tộc châu Á buộc kẻ đi xâm lược phải kính phục. Sự thất bại của các cuộc kháng chiến
7
T3
6

7
T3
6

2
T4
7
3

14

2
T4
7
3


chống xâm lược ở một số nước phương Đông sau này do nhiều nguyên nhân: Đó là sự yếu
kém về tiềm lực đất nước, sự cô lập với thế giới bên ngoài dẫn tới sự kém nhạy bén với tình
hình phương Tây, sự lạc hậu về kỹ thuật tác chiến v.v...Và quan trọng hơn đó là tình trạng chia
cắt, biệt lập trong đa phần các nước châu Á, điều này tạo điều kiện cho thực dân dễ dàng thực
hiện chính sách “chia để trị”. Thực tế lịch sử ở Ấn Độ cho thấy, khi Anh chiếm Ấn Độ, đất

nước này đang bị chia cắt thành 560 lãnh địa (gọi là công xã nông thôn), các lãnh chúa của các
công xã lại luôn gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau. Các Mác đã tả về sự tồn tại của các công
xã trên như một bằng chứng sinh động và chân thực về xã hội của phần lớn các vương quốc
châu Á trước lúc người da trắng đến: “ Những công xã ấy đã hạn chế lý trí con người trong
những khuôn khổ chật hẹp nhất, làm cho nó trở thành công cụ ngoan ngoãn của mê tín, trói
buộc nó bằng những xiềng xích nô lệ của các quy tắc cổ truyền, làm cho nó mất hết mọi sự vĩ
đại, mọi tính chủ động lịch sử” [46,559]. Không riêng gì Ấn Độ, Nhật Bản thời kỳ này tình
trạng cát cứ giữa các phiên cũng là nguyên nhân hạn chế rất lớn đến sự phát triển của đất nước
này. Nước Lào từ năm 1700 cũng bị chia cắt thành hai xứ: Luang - Phabang và Vientiane, gần
100 năm sau mới thống nhất, nhưng sau đó luôn bị các nước lớn xâm lấn, chia cắt...
Về phía giai cấp cầm quyền phong kiến châu Á, đứng trước nguy cơ đe dọa độc lập quốc
T
7
3

gia, họ lại thi hành một chính sách đối nội không đáp ứng yêu cầu và quyền lợi của đất nước,
của dân tộc. Nhà nước phong kiến sử dụng ngân sách quốc gia vào những việc không cần
thiết: xây lâu đài, lăng mộ v.v...Trong lĩnh vực ăn chơi phung phí thì vua quan nhà Thanh
(Trung Quốc) là ví dụ tiêu biểu nhất. Đặc biệt khi thuốc phiện được đưa vào Trung Quốc, thì
phần lớn quan lại, quân lính Trung Quốc đâm ra nghiện ngập tạo nên sự tha hóa trong bộ máy
chính quyền nhà nước. Ở Việt Nam các vua Nguyễn trước nguy cơ mất nước vẫn thực hiện
việc xây lăng mộ quy mô và tốn kém (việc xây dựng Vạn niên cơ của vua Tự Đức).
Đa số giai cấp thống trị châu Á về cơ bản thiếu một sự chuẩn bị đối phó với nguy cơ
T
7
3

ngoại xâm, không tích cực xây dựng, củng cố quốc phòng, chấn hưng và phát triển kinh tế,
thực hiện việc đổi mới vế các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, tự mình làm suy yếu
2

T4
7
3

2
T4
7
3

mình. Trong tình thế đó, nhân dân dù có tinh thần chống xâm lược rất ngoan cường, cuối cùng
giai cấp phong kiến cũng phải nhượng bộ thực dân. Như vậy, sự phát triển mạnh mẽ của chủ
nghĩa tư bản thế giới trong đầu thế kỷ 19 là tiền đề dẫn đến việc tăng cường chính sách bành
trướng thuộc địa của các cường quốc tư bản. Châu Á là một trong những mục tiêu mà tư sản

15


phương Tây chú ý và tìm cách xâm nhập. Phần lớn các quốc gia phong kiến ở đây đã không tự
2
T4
7
3

2
T4
7
3

bảo vệ nổi mình và trở thành miếng mồi của chủ nghĩa thực dân.
Trong cuộc chạy đua vào châu Á , tư bản Anh, Pháp, Mỹ, Hà Lan... là những nước chiếm

T
7
3

được nhiều thuộc địa hơn cả. Riêng khu vực Đông Nam Á, Anh và Pháp đã khống chế nhiều
vùng kinh tế - chính trị quan trọng của con đường biển từ Âu sang Á. Tây Ban Nha và Bồ Đào
Nha chiếm khu vực đảo (Indonesia, Philippin). Anh, Mỹ khống chế các vùng Đông Bắc Á,
Nam và Tây Nam Á...
Tại Đông Nam Á (South East Asia), một khu vực địa lý, lịch sử quan trọng, từ thế kỷ 16
T
7
3

đến đầu thế kỷ 19 cũng bắt đầu quá trình suy thoái. Đối diện với văn minh phương Tây và với
nguy cơ xâm nhập của tư bản nước ngoài, giai cấp phong kiến cầm quyền các vương quốc
2
T4
7
3

2
T4
7
3

ở khu vực Đông Nam Á đều lúng túng, bế tắc. Sự trì trệ của chế độ phong kiến đa
2
T4
7
3


2
T4
7
3

góp phần làm cho giới thống trị luẩn quẩn không tìm thấy đối sách thích hợp để thay đổi vận
7
T3
6

7
T3
6

mệnh đất nước và bắt kịp được vận hội mới của thời đại.
Trong suốt ba thế kỷ (thế kỷ 16 đến thế kỷ 19) các nước Đông Nam Á đã không có một
T
7
3

7
T3
6

7
T3
6

cải cách, canh tân gì nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo kiểu của nước Nhật: “Các

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

2
T4
7
3

2
T4
7
3

xã hội truyền thống đã bóp chết tư tưởng cách tân liên kinh tế ngày càng đi vào suy vi,
7
T3
6


7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

tính phân liệt ngày càng lớn. Sức mạnh của nền thống nhất để duy trì độc lập trong những giai
7
T3
6

7
T3
6

đoan trước không còn nữa. Cuối thế kỷ 19 lần lượt các nước đều trờ thành thuộc địa hoặc vùng
ảnh hưởng của thực dân phương Tây” [13,31]. Sau khi tìm ra đường biển sang phương Đông,
người châu Âu lần lượt đến Đông Nam Á. Năm 1511 đánh dấu một mốc quan trọng trong việc
chinh phục vùng Đông Nam Á của thực dân phương Tây. Bồ Đào Nha chiếm Malacca. Năm
7
T3
6


7
T3
6

1790, Anh chiếm đảo Penang mở đầu việc xâm chiếm Malaysia, một năm sau Malaysia lần
lượt bị Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh xâm chiếm. Philippin cũng bị Tây Ban Nha dần dần thôn
tính từ giữa thế kỷ 16. Indonesia cũng bị Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan xâu xé và vào
năm 1811, Hà Lan độc chiếm được nước này. Singapo thì bị Anh chiếm vào năm 1824, Anh
thành lập “đất thuộc địa e o biển” , sáp nhập Singapo vào lãnh thổ của Anh. Tại Miến Điện,
7
T3
1

7
T3
1

thực dân Anh đã tiến hành ba cuộc chiến tranh vào các năm 1824 - 1826, 1826 -1853 và
7
T3
6

7
T3
6

1885 để thôn tính đất nước này. Sau khi chiếm Miến, Anh tiếp lục thôn tính Brunei.
7
T3
6


7
T3
6

Thực dân Pháp thì tìm cách vào Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia).
T
7
3

16


Như vậy vào thế kỷ 19 các nước tư bản Âu - Mỹ đã kỹ nghệ hóa và thị trường châu Mỹ,
T
7
3

2
T4
7
3

2
T4
7
3

7
T3

6

7
T3
6

2
T4
7
3

2
T4
7
3

châu Âu đã được phân chia ổn định nên các nước tư bản chỉ còn cách tìm đường sang các đại
lục khác. Đầu tiên tư bản tìm cách bành trướng vế kinh tế (expansion fínancière), rồi tiến đến
đô hộ chính trị, chiếm thuộc địa và lập khu vực ảnh hưởng kinh tế (zone d' influence
7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6


7
T3
6

7
T3
6

économique...). Để đạt được mục đích đó, giai cấp tư sản đã quét sạch mọi trở ngại, mở con
7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

đường khai thông từ Ân sang Á bằng những cuộc chiến tranh đẫm máu.
7
T3
6

Trong thế kỷ 19, Đông Nam Á đã trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương
T
7

3

T7
3
1

T7
3
1

Tây. Tại khu vực này chỉ có nước Xiêm La vẫn giữ được độc lập về chính trị. Thực chất Xiêm
2
T4
7
3

2
T4
7
3

chỉ độc lập về mặt hình thức, bởi bị ràng buộc hàng một loạt các hiệp ước bất bình đẳng được
ký với Anh, Pháp, Hà Lan, Hoa Kỳ, Nhật, Đức...
Trong bối cảnh của cả khu vực như vậy, Việt Nam không thể đứng ngoài những biến
T
7
3

động chính trị mà tư bản phương Tây tạo nên trong quá trình tìm kiếm thuộc địa và khu vực
7

T3
6

7
T3
6

ảnh hưởng.
Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, khu vực mà thực dân Pháp ráo riết tìm cách
T
7
3

đặt ách thống trị, đặc biệt là sau khi Pháp thất bại với Anh trong việc tranh giành quyền lợi trên
bán đảo Ấn Độ từ cuối thế kỷ 18.
Cũng như các quốc gia khác ở Đông Nam Á, Việt Nam không có điều kiện, khả năng đi
T
7
3

7
T3
6

7
T3
6

theo con đường của Nhật Bản, hoặc ở trong hoàn cảnh như Xiêm La. Giai cấp thống trị phong
2

T4
7
3

2
T4
7
3

kiến Việt Nam vào đầu thế kỷ 19 được lịch sử đặt ra những thử thách và chọn lựa vô cùng
nghiệt ngã: giữ vững độc lập nước nhà hay để mất nước vào tay thực dân đế quốc. Trong bối
cảnh lịch sử đó, các vua đầu triều Nguyễn đã có những cống hiến cũng như đã để lại những di
7
T3
6

7
T3
6

hại cho Tổ quốc.

1.2. Tình hình Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19:
Việt Nam vào đầu thế kỷ 19 nằm dưới sự trị vì của vương triều Nguyễn. Lịch sử đã ghi
T
7
3

7
T3

6

7
T3
6

nhận dưới triều Nguyễn Việt Nam là một nước thống nhất sau mấy trăm năm phân tranh, loạn
lạc. Triều Nguyễn đã xây dựng Việt Nam thành một nước có quy mô và gây được uy thế trong
vùng. Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi, tái lập chế độ chuyên chế, từng bước xây dựng và
củng cố hệ thống cai trị. Triều Nguyễn được kiến thiết trong những hoàn cảnh hết sức khó
7
T3
6

7
T3
6

khăn, gian khổ, nên Gia Long khi lập đế nghiệp đã tận tâm, nổ lực, kiên trì và khôn khéo để ổn
định chính sự, vỗ yên lòng dân, khôi phục kinh tế. Tuy nền quân chủ Việt Nam được phục hồi
17


trong cái xu thế tan rã chung của chế độ phong kiến trên thế giới từ đầu thế kỷ 17, nhưng bước
đầu Gia Long cũng đã ổn định lại được tình hình đất nước ta sau gần 30 năm chiến tranh.
Về chính trị - xã hội, Gia Long đã thiết lập lại bộ máy c hính trị quân chủ, Vua là người
T
6

7

T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6


T1
6

T1
6

T1
6

7
T3
1

đứng đầu nhà nước, có quyền lực vô hạn không một thứ quyền nào khống chế được. Mệnh
lệnh nhà vua ban ra phải được thi hành triệt để như điều 60 bộ luật Gia Long tin quy định “ai
nhận chế thư mà không thi hành sẽ bị tội đánh 100 trượng, nếu chậm thi hành thì bị tội xuy
T7
3
1

T7
3
1

đánh mỗi ngày 50 roi”. Dưới nhà vua, có 6 Bộ: bộ Lại, bộ Hình, bộ Hộ, bộ Lễ, bộ Binh, bộ
Công. Đứng đầu mỗi bộ là một vị quan chức thượng thư rồi đến các chức Tả, Hữu tham tri, Tả,
Hữu thị Lang. Ngoài ra có các cơ quan chuyên môn như: Đô sái viện, Hàn lâm viện, Thái y
viện... Nhưng để tập trung quyền lực Gia Long đặt ra lệ “Tứ bất” (không đặt chức Tể tướng,
không lấy Trạng nguyên, không lập Hoàng hậu, không phong tước vương cho người khác).

Đến thời Minh Mạng, ông đặt thêm Cơ mật viện lấy 4 đại thần ở các bộ để cùng vua bàn bạc
việc quân quốc quan trọng. Minh Mạng còn đặt Tôn Nhân Phủ để quản lý việc của Hoàng gia.
Quyền hành quốc gia tập trung vào vua một cách tuyệt đối, phản ánh quá trình tập trung quân
chủ cao độ ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 19. Vua là thiên tử thay trời trị dân và trong hoàn cảnh
2
T4
7
3

2
T4
7
3

rối ren, mong manh của thời hậu chiến, việc tập trung quyền lực như là biện pháp nhằm thúc
đẩy nhanh sự ổn định trong cả nước tuy nhiên sự tập trung quyền lực một cách tuyệt đối cũng
đã tạo ra mội khoảng cách lớn giữa vua với dân chúng, khiến cho vua khó tiếp cận với dân
tình.
Về quản lý hành chánh, Gia Long sắp đặt cơ cấu hành chính căn bản. Đây là lần đầu tiên
T
1
2

7
T3
1
2

ở nước ta các tổ chức hành chính được xếp đặt rất qui củ theo nguyên tắc tập trung. Cả nước
được chia thành 23 trấn 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc Thành, từ Bình Thuận trở vào

gọi là Gia Định Thành. Cai quản Bắc Thành và Gia Định Thành là tổng trấn và phó tổng trấn.
Miền Trung có kinh đô Huế chịu sự cai trị trực tiếp của Triều đình Huế. Từ thời Minh Mạng
trở đi, chế độ trung ương tập quyền được tăng cường, Bắc Thành và Gia Định Thành bị bãi bỏ,
cả nước được chia thành 29 tỉnh, đồng thời vua còn đặt thêm chức quan ở miền núi nhằm ổn
2
T4
7
3

2
T4
7
3

định trật tự trong cả nước theo nguyên tắc chung, và điều này tạo nên sức mạnh cho hệ thống
chính trị Việt Nam đầu thế kỷ 19.
Theo tác giả của bộ “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam” [95] thì hệ thống chính trị của
T
7
3

Việt Nam dưới thời Nguyễn là quan liêu, độc đoán .v.v...Thực ra trong bối cảnh lịch sử Việt
Nam từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, để thiết lập lại trật tự kỷ cương từ lâu bị xao lãng bởi
18


chiến tranh liên miên, cần phải có sự tập trung chuyên chính cao độ của nhà nước trung ương
tập quyền. Điều cơ bản là những ông vua đầu triều Nguyễn đều chăm lo việc nước, có trách
nhiệm với nước với dân. Theo John Barrow trong cuốn “Voyage à la Cohinchine” thì Gia
Long là một vị vua chăm chỉ và mẫu mực về cần chính “sáng 6 giờ ông đã thức dậy và tắm

nước lạnh, 7 giờ tiếp kiến các quan lại.. Đến trưa có khi một giờ ông mới ăn trưa và ăn tại hải
xưởng. Hai giờ chiều ông mới về Cung ngủ đến 5 giờ...Sau đó ông lại tiếp các võ quan thủy
bộ, các quan ký lục cai bạ, chấp thuận hay sửa chữa các dự án đề nghị. Các việc nước này làm
ông bận rộn tới nửa đêm...Tóm lại, vua Gia Long trong 24 giờ một ngày chỉ nghỉ chừng 6 giờ”
[140, 269]. Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng là những ông vua cần mẫn, chịu khó trong
công việc trị nước. Minh Mạng tự mình xem và phê duyệt tất cả những chương sở. “ Quốc
2
T4
7
3

2
T4
7
3

triều chính biên toát yếu” viết: “Ngài minh thận việc chính trị: phàm những chương sớ trong
ngoài dâng lên, Ngài đều xem hết, việc thường, thời điện dụ cho các Nha, nghị chỉ phê phát,
còn việc quan trọng thời phần nhiều Ngài nghị soạn lời chỉ, hoặc giao bản thảo, hoặc châu phê.
Những tờ chỉ dụ triều đình mới có châu bản từ đây là đầu” [69, 108].
2
T4
7
3

2
T4
7
3


Nhìn chung, các vua Nguyễn đã có những đóng góp nhất định trong các chính sách đối
T
7
3

T7
3
1

T7
3
1

nội, nhằm thiết lập lại kỷ cương trật tự trong nước, ổn định chính sự và lòng người. Gia Long
khi mới đến Bắc hà đã ủy lạo, kêu gọi quan lại triều cũ, cùng nhân sĩ ra cống hiến tài năng cho
việc xây dựng tổ quốc. Dụ của Gia Long viết: “ Buổi này là buổi dấy điều giao hảo và sửa việc
chính trị, nhân tài ở đời, lẽ nào trọn đời bạn cùng cây cỏ. Vậy nên chuyển báo với nhau đến nơi
hành tại trình tiền quân Nguyễn Văn Thành... đem vào yết kiến. Trẫm sẽ xét lời nói, thử công
việc, tùy tài bổ dụng, để cho người hiền kẻ tài có chức vị, hiệp ý bày mưu, giúp nên chánh đạo”
[69, 49]. Để lấy lòng dân và tránh các vụ biến chính trị lấy danh nghĩa “phò Lê”, Gia Long
phong cho con cháu nhà Lê là Lê Duy Hoán làm Diên Tự Công “cấp 1.016 tên từ phu, 100.000
7
T3
6

7
T3
6

mẫu tự điền, lại tha binh và thuế thân cho con cháu nhà Lê, cấp 500 mẫu tư điền cho họ Trịnh,

khiến Trịnh Tư coi việc tế tự, lại tha binh diêu thuế thân cho 240 người con cháu họ Trịnh.
T
7
3

T
7
3

Cho con cháu mấy ông khai quốc Công thần và trung hưng, Công thần nhà Lê đều được
T
7
3

dự vào hàng Nhiêu ấm tức là hạng tha việc quan và đi lính”[69. 51]
Ngoài ra, để giảm bớt khó khăn cho dân, Gia Long miễn thuế trong mấy năm đầu và cấp
T
7
3

7
T3
6

7
T3
6

vốn cho dân cày cấy, lập kho cứu tế... đây là những biện pháp nhân đạo, tiến bộ, dù trên thực tế
những chính sách an dân đó khó đến được với dân chúng một cách đồng đều, do tầng lớp quan

7
T3
6

7
T3
6

lại địa phương tham ô, bớt xén.
19


Gần 20 năm trị vì đất nước, những việc mà Gia Long đã làm cũng cần được lịch sử ghi
T
7
3

nhận một cách công bằng. Ông đã khôi phục trật tự xã hội - đưa một xã hội “chính sự loạn lạc”
7
T3
6

7
T3
6

vào khuôn phép nề nếp, vận hành ổn định, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi về cơ bản
an ninh trật tự trong nước (trừ những vùng xa xôi, hẻo lánh). Toàn bộ sinh hoạt đất nước được
chỉnh trang, đường sá trạm dịch được đặt lại. Đoạn văn miêu tả sau đây sẽ giúp chúng ta hình
dung quang cảnh giao thông được cải thiện thời ấy: “Đầu thế kỷ 19, vua Gia Long tu bổ con

7
T3
6

7
T3
6

đường thiên lý ấy lại (con đường cái quan to nhất) để làm đường liên lạc 3 xứ Bắc – Trung 7
T3
6

7
T3
6

Nam, cứ cách 15 km lại đặt một nhà trạm, có phu trạm” [2, 87] đường bộ chủ yếu là đường
7
T3
6

7
T3
6

quan báo (Route mandarine) phu được nhà nước trả tiền. “cứ 1.000 trượng đường thì phát
7
T3
6


7
T3
6

10.000 phương thóc” [87, 9]. Sinh hoạt xã hội trở lại thời bình, pháp luật chính lệnh thống
nhất từ Nam ra Bắc dưới một chế độ (cho đến cuối 1815 nước ta vẫn áp dụng luật pháp nhà Lê,
7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6


7
T3
6

7
T3
6

7
T3
2

T2
6

7
T3
6

năm 1811 Gia Long đã cho biên soạn bộ luật mới cho phù hợp với quốc gia thống nhất và
1815 bộ luật Gia Long được ấn hành)
Từ tình hình chính trị - xã hội nêu trên, có thể nói Việt Nam vào đầu thế kỷ 19 đã trở
T
7
3

thành một vương quốc phong kiến lớn mạnh, đặc biệt vào thời Minh Mạng Việt Nam xứng
đáng là Đại Nam, uy tín của nước ta được lân bang thừa nhận, thanh thế Việt Nam được
khuyếch trương trong khu vực. Một điều không thể phủ nhận là đời sống xã hội Việt Nam
thỉnh thoảng lại bị xáo động bởi những cuộc nổi d ậy chống đối lại triều đình, quan lại hà khắc,

7
T3
1

7
T3
1

có những vụ nổi dậy lớn như của Phan Bá Vành, Nông Văn Vân, Cao Bá Quát... Nhưng không
7
T3
1

7
T3
1

thể cho rằng đây là nội dung chủ yếu của thời kỳ lịch sử này hoặc từ đó cho rằng tình hình xã
7
T3
6

7
T3
6

hội Việt Nam không khi nào ổn định. Nếu xét nội dung của tiến trình lịch sử Việt Nam đầu thế
7
T3
6


7
T3
6

kỷ 19 thì những cuộc nổi dậy mang xu hướng chống đối triều Nguyễn chỉ là một trong những
7
T3
6

7
T3
6

nguyên nhân tạo nên cục diện chính trị bất ổn, trong khi nội dung quan trọng của tiến trình lịch
sử đầu thế kỷ 19 chính là sự tăng cường vững mạnh của chế độ chính trị Việt Nam so với các
nước trong khu vực. Vương triều Nguyễn đã được công nhận là bộ máy chính quyền chủ động
điều khiển vận mệnh tình thế quốc gia, mở mang bờ cõi (đặc biệt vào thời vua Minh Mạng), an
ninh quốc phòng được giữ vững và hiệu quả hơn trước. Sức mạnh của chính quyền phong kiến
trung ương tập quyền đầu thời Nguyễn còn được thể hiện ở tổ chức quân đội có quy mô và
2
T4
7
3

2
T4
7
3


thích ứng với sinh hoạt kinh tế nông nghiệp. Việc duy trì số quân lớn nhưng không gây xáo
7
T3
6

7
T3
6

trộn trong sinh hoạt xã hội bởi triều Nguyễn sử dụng phương pháp tuyển binh khéo léo, linh
7
T3
6

7
T3
6

hoạt theo phép gian binh và lệ biền binh. Phép giãn binh được áp dụng từ Quảng Bình vào
7
T3
6

7
T3
6

20



Bình Thuận cứ 3 suất đinh lấy một lính; từ Biên Hòa trở vào năm suất đinh lấy một lính; từ
7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

Bắc sông Gianh trở ra 7 suất đinh lấy một lính. Triều đình cấp thêm một suất ruộng cho người
đi lính để người nhà cày cấy (hương điền). Lệ biền binh nhằm thực hiện chính sách “ngụ binh
ư nông” binh lính chia thành 3 phiên, cứ 2 phiên về quê, 1 phiên tại ngũ, cứ thế luân phiên
nhau. Việc tổ chức phòng vệ quốc gia được thể hiện qua những hệ thống phòng thủ ở những
nơi quan yếu. Các ông vua đầu thời Nguyễn tiêu biểu như Minh Mạng, luôn theo dõi diễn biến
tình hình chính trị trên thế giới để có biện pháp phòng thủ đất nước kịp thời. Khi chiến tranh
Nha phiến bùng nổ ở Trung Quốc, Minh Mạng lập tức tăng cường việc phòng thủ Đà Nẵng và
dọc biển Quảng Nam, vua dụ: “Nay nghe nước Anh Cát Lợi gây hấn với nước Thanh có thể
xảy ra chinh chiến. Nước ta giáp với nước Thanh mà vùng Trà Sơn ở cửa bể Đà Nẵng trước
đây tàu thuyền nước ngoài thường tạm đóng nay cần phải dò xét tuần phòng để vững cửa bể “
[72, III, 275].
Từ thời Gia Long quân đội đã được trang bị chu đáo, vào thời điểm quân Nguyễn chiến
T

7
3

thắng Tây Sơn thì quân đội đã lên tới con số “130.000 người: 15 pháo binh, 800 tượng binh
với 200 con, 12.000 ngự lâm quân, 200 tàu thuyền lớn có từ 16 đến 22 đại bác, 500 thuyền nhỏ
có độ 40 đến 44 lay chèo vũ trang, súng bắn đá và một đại bác ở mũi, 100 thuyền lớn từ 50 đến
70 tay chèo và có bố trí nhiều đại bác. Tổng số thủy quân có 17.600 người, trong đó có 1.200
người phục vụ cho 3 chiến hạm mua của người Âu” [ 14, 119 ]. Như vậy một điều thấy rõ là
tuy không có điều kiện được trang bị theo kiểu một đội quân hiện đại, song quân Nguyễn
không hoàn toàn xa lạ với súng ống và chiến hạm châu Âu. Quân đội Triều Nguyễn cũng
không thiếu tinh thần và quyết tâm chiến đấu. Những trường hợp như Võ Văn Tình 70 tuổi,
Nguyễn Công Trứ khi đã về trí sĩ... vẫn xin đi đánh Pháp không phải là cá biệt đã phản ánh tinh
2
T4
7
3

2
T4
7
3

T7
0
3

T7
0
3


thần chiến đấu của quan quân Việt Nam. Nửa sau thế kỷ 19 Việt Nam thất bại trước đội quân
xâm lược nhà nghề của Pháp, như đã nói là do nhiều nguyên nhân, song một điều chắc chắn
T7
0
3

T7
0
3

rằng quân lính Việt Nam đã chiến đấu dũng cảm và cũng buộc kẻ thù phải kính nể, họ không
7
T3
6

7
T3
6

nhu nhược sợ hãi và không phải không có khả năng chiến đấu.
Hiện nay giới nghiên cứu đang có những kết luận mới về tình hình Việt Nam dưới thời
T
7
3

7
T3
6

7

T3
6

Nguyễn vào đầu thế kỷ 19. Những đánh giá nhìn nhận lại đó là thiết thực, nhưng cũng cần thấy
các vua đầu thời Nguyễn đã xây dựng, ổn định hệ thống cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam
7
T3
6

7
T3
6

trên một nền tầng chính trị đa cũ. Từ Gia Long cho đến Minh Mạng chế độ quân chủ được tập
T7
0
3

T7
0
3

trung cao độ. Việc tập trung quyền binh vào một người sau nội chiến, nhằm điều khiển một đất
21


nước vừa qua gần 30 năm chiến tranh loạn lạc phân ly là hợp lý. Tuy nhiên, chính việc tập
trung đó đã sinh ra chuyên chế, chuyên chế phát sinh ra bảo thủ, vua là duy nhất đúng. Mặt
khác, xét về xu thế phát triển tất yếu khách quan của lịch sử thế giới, thì đến thế kỷ 19 chế độ
phong kiến nói chung đang bước vào giai đoạn tan rã. Sự tan rã của nó là một quá trình hợp

quy luật. Ở Tây Ấu quá trình này bắt đầu từ thế kỷ 16, phương Đông tuy muộn hơn song đến
thế kỷ 18 quá trình này cũng xuất hiện mạnh mẽ. Rõ ràng khi Gia Long tái lập chế độ phong
kiến thì so với tiến trình lịch sử nhân loại, ông dã không bắt kịp xu thế phát triển của thế giới,
điều này tạo nên sự cách biệt trong trình độ phát triển của Việt Nam trong tương quan với
phương Tây.
Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã đối diện với một thực trạng kinh tế tiêu điều sau chiến
T
7
3

tranh. Để tăng gia sản xuất và mở rộng diện tích canh tác, ông đã khuyến khích dân chúng khai
2
T4
7
3

2
T4
7
3

7
T3
6

7
T3
6

khẩn những ruộng đồi bỏ hoang. Các trung tâm dinh điền, đồn điền được thành lập nhằm khẩn

hoang đất mới. Công cuộc khai hoang đồng bằng sông Cửu Long được tiếp tục. Nhà nước bỏ
tiền đào kênh thoát nước Thụy Hà và sông Vĩnh Tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai hoang
vùng biên giới Châu Đốc - Hà Tiên. Nhờ vào những năm tháng hòa bình đầu thời Nguyễn
mà lãnh thổ, diện tích canh tác Việt Nam được mở mang rộng lớn chưa từng có. Trong thế kỷ
7
T3
6

7
T3
6

19 nhiều vùng đất được khẩn hoang như miền Bình Hòa, Tam Đốc (Ba Ngòi), Trấn Ninh,
Ninh Cường, Hải Các, Quảng Yên, Hải Dương, Thừa Thiên, Quảng Trị, Bình Thuận... Đặc
biệt là vùng Kim Sơn Tiền Hải được khẩn hoang với công sức của Nguyễn Công Trứ và một
số vùng khác cũng được khai khẩn tốt như ở An Giang, Hà Tiên. Dù chính sách và biện pháp
7
T3
6

7
T3
6

7
T3
6

7
T3

6

tổ chức khẩn hoang có lợi trước hết cho bọn địa chủ và người giàu có, song khách quan nó
cũng thể hiện sự cố gắng của nhà Nguyễn trong việc đẩy mạnh các hoạt động nông nghiệp,
T4
7
3

T4
7
3

nhằm phục hồi tình trạng suy sụp của nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam. Để đáp ứng các nhu
7
T3
6

7
T3
6

cầu sản xuất, các vua đầu thời Nguyễn chú yếu xây dựng các công trình thủy nông “Thời Gia
Long khối lượng đê, kè, cống được đắp nhiều nhất so với các triều trước” [16, 308]. Đắp đê trị
7
T3
6

7
T3
6


thủy là công việc thường xuyên được tiến hành. Năm 1804 Gia Long ban chiếu cho phép
7
T3
6

7
T3
6

quân dân nêu ý kiến về việc hộ đê, đồng thời phái Bộ Hộ đi khám đê và lấy các ý kiến của quan
7
T3
6

7
T3
6

lại, dân chúng về việc hộ đê, sau đó xem xét để định lệ thi hành vào 1809. Năm 1811, Gia
Long lại cho đắp đô An Lãng ( Sơn Tây ). Các đời vua từ Minh Mạng tới Tự Đức đều chú ý
đến công tác đê điều, nạo vét sông, ngăn nước mặn...

22


Một điểm tích cực trong chính sách kinh tế của triều Nguyễn là việc phân phối lại ruộng
T
7
3


đất, hạn chế nạn kiêm tính ruộng đất công. Năm 1803, Gia Long ra lệnh cấm bán mua ruộng
đất công. Năm 1805, định lại lệ quân cấp các loại ruộng này theo phẩm trật quan lợi và tình
trạng dân chúng, nâng đỡ cô nhi quả phụ ...Đó là những chính sách tiến bộ dưới triều Nguyễn
có tính chất khuyến nông và thực hiện nâng đỡ xã hội. Các vua Nguyễn còn động viên đốc
thúc nhân dân làm ruộng bằng cách cho vay vốn, giúp giống, nếu năm nào tỉnh nào gặp phải
thiên tai vua đều giảm hay miễn thuế cho dân “Thời Gia Long ít ra có 25 trường hợp, thời
Minh Mạng có 31 trường hợp giảm hay miễn thuế” [14-68]. Việc giảm hay miễn thuế dưới các
triều Nguyễn được phản ánh khá rõ trong bài chiếu của Gia Long năm 1816: “Mấy năm nay
dân làm việc khó nhọc, lại gặp mất mùa, ta rất thương lắm, nên khoan miễn cho dân. Kể từ
năm Gia Long Nhâm Tuất trở lên, từ Quảng Bình đến Gia Định còn thiếu tiền, thiếu lúa, thiếu
thuế sản vật bao nhiêu; và năm Quý Dậu, năm Giáp Tuất còn thiếu thuế chánh cung bao nhiêu
đều tha cả; Quảng Đức (Thừa Thiên), Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Hoa thời
thuế thân và thuế điều năm nay 1 0 phần giảm 5 phần; Quảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên,
T7
3
1

T7
3
1

7
T3
6

7
T3
6


Bình Thuận, trong 10 phần giảm 2 phần, thuế thân thời 10 phần giảm 4 phần” [69,9l]. Trong
7
T3
6

7
T3
6

T7
3
1

3
T1
6

7
T3
6

T7
3
1

T7
3
1

những tình huống cấp bách, triều Nguyễn cũng có biện p háp cứu trợ kịp thời như:

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

“chính phủ thiết lập những loại kho dự trữ lúa để dùng trong việc cứu tế” [4,139 ]. Nhìn
7
T3
1

7
T3
1

7
T3
1

P

P

chung, các vua Nguyễn đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực và thúc đẩy kinh tế phục hồi và

đi l ên.
7
T3
2

So sánh với số đầu đinh và số ruộng của 2 năm 1840 và 1847, chúng ta thấy có một sự
T
7
3

phát triển đáng kể:
Số ruộng/mẫu

Số đầu đinh

T
6

Năm Minh Mạng thứ 2
T
7
3

7
T3
6

Năm Thiệu Trị thứ 7
T
6


7
T3
6

7
T3
6

T
6

4.063.892

950.561

T
6

T
6

4.278.013

1.029.501 [28,86]

T
6

T

6

[14,86]
T
7
3

7
T3
6

Bên cạnh việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, hoạt động c ông thương nghiệp
T
7
3

7
T3
1

7
T3
1

7
T3
2

7
T3

2

cũng được chú ý, dù quan điểm “trọng nông ức thương” vẫn còn n ặng nề .
7
T3
1

Đầu thế kỷ 19, ở Việt Nam đã hình thành một số vùng chuyên hoạt động thủ công như
T
7
3

làng Phương Dung (Hà Đông) chuyên làm nón, làng Đại Bái (Bắc Ninh) chuyên làm đồ
đồng... ở những làng t hủ công nghiệp này nghề n ông là hoạt động phụ. Các vùng duyên hải
7
T3
2

7
T3
2

7
T3
2

23

7
T3

2


×