Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

sự kết hợp “ba mũi giáp công” ở huyện mỏ cày – tỉnh bến tre trong cuộc kháng chiến chống mĩ cứu nước (1961 – 1968)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.8 MB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Thị Kim Hương

SỰ KẾT HỢP “BA MŨI GIÁP CÔNG” Ở
HUYỆN MỎ CÀY – TỈNH BẾN TRE TRONG
CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC
(1961 – 1968)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Thị Kim Hương

SỰ KẾT HỢP “BA MŨI GIÁP CÔNG” Ở
HUYỆN MỎ CÀY – TỈNH BẾN TRE TRONG
CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC
(1961 – 1968)
Chuyên ngành : Lịch Sử Việt Nam
Mã số

: 66 22 02 13


LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ VĂN ĐẠT

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
được trích dẫn trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử
dụng. Công trình nghiên cứu này chưa từng công bố trong bất kỳ một công
trình nào khác.
Tác giả luận văn

Võ Thị Kim Hương

3


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Sau Đại
học, các thầy cô giáo Khoa Lịch sử, tổ Lịch sử Việt Nam trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh.
Ban Tuyên giáo Huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất đến thầy giáo TS. Lê Văn Đạt
đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận
văn.

Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người thân trong gia đình, bạn bè đã
động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn.
TP.Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2013
Tác giả

Võ Thị Kim Hương

4


MỤC LỤC

MỤC LỤC ...............................................................................................................................5
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................7
1. Lí do chọn đề tài. .............................................................................................................7
2. Lịch sử vấn đề. .................................................................................................................8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ................................................................................10
4. Phương pháp nghiên cứu. ..............................................................................................11
5. Những đóng góp của luận văn. ......................................................................................11
6. Kết cấu luận văn.............................................................................................................12
Chương 1. SỰ HÌNH THÀNH PHƯƠNG CHÂM ĐẤU TRANH KẾT HỢP “BA MŨI
GIÁP CÔNG” TRÊN CHIẾN TRƯỜNG MỎ CÀY (1954 – 1960) ................................13
1.1. Truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân huyện Mỏ Cày..............................13
1.2. Sự kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và binh vận trong giai đoạn 1954 – 1960. ...16
1.2.1. Yêu cầu của quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới. .......................16
1.2.2. Sự hình thành phương châm đấu tranh bằng kết hợp “ba mũi giáp công” ở huyện
Mỏ Cày (1954 – 1960). .................................................................................................22
1.2.3. “Ba mũi giáp công” trong phong trào Đồng khởi năm 1960. .............................31
Tiểu kết chương 1 ..............................................................................................................35
Chương 2. SỰ KẾT HỢP ĐẤU TRANH “BA MŨI GIÁP CÔNG” TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN MỎ CÀY NHỮNG NĂM 1961 – 1965 ................................................................36
2.1. Âm mưu, hành động mới của Mĩ - ngụy và việc xây dựng, phát triển lực lượng cách
mạng của quân, dân huyện Mỏ Cày. ..................................................................................36
2.1.1. Âm mưu và những hành động chủ yếu của Mĩ - ngụy trên địa bàn huyện Mỏ
Cày. ................................................................................................................................36

5


2.1.2. Quân dân Mỏ Cày vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng, giữ và phát triển
thành quả của phong trào Đồng Khởi............................................................................38
2.2. Vận dụng sáng tạo sự kết hợp đấu tranh “ba mũi giáp công” góp phần đánh bại chiến
lược “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở huyện Mỏ Cày (1961 – 1965). ...............................44
Tiểu kết chương 2 ..............................................................................................................55
Chương 3. ĐẤU TRANH “BA MŨI GIÁP CÔNG” CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN
TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MĨ Ở HUYỆN MỎ CÀY (1965 – 1968) ..............57
3.1. Mĩ thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” trên chiến trường huyện Mỏ Cày. .....57
3.2. Sự kết hợp “ba mũi giáp công” của quân, dân huyện Mỏ Cày từ năm 1965 – 1968..61
3.2.1. Giai đoạn 1965 – 1967. .......................................................................................61
3.2.2. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. ......................70
3.3. Hiệu quả của phương châm đấu tranh kết hợp “ba mũi giáp công” trong kháng chiến
chống Mĩ cứu nước ở huyện Mỏ Cày giai đoạn 1961 – 1968. .........................................75
Tiểu kết chương 3 ..............................................................................................................83
KẾT LUẬN ...........................................................................................................................85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................93
PHỤ LỤC ..............................................................................................................................97

6



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong suốt
chặng đường lịch sử ấy, nhân dân ta phải đương đầu với nhiều thế lực xâm lược và có lúc
phải đối đầu với đội quân xâm lược vào loại hùng mạnh nhất. Đặc biệt trong 30 năm của thế
kỉ XX (1945 – 1975) quân, dân Việt Nam đã đấu tranh toàn diện với 2 đế quốc lớn Pháp và
Mĩ. Ta đã phải vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, hy sinh, có thời kì đứng trước những
thách thức cực kì nguy hiểm mà tưởng chừng như không thể vượt qua nổi. Nhưng bằng sức
mạnh vật chất và tinh thần, cùng với lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt, tài
tình của Đảng và Bác Hồ, sự vận dụng một cách sáng tạo đường lối và chủ trương của
Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp, chiến đấu anh dũng và đã giành những thắng lợi vang
dội qua các thời kì chiến tranh.
Quá trình lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân đã được đúc kết
thành kiểu chiến tranh nhân dân Việt Nam mà tư tưởng chỉ đạo là “lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít
địch nhiều” để từ đây dần dần chuyển hóa và tạo nên một sức mạnh thần kì để giành thắng
lợi. Hay nói cách khác nguồn gốc để đưa đến những thắng lợi đó là tính đúng đắn và sáng
tạo, tính khoa học và cách mạng của đường lối cách mạng, đường lối chính trị, đường lối
quân sự của Đảng. Đường lối đúng đắn, sáng tạo đó riêng bản thân nó đã mang sẵn một tư
tưởng chiến lược tiến công, một khả năng sáng tạo về hình thức đấu tranh cách mạng cũng
như nghệ thuật quân sự cách mạng.
Chiến tranh nhân dân Việt Nam đã trải qua những bước phát triển trong lịch sử đấu
tranh của dân tộc từ thấp đến cao. Đặc biệt khi đế quốc Mĩ ồ ạt đưa quân đội Mĩ, quân viễn
chinh và quân chư hầu vào tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam cũng như
tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam thì nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân
dân Việt Nam lại tiếp tục được phát huy cao độ. Quân dân miền Nam đã vận dụng một cách
sáng tạo những chiến lược, chiến thuật trong chiến tranh cách mạng. Một trong những sáng
tạo mà quân dân miền Nam sử dụng và đem lại hiệu quả nhất là sự kết hợp giữa nhiều lực
lượng, nhiều biện pháp, nhiều phương pháp đấu tranh cách mạng khi tiến hành chiến tranh
nhân dân chống Mĩ - ngụy.


7


Sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự và đấu tranh binh vận đã
được Đảng, quân và dân thực hiện trong cuộc chiến tranh cách mạng thời kỳ 1954 – 1975.
Trên cơ sở đó dần dần hình thành nên phương châm đánh địch bằng “ba mũi giáp công” trên
chiến trường miền Nam, có nghĩa là có sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị – quân
sự – binh vận. Đây là sự phối hợp đấu tranh chống giặc toàn diện nhất nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất, thể hiện bước phát triển cao của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Mỏ Cày là một huyện của tỉnh Bến Tre, là bộ phận máu thịt của Việt Nam, là mảnh
đất có truyền thống đấu tranh anh hùng, bất khuất. Là vùng đất cù lao với bốn bề sông nước,
với bản chất thông minh, hiếu học, cần cù, sáng tạo trong lao động, dũng cảm kiên cường
trong đấu tranh cách mạng. Đặc biệt qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, nhân dân
Mỏ Cày đã góp phần cùng với nhân dân trong tỉnh Bến Tre và toàn miền Nam lập nên
những chiến công hiển hách. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ (1954 – 1975), nhân dân
Mỏ Cày đã tiến hành cuộc “Đồng Khởi” đem lại chiến thắng vang dội khắp nơi
(17/01/1960). Từ đây, hòa cùng khí thế chung của cách mạng miền Nam, quân dân Mỏ Cày
đã kết hợp, phát triển đường lối nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam là
kết hợp “ba mũi giáp công” để đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.
Tôi rất tự hào vì mình là người con của “quê hương Đồng Khởi”. Chính vì vậy, tôi
lại thấy mình có trách nhiệm hơn khi là giáo viên giảng dạy Lịch sử, nhất là về lịch sử địa
phương mình. Bởi vì thế hệ trẻ hôm nay cần phải hiểu rõ những gì mà thế hệ trước đã cống
hiến và hy sinh gian khổ. Để góp phần giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng của quê
hương, tôi thấy rất cần có những công trình nghiên cứu, những bài phân tích làm rõ về từng
khía cạnh của nghệ thuật quân sự ở địa phương đã tiến hành trong kháng chiến chống xâm
lược. Từ đây giúp cho thế hệ mai sau hiểu rõ và tự rút ra cho bản thân những bài học quí
báu nhằm vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “Sự kết hợp “ ba mũi giáp
công” ở huyện Mỏ Cày - tỉnh Bến Tre trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1961 –
1968)” làm đề tài nghiên cứu của mình.


2. Lịch sử vấn đề.
- Việc nghiên cứu bàn về chiến tranh nhân dân Việt Nam được nói đến qua nhiều
công trình lớn:
+ Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh,
Văn Tiến Dũng, Song Hào biên soạn sách: “Bàn về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ

8


trang nhân dân” được xuất bản năm 1966, trong đó có đề cập nhiều về vai trò của chiến
tranh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân, theo đó trong cuộc đối đầu không cân sức
với kẻ thù, để đi đến một sự thành công thì cần phải thể hiện rõ vai trò của chiến tranh nhân
dân Việt Nam và lực lượng vũ trang nhân dân cũng như cần phải phát huy hết sức mạnh của
toàn dân tộc.
+ Võ Nguyên Giáp với tác phẩm: “Chiến tranh nhân dân của ta đã đánh thắng chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mĩ”, cũng lý giải rằng: đường lối đúng đắn của Đảng ta là nguồn
gốc của mọi thắng lợi. Ngoài ra trong sách: “Về sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt
Nam”, tác giả cũng đề cập đến việc xây dựng lực lượng cho chiến tranh và lực lượng vũ
trang cách mạng để tạo nên một sức mạnh giành thắng lợi.
+ Thiếu tướng Hồ Đệ trong tác phẩm: “Góp phần tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật
quân sự Việt Nam trong lịch sử giữ nước” đã đề cập đến yếu tố kết hợp đấu tranh chính trị
với công tác binh vận, địch vận làm tan rã ý chí tinh thần địch.
+ Lê Duẩn cũng thể hiện những ý kiến của bản thân về cách mạng giải phóng dân
tộc miền Nam qua nhiều tác phẩm: “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự do, vì
chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới” và những ý kiến chỉ đạo chung cho
cách mạng Miền Nam trong “Thư vào Nam”.
- Về thực tiễn gắn với cuộc chiến tranh cách mạng ở Bến Tre trong đó có huyện Mỏ
Cày đã có nhiều công trình nghiên cứu như:
+ Lê Minh Đào, nguyên tỉnh đội trưởng tỉnh đội Bến Tre – phó Tư lệnh tham mưu

trưởng Quân khu 8 có tác phẩm: “Trên thế trận đồng bằng”, tác giả đã ghi nhận và kể lại
những trận đánh, những chiến lược, chiến thuật mà quân dân trong toàn tỉnh Bến Tre sử
dụng trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
+ Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Ban Tổng kết viết sử có: “Bến Tre 30 năm kháng chiến
chống Pháp, chống Mĩ”; “Lịch sử hậu cần nhân dân Bến Tre (1945 – 1975)”; “Truyền thống
binh chủng đặc công Bến Tre trong kháng chiến chống Mĩ (1960 – 1975)”; “Những trận
đánh của lực lượng vũ trang Bến Tre”; “Truyền thống quân báo Bến Tre trong kháng chiến
chống Mĩ (1954 – 1975)”.
+ Ban Tuyên giáo huyện Mỏ Cày đã chỉ đạo cho Ban chấp hành Đảng bộ các xã
soạn và viết sách lịch sử đấu tranh cách mạng: “Lịch sử đấu tranh cách mạng xã Đa Phước
Hội (1930 – 2007)”; “Lịch sử đấu tranh cách mạng xã An Thạnh (1930 – 2002)”; Lịch sử
đấu tranh cách mạng xã Định Thủy (1930 – 1985)”; “Lịch sử đấu tranh cách mạng xã Phước

9


Hiệp (1930 - 1985)”; “Lịch sử đấu tranh cách mạng huyện Mỏ Cày (1930 – 2000)”; “Lịch
sử Đảng bộ huyện Mỏ Cày (1930 – 2005)”…….
+ Tỉnh ủy Bến Tre: “Huyền thoại quê hương Đồng Khởi”; “Bến Tre Đồng Khởi
anh hùng”; “Địa chí Bến Tre”.
+ Hội văn học nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu Bến Tre cho xuất bản: tập Hồi ký
“Ngọn lửa thần kỳ”.
- Về tổng kết, xuất hiện nhiều công trình có giá trị cao cần đề cập đến là:
+ Bộ Tổng tham mưu, tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương với chuyên đề:
“Kết hợp đấu tranh 2 chân, 3 mũi giáp công trên chiến trường Quân khu V (1954 – 1975)”.
+ Tỉnh ủy Bến Tre với: “Báo cáo công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước trên chiến tranh Bến Tre (1954 – 1975)”.
+ Ban Tổng kết chiến tranh Bến Tre đã nêu ra dự thảo đề cương báo cáo tổng kết
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước trên chiến trường Bến Tre (1954 – 1975).
- Ngoài ra, còn rất nhiều những tác phẩm, những bài viết, tạp chí, chuyên đề, kỷ yếu

khoa học khác cũng phần nào đề cập đến hình thức đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận.
Những công trình nghiên cứu nói trên đã cung cấp cho tôi nhiều cơ sở lý luận quan trọng để
thực hiện đề tài luận văn của mình. Tuy các công trình trên đã đề cập đến nhiều mặt, cả lý
thuyết và thực tiễn có liên quan đến đề tài, nhưng chưa có công trình nào giải quyết vấn đề
mà luận văn nêu ra: Đó là tìm hiểu về “ba mũi giáp công” trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
ở Mỏ Cày: chính trị – quân sự – binh vận, cũng như những thắng lợi mà quân dân Mỏ Cày
đạt được khi kết hợp “ba mũi giáp công” trong cuộc kháng chiến chống Mĩ từ năm 1961 –
1968. Đây chính là nhiệm vụ mà đề tài cần làm rõ.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Sự kết hợp “ba mũi giáp công” ở huyện Mỏ Cày
- tỉnh Bến Tre trong công cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1961 – 1968).
- Ba mũi giáp công: chính trị – quân sự – binh vận.
- Sự kết hợp “ba mũi giáp công” trên chiến trường Mỏ Cày (1961 – 1968).
- Thắng lợi của quân dân Mỏ Cày trong công cuộc kháng chiến chống Mĩ (1961 –
1968).
3.2. Phạm vi nghiên cứu.

10


Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về sự kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh
quân sự và đấu tranh binh vận trên chiến trường Mỏ Cày trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước trong giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1968.

4. Phương pháp nghiên cứu.
4.1. Cơ sở lý luận.
- Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ
thuật quân sự và chiến tranh cách mạng, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước về

chiến tranh cách mạng Việt Nam nói chung và đường lối cách mạng miền Nam Việt Nam.
- Quan điểm của một số nhà nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của
nhân dân ta. Những kinh nghiệm quí báu được rút ra từ thực tiễn cuộc kháng chiến chống
xâm lược về sự chỉ đạo tài tình và việc thực hiện những chiến lược quân sự tài giỏi của quân
dân ta trong giai đoạn 1954 – 1975.
4.2. Phương pháp nghiên cứu lịch sử cụ thể.
- Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở những tài liệu thu thập được tiến hành tổng hợp
những sự kiện có liên quan đến đề tài và sắp xếp theo trình tự thời gian.
- Phương pháp điền giã: Thu thập tư liệu thông qua các vị lão thành cách mạng ở địa
phương trong những buổi trò chuyện trực tiếp nói về đấu tranh cách mạng ở huyện Mỏ Cày
trong giai đoạn 1961 – 1968.
- Phương pháp so sánh lịch sử: Sự kết hợp “ba mũi giáp công” trong kháng chiến
chống Mĩ được sử dụng ở nhiều địa phương trên chiến trường miền Nam và vào những thời
gian khác nhau, nên ở đây sử dụng những sự kiện lịch sử nhằm so sánh sự giống và khác
nhau trong cách kết hợp đó ở từng địa phương cũng như trong từng thời gian cụ thể nhằm
làm nổi bật nội dung của đề tài.

5. Những đóng góp của luận văn.
Luận văn hoàn thành sẽ có những đóng góp cụ thể sau:
- Góp phần lý giải và làm sáng rõ hơn nguồn gốc đưa đến những thắng lợi mà quân,
dân Mỏ Cày đạt được trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước giai đoạn 1961 – 1968.
Bồi dưỡng thêm lòng tự hào cho những thế hệ mai sau – những công dân được sinh ra và
lớn lên trên quê hương Mỏ Cày.

11


- Góp phần tạo ra nhận thức đúng đắn về đường lối chiến lược sự kết hợp “ba mũi
giáp công” mà quân dân Mỏ Cày đã sử dụng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ giai đoạn
1961 – 1968.

- Góp phần bổ sung vào kho tư liệu của địa phương giai đoạn kháng chiến chống Mĩ
(1954 – 1975), làm phong phú thêm nguồn tư liệu cho việc nghiên cứu lịch sử đấu tranh
cách mạng của huyện Mỏ Cày nói riêng và tỉnh Bến Tre nói chung. Đồng thời cũng là tư
liệu để cho cán bộ nghiên cứu và những người quan tâm đến lịch sử địa phương huyện Mỏ
Cày tham khảo và vận dụng cho mục đích nghiên cứu của mình.
- Ngoài ra, đây còn là nguồn tư liệu giúp cho việc giảng dạy lịch sử địa phương
huyện Mỏ Cày ở các trường trung học phổ thông trong thời gian tới.

6. Kết cấu luận văn.
Luận văn bao gồm những phần sau đây:
Mở đầu.
Nội dung chính
Chương 1. Sự hình thành phương châm đấu tranh kết hợp “ba mũi giáp công” trên
chiến trường Mỏ Cày (1954 – 1960).
Chương 2. Sự kết hợp đấu tranh “ba mũi giáp công” trên địa bàn huyện Mỏ Cày
những năm 1961 -1965.
Chương 3. Đấu tranh “ba mũi giáp công” chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” của
đế quốc Mĩ ở huyện Mỏ Cày (1965 -1968).
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

12


Chương 1. SỰ HÌNH THÀNH PHƯƠNG CHÂM ĐẤU TRANH KẾT
HỢP “BA MŨI GIÁP CÔNG” TRÊN CHIẾN TRƯỜNG MỎ CÀY
(1954 – 1960)

1.1. Truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân huyện Mỏ Cày.

Huyện Mỏ Cày là vùng đất nằm ngay giữa Cù Lao Minh, là một trong 8 huyện của
tỉnh Bến Tre. Nhìn từ bản đồ, huyện Mỏ Cày có hình chữ nhật nằm ở phía Nam của tỉnh
Bến Tre; phía Bắc và phía Nam giáp sông Hàm Luông ngăn cách với với huyện Giồng
Trôm và thị xã Bến Tre, giáp sông Cổ Chiên ngăn cách với tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long;
phía Tây giáp huyện Chợ Lách; phía Đông giáp huyện Thạnh Phú.
Với diện tích 356,3 km2 nên Mỏ Cày là huyện có diện tích lớn của tỉnh Bến Tre.
Nằm ở hạ lưu sông Cửu Long nên khí hậu ở Mỏ Cày tương đối ôn hòa với hai mùa
mưa nắng. Hằng năm vào mỗi tháng ba âm lịch có nước mặn nhiễm nhẹ ở các xã cuối huyện
giáp với huyện Thạnh Phú, các nơi còn lại có nước ngọt quanh năm. Ngoài ra vào mùa gió
chướng nước dâng cao gây ngập nước nhưng mức độ không nhiều và thời gian ngập cũng
không kéo dài. Sự bồi đắp phù sa của hai nhánh sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên đã hình
thành nên một vùng đất màu mỡ với nhiều loại hoa màu xen lẫn những vườn dừa, ruộng lúa,
bãi mía và các vườn cây ăn trái xum xuê. Bên cạnh hai con sông Hàm Luông và sông Cổ
Chiên, huyện Mỏ Cày có mạng lưới sông rạch chằng chịt như: rạch Cái Quao, rạch Tân
Hương, rạch Cái Mơn, rạch Cái Cấm, rạch Mỏ Cày, kênh Thom, kênh Ngang, kênh Vàm
Sả,…. Địa hình có nhiều sông rạch, kênh mương kết hợp với sự um tùm của vườn dừa, bãi
mía đã tạo ra những điểm khác biệt giữa Mỏ Cày và nhiều địa phương khác; dù đi đến nơi
nào trong huyện cũng thấy một màu xanh bạt ngàn của dừa và mía. Trong những năm kháng
chiến chống Mĩ quân và dân Mỏ Cày đã tận dụng địa hình để phát huy thế mạnh của lối
đánh du kích nhằm hạn chế những loại vũ khí hiện đại tối tân của địch, quân dân Mỏ Cày đã
dựa vào địa hình này phát huy sức mạnh của thế trận “hai chân, ba mũi” gây cho địch nhiều
khó khăn thất bại.
Như ta đã biết vào năm 1757 vùng đất Mỏ Cày đã chính thức có tên trên bản đồ nước
Việt Nam. Mỏ Cày lúc bấy giờ thuộc tổng Tân An, châu Định Viễn, dinh Long Hồ, phủ Gia
Định và Mỏ Cày trở thành một huyện của tỉnh Bến Tre vào thời gian trước năm 1945, từ đó

13


đến nay huyện Mỏ Cày đã nhiều lần tách nhập ra làm hai huyện Mỏ Cày Bắc và huyện Mỏ

Cày Nam. Cụ thể năm 1959 huyện được chia làm hai huyện là Minh Tân gồm những xã ở
phía Bắc và Mỏ Cày là những xã còn lại ở phía Nam. Đến tháng 4 năm 1960 hai huyện trên
được nhập lại thành huyện Mỏ Cày. Mãi đến tháng 9 năm 1970 khi phong trào đấu tranh
chống địch bình định trên diện rộng, huyện Mỏ Cày lại thêm một lần chia thành huyện Mỏ
Cày Bắc và huyện Mỏ Cày Nam. Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, đầu năm 1976
hai huyện Mỏ Cày Bắc và huyện Mỏ Cày Nam được họp lại thành huyện Mỏ Cày. Trong
khoảng thời gian sau giải phóng nhân dân trong huyện đã chung tay góp sức xây dựng quê
hương ngày càng tươi đẹp.
Hiện nay do diện tích của huyện rộng lớn và do sự điều chỉnh về địa giới chung trong
cả nước nên theo Nghị định số 08/CP ngày 9/2/2009 của Chính phủ đã chia huyện Mỏ Cày
một lần nữa thành huyện Mỏ Cày Bắc và huyện Mỏ Cày Nam (đến ngày 25/3/2009 việc
chia tách được thi hành). Mặc dù vậy, nhân dân Mỏ Cày nói chung vẫn không ngừng ra sức
đưa huyện nhà ngày một tiến lên bước đường phồn vinh, giàu đẹp trong hiện tại cũng như
tương lai sắp tới.
Theo thống kê dân số của huyện là 277.058 người, thành phần đông nhất vẫn là
người Kinh. Theo tìm hiểu qua một số tài liệu thì cư dân ở huyện Mỏ Cày có nguồn gốc từ
các tỉnh miền Trung. Nhớ lại những năm chiến tranh phong kiến loạn lạc ở vào thế kỉ XVI,
XVII làm cho tình hình đất nước vô cùng khó khăn, nhân dân lao động phải sống trong cảnh
vô cùng cơ cực. Các thế lực địa chủ phong kiến thay phiên nhau bóc lột, thêm vào đó là nạn
bắt lính, lao dịch, phu phen khiến cho người dân lâm vào cảnh bần cùng. Thấy không thể
nào sống được trong hoàn cảnh như thế buộc họ phải rời bỏ quê hương theo đường bộ băng
rừng vượt suối và đường thủy bằng những chiếc ghe bầu xuôi dòng về phía Nam để tìm đất
sống mới. Vào lúc này đất đai ở phương Nam vẫn còn khá nhiều vùng đất hoang chưa được
khai phá và đây chính là quê hương mới với một cuộc sống tự do hơn thoát khỏi sự ràng
buộc của triều đình phong kiến. Dần về sau ngay cả quan lại cũng được triều đình nhà
Nguyễn kêu gọi, cho phép vào đây để khai khẩn đất đai xây dựng dinh thự, điền trang. Một
bộ phận nữa là những binh lính chống đối chiến tranh hoặc một số tàn binh của Tây Sơn
cũng lẫn vào vùng đất mới để tìm chốn mưu sinh. Từ chỗ mạnh dạn dám đương đầu với
những khó khăn thử thách khi rời bỏ nơi “chôn nhau cắt rốn” để đi tìm vùng đất mới, những
cư dân ở đây đã hình thành cho mình một đức tính kiên cường, dũng cảm. Bằng nghị lực phi

thường đó ông cha đã từng bước biến những vùng đất hoang vu sình lầy, rừng rậm thành

14


những vùng đất trồng trọt trù phù. Có lẽ trong một hoàn cảnh gian nan đầy nguy hiểm như
thế đã hình thành cho ông cha ta một bản lĩnh kiên cường, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo và sự
đoàn kết tương thân tương ái. Những đức tính tốt đẹp trên đã được lưu truyền cho các thế hệ
con cháu. Truyền thống đó được nhân lên gấp bội khi cuộc sống gọi là tự do ở vùng đất mới
dần bị bóp chết bởi bàn tay của bọn thực dân phong kiến. Năm 1867 khi xâm chiếm tỉnh
Bến Tre, thực dân Pháp đã nhanh tay xây dựng một bộ máy cai trị đến tận cấp huyện. Thực
dân Pháp đã sử dụng bọn địa chủ phong kiến làm tay sai để áp bức bóc lột nhân dân, duy trì
những quyền lợi của chúng ở vùng đất này. Chính vì vậy những vùng đất mà người dân lao
nhọc khai phá được dần dần bị bọn địa chủ bao chiếm. Bị địa chủ bóc lột, người dân Mỏ
Cày còn phải mang gánh nặng thuế khóa do thực dân phong kiến gây ra. Đời sống của
người dân ngày càng cơ cực với nhiều nỗi khổ: đói nghèo, bệnh tật, dốt nát,…. và từ đây đã
nung nấu trong lòng mỗi người một mối căm thù sâu sắc đối với bọn thực dân phong kiến.
Người Mỏ Cày vừa kiên cường, dũng cảm, gắn bó tha thiết sâu nặng với quê hương
mới, vừa mang trong lòng một tình yêu nước nồng nàn, bất khuất nên đã liên tiếp đứng lên
đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ gìn quê hương đất nước. Tính sáng tạo, mưu trí mà
người dân Mỏ Cày thừa hưởng ở ông cha từ trước, nay đã được vận dụng vào trong cuộc
đấu tranh chống giặc để cứu nước, cứu mình như: lập ra các ổ đề kháng, đóng cọc đắp cản
để ngăn tàu giặc trên sông rạch, làm vườn không nhà trống những nơi mà giặc đến. Năm
1874, các anh hùng Nhiêu Đẩu, Nhiêu Cương, Khoan Dân, Thọ Dung cùng nhau lãnh đạo
nhân dân nổi dậy đánh Pháp rất kiên cường. Năm 1893, một nghĩa quân tên là Hung tù Côn
đảo vượt ngục về đã tập hợp lực lượng tập kích đồn Bang Tra nằm ven sông Cổ Chiên. Năm
1878, nhân dân Tân Bình đốt chợ Giồng Keo; năm 1879 nhân dân An Thạnh đốt chợ Thom
tỏ thái độ bất hợp tác với địch và làng An Thới, Tổng Minh Huệ đã bỏ quê kéo nhau đi nơi
khác sinh sống. Mùng 1 Tết năm 1916 (năm Bính Thìn), tổ chức Thiên địa hội ở làng Tân
Phú Tây, đứng đầu là Tám Đáng và Chín Sửu đã tập hợp đông đảo người dân nổi dậy

chiếm nhà việc, kéo nhau đi lùng bắt bọn chánh phó tổng và bọn tề làng, kêu gọi mọi người
đứng lên đánh Pháp [4, tr.20]. Có thể nói phong trào đấu tranh của nhân dân huyện Mỏ Cày
trong thời kì này rất sôi nổi, nhưng hầu như tất cả đều thất bại. Mặc dù vậy, nó vẫn thể hiện
lòng yêu nước, chí căm thù giặc của từng người ở đây vẫn luôn trào dâng sôi sục. Đồng thời
để lại vô vàng bài học quí báu về những cách thức đấu tranh chống giặc cũng như niềm tự
hào về tinh thần yêu nước đó.

15


Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo phong trào đấu tranh cách
mạng theo một đường lối đúng đắn. Sự trông chờ của nhân dân huyện Mỏ Cày đã trở thành
hiện thực và giờ đây ngọn lửa yêu nước trong nhân dân được thổi bùng lên cùng với cả
nước đập tan ách cai trị của thực dân Pháp trên đất nước, mở ra kỷ nguyên xây dựng nền
độc lập, tự do cho dân tộc. Trong 30 năm (1945 – 1975), nhân dân huyện Mỏ Cày đã lập
nên nhiều chiến công hiển hách trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược trở lại và can
thiệp Mĩ. Qua hai cuộc kháng chiến bản lĩnh hiên ngang, mưu trí và đầy sáng tạo của con
người ở vùng đất cù lao được thể hiện rõ nét. Một phong trào “Đồng Khởi” (năm 1960)
giành thắng lợi vang dội như là một minh chứng đầy sức thuyết phục về quyết tâm đánh
giặc giữ nước của nhân dân huyện Mỏ Cày.
Hàng thế kỉ sống, lao động và chiến đấu trên dãi đất cù lao mênh mông sông nước,
để có được những vườn dừa, bãi mía và những cánh đồng lúa tươi tốt như hôm nay là trải
qua biết bao nhiêu là mồ hôi, nước mắt và xương máu của nhiều thế hệ người Mỏ Cày, tinh
thần bản lĩnh độc lập tự chủ, tự cường, yêu nước sâu sắc cũng dần được tôi luyện. Khi đứng
trước những khó khăn khắc nghiệt của thiên nhiên hay trong những khúc quanh co ngặt
nghèo của lịch sử mà tưởng chừng không vượt qua nổi, nhân dân Mỏ Cày đã tự mình nổ lực
vươn lên để giữ gìn và phát triển những gì mà ông cha đã dày công kiến tạo.

1.2. Sự kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và binh vận trong giai đoạn 1954 –
1960.

1.2.1. Yêu cầu của quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới.
Ngày 21/7/1954, hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình được lập
lại trên toàn lãnh thổ Việt Nam sau 9 năm chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ. Nền độc lập,
thống nhất và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam giờ đây được công nhận, buộc thực
dân Pháp xâm lược phải rút hoàn toàn khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, do so sánh lực lượng và
tình hình chính trị thế giới lúc đó phức tạp nên đất nước ta tạm thời chia cắt làm 2 miền
Nam, Bắc với 2 chế độ chính trị khác nhau, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời.
Từ đây cách mạng Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới: vừa tiến hành cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, vừa tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
để tiến tới thực hiện việc thống nhất nước nhà.
Hòa cùng không khí chung của cả nước, Đảng bộ và nhân dân huyện Mỏ Cày vui
tươi, phấn khởi đón chào nền độc lập với niềm tự hào khôn xiết. Giờ đây ách áp bức, bóc lột

16


của thực dân phong kiến hoàn toàn bị xóa bỏ, người dân có quyền làm chủ cuộc sống của
mình. Nhà nhà, người người hào hứng bàn tán xôn xao về chuyện trở về quê cũ làm ăn, xây
dựng cuộc sống mới với niềm vui về một nền hòa bình thật sự trọn vẹn như qui định của
hiệp định Giơnevơ. Tuy nhiên, trong suy nghĩ riêng của mỗi người đều hiểu rằng việc đấu
tranh để củng cố hòa bình thống nhất nước nhà là một cuộc đấu tranh lâu dài và đầy gian
khổ, cuộc đấu tranh giành lấy nền hòa bình không vì việc đình chỉ chiến sự mà kết thúc,
cuộc đấu tranh đó vẫn còn đang tiếp tục.
Cùng với cả nước, ngay sau khi được các cấp triển khai nội dung, ý nghĩa thắng lợi
của hiệp định Giơnevơ, cán bộ cốt cán trong huyện Mỏ Cày đã nhanh chóng ra sức tuyên
truyền, lo phổ biến rộng rãi và tổ chức cho mọi tầng lớp nhân dân nhằm giúp mọi người dân
hiểu rõ việc thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Giơnevơ cũng như việc cần nắm vững nội
dung pháp lý của các điều khoản dùng làm cơ sở cho việc đấu tranh. Khi hiểu rõ về thắng
lợi trên mặt trận quân sự và ngoại giao, nhân dân huyện Mỏ Cày đã chủ động ra sức tuyên
truyền về ý thức hòa bình cho binh lính ở các đồn, bót và đa số những binh lính trong hàng

ngũ địch rất vui mừng vì chiến tranh đã kết thúc.
Theo hiệp định Giơnevơ, quân đội cách mạng phải chuyển ra Bắc tập kết, vì vậy ở
trong Nam chỉ còn có chính quyền và quân đội địch tạm thời quản lý. Hiểu rõ 2 nhiệm vụ:
“Đi tập kết cũng vinh quang; ở lại cũng vinh quang”, Huyện ủy Mỏ Cày đã chuẩn bị tổ chức
chuyển quân tập kết thực hiện đúng qui định.
Ngày 25/8/1954, huyện Mỏ Cày đã tổ chức đưa 500 người đi tập kết gồm phần lớn là
cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang huyện, du kích các xã và cán bộ Đảng, thương binh, con
em cán bộ cách mạng cùng với 2500 lực lượng các huyện trong tỉnh đã rời quê hương xứ
dừa vào Cà Mau để tập kết ra Bắc [3, tr.75].
Những buổi chia tay đầy lưu luyến giữa kẻ ra đi và người ở lại với ước hẹn ngày gặp
lại sau 2 năm, nhưng trong thâm tâm của từng người không khỏi băn khoăn cho cuộc đấu
tranh sắp tới khi đế quốc Mĩ đã thay chân Pháp nhảy vào xâm lược Việt Nam. Trước sự
phản bội lại những gì đã kí kết tại hội nghị Giơnevơ của những nước lớn (thực dân Pháp và
đế quốc Mĩ), Đảng bộ và nhân dân huyện Mỏ Cày trên cơ sở chung là sự chỉ đạo của các
cấp ủy Đảng đã chủ động chuẩn bị mọi mặt để đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra. Trước
tiên là phải nhanh chóng kiện toàn tổ chức lại bộ tham mưu của Đảng. Đồng chí Nguyễn
Văn Khái được phân công giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy cùng nhiều đồng chí khác có trách
nhiệm lãnh đạo, tổ chức nhân dân tiến hành hàn gắn vết thương chiến tranh và đấu tranh

17


chống Mĩ để giải phóng quê hương đất nước. Thứ hai, cần nhanh chóng ổn định lại các tổ
chức cơ sở Đảng và đoàn thể. Các tổ chức Đảng ở các xã như: Thành Thới, Phước Hiệp,
Bình Khánh, Đa Phước Hội, An Thạnh, Tân Trung,… được củng cố với số lượng đảng viên
có nơi lên tới 50 người, đa số các cán bộ đảng viên được học tập triển khai nắm được tình
hình đấu tranh trong giai đoạn mới. Đây là lực lượng chính gần gũi với các tầng lớp nhân
dân để cùng nhau thực hiện nhiệm vụ đấu tranh cách mạng. Về phía tổ chức đoàn thể cũng
có sự thay đổi, nhiều tổ hội mới được thành lập như: Đoàn Thanh niên cứu quốc được đổi
tên là Đoàn Thanh niên lao động, đã tập hợp những thanh niên yêu nước và có thành tích

lớn trong giai đoạn trước vào tổ chức Đoàn; còn có: Hội chùa, hội đình, tổ vạn vần đổi công,
đoàn cải lương Lam Sơn (Định Thủy), tổ chức nghiệp đoàn nông dân,… mặt trận đoàn kết
nhân dân được hình thành rộng khắp trong từng cụm dân cư sẵn sàng đấu tranh buộc địch
phải thi hành hiệp định. Thứ ba: Tranh thủ thời gian chuyển quân tập kết tiến hành phân
chia ruộng đất cho dân cày mà trước đây bị bọn thực dân phong kiến bao chiếm, nhằm tạo
cơ sở ổn định cuộc sống cho nhân dân, tạo niềm tin chắc chắn vào chính quyền cách mạng,
ngoài ra căn cứ vào thành tích của từng đơn vị, cá nhân đã đạt được trong kháng chiến
chống Pháp, chính quyền cấp trên đã tổ chức biểu dương, khen thưởng đem lại niềm tự hào
vô kể tạo thành một luồng sức mạnh mới trong toàn thể nhân dân. Thứ tư, mặc dù đã
nghiêm chỉnh thực hiện việc chuyển quân tập kết nhưng cũng ban lãnh đạo đã bí mật giữ lại
một số cán bộ quân sự và duy trì một số cơ sở sản xuất vũ khí, cùng với việc phân tán, chôn
giấu vũ khí ở nhiều nơi. Mặc dù cán bộ ở lại và vũ khí không nhiều, không hiện đại nhưng
đây cũng thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của Đảng, là sự chuẩn bị rất cần thiết cho cuộc
đấu tranh vũ trang có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Thứ năm, cần đặc biệt quan tâm đến công
tác tình báo nhằm nắm thông tin tình hình địch qua các cơ sở báo cáo mà kiểm nghiệm hoặc
đào tạo, giáo dục tổ chức đưa người vào các cơ quan, chính quyền, lực lượng quân sự của
địch làm cơ sở nội tuyến, qua gia đình và hộp thư mật theo qui định để “nắm bắt” nguồn tin
tức có tính chất lâu dài.
Có thể nói mặc dù sau 9 năm kháng chiến còn bộn bề với bao khó khăn thách thức,
nhưng với ý chí, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân huyện Mỏ Cày từng bước xây
dựng cho mình một tâm thế bước tiếp trên con đường cách mạng.
Trong khi ta nghiêm chỉnh thi hành hiệp định Giơnevơ thì địch tìm mọi cách phá
hoại hiệp định một cách trắng trợn. Lợi dụng 300 ngày chuyển quân tập kết, Pháp và Mĩ cấu
kết nhau tìm cách phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đồng thời

18


độc chiếm miền Nam Việt Nam thông qua bộ máy tay sai là chính quyền Ngô Đình Diệm
(thực chất là Mĩ đã từng bước gạt Pháp ra khỏi cuộc xâm lược này bằng hai bản hiệp ước

được kí ngày 13/12/1954 và ngày 19/12/1954). Thực tế ở miền Nam Việt Nam nói chung và
huyện Mỏ Cày nói riêng sau hiệp định Giơnevơ diễn ra cuộc chạy đua tranh giành quyền lực
của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Đế quốc Mĩ dựa vào sức
mạnh về kinh tế, quân sự của mình cũng như dựa vào chính quyền Sài Gòn đã từng bước
tiến hành chống phá cách mạng ở miền Nam. Với sự hậu thuẩn của Mĩ, Ngô Đình Diệm
nhanh chóng xây dựng một bộ máy chính quyền nhằm biến miền Nam thành “một quốc gia
mạnh” của “thế giới tự do”, có một “đạo quân cảnh sát” và một “đạo quân sen đầm” lớn
mạnh để chống cách mạng, chống cộng sản [52, tr.157]. Năm 1955, chính quyền Ngô Đình
Diệm đã xây dựng xong bộ máy tề ngụy từ huyện đến xã. Đến lúc này kẻ thù đã lộ rõ bộ
mặt tàn bạo và hung ác. Chúng bắt đầu tập trung quân, đóng đồn bót, xây dựng lại công sở,
đưa bọn lưu vong trở về lập lại bộ máy tề xã, ấp, tiến hành bắt lính. Để quản lí, kiềm kẹp
nhân dân chúng đã ra thông báo kêu người kháng chiến cũ ra trình diện, thực hiện việc kiểm
tra nắm lại nhân khẩu trong huyện, xã, ấp. Ngoài ra, Ngô Đình Diệm còn cho thực hiện
chính sách “tố cộng, diệt cộng”, công khai khủng bố những người cộng sản và những người
kháng chiến cũ. Hàng vạn đồng bào yêu nước và những đảng viên cộng sản bị bắt tù đày, tra
tấn dã man và bị giết chết không cần xét xử. Chúng biến những nơi thờ tự như: thánh thất,
nhà thờ, đình chùa thậm chí cả trường học thành những nơi giam cầm, tra tấn dã man đồng
bào yêu nước. Đình Hội Yên ở Mỏ Cày trước kia đã được những người dân lập ra để thờ
cúng với mong ước có được cảnh sống hòa bình, ấm no giờ đây bị Mĩ, ngụy biến thành nơi
mà ngày đêm đồng bào yêu nước phải rên rỉ đau thương bằng cả nước mắt và máu dưới bàn
tay tra tấn tàn bạo của kẻ thù. Có thể nói, một nền hòa bình yên vui thật sự mà nhân dân cả
nước cũng như nhân dân huyện Mỏ Cày từng ngày, từng giờ nghĩ tới chắc có lẽ còn lâu lắm
bởi âm mưu phá hoại hiệp định Giơnevơ của địch dần dần bị bóc trần. Quê hương trở nên u
ám, không khí căng thẳng, trả thù, khủng bố đau thương tràn ngập vùng quê. Tháng 7/1956,
Ngô Đình Diệm đã trắng trợn tuyên bố không thi hành hiệp định Giơnevơ và cũng có nghĩa
là đất nước Việt Nam sẽ không có ngày tổng tuyển cử để thống nhất theo qui định. Một mặt,
Mĩ - ngụy tiếp tục thực hiện chính sách khủng bố đàn áp phong trào cách mạng, xúi giục
binh lính tàn sát đẫm máu nhân dân, tạo ra tâm trạng chiến tranh và làm mất dần sự tin
tưởng của nhân dân với cách mạng cũng như việc chia cắt đất nước lâu dài. Ngoài ra, chúng
còn tổ chức tuyên truyền xuyên tạc nói xấu vai trò của miền Bắc và đường lối của Đảng


19


nhằm gây tâm lý hoang mang bất an trong binh sĩ cũng như quần chúng nhân dân. Đây là
thời kì đen tối, ngột ngạt của nhân dân ở miền Nam, chưa bao giờ trong lịch sử có những
cuộc khủng bố, đàn áp với một qui mô lớn và dai dẳng như những năm Mĩ - Diệm thực hiện
chống phá cách mạng miền Nam bằng chiêu bài chống cộng, diệt cộng.
Cuối năm 1957, Mĩ - Diệm càng tăng cường kiềm kẹp nhân dân rất gắt gao, buộc
từng người dân ở đây phải làm thẻ căn cước, kê khai thành viên trong gia đình, thực hiện
chính sách đối xử phân biệt với từng gia đình đồng thời dùng gia đình này giám sát gia đình
khác. Về mặt quân sự chúng còn tăng cường thêm lực lượng công an, cảnh sát từ tỉnh và
huyện Mỏ Cày; tăng thêm tổng đoàn dân vệ đến cấp xã hòng xiết chặt hơn vòng vây khủng
bố cách mạng: Ở xã Đa Phước Hội có tên đồn trưởng Xê ác ôn thường xuyên bắt bớ những
người mà y cho rằng là Việt Cộng rồi mổ bụng, ăn gan, uống mật kể cả những người dân vô
tội; ở xã Định Thủy có tên đội trưởng Dung hoạt động trong tổ Minh Đạt,…..
Giữa năm 1958, Mĩ - Diệm cho xây dựng khu trù mật Thành Thới (xã Thành Thới –
huyện Mỏ Cày) đây là một trong 4 khu trù mật mà Mĩ, ngụy cho lập ra ở tỉnh Bến Tre. Với
chính sách này chúng muốn thực hiện ý đồ tách dân ra khỏi cách mạng, không để cho dân
làm chỗ dựa cho chính quyền cách mạng, phân tán làm lung lay niềm tin của nhân dân vào
đường lối đấu tranh chính trị của Đảng. Chính vì vậy, việc đi lại hoạt động của cán bộ Đảng
viên gặp nhiều khó khăn, buộc phải đi nơi khác để bảo toàn lực lượng, người dân yêu nước
vô cùng lo lắng cho phong trào cách mạng cho cán bộ Đảng viên. Lợi dụng tình hình này
bọn tay sai của Mĩ - Diệm ngóc đầu lên tiến hành chống phá ác liệt phong trào cách mạng.
Tháng 3/1959, địch tuyên bố đặt miền Nam Việt Nam trong tình trạng chiến tranh. Tháng
5/1959, chúng ban hành Luật 10/59, lê máy chém khắp miền Nam để công khai chém giết
đồng bào Miền Nam. Rõ ràng đã đến lúc kẻ địch không thể nào tiến hành theo phương thức
thống trị như cũ được nên chúng mới dùng đến những hành động dã man, tàn ác nhằm cố
gắng duy trì sự thống trị của mình mà theo cách gọi là chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền
Nam Việt Nam. Nhưng tất cả những thủ đoạn trên đã không chứng minh được là bọn Mĩ,

ngụy đang mạnh dần lên hay rất mạnh mà nó thể hiện sự bối rối, khủng hoảng, suy yếu và
ngày càng bế tắc. Nhân dân Mỏ Cày với lòng tin sắt đá vào sự lãnh đạo của Đảng nên ngay
từ đầu khi địch thực hiện những chính sách này đã kiên quyết đấu tranh để bảo vệ từng tấc
đất quê hương. Giờ đây, lòng căm thù giặc trong nhân dân đã thành cơn bão táp sẵn sàng
vùng lên cùng với nhiều sáng tạo mới trong đường lối đấu tranh để lật đổ mọi áp bức, tự giải
phóng mình.

20


Từ tình hình trên đã đặt ra cho cách mạng miền Nam trong có huyện Mỏ Cày trước
những yêu cầu mới. Hoàn toàn khác với những năm về trước, từ sau năm 1954, nhân dân
miền Nam đã phải đương đầu với kẻ thù mới với nhiều âm mưu thủ đoạn mới. Hơn lúc nào
hết phải thật sự bình tĩnh phân loại và xác định được kẻ thù trực tiếp của cách mạng là đế
quốc Mĩ. Bởi vì không còn nghi ngờ gì nữa khi đế quốc Mĩ với vị trí là 1 trong 5 nước có
vai trò bảo vệ hòa bình chung trên thế giới lại ngang nhiên phá hoại hiệp định Giơnevơ,
nhảy vào miền Nam Việt Nam, hất cẳng Pháp nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc
địa kiểu mới. Âm mưu cơ bản của chúng là khai thác mọi nguồn nhân lực, vật lực ở miền
Nam Việt Nam để phục vụ cho chiến tranh, tập trung mọi lực lượng nhằm tiêu diệt lực
lượng cách mạng của ta tiến tới áp đặt sự thống trị theo cái gọi là chế độ chủ nghĩa thực dân
kiểu mới trên đất nước Việt Nam. Song song với sự nhận định, kẻ thù chính là đế quốc Mĩ,
nhân dân hiểu rõ rằng bên cạnh còn có một kẻ thù vốn là công cụ tay sai - chính quyền Ngô
Đình Diệm với chính sách độc tài gia đình trị nhằm đàn áp nhân dân và phong trào cách
mạng. Tất cả những ai khi chúng nghi ngờ là lực lượng cách mạng hoặc có liên quan đến
cách mạng đều bị bắt bớ, giam cầm và giết hại. Những hình thức tra tấn dã man từ thời
trung cổ và bọn đế quốc phát xít hiện đại thường dùng như: xẻo tai, móc mắt, cho uống
nước tiểu, xà bông, bỏ vô thùng thiếc phơi nắng,…, đến cả những hành động man rợ: đâm
chém, mổ bụng, moi gan, chôn sống, cột vào đá thả trôi sông,…, đặc biệt là phụ nữ phải
chịu hành hạ tàn khốc về thể xác và khủng bố về tinh thần. Tuy vậy sự tàn bạo ấy không
những không làm cho nhân dân Mỏ Cày khiếp sợ, phục tùng mà ngược lại lòng căm thù

trong mỗi con người ở đây càng dâng cao cùng với quyết tâm tiêu diệt cho được kẻ thù.
Chính nghĩa, anh hùng, lòng bác ái độ lượng cao cả, yêu hòa bình, yêu quê hương đất nước,
nhân dân Mỏ Cày quyết đấu tranh để lật đổ ngụy quyền tay sai cũng như đánh bại chiến
tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mĩ, góp phần giải phóng miền Nam, tiến tới hoàn
toàn thống nhất nước nhà. Để thực hiện được mục tiêu cao cả ấy, cần nhanh chóng thực hiện
cho bằng được những nhiệm vụ cụ thể trước mắt mà các cấp ủy Đảng đã đề ra trong tình
hình mới. Phát động, tổ chức nhân dân đấu tranh đòi địch phải thi hành hiệp định Giơnevơ,
giữ gìn hòa bình nhằm đòi quyền dân sinh dân chủ; tạo mọi điều kiện hợp pháp cho cán bộ
Đảng viên có điều kiện bám dân đi lại hoạt động, luôn củng cố lập trường khí tiết người
cộng sản chống lại tư tưởng bất an, sợ sệt, mất cảnh giác trước kẻ thù. Ngoài ra đối với bản
thân của từng cán bộ Đảng viên cần không ngừng ra sức học tập nâng cao hơn về nhận thức
lập trường tư tưởng, nắm vững phương thức, nguyên tắc hoạt động của Đảng trong tình hình

21


mới, cần bám chặt vào dân để hoạt động và lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Ngày 5/9/1954, Bộ
Chính trị Ban chấp hành Trung ương họp hội nghị lần 6 và xác định: Cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân ta chưa hoàn thành, cuộc đấu tranh đó vẫn còn tiếp diễn nhưng
chúng ta cần thay đổi phương thức đấu tranh cho hợp lý. Cuộc đấu tranh đó phải chuyển từ
đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ của Đảng là lãnh đạo nhân dân đấu
tranh thực hiện đình chiến, củng cố hòa bình, đòi các quyền tự do dân chủ, cải thiện dân
sinh, thực hiện thống nhất, tranh thủ độc lập, chống khủng bố, bảo vệ những thành quả mà
quần chúng đã giành được trong thời kì kháng chiến chống Pháp [41, tr.161]. Để thực hiện
chỉ thị trên Huyện ủy đã chỉ đạo xuống các xã nhanh chóng tiến hành tập hợp nhân dân
nhằm xây dựng lực lượng chính trị cho cuộc đấu tranh chính trị sắp tới. Đẩy mạnh tuyên
truyền, tố cáo, vạch trần âm mưu và tội ác của bọn Mĩ - Diệm trước đồng bào trong huyện
nhằm hình thành một tâm thế vững vàng cho các tầng lớp nhân dân trong việc phân định và
đấu tranh với kẻ thù. Đồng thời chỉ rõ tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống quân
xâm lược để từ đó củng cố niềm tin của nhân dân vào đường lối, chính sách đúng đắn của

Đảng, một lòng một dạ đoàn kết theo Đảng chiến đấu để đi đến thắng lợi cuối cùng.
1.2.2. Sự hình thành phương châm đấu tranh bằng kết hợp “ba mũi giáp công” ở
huyện Mỏ Cày (1954 – 1960).
Trong lịch sử đấu tranh của nhân dân ta, tinh thần “trọng hòa bình, tránh xung đột
trực tiếp và nhân đạo” dường như giữ vai trò chủ đạo. Chính điều này định hướng con
đường mà Đảng đã lựa chọn trong buổi đầu đấu tranh trực diện với kẻ thù mới – Mĩ, ngụy.
Với phương châm đấu tranh của cách mạng miền Nam chuyển từ đấu tranh vũ trang sang
đấu tranh chính trị cũng không nằm ngoài tinh thần ấy. Bởi ta đã thấy được đấu tranh chính
trị có một vai trò rất quan trọng, trong cuộc chiến tranh không cân sức này chỗ mạnh cơ bản
của ta là chính trị và chỗ yếu cơ bản của Mĩ, ngụy cũng là chính trị. Đế quốc Mĩ tiến hành
cuộc chiến tranh xâm lược này hoàn toàn phi nghĩa đang bị dư luận thế giới phản đối. Để
thuận lợi cho âm mưu xâm lược chúng đã dùng rất nhiều thủ đoạn chính trị để lừa bịp nhân
dân . Nhưng chúng đã lầm khi thực hiện âm mưu ấy với một dân tộc có bề dày đấu tranh
chính trị rất anh dũng kiên cường, với một trình độ giác ngộ chính trị và tổ chức rất cao.
Cho nên sau năm 1954, căn cứ vào sự chỉ đạo của cấp trên, Huyện ủy Mỏ Cày đã lãnh đạo,
tổ chức nhân dân trong huyện tiến hành đấu tranh chính trị đòi Mĩ phải thi hành hiệp định
Giơnevơ. Để việc đấu tranh có hiệu quả cần tập trung giải quyết cho bằng được những yêu
cầu cụ thể của việc đấu tranh chính trị. Đấu tranh chính trị nhằm giải quyết được những

22


quyền lợi thiết thân của nhân dân như vấn đề ruộng đất, về quyền tự do, dân sinh, dân chủ.
Cũng từ trong đấu tranh chính trị từng bước giác ngộ cách mạng cho nhân dân, giúp nhân
dân thấy rõ hơn bộ mặt phản bội, tàn bạo của kẻ thù cũng như cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc mà cả nước đã, đang và sẽ tiếp tục tiến hành. Đấu tranh chính trị là đánh vào chỗ yếu
của Mĩ, ngụy vừa góp phần phân hóa, cô lập bọn giặc, mặt khác giúp ta phát triển, củng cố
thêm lực lượng cách mạng.
Khi nói về biện pháp đấu tranh chính trị, các cấp ủy Đảng cũng đã chỉ ra rất rõ khi
đấu tranh phải hết sức khéo léo, mềm dẽo, đấu tranh phải có lý, có lợi, thật sự đúng mức.

Sức mạnh của quần chúng nhân dân được dùng làm chỗ dựa vững chắc cho việc đấu tranh.
Nên dùng lời lẽ thuyết phục, giằng co với địch; không nên quá mềm yếu nhưng lại càng
không nên nóng vội mà không thực hiện hoặc thực hiện sai yêu cầu. Tận dụng mọi biện
pháp hợp pháp hoặc bất hợp pháp để lôi kéo, tranh thủ sự đồng tình của gia đình binh sĩ,
nhân viên ngụy quyền và binh sĩ ngụy, thực hiện tốt việc cô lập bọn ác ôn ngoan cố. Nhân
dân đang thực hiện một cuộc chiến tranh cách mạng chống lại kẻ thù nguy hiểm nhất, chính
vì vậy trong đấu tranh chính trị cần tận dụng tất cả những hình thức đấu tranh nếu có thể
như: dân canh chống cướp; kiên quyết đấu tranh đòi việc bầu cử dân chủ hội đồng hương
chính; đòi tự do dân chủ, giữ vững quyền lợi về kinh tế trong đó quan tâm hàng đầu là vấn
đề ruộng đất; khi bị địch bắt đi quân dịch thì tìm cách né tránh, không đi nghe các buổi
tuyên truyền nói xấu cách mạng của địch, nếu như bị bắt ép quá mức thì cần lên tiếng chất
vấn giằng co, tìm mọi cách gây rối trật tự, nếu như địch đưa ra và yêu cầu hô khẩu hiệu của
chúng thì cố tình hô sai; dựa vào lực lượng đông đảo của quần chúng và lấy cớ bảo vệ xóm
làng khỏi trộm cướp bắt bọn do thám, chỉ điểm tay sai của địch khi chúng có ý định theo dõi
bắt bớ. Sáng tạo biến tiếng mõ báo động có Việt Cộng thành tiếng mõ tập hợp quần chúng
vây bắt những tên tay sai ôm chân Mĩ, ngụy,….. Đây chính là sự chỉ đạo sát sao, kịp thời
của cấp trên, để từ đây nhân dân Mỏ Cày đã tiến hành hàng loạt cuộc đấu tranh chính trị rầm
rộ ở nhiều xã trong huyện.
Hòa bình được lập lại chưa được bao lâu, lực lượng quân ngụy đã đánh chiếm lại các
xã trong huyện. Tại xã Định Thủy, ngày 14/8/1954, bọn binh lính dưới sự dẫn đầu của tên
thiếu úy Lực và đội Điều đến chiếm và đóng đồn tại khu vực Vàm nước Trong [21, tr.36].
Bọn chúng rất hung hăng, hống hách, khi đến ấp Thanh Thủy chúng đã bắt một người nông
dân đang cày ruộng (ông Nguyễn Văn Lữ) phải đi theo chúng làm đồn bót. Ông Lữ kiên
quyết không đi theo, bọn chúng xông tới đánh ông, liền lúc đó bà con xung quanh trong ấp

23


đã kéo đến để phản đối. Địch vẫn ngang ngược bắt ông Lữ về bót. Trước tình hình đó chi bộ
đã vận động hơn 200 người kéo đến bót Vàm nước Trong đấu tranh đòi thả ông Lữ [21,

tr.36]. Trước khí thế và lực lượng đông đảo của quần chúng nhân dân, bọn lính hoảng sợ
đành phải thả ông Lữ ra và bắt tên đội Điều phải xin lỗi ông Lữ rồi bà con mới chịu về. Đây
là phong trào đấu tranh chính trị đầu tiên đã giành được thắng lợi. Tin thắng lợi này đã
nhanh chóng lan sang các ấp, xã khác và được xem là một hình thức đấu tranh có hiệu quả
nhằm gây áp lực chống lại bọn tề ngụy. Ngày 13/9/1954, một cuộc đấu tranh của quần
chúng nhân dân ở các xã Khánh Thạnh Tân, An Thạnh, Đa Phước Hội cũng đã diễn ra theo
hình thức này. Vào ngày này trong lúc bắt dân đi làm bót, xây phòng tuyến, tên Xệ cùng
lính dân vệ và một số lính khác đã đánh anh Đứa là một nông dân đang nhổ mạ không đi
làm bót. Bức xúc trước hành động ngang tàn của bọn lính, nhân dân đã khiêng nạn nhân đi
đấu tranh đòi lẽ công bằng với khẩu hiệu “đả đảo lính đánh dân”, quần chúng tham gia vào
đoàn đấu tranh mỗi lúc một đông kéo dài khoảng 3 cây số. Vì đây là cuộc đấu tranh mang
tính tự phát, chưa nắm rõ phương châm và nguyên tắc đấu tranh, mặc dù chi ủy xã có cử
đảng viên và một số cán bộ cốt cán cùng tham gia để giảm phần nào thiệt hại, nhưng do địch
quá hung hăng nên cuộc đấu tranh này bị giải tán với khoảng 200 người bị bắt giam ở thị
trấn Mỏ Cày, nhiều người bị thương và thiệt mạng [1, tr.46]. Cuộc đấu tranh này đã làm cho
bọn địch một phen hoảng sợ trước tinh thần đấu tranh quyết liệt và anh dũng của nhân dân
Mỏ Cày. Tại xã Phước Hiệp vào cuối tháng 8 năm 1954, bọn lính cũng ngang ngược và tàn
ác không kém, chúng hãm hiếp một phụ nữ, đã khiến cho nhân dân vô cùng phẫn nộ, chi bộ
phát động hàng trăm chị em phụ nữ tiến hành đấu tranh đòi lẽ công bằng; chị em phụ nữ
dùng đò máy chở nạn nhân lên tới huyện Mỏ Cày để đấu tranh trực tiếp với tên Quận trưởng
nhằm tố cáo hành động của bọn lính là vi phạm Hiệp định. Bằng những lý lẽ của quần
chúng cùng với chứng cứ rõ ràng, bọn lính không còn đường nào chối cãi. Giằng co mãi
cuối cùng tên Quận trưởng phải nhận lãnh trách nhiệm về việc làm này của bọn lính, hứa là
sẽ điều tra và trừng trị bọn lính, chấp nhận đưa nạn nhân đi điều trị. Cuộc đấu tranh này đã
tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng của chị em phụ nữ Mỏ Cày. Thật xứng đáng là “giặc đến
nhà đàn bà cũng đánh”, đây là sự khởi đầu cho việc hình thành “đội quân tóc dài” với những
chiến tích lẫy lừng trong đấu tranh chống giặc. Từ thắng lợi này nhân dân vô cùng phấn
khởi tin tưởng vào chính nghĩa và sức mạnh của lòng yêu nước, sự đoàn kết nhất trí trong
đấu tranh cách mạng. Qua ba phong trào đấu tranh trên cho thấy một điều là cho dù giặc có
hung bạo, bất nhân đến đâu thì ta cũng có đủ thực lực để đấu tranh đến đấy. Tuy có những


24


thất bại nhưng đã để lại nhiều bài học vô cùng quí báu cho những phong trào đấu tranh
trong thời gian tiếp theo.
Ngày 8/1/1955, Ngô Đình Diệm ra chỉ dụ Số 2 “về cải cách điền địa”, hòng muốn
cướp lại ruộng đất mà trước đây cách mạng đã tạm cấp cho nông dân. Lợi dụng tình hình
đó, những tên địa chủ cũ đòi lại đất và truy thu tô đối với nông dân. Đảng đã lãnh đạo nhân
dân tiến hành đấu tranh chống lại việc tăng tô thuế bằng nhiều cách như: tìm cách đấu tranh
liên tục và kéo dài quyết không để mất đất, chống lại việc tăng tô, truy tô,…. Phong trào này
đã giành được thắng lợi lớn là làm cho việc lập khế ước của địch không thành và có ít tên
địa chủ với tư tưởng sợ sệt, cầu an đã không dám đòi lại đất.
Phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân ngày càng mạnh mẽ hơn,
đặc biệt tháng 10 năm 1955 Ngô Đình Diệm làm trò hề “trưng cầu dân ý” nhằm phế truất
Bảo Đại và suy tôn Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống. Được sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp
ủy Đảng nhân dân các xã trong huyện Mỏ Cày đã đồng loạt không đi bỏ phiếu. Nếu tình thế
bức bách buộc phải đi không né tranh được, ban lãnh đạo cho viết và mang theo mỗi người
một khẩu hiệu “đả đảo Ngô Đình Diệm, đả đảo đế quốc Mĩ can thiệp miền Nam Việt Nam”
[23, tr.37]. Ở xã Định Thủy khi bỏ phiếu một số bà con đã dùng tay bấm thủng hình của
Ngô Đình Diệm in trên phiếu. Địch đã phát hiện và bắt ông Năm Tấn [21, tr.37]. Do có sự
lãnh đạo trước nên bà con đã dùng lý lẽ của mình biến cuộc bầu cử thành cuộc đấu tranh
chống bắt bớ. Bà con đã sử dụng việc “trưng cầu dân ý” thì người dân được quyền ý kiến
và lựa chọn nên buộc địch phải thả ông Năm Tấn. Thế là cuộc bầu cử bị xáo trộn và thất bại
với số phiếu không đạt yêu cầu.
Nhân dân Mỏ Cày với một tinh thần đấu tranh cách mạng cao độ đã không ngần ngại,
sợ hãi trước mọi hành động của kẻ thù, mọi sự đe dọa, mua chuộc của kẻ thù không sao làm
lung lay được ý chí của người dân ở mảnh đất xứ dừa. “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa” là sự
tổng hòa những yếu tố thuận lợi góp phần vào cuộc đấu tranh cách mạng. Những vườn dừa
bạt ngàn, những hàng dừa nước băng băng đã cùng nhân dân che chắn bảo vệ cho lực lượng

cách mạng. Thiên nhiên ở đây là thế và con người ở đây cũng vậy, luôn gắn bó với mảnh
đất quê hương, một lòng tin theo Đảng và làm theo Đảng. Chủ trương bám vào dân hoạt
động của các cấp đã thể hiện được niềm tin của Đảng vào sức mạnh của lực lượng quần
chúng. Trong quần chúng nhất là các mẹ, các chị đã không quản khó khăn cực khổ đã
nhường từng bát cơm, con cá, may vá từng mảnh áo cho chiến sĩ và sẵn sàng tìm mọi cách
giải thoát cho cán bộ cách mạng. Có nhiều trường hợp bọn địch đột kích bất ngờ truy bắt

25


×