Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

thi pháp thơ nôm nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 149 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HOÀNG THỊ THU THỦY

THI PHÁP THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2002



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào
khác.
Tác giả luận án

Hoàng Thị Thu Thủy

3


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... 3
A. DẪN NHẬP ............................................................................................................... 5
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. ......................................................................................... 5
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ. ................................................................................................ 7
2.1. Tìm hiểu về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm của ông: ........................... 9
2.2. 8 ý kiến nghiên cứu về thiên nhiên và đời sống trong thơ Nguyễn Trãi........ 11


2.3. Thể loại, ngôn ngữ. ........................................................................................ 12
2.4. Về một số bài thơ trong QATT....................................................................... 14
3. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. ............................................... 14
3.1. Phạm vi nghiên cứu. ...................................................................................... 14
3.2. Phương pháp nghiên cứu. .............................................................................. 15
4. DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN. .................................... 19
4.1. Giá trị khoa học.............................................................................................. 19
4.2. Giá trị thực tiễn. ............................................................................................. 20
5. KẾT CẤU LUẬN ÁN. ......................................................................................... 20
B. NỘI DUNG .............................................................................................................. 22
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VĂN BẢN QUỐC ÂM THI TẬP .................... 22
1.1. TÌNH HÌNH VĂN BẢN QATT. .................................................................... 22
1.2. VĂN BẢN LÀM CHỖ DỰA CHỦ YẾU ĐỂ NGHIÊN CỨU THI PHÁP
QATT. .................................................................................................................... 26
1.2.1. Lưu ý một số từ cổ trong văn bản QATT cổ liên quan đến thi pháp của
câu thơ, bài thơ. ................................................................................................. 29
1.2.2. Lưu ý đến một số chú thích, giải nghĩa có liên quan đến điển: .............. 36
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TỔNG QUÁT VỀ THI PHÁP THƠ NÔM NGUYỄN
TRÃI ......................................................................................................................... 39
2.1. NÉT KHU BIỆT CỦA THI PHÁP THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI................. 39
2.2. THI PHÁP VỀ CÁI HÀNG NGÀY. .............................................................. 49
2.3. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT. ............ 54
2.3.1. Thi pháp không gian nghệ thuật trong Quốc âm thi tập. ........................ 55


2.3.2. Thi pháp thời gian nghệ thuật trong Quốc âm thi tập. ............................ 65
Chương 3: THI PHÁP "QUỐC ÂM THI TẬP" VỚI CÁC PHƯƠNG DIỆN: THỂ
THƠ, ÂM VẬN, NGÔN NGỮ ................................................................................. 71
3.1. THI PHÁP "QUỐC ÂM THI TẬP" Ở PHƯƠNG DIỆN THỂ THƠ. ........... 71
3.2. THI PHÁP "QUỐC ÂM THI TẬP" Ở PHƯƠNG DIỆN ÂM VẬN ............. 82

3.2.1. Nhịp điệu:................................................................................................ 82
3.2.2. Vần thơ trong "Quốc âm thi tập". ........................................................... 95
3.3. THI PHÁP NGÔN NGỮ TRONG QATT: .................................................. 100
3.3.1. Từ vựng ................................................................................................. 100
3.3.2. Biện pháp tu từ cú pháp. ....................................................................... 116
3.3.3. Tính nhạc trong QATT. ......................................................................... 130
C. KẾT LUẬN ............................................................................................................ 134
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 139


A. DẪN NHẬP
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng, anh hùng dân tộc, nhà văn hóa dân tộc, nhà nghệ sĩ
ngôn từ vĩ đại của văn học Việt Nam.
Những điều như vậy được thể hiện trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng nước
Đại Việt khỏi ách đô hộ của nhà Minh và trong sự nghiệp xây dựng nước Đại Việt sau
chiến thắng, được thể hiện ở những trước tác và sáng tác của Nguyễn Trãi: Lam Sơn
thực lục, Chí Linh phú, Quân trung từ mệnh tập, Băng Hồ di sự lục, Bình Ngô đại cáo,
chiếu và biểu viết dưới triều Lê, Dư địa chí, Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập
(QATT). Nguyễn Mộng Tuân đánh giá Nguyễn Trãi: "Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền"
(Xây dựng làm vẻ vang cho nước xưa nay chưa từng có).
Nguyễn Trãi tỏa sáng trong thời đại của mình và tiếp tục tỏa sáng trong thời đại
chúng ta đang sống. "Nhớ Nguyễn Trãi là nhớ người anh hùng cứu nước, đồng thời là
nhớ nhà văn lớn, nhà thơ lớn của nước ta. Từ bài Bình Ngô đại cáo qua các bức thư
gửi tướng tá quân xâm lược, đến thơ chữ Hán và chữ Nôm... ngòi bút thần của Nguyễn
Trãi đã để lại cho chúng ta những tác phẩm gồm nhiều thể văn và tất cả đều đạt đỉnh
cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường! Nhiều tài hoa như vậy dồn lại ở một con
người thật là hiếm có" [30].
Cuộc đời, những trước tác và sáng tác của Nguyễn Trãi là đối tượng nghiên cứu
của hàng loạt ngành khoa học: tư tưởng, đạo đức, chính trị, lịch sử, văn hóa, văn

học.v.v...
Các nhà nghiên cứu văn học, phê bình và lý luận văn học đã nghiên cứu rất nhiều
những trước tác và sáng tác của Nguyễn Trãi như một nghệ sĩ ngôn từ của văn học
trung đại Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã chú ý đúng mức đến vấn đề thể loại, đến
văn chương được viết bằng chữ Hán và văn chương được viết bằng chữ Nôm, đến văn
chương chính luận, văn sử bút, văn địa chí và văn chương hình tượng; sự thống nhất,
sự đồng dị của chúng ở những trước tác và sáng tác của ông. Các nhà nghiên cứu cũng
thấy rõ nơi con người trước tác và sáng tác Nguyễn Trãi có nhà tư tưởng, nhà chính
trị, nhà thơ; ba nhà ấy là thống nhất trong Nguyễn Trãi, nhưng không phải không có
5


lúc lâm thời được chia tách. Và, ngay cả ở Nguyễn Trãi với tư cách nhà thơ thì các nhà
nghiên cứu và phê bình lý luận văn học cũng có thể phân biệt nhà thơ sáng tác bằng
ngôn ngữ Hán - Việt và nhà thơ viết bằng tiếng mẹ đẻ - tiếng Việt đó không hẳn chỉ là
sự phân biệt về phương diện ngôn từ mà Ức Trai đã sử dụng để sáng tác thi ca.
Tiếp cận với Nguyễn Trãi như một nghệ sĩ ngôn từ của văn học trung đại Việt
Nam, các nhà nghiên cứu, phê bình và lý luận văn học đã thu được những thành tựu
lớn. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi là một trong những tác gia thuộc loại lớn nhất của văn
học Việt Nam vẫn đang ở trong quá trình văn học nước nhà từ cơ tầng văn hóa Đông
Nam Á giao lưu với tư tưởng Ấn Độ, tư tưởng Trung Hoa và văn học Trung Hoa, xây
dựng thành công văn học thành văn của dân tộc, một tác gia như thế tạo ra trước mắt
các nhà nghiên cứu, phê bình và lý luận văn học con đường vô tận để đi trên con
đường ấy, nếu muốn hiểu ngày càng đầy đủ hơn, ngày càng đúng hơn Ức Trai. Hơn thế
nữa, cần phải tiếp cận với Nguyễn Trãi như một nghệ sĩ ngôn từ của văn học trung đại
Việt Nam, bằng những phương pháp nghiên cứu mới có khả năng giúp chúng ta khám
phá những điều này hay điều kia chưa được phát hiện ở sự nghiệp văn chương của Ức
Trai.
Kế thừa những thành tựu lớn của các công trình nghiên cứu đi trước và bằng
những suy nghĩ như trên, chúng tôi chọn cho luận án của mình đề tài: Thi pháp thơ

Nôm Nguyễn Trãi.
Thơ Nôm của Ức Trai có quan hệ nội tại với những trước tác và sáng tác khác
của Nguyễn Trãi, nhưng không ở đâu như ở thơ Nôm của Ức Trai chúng tôi thấy rõ
ràng nhất Nguyễn Trãi - nhà thơ. Cho nên, đến với những tác phẩm văn chương khác
của Nguyễn Trãi đều có ý nghĩa đặc thù trên các phương diện lịch sử, xã hội mang tầm
cỡ quốc gia của một con người với tư cách là một nhà chính trị, văn hóa, ngoại giao,
bác học, khoa học, tư tưởng... Còn đến với QATT của Nguyễn Trãi là đến với con
người cá nhân nhà thơ, đến với tâm hồn, xúc cảm của nhà thơ trong quãng 14 năm
cuối đời. Đây cũng là một trong những lí do mà chúng tôi thấy là cần thiết và quan
trọng. Hiểu được tâm hồn, xúc cảm của người khác không phải là chuyện dễ, mà tâm
hồn, xúc cảm được biểu hiện qua thơ lại càng là sự khó khăn và tinh tế vô cùng.
Chúng tôi cho rằng sự phối hợp giữa lí thuyết thi pháp - đi sâu hơn vào lĩnh vực
nghệ thuật, với khả năng thẩm định văn chương vào văn bản QATT- được xem là văn
6


bản cổ nhất của văn học Việt Nam, sẽ làm sáng rõ sức sống lâu bền và sức tỏa sáng
của QATT nói lên sức mạnh nghệ thuật tự nó, vốn có và tiềm ẩn trong thi pháp của nó.
QATT vô cùng quý giá đối với dân tộc ta. Tập thơ là minh chứng hùng hồn cho ý
thức trở về cội nguồn, ý thức dân tộc hóa văn chương, nhân dân hóa thơ ca của
Nguyễn Trãi. Tập thơ còn là minh chứng về xúc cảm, tâm hồn của một "vĩ nhân" trong
lịch sử, là sự cách tân về bút pháp, ngôn ngữ và cấu tứ...; đó cũng là một kho chất liệu
cho ta nghiên cứu lời nói, câu viết của tổ tiên ta ngót 500 năm trước.
Chúng tôi cũng từng thao thức, trăn trở với những câu thơ mới đọc qua còn có
cảm giác trúc trắc, tắc nghẹn, nhưng càng suy nghĩ, nghiền ngẫm càng cảm nhận được
tâm hồn Ức Trai, tâm hồn một vĩ nhân trong lịch sử có một số phận hết sức éo le. "Văn
tức là người" (Le style c'est l'homme - Buffon, XVII siècle), QATT là tấm gương phản
chiếu tâm hồn của Nguyễn Trãi. Một con người suốt đời sống theo phương châm "tiên
ưu, hậu lạc" ("Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc dư" - Phạm
Trọng Yêm - Bài kí lầu Nhạc Dương - Lãng Nhân - Hán văn tinh túy Sài Gòn, 1965,

trang 224).
Là một giáo viên dạy văn ở trường sư phạm, chúng tôi nghĩ rằng hiểu sâu sắc về
một tác giả, một tác phẩm, có những thao tác khoa học hợp lí, xác đáng để phân tích
tác phẩm văn học, nhất là tác phẩm văn chương vừa cổ, vừa khó, vừa có giá trị mở
màn, đột phá, vừa có vị trí đỉnh cao là một công việc khó khăn, phức tạp.
Năm trăm năm đã qua, QATT vẫn đầy vẻ đẹp và sức sống, làm rạng danh và sáng
tỏ tâm trạng Ức Trai - "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" (Ức Trai lòng dạ văn
chương sáng - Lê Thánh Tông)( 1). Sự tồn tại của QATT xứng đáng cho các công trình
tiếp tục khảo cứu, nghiên cứu về nó. Mỗi một công trình sẽ có giá trị "bóc dần" rêu bụi
của thời gian, trả lại cho QATT sự lấp lánh diệu kỳ của văn chương một con người
"Tinh vi, thâm thúy, sáng sủa, đẹp đẽ" (Nguyễn Năng Tĩnh).

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.
Theo tư liệu hiện có, QATT của Nguyễn Trãi là thi tập được viết bằng chữ Nôm
cổ nhất của văn học Việt Nam mà chúng ta còn giữ được. Đánh giá QATT, GS.Đinh
Gia Khánh viết: "Là một người đã từng lăn lộn trong phong trào đấu tranh rộng lớn
(1) Câu này được đối với câu dưới: “Vũ Mục hung trung liệt giáp binh” trong bài Minh lương

7


của dân tộc, đã từng sống gần nhân dân trong phần lớn cuộc đời mình, là một nhà văn
hóa dân tộc rất có ý thức về những giá trị tinh thần của đất nước Việt và con người
Việt, Nguyễn Trãi đã có đóng góp lớn vào sự phát triển của văn hóa dân tộc.
Trong lĩnh vực văn học, thì sự đóng góp ấy lại còn thể hiện rõ rệt ở việc đẩy
mạnh sự phát triển của thơ Nôm. Kế thừa những thành tựu của các tác phẩm đời Trần,
QATT của Nguyễn Trãi đã khẳng định vị trí ngày càng quan trọng của văn học chữ
Nôm trong dòng văn học viết.
Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, tính dân tộc đã thể hiện rất rõ ở chỗ phản
ánh thiên nhiên của đất nước ta và sức sống của ông cha ta. Với thơ Nôm, ông đã có

thể phản ánh một cách cụ thể và sinh động hơn thiên nhiên ấy, cuộc sống ấy" [63: 400]
Bài nghiên cứu của Xuân Diệu: "Quốc âm thi tập tác phẩm mở đầu nền thơ cổ
điển Việt Nam" [133: 578 - 638] vào năm 1980 quan tâm trên nhiều phương diện: văn
bản (20 bài trùng giữa QATT và Bạch Vân Quốc ngữ thi tập), con người Nguyễn Trãi "con người "trần thế nhất trần gian", con người thông thường càng làm tăng thêm giá
trị cho con người khác thường, chính cái phần con người thông thường làm cho vĩ
nhân mới hoàn chỉnh là một vĩ nhân trọn vẹn" [133: 613]; bàn đến câu thơ 6 chữ, Xuân
Diệu cho rằng: "Nhà thơ biết cách đặt các từ gốc bên nhau, rồi vì sức mạnh bên trong
của nội dung tạo ra một từ trường, cho nên các chữ hút nhau, không cần các thứ keo hồ
trợ từ" [133: 622] và tác giả bình luận đến một số từ Nôm được sử dụng trong QATT
của Nguyễn Trãi vừa biểu hiện ý thức dân tộc vừa biểu hiện giá trị nghệ thuật...
Nhìn một cách tổng quát thì các công trình nghiên cứu về QATT đan xen nhau
trên các phương diện vào những quãng thời gian tiếp nối nhau. Số bài nghiên cứu về
văn bản QATT khá tập trung vào giai đoạn đầu, số bài nghiên cứu về con người
Nguyễn Trãi, Nguyễn Trãi với thiên nhiên, và các bài thơ riêng lẻ trong tập thơ tập
trung trong thời gian gần đây với sự vận dụng thi pháp rõ nét. Phần lịch sử nghiên cứu
về văn bản chúng tôi xin được phép trình bày rõ trong chương 1 của luận án, những
công trình nghiên cứu còn lại chúng tôi tạm nhóm vào một số đề mục và lược qua theo
trình tự thời gian (ở đây chúng tôi chỉ lưu ý đến những ý kiến có liên quan đến đề tài
của luận án).

8


2.1. Tìm hiểu về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm của ông:
Có 7 bài viết từ năm 1962 đến 1997, trong 7 bài nghiên cứu này chúng tôi tiếp
thu cách đánh giá về con người cá nhân Nguyễn Trãi của các tác giả Trần Đình Hươu,
Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử và Trần Ngọc Vương. Trần Đình Hượu (1995) cho
rằng: "Trong cả cuộc đời, khi còn chống Minh cũng như khi đã làm quan trong triều
đình, bao giờ Nguyễn Trãi cũng coi Nho giáo là đạo lí chính, nhưng tư tưởng Nho giáo
cũng không bao giờ độc chiếm tâm hồn ông. Từng thời gian, từng phạm vi khác nhau,

bên cạnh Nho giáo bao giờ cũng có một cái gì khác, thường là trái với Nho giáo, hoặc
là tư tưởng quyền mưu, hoặc là tư tưởng Lão - Trang, hoặc là nếp sống theo truyền
thống dân tộc. Thành phần phụ gia đó làm cho tư tưởng của ông thành đa dạng, phong
phú và trở thành gần gũi với chúng ta hơn nhiều. Nếu hình dung Nho giáo là một
đường thẳng thì tư tưởng Nguyễn Trãi là một đường quanh co cùng hướng, lượn
quanh, không bao giờ trùng mà cũng không bao giờ quá xa đường thẳng. Đó là một sự
lựa chọn; Nguyễn Trãi lựa chọn cho mình và cho cả dân tộc" [58: 116]
"Thơ tâm sự chữ Hán và chữ Nôm là phần hay nhất mà cũng là phần nhiều nhất
trong thơ Nguyễn Trãi. Ta gặp ở đây những lời tự bạch hầu như trong nửa cuối cuộc
đời ông, từ những ngày còn đảm đương nhiều trọng trách của triều đình, bận bịu trăm
công ngàn việc đến những ngày "nhàm chán". [...] Ta gặp rất ít bài có tâm sự vui vẻ,
phấn chấn, đắc ý hành đạo mà lại gặp nhiều bài dằn vặt, đau xót khi ông bị nghi kị,
lâm vào cảnh ngộ nguy hiểm. Rất nhiều [bài] bộc lộ tâm sự chán nản, bực bội khi phải
sống lẻ loi, lạc lõng giữa triều đình. Hầu hết là thơ ca tụng cảnh nhàn, ca tụng cảnh
đẹp thiên nhiên, mối đồng tình với những con người thanh cao biết coi thú nhàn dật là
quý, ngàn vàng khó đổi được. Dầu đó là phần chủ yếu, tâm tình của ông không chỉ tập
trung vào lạc thú thanh nhàn. Đằng sau - và là sâu hơn lạc thú đó - là nỗi lòng day dứt
làm nhà thơ bạc đầu:
"Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước chầu đông"
Điều hầu như luôn làm ông bận tâm, ray rứt là vấn đề xuất xử" [58: 104, 105].
Hoặc: "Trong cách hình dung của chúng ta, Nguyễn Trãi là anh hùng, là nhà chính
khách, là con người hành động, nhưng Nguyễn Trãi còn là con người có tâm hồn rất
nghệ sĩ. Ông thích ngồi dưới giàn hoa làm thơ, đốt lò hương đánh đàn, thích chèo
9


thuyền đêm trăng, thích cảnh đẹp. Cả hai con người khác nhau đó đã hình thành từ rất
sớm ở ông" [58: 106]
Bài viết của Nguyễn Hữu Sơn vào năm 1995 cho rằng: "Xét về nội dung tư

tưởng, dễ thấy ở Nguyễn Trãi xuất hiện cả ba mẫu hình con người nhà nho (theo cách
phân loại của giáo sư Trần Đình Hượu): hành đạo, ở ẩn và tài tử. Song nếu nhìn nhận ở
tư cách nhà nghệ sĩ lại thấy mỗi phương diện trên đều được Nguyễn Trãi giải bày trong
nhiều biến thái khác biệt, thậm chí đối nghịch nhau" [133: 732]
Trần Đình Sử (1997) cho rằng: "Cá nhân Nguyễn Trãi được thể hiện nổi bật trong
bản thân sự lựa chọn day dứt giữa các tư tưởng, các con đường lập thân, dưỡng thân và
nhất là bảo thân..." [133: 723]
Trần Ngọc Vương (1997) nhấn mạnh quan hệ giữa nhà nghệ sĩ và nhà tư tưởng
trong QATT: "Nhà tư tưởng phát ngôn và hành động cho đạo Nho, nhà nghệ sĩ mang
nặng nỗi ưu đời mẫn thế... nhà tư tưởng của triết học Lão - Trang và người nghệ sĩ ca
tụng thú thanh nhàn, hòa mình vào tạo vật" [133: 741]. Bàn đến sự thống nhất giữa các
mâu thuẫn hay là ý nghĩa bi kịch của Nguyễn Trãi, tác giả đã lí giải một cách xác đáng
bi kịch của Nguyễn Trãi là "xung đột giữa hai định hướng văn hóa" [133: 759], trong
mối xung đột đó thì "Nguyễn Trãi cô đơn, cô đơn đến tuyệt đối giữa những đại thần,
và sự nhẫn nại đến phi thường của Nguyễn Trãi là để thực thi cho bằng được một thiên
chức "tác chuẩn thằng" (tạo ra mực thước, chuẩn mực) cho những kẻ tư văn của đất
Việt" [133: 761]
Lê Chí Dũng trong công trình nghiên cứu "Tính cách Việt Nam trong thơ Nôm
luật Đường" (Nxb Văn học, Hà Nội, 2001) đã phân tích và nhấn mạnh: "Như vậy trong
thơ Nôm luật Đường của Nguyễn Trãi hội đủ 3 loại hình tượng: hình tượng người anh
hùng đem hết sức bình sinh "phò đời, giúp nước", hình tượng người ẩn sĩ sống thanh
cao, lánh xa vòng danh lợi, hình tượng chàng trai hữu tài, hữu tình, cảm nhận sâu sắc
và tinh tế mọi biến dịch tinh diệu của thiên nhiên, của cuộc sống con người, duyên
dáng và tinh nghịch..." (trang 40).

10


2.2. 8 ý kiến nghiên cứu về thiên nhiên và đời sống trong thơ
Nguyễn Trãi.

Bài viết của Nguyễn Thiên Thụ (1973) trong mục IV: "Thiên nhiên đã khoác
những chiếc áo màu khác nhau tùy theo từng thời gian: cỏ, cây, hoa, lá, núi rừng, sông
hồ, bầu trời... đã thay đổi theo từng mùa, từng tháng. Sự thay đổi đó đã làm cho lòng
người đổi thay và lòng thi nhân thêm cảm xúc" [133: 675]
Đặng Thanh Lê (1980) lưu ý đến không gian nhỏ bé bình dị nơi quê nhà Nguyễn
Trãi: "Nguyễn Trãi còn hướng ngòi bút vào những cảnh vật nhỏ bé, bình dị vẫn thường
dấu mình trong cuộc sống hàng ngày quen thuộc như nắng chiều, mây sớm, dậu cây,
bờ cỏ... nhân vật trữ tình ở đây trở thành chủ thể cảm thụ, chiếm lĩnh vẻ đẹp của thiên
nhiên từ góc độ một con người hòa mình vào xứ sở quê hương, nơi sinh trưởng" [133:
693].
Nguyễn Hữu Sơn (1985) trong bài viết "Cảm quan mùa xuân trong thơ Nôm
Nguyễn Trãi" cho rằng: "trong thơ Nguyễn Trãi, mùa xuân được cảm nhận như là biểu
tượng của vẻ đẹp toàn mỹ, hoàn chỉnh, phổ biến" [133: 535], tác giả so sánh số lượng
thơ xuân trong thơ Quốc Âm và thơ xuân trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi để đi
đến nhận định: "Chỉ với thơ Quốc Âm, với thứ chữ Nôm - thứ tiếng nói của tâm hồn
dân tộc - thì Nguyễn Trãi mới có điều kiện cảm nhận và diễn đạt được toàn bộ ý tưởng
của mình trước cuộc sống và cảnh đẹp của mùa xuân đất Việt" [133: 539]. Ý kiến của
La Kim Liên (1997) về trăng trong QATT là những đánh giá có giá trị khái quát, tổng
kết về quan hệ giữa trăng và thi nhân...
Tác giả Trần Ngọc Vương bàn về nhà tư tưởng và nhà nghệ sĩ trong QATT cũng
đề cập đến mối quan hệ giữa thi nhân với thiên nhiên: "Có thể nói, khi đối diện với
cảnh vật, Nguyễn Trãi có hai cách cảm thụ chủ yếu: kéo nó vào với mình và hòa mình
vào với nó... Nguyễn Trãi vật thể hóa những khái niệm trừu tượng, cảm tính hóa những
nguyên lý Nho gia khi ông là người hành đạo... và những người bạn muôn thuở ở
trong thơ các nhà nho ẩn dật cũng được Nguyễn Trãi gọi về họp mặt đầy đủ trong thơ
ông: mai, tùng, cúc, trúc, thông... am quạnh, lều con, hương trầm... Nguyễn Trãi không
dựng lên những cảnh dữ dội hay những cảnh triền miên, vụn vặt. Cảnh trong thơ ông
thường "bén áo, xâm khăn" với con người" [133: 753, 757]
11



2.3. Thể loại, ngôn ngữ.
Về thể thơ lục ngôn chen thất ngôn Đinh Gia Khánh cho rằng: "Nguyễn Trãi
không bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp của một thể cách thi luật cố định. Viết theo
thể thất ngôn bát cú Hàn luật hoặc thất ngôn tứ tuyệt Hàn luật, thơ Nôm Nguyễn Trãi
không hiếm những bài mà kết cấu hoàn chỉnh và vững chắc. Tuy nhiên, đôi khi nhà
thơ vi phạm - hay nói cho đúng hơn - phá vỡ niêm luật của thể thơ ấy" [63: 411]
"Cho nên có thể nói thơ Hàn luật theo điệu Đường trong thời Nguyễn Trãi tuy đã
thông dụng nhưng không chiếm ưu thế trên văn đàn. 183 bài thơ còn lại của Quốc âm
thi tập là những bài thơ ít nhiều có thể cách tự do. Nói cho đúng hơn, đó là những bài
thơ tám câu hoặc bốn câu mà cấu trúc đối xứng thì ít nhiều giống thơ luật, nhưng số
âm trong câu thì lại có thể sáu hoặc bảy (lục ngôn xen kẻ với thất ngôn). Việc kết hợp
một cách linh hoạt những câu sáu và câu bảy như thế đã tạo cho thơ nôm Nguyễn Trãi
âm điệu riêng" [63: 412]
Có 3 bài viết liên tiếp nhau của tác giả Phạm Luận vào những năm 1980, 1991,
1997 (bài viết 1997 có sự cộng tác của tác giả Nguyễn Phạm Hùng). Bài viết năm
1980 thống kê: 159 bài bát cú có 391 câu 6 tiếng, 25 bài tứ tuyệt có 35 câu 6 tiếng
[133: 842], sau khi phân tích việc xen câu 6 tiếng tạo nên sự thất niêm, tác giả cho
rằng: "khi hình thức thể thơ trở thành đơn điệu với nội dung thì nhà thơ phải tìm đến
những hình thức thể thơ khác, kiểu câu thơ khác... trong cố gắng để xây dựng một lối
thơ Việt Nam, Nguyễn Trãi đã đưa vào thể thơ Nôm câu 7 tiếng với lối ngắt nhịp 3�4 và

câu 6 tiếng. Đó là kết quả những tìm tòi sáng tạo của người Việt Nam, mà người đặt
mốc đầu tiên là Nguyễn Trãi" [133: 847, 849].
Bài viết tiếp theo vào năm 1991 tác giả nhấn mạnh đến tiết tấu của câu thơ Trung

Quốc và câu thơ Việt Nam, câu thơ Trung Quốc có thể xem là câu thơ ngũ ngôn luật,
được thêm vào đằng trước một bước thơ, gồm hai âm tiết, câu thất của ta lại là câu 6
âm tiết có âm tiết đầu tự làm một bước thơ, rút gọn một từ vẫn không phương hại đến
cả câu, và vì vậy câu thơ Việt Nam luôn có nhịp chẵn, tác giả cũng khảo sát có 215 lần

trong 145 bài có gieo vần lưng và vần trắc. Bài viết vào năm 1997 chung với tác giả
Nguyễn Phạm Hùng có lưu ý mấy vấn đề cơ bản sau:
- Cách hiệp vần trong thơ: QATT từ đầu đến cuối đều sử dụng vần bằng (trừ bài
126 và 200), như vậy xét về vị trí hiệp vần, thơ trong QATT không có gì khác với thơ
12


chữ Hán làm theo luật Đường của tác giả, chữ hiệp vần trong QATT chệch xa luật chữ
hiệp vần theo Quảng Vận. Do ngôn ngữ QATT từ thuần Việt chiếm một tỉ lệ cao, hơn
nữa ông lại ưa thích dùng những vần thuần Việt vào vị trí các "nút tiếng vọng" [133:
864]
- Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn: số câu số chữ ở mỗi bài không cố định, "câu
lục ngôn không phải do Nguyễn Trãi sử dụng câu lục trong thơ dân gian Việt Nam. Nó
được hình thành từ chính câu thất ngôn luật Đường. Mỗi câu lục ngôn được tạo ra chỉ
bằng một cách là giảm một chữ ở câu thất ngôn luật Đường. Chữ giảm ở câu thất ngôn
tuy theo từng bài, có thể là một trong các chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm, thứ sáu. Duy
chữ thứ 7 và chữ thứ 2 của câu thất ngôn thì bất cứ trường hợp nào cũng không thể
giảm" [133: 867]
Bàn về ngôn ngữ trong QATT có ý kiến của các tác giả Ngô Văn Phú, Bùi Văn
Nguyên, Hoàng Tuệ, Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương: đánh giá giá
trị mở màn và giá trị đỉnh cao của QATT trong sáng tác thơ bằng ngôn ngữ dân tộc.
Thành tựu lớn nhất của Nguyễn Trãi không phải là ở chỗ đồng hóa kho từ vựng và văn
liệu Hán học mà là ở chỗ xây dựng ngôn ngữ văn học trên cơ sở ngôn ngữ của nhân
dân và ngôn ngữ của văn học dân gian. "Và trong hàng chục thế kỷ giao lưu văn hóa
[Việt - Hán] ngôn ngữ Việt trong khi vẫn giữ vững cấu trúc ngữ pháp và vốn từ vựng
cơ bản - những nhân tố chính để khẳng định một ngôn ngữ dân tộc - thì lại đã đồng
hóa rất nhiều từ ngữ Hán vào kho từ vựng của mình. Trong sự đồng hóa này, phải thấy
công lao của nhiều tác giả thơ văn nôm. Nguyễn Trãi là một trong những người đã góp
phần công lao xứng đáng. Ông đã cố gắng Việt hóa những phần vay mượn của Hán
học." [63: 402]

"Thành tựu lớn nhất của Nguyễn Trãi không phải là ở chỗ đồng hóa kho từ vựng
và văn liệu Hán học mà là ở chỗ xây dựng ngôn ngữ văn học dân tộc trên cơ sở ngôn
ngữ của nhân dân và ngôn ngữ của văn học dân gian" [63: 404]
"Những khả năng của ngôn ngữ Việt mà Nguyễn Trãi biết khai thác một cách tài
tình đã làm cho hình tượng thơ nhịp nhàng, uyển chuyển và đầy màu sắc dân tộc.
Với Nguyễn Trãi, ngôn ngữ văn học Nôm đã tiến một bước đáng kể so với ngôn
ngữ văn học Nôm đời Trần. Thơ Nôm Nguyễn Trãi nhiều khi kết hợp được tính giản
dị, chân chất với tính mĩ lệ, tinh tế" [63: 408]
13


Bùi Văn Nguyên thống kê có 50 câu trong QATT có yếu tố của tục ngữ, 20 câu
có yếu tố của ca dao và kết luận: "từ trong lao động nghệ thuật của mình, các nhà thơ
dân tộc ưu tú nói trên, lại dần dần nâng cao giá trị văn học của tiếng Việt lên làm cho
tiếng Việt ngày càng phong phú, càng có vị trí xứng đáng trên văn đàn, ngay với tiếng
nói của nhiều nước tiên tiến trên thế giới" [133: 815]. Hoàng Tuệ đề cao cống hiến của
Nguyễn Trãi trong QATT ở các phương diện: từ vựng, ngữ pháp, và kế thừa tục ngữ,
ca dao... "nếu như về tiếng Việt, thế kỷ XIX, Nguyễn Du sẽ tạo nên được niềm tự hào,
thì ở thế kỷ XV, điều mà Nguyễn Trãi đã xây dựng nên được là niềm tin. [133: 826]

2.4. Về một số bài thơ trong QATT.
Có 7 trong số 254 bài được các tác giả Trương Chính, Xuân Diệu, Trần Thanh
Mại, Lã Nhâm Thìn, Quang Huy, Phạm Tú Châu, Trần Đình Sử, Lê Trí Viễn, Đoàn
Thu Vân, Bùi Văn Nguyên, Cao Hữu Lạng, Lê Chí Dũng phân tích, bình giảng: Vô đề,
Tùng (2 bài viết), bài 208 [134], bài 170 [134], Ngôn chí VII, Bảo kính cảnh giới 43,
Mộc cận. Những bài viết của các tác giả: Lê Trí Viễn (bài 170, Tùng, 1994); Trần Đình
Sử (Tùng - 1995), Lê Chí Dũng (Ba tiêu - 2001) và Trần Ngọc Ninh (Mộc cận - 1973)
đều sử dụng các thao tác thi pháp thơ để phân tích, bình giảng. Các tác giả đều rất chú
ý đến yếu tố ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, kết cấu và đặc biệt Trần Ngọc Ninh đã sử
dụng nhiều thao tác của thi pháp cấu trúc đưa lại cho người đọc cảm nhận về cái đẹp

trong bài thơ "Mộc cận": từ hình ảnh bóng hoa dưới nước, hình ảnh "chiều mai nở,
chiều hôm rụng" để nói đến sự vô thường, đến rồi lại đi, có sinh và có tử. Từ câu 1 đến
câu cuối cùng, bài thơ đưa ta đi từng đợt, từ cái đẹp của cảnh đến cái chân lý của cuộc
đời... chỉ 4 câu mà mở rộng được chân trời triết lí bao la...

3. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
3.1. Phạm vi nghiên cứu.
Vận dụng lý thuyết thi pháp, vận dụng các phương pháp khoa học, chúng tôi
nghiên cứu toàn bộ 226/254 bài thơ trong QATT (trừ 28 bài trùng) trên các phương
diện nội dung và hình thức (quan niệm nghệ thuật, không gian và thời gian nghệ thuật,
ngôn ngữ, thể loại, âm vận...).

14


3.2. Phương pháp nghiên cứu.
Nguyễn Trãi được xem là người mở đầu, ngươi tạo dựng, người khai sơn phá
thạch, người cha, thiên tài mẹ (génie - mère) của nền thơ tiếng Việt. Trước Nguyễn
Trãi cũng đã từng có những bài thơ tiếng Việt, nhưng nó còn lẻ tẻ, rụt rè, đôi khi tính
xác thực của văn bản còn chưa rõ ràng (chẳng hạn bài thơ của Điểm Bích chép trong
Tam tổ thực lục làm về Huyền Quang, hay bài thơ "Ăn cỗ đầu người" của Nguyễn
Biểu, bài thơ của Trần Trùng Quang..., thơ nôm của Nguyễn Sĩ Cố, Hàn Thuyên, Hồ
Quý Ly được ghi nhưng đã mất). Chỉ với hơn 200 bài thơ nôm của QATT, lâu đài thơ
tiếng Việt mới chính thức được đặt viên đá đầu tiên. Và đây là một bước đột phá về thi
pháp, hiểu theo nghĩa rộng nhất của thuật ngữ này.
Thi pháp học hôm nay cơ hồ đã trở thành một cơn sốt, nhất là trong việc làm luận
án. Định nghĩa về nó có nhiều. Từ cổ xưa, như Arixtốt, Lưu Hiệp... đều có cách quan
niệm về "thi pháp học". Đến thời chúng ta, có nhiều định nghĩa từ "hàn lâm" đến thông
tục: "Theo cách hiểu thông thường hiện nay trên thế giới, thi pháp là phương pháp tiếp
cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các hình thức biểu hiện bằng

ngôn từ nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa biểu hiện hoặc chìm ẩn của tác phẩm: ý
nghĩa mỹ học, triết học, đạo đức học, lịch sử, xã hội học.v.v... Cấp độ nghiên cứu thi
pháp học các hình thức nghệ thuật (kết cấu, âm điệu, nhịp câu, đối thoại, thời gian,
không gian, cú pháp.v.v.) yêu cầu đọc tác phẩm như một chỉnh thể, ở đó các yếu tố
ngôn từ liên kết chặt chẽ với nhau, họp thành một hệ thống, để biểu đạt ý tưởng, tình
cảm, tư duy, nhân sinh quan... tức là cái đẹp của thế giới, con người..." [49: 9, 10]
Nhưng hiểu một cách dung dị nhất, thì thi pháp là những phương tiện hình thức
để đạt tới nội dung, chuyên chở nội dung, mang tính nội dung, tính quan niệm, Và nói
chung, thi pháp là tất cả những sáng tạo và cách tân của một tác phẩm, một tác giả,
một trào lưu...; và tất cả là để làm cho người ta thấm thía cái hay của thơ. Nói thi
pháp dưới bất cứ khía cạnh nào, cũng đều là để hiểu (và cảm) được cái hay của một
câu thơ, một bài thơ, một trào lưu thơ. Khái niệm thi pháp gắn liền với phương diện
hình thức nghệ thuật, hình thức nghệ thuật không tồn tại tự nó mà luôn nằm trong sự
thống nhất chặt chẽ, biện chứng với nội dung nghệ thuật. Nội dung bao giờ cũng là nội
dung của một hình thức nhất định và nếu nói nó quy định hình thức thì lại có thể nói
hình thức cũng quy định nội dung. Bởi vì nếu không có hình thức ấy thì đã không diễn
15


đạt được nội dung ấy. Hình thức và nội dung luôn luôn ở trong nhau, xâm nhập lẫn
nhau, làm nên nhau. Không thể nào tách rời nội dung khỏi hình thức; người ta chỉ tách
rời hình thức ra khỏi nội dung trong nghiên cứu, trong tư duy trừu tượng - tư duy
nghiên cứu, đòi hỏi phải "trừu xuất" hình thức ra khỏi nội dung và ngược lại. Đó là
một sự "cô lập" nhất thời, còn trong thực tế tác phẩm, người ta không thể nói về cái
này mà không nói về cái kia. Nội dung thì vô hạn, hình thức thì hữu hạn, và quan hệ
giữa hình thức và nội dung không phải là quan hệ đối xứng, mà vẫn có tính độc lập
tương đối. Một hình thức có thể biểu hiện nhiều nội dung và một nội dung có thể được
biểu hiện qua nhiều hình thức. Có những cấp độ nội dung cũng như nhiều cấp độ về
hình thức, nhiều khi một cấp độ nội dung nào đó chỉ gắn kết với một cấp độ hình thức
nào đó mà thôi. Một nội dung gắn kết với một hình thức hoặc ngược lại.

Sáng tác văn học là một sự chọn lựa. Tại sao chọn thể loại này, nhịp thơ này, chữ
này... mà không lại là cái khác.v.v... Điều đó bị chi phối bởi một số quan niệm nghệ
thuật về con người, về thế giới, về truyền thống và sáng tạo... mà có khi chính người
sáng tác cũng không ý thức được hết, cũng không tự giác ý thức. Nhưng là người
nghiên cứu, chúng ta phải đi tìm các quan niệm ấy, cái lý lẽ ấy. Chúng ta phải dò tìm
sự thể hiện nội dung qua hình thức. Chúng ta nghiên cứu hình thức là để nghiên cứu
nội dung một cách hoàn thiện.
Như đã nói trên, thi pháp là một hệ thống của một cấu trúc hình thức (bề nổi hay
chiều sâu) nhưng nó là một biểu hiện của nội dung, liên quan đến nội dung. Và vì thế,
trên thế giới, ngày nay ta thấy có hai trường phái lớn về thi pháp, ta tạm gọi là thi pháp
vĩ mô và thi pháp vi mô. M.Bakhtin (1895 - 1975) có thể xem là người đại diện kiệt
xuất cho trường phái thứ nhất. Trong khi nghiên cứu về "Sáng tác của F.Rabelais và
nền văn hóa trào tiếu thời trung cổ và Phục hưng" hay "Thi pháp Dostoievski", ông
đều xuất phát từ lịch sử - thực tại - thế giới quan... là những phạm trù triết học - mỹ
học, những phạm trù nội dung và từ đó đi tìm những đặc trưng thi pháp như "tiếng
cười nhị chức năng", "chủ nghĩa hiện thực dị hợm" (groteque); hay thi pháp nhân vật,
thi pháp ngôn ngữ và cái bao trùm lên là tiểu thuyết đa thanh, đối thoại, vai trò của tư
tưởng... M.Bakhtin phân biệt thơ và tiểu thuyết: "Thơ là tiếng nói độc bạch
(monologique), chẳng hạn một bài thơ diễn đạt một nỗi oán than, một niềm vui, một

16


nỗi nhớ, một suy tưởng. Tiểu thuyết là đối thoại (dialogique), nhiều tiếng nói, nhiều
bè, hòa hợp với nhau, cãi nhau, đối chọi nhau" [49: 15, 16].
Trong khi đó, Jakobson lại là tiêu biểu cho trường phái thi pháp vi mô với tác
phẩm kinh điển "Thi học và ngữ học", Jacobson xuất phát từ việc định nghĩa và vạch
ra mô hình của một thông điệp (message) - người gởi người nhận - bối cảnh - tiếp xúc
- mã... và cố gắng đi tìm cách trả lời cho vấn nạn: làm thế nào mà một thông điệp
mang chức năng thi ca? Sau đó Jacobson đã phân tích những vấn đề tinh vi nhất, khó

khăn nhất của những kết hợp bên trong cấu trúc của một từ, một ngữ đoạn, một câu
thơ, cường độ, trường độ, độ tối - sáng, nhịp, nhịp yếu - nhịp mạnh, vai trò của cái nhỏ
nhất như morfème (hình vị) trong một bản văn... Như thế có thể nói Jacobson là đại
biểu cho thi pháp cấu trúc ngữ học, thi pháp vi mô... Sau những phân tích "soi kính
hiển vi" của ông vào các bài thơ của Bondelaire, thơ sonnet Shakespeare,... người ta
càng hiểu ý đồ của ông hơn trong việc ông muốn đi đến tận cùng, đi đến cái nhỏ nhất
mà có nghĩa trong thơ... "thơ - còn gọi là trục lựa chọn, thay thế, tương đồng, quy
chiếu, trục của các ẩn dụ... thơ sử dụng nhiều hình ảnh, nhiều từ tương đương, nhiều từ
đồng nghĩa... để diễn tả một tâm trạng, một suy tư (giọt lệ, giọt châu, giọt hồng, giọt
tủi... để nói nước mắt, sự đớn đau)..." [49: 16]. Jacobson xem thơ là sự thực hiện chức
năng thơ (poetic function) của ngôn ngữ trong quá trình sáng tạo nên tác phẩm nghệ
thuật ngôn từ, trên cả hai trục: lựa chọn (selection), và kết hợp (combination). Tác giả
còn lưu ý vận dụng lí thuyết thi pháp khai thác các đặc trưng của thơ: cấu trúc trùng
điệp (âm thanh, nhịp điệu, ngữ nghĩa...), kiến trúc đầy âm vang, nhiều khoảng trắng
trên không gian in thơ, chất nhạc tràn đầy.
Sau Jacobson đã có nhiều người kế tục và phát triển nhưng ông vẫn là người mở
đầu - kinh điển, mặc dù không phải lí thuyết của ông, lập luận của ông... được người ta
chấp nhận dễ dàng mà không phản biện, tranh luận( 1)
Sau khi "nhận diện" trên nét lớn về thi pháp học như thế, chúng ta ứng dụng lý
thuyết này vào trường hợp thơ Nôm Nguyễn Trãi và xem xét chúng dưới góc độ thi
pháp, cố gắng tìm ra những nét riêng biệt làm thành cái chất riêng của thơ Nguyễn Trãi
bằng tiếng Việt.
(1) Xin xem: JONATHANCULLER STRUCTURALIST POETICS – Structuralison and the
Study of Literature, Linguistics, Cornell University Press, Ithaca, New York, 1975.

17


Lí thuyết thi pháp của Jacobson có gặp ở Nguyễn Trãi một điểm là người làm thơ
ngày xưa thường chọn từ, chọn ngữ đắc địa để sáng tác, thế nên mới có khái niệm

"nhãn tự" - con mắt thơ, hay nói như Đỗ Phủ: "Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu" (nói mà
không làm người sợ, chết không nhắm mắt). Tuy nhiên, ở QATT không vận dụng thi
pháp Jacobson đến mức phân tích hình vị, vì tiếng Việt không phải như vậy, nhưng gặp
gỡ ở việc lựa chọn từ ngữ trên hai trục lựa chọn và kết hợp. Phương Đông trong sáng
tác thơ thường liên quan đến việc tìm tứ thơ, mà đã nói đến tứ thì cũng phải tìm kiếm
các công cụ hình thức để thể hiện cái tứ của mình, điều này có liên quan đến việc lựa
chọn thể loại.
Trần Ngọc Ninh trong bài viết "Nguyễn Trãi huyễn thực và sắc không" cho rằng:
"Sau J.Cocteau, người ta thường nói rằng thơ là một ngôn ngữ; và sau R. Jacobson,
người ta sẽ nói rằng có một ngữ pháp của thơ. ở Việt nam, vào đầu thế kỉ thứ 15,
Nguyễn Trãi, nhà thơ thứ nhất của dân tộc đã thực hiện được một sự hòa hợp kì diệu
giữa hình thức và nội dung trong thơ của ông..." [104: 15, 16]
Vận dụng lí thuyết thi pháp, chúng tôi còn vận dụng các phương pháp: so sánh
"so sánh tức là nghiên cứu": so sánh với cái trước nó, cái đồng thời với nó và cái sau
nó, trong không gian (khu vực địa lý, vùng, thí dụ: Trung Hoa, Nhật, Đông Á hay
Đông Nam Á...), và trong thời gian; phương pháp lịch sử đưa tác phẩm trở về với thời
đại đã sản sinh ra nó. Văn chương là tấm gương phản chiếu thời đại, thời đại thế nào
thì có văn chương như thế. Văn học cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan, nên QATT còn mang dấu ấn về tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của cá nhân Nguyễn
Trãi, và phương pháp lịch sử cũng là điều kiện để đánh giá hết tầm vóc và vị trí của
QATT, cho phép người nghiên cứu thấy được sự tương đồng của QATT với các tác
phẩm đương thời, hay sự đột biến (về ngôn ngữ, thể tài...) với các tác phẩm cùng thời,
trước đó và sau nó.
Trên cơ sở những thao tác như thế, phương pháp thống kê cũng là để tìm ra
những tần số xuất hiện của hình tượng, ý tứ... từ đó đi sâu vào mạch ngầm và hệ thống
của văn bản để xem tác giả có một quan niệm, một cái nhìn như thế nào? Căn cứ vào
những số liệu, cứ liệu khách quan, thực chứng để nêu lên và giải quyết vấn đề. Mọi sự
thống kê, phân loại đều nhằm vào mục đích thể hiện một tư tưởng, một giá ưị nghệ
thuật đằng sau những con số (trường hợp câu lục ngôn trong 163/ 226 bài là một ví
18



dụ...). Chúng tôi cố gắng vận dụng những mặt mạnh của thi pháp học cấu trúc vào việc
nghiên cứu vần điệu, giọng điệu, ngôn từ..., không phải bằng cách tách rời nó khỏi nội
dung - tư tưởng, mà chính là để làm rõ thêm những nhân tố của hình thức ấy đã làm
tôn vinh nội dung.
Chúng tôi thống nhất về mặt phương pháp luận, vì thi pháp QATT là thi pháp của
226 bài thơ trong một tập thơ, vì vậy việc tiếp cận với tác phẩm này luôn tiến hành
trên cơ sở hệ thống, tính đa dạng trong xúc cảm của một cá nhân nhà thơ. Vì vậy tính
hệ thống như là một đặc điểm mang ý nghĩa phương pháp luận của thi pháp học có cơ
sở từ bản thân đối tượng của khoa học này.
Chia tách ra các phương pháp như vậy để nhìn nhận vấn đề cho rõ ràng, thực chất
các thao tác này luôn luôn kết hợp với nhau, kết hợp trong nhau và với mục đích là
khám phá giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm QATT trong mối quan hệ thống
nhất, biện chứng.

4. DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN.
Khoa học - nhất là khoa học xã hội bao giờ sự sáng tạo cũng dựa trên cơ sở kế
thừa, nên những đóng góp trong luận án của chúng tôi là đóng góp trên phương diện
kế thừa thành quả của những người đi trước. Kế thừa thành quả của người đi trước là
thuận lợi cho luận án, đồng thời cũng là khó khăn cho người viết luận án, bởi vì khoa
học đòi hỏi có những đóng góp mới mẽ, sáng tạo, không chấp nhận sự vay mượn hay
sự lặp lại.

4.1. Giá trị khoa học.
Bắt đầu từ vấn đề văn bản QATT, tức là đến với QATT từ văn bản đích thực của
nó, chúng tôi vận dụng lý thuyết thi pháp, cùng với các thao tác khoa học, để tiến hành
nghiên cứu tổng thể QATT trên các phương diện: quan niệm nghệ thuật về con người,
không gian và thời gian nghệ thuật, cùng với các vấn đề về thể loại, âm vận, ngôn
ngữ... và dự kiến đạt được những kết quả sau đây:

- QATT là bước ngoặt quan trọng trong nền thơ ca nước nhà, mở màn đột phá
cho thơ ca Việt Nam sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ, tạo đà cho thơ ca Việt Nam phát triển
trên cơ sở trở về với cội nguồn dân tộc. Dùng tiếng Việt để sáng tác, ngôn ngữ trong

19


QATT đạt đến mức dân dã nhất, tinh túy nhất và cũng dân tộc nhất trên tất cả các
phương diện: ngữ âm, tự vựng, cú pháp...
- Tập thơ là bước đột phá mở đầu cho việc vượt qua những quy phạm trong thơ
ca cổ điển, tìm đến với "cái hàng ngày", dân dã, bình dị, mộc mạc của đời sống Việt
Nam: từ ao rau muống, lãnh mồng tơi, ao niềng niễng, đến con vằn, con vện... Thi
pháp về cái hàng ngày được Nguyễn Trãi đột phá vào thế kỷ XV, vậy mà phải 3, 4 thế
kỷ sau mới có người kế thừa nó.
- QATT là tập thơ phần lớn sáng tác vào giai đoạn éo le cuối đời, nên âm điệu
chủ đạo của tập thơ là âm điệu buồn. Tập thơ thể hiện quan niệm triết lý của nhà thơ
về nhân sinh thế sự, về thế thái nhân tình, và ở phương diện đó còn bộc lộ một tâm
hồn, "một trái tim xúc cảm, rung động, giàu yêu thương, đầy trách nhiệm với dân, với
nước.
- Trên cơ sở khảo sát, đối chiếu, so sánh, chúng tôi thấy rằng với 163/226 bài có
xen câu thơ lục ngôn là một đóng góp lớn của Nguyễn Trãi trên phương diện thể loại.
Phải chăng con người vốn dĩ "Bình sinh độc bão tiên ưu chí" (bình sinh có chí lo
trước), vốn dĩ rất ý thức về nền văn hiến đất nước muốn góp phần dân tộc hóa một thể
thơ ngoại lai để không thay đổi được nhiều thì chí ít cũng cấu trúc lại đôi chút hình hài
để phả vào đó cái hồn Việt Nam? Các thiên tài bao giờ cũng cống hiến cho đất nước,
cho nhân dân những thành tựu có ý nghĩa khám phá.

4.2. Giá trị thực tiễn.
- QATT là tập thơ Nôm cổ nhất còn sót lại với một số lượng lớn (226 bài), nên
việc đọc, hiểu, cảm thụ, phân tích sẽ vấp phải một số vấn đề về từ cổ, về điển tích,

điển cố. Do vậy, luận án có ý nghĩa trong việc đề xuất một phương hướng tiếp cận với
tập thơ bắt đầu từ vấn đề văn bản.
- Luận án thành công sẽ là đóng góp cho công tác học tập, nghiên cứu QATT
trong nhà trường.

5. KẾT CẤU LUẬN ÁN.
Luận án ngoài phần dẫn nhập, phần nội dung gồm 3 chương: Một số vấn đề về
văn bản; quan niệm nghệ thuật về con người, không gian và thời gian nghệ thuật; thi

20


pháp QATT với các phương diện: thể thơ, âm vận, ngôn ngữ; phần kết luận có ý nghĩa
tổng kết những nét chính về thi pháp QATT.
Chương 1 có giá trị như là cơ sở lí luận, là bàn đạp để tiếp tục tiến hành nghiên
cứu các chương tiếp theo. Bởi vì nghiên cứu văn học phải có cơ sở từ thực lực của
chính văn bản đó, mà văn bản QATT lại có vấn đề, nên chúng tôi đã điểm qua lịch sử
văn bản QATT, giới hạn phạm vi khảo sát văn bản, đề cập đến "một số từ cổ, chú
thích" được các nhà nghiên cứu văn bản QATT quan tâm. Chương này về cơ bản là
tiếp nhận và thừa hưởng thành quả của những người đi trước, chương này chỉ trình bày
trong 21 trang.
Chương 2 là tiền đề cho chương 3, đây là chương khó viết nhất trong luận án, bởi
theo phần lịch sử vấn đề chúng tôi đã trình bày, thì những vấn đề này được nhiều nhà
nghiên cứu đề cập rải rác đây đó, việc nghiên cứu tiếp tục rất cần đến sự sáng tạo.
Chương 3 mới là chương cơ bản của luận án, chương này đến 76 trang. Ở
chương này chúng tôi khảo sát QATT trên các phương diện: thể thơ, âm vận, ngôn ngữ
và đã cố gắng vận dụng linh hoạt, phù hợp các thao tác thi pháp. Đây cũng là chương
mà người viết có một số đóng góp nhất định trong luận án.

21



B. NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VĂN BẢN QUỐC ÂM THI
TẬP
1.1. TÌNH HÌNH VĂN BẢN QATT.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, năm Quang Thuận thứ tám
(1467), tức hai mươi năm sau vụ án Lệ Chi Viên, Lê Thánh Tông sau khi rửa oan cho
Nguyễn Trãi đã hạ chỉ sưu tầm di cảo trước tác và sáng tác của Ức Trai. Trần Khắc
Kiệm đã làm công việc này trong suốt mười năm, nhưng Ức Trai thi tập do Trần Khắc
Kiệm sưu tầm, biên tập và đề tựa năm 1480 về sau cũng bị mất.
Đến thế kỷ XIX, dưới thời vua Minh Mệnh và vua Tự Đức, các nhà nho Nguyễn
Năng Tĩnh, Dương Bá Cung và Ngô Thế Vinh cùng nhau sưu tập tác phẩm của
Nguyễn Trãi và cho xuất bản vào năm 1868 với cái tên Ức Trai di tập, gồm 7 quyển,
trong đó QATT được in ở quyển cuối cùng.
Gần một trăm năm sau, năm 1956, QATT do Trần Văn Giáp và Phạm Trọng
Điềm phiên âm và chú giải ra đời. Công trình này là một cống hiến lớn đối với việc
nghiên cứu và thưởng thức thơ Nôm của Nguyễn Trãi, mặc dù hai tác giả của nó
không tránh khỏi những sai sót về phiên âm và chú giải.
Năm 1969, tiếp tục công việc của Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm, Đào Duy
Anh hiệu đính và chú thích QATT.
Năm 1987, một tác giả là người Pháp lai Việt, Paul Schneider (tên Việt là Xuân
Phúc) - tác giả của cuốn "Từ vựng lịch sử chữ Nôm" (in ở Nice-Pháp), đã dịch QATT
sang tiếng Pháp với nhan đề Nguyễn Trãi et son recueil de poèmes en langue nationale
(xuất bản tại Nice, 1987). Sách này ngoài 573 trang gồm bản dịch và lời chú thích, còn
in đủ 254 bài thơ nôm, theo bản Phúc Khê 1868. Sách do Paul Schneider làm đi vào
ngữ âm lịch sử, sử dụng rất nhiều tư liệu cổ, nên chú thích được rất nhiều từ ngữ trong
QATT; đây là điều mới so với sách của Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm hay sách
của Đào Duy Anh. Nhưng dù sao, Paul Schneider cũng không phải là người bản ngữ,
nên việc lý giải của tác giả hơi lạ, có nhiều chỗ đi quá xa, không tương hợp với văn

hóa Việt Nam.
22


Năm 1994 Bùi Văn Nguyên lại phiên âm và chú giải QATT với sách Thơ quốc
âm Nguyễn Trãi. Trong luận án của mình chúng tôi sẽ đề cập đến một số chú giải của
công trình này.
Kế thừa thành tựu của những người đi trước, dựa vào các cứ liệu của ngữ âm và
từ vựng, về chữ Nôm và Hán học, nhóm các tác giả Mai Quốc Liên, Kiều Thu Hoạch,
Vương Lộc đã hoàn thành Nguyễn Trãi toàn tập (tân biên, tập III). Công trình này đã
hiệu đính lại một số từ ngữ, một số chú thích trong QATT, đồng thời có văn bản Nôm
in theo bản Phúc Khê, 1868, rất tiện lợi cho việc tra cứu, đối chiếu. Trong quá trình
làm luận án chúng tôi sẽ đối chiếu bản QATT do Đào Duy Anh hiệu đính và chú thích
với bản QATT được hiệu đính và chú thích bởi nhóm tác giả Mai Quốc Liên, Kiều Thu
Hoạch, Vương Lộc, vừa tham khảo các bản QATT khác của các soạn giả Trần Văn
Giáp, Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên...
Như vậy, tính từ 1956 đến nay đã xuất hiện nhiều bản QATT do nhiều soạn giả
phiên âm, chú thích; điều đó tạo nên những sai lệch nhau đáng kể về sự đọc và sự hiểu
thơ Nôm Nguyễn Trãi giữa các bản QATT. Những sự khác nhau về phiên âm và chú
thích thơ quốc âm của Ức Trai như thế đưa lại những hệ lụy gì đối với việc nghiên cứu
và cảm thụ thơ Nôm Nguyễn Trãi?
Cho đến nay đã có 10 ý kiến trao đổi về nguyên tác của QATT, về từ ngữ, về chú
giải.v.v... Trước hết, chúng tôi lưu tâm đến sự trùng nhau bộ phận giữa QATT với Bạch
Vân quốc ngữ thi tập. Theo Bùi Văn Nguyên trong thơ Quốc âm Nguyễn Trãi có 33
bài trùng nhau, ít thì ở 1 câu, nhiều thì cả 8 câu, và nêu ý kiến: "Nguyễn Trãi ở thế kỷ
XV không thể có thơ trùng với Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thế kỷ XVI... có khả năng là cả
33 bài gọi là trùng nói trên, chính là thơ của Nguyễn Trãi, do người đời sau chép lẫn
vào thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm"... Nhưng người khác lại cho rằng sự trùng nhau bộ
phận giữa QATT với Bạch Vân quốc ngữ thi tập nói trên cho thấy, thơ Nôm Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã kế thừa thơ Nôm Nguyễn Trãi. Trong thực tế, có thể xảy ra chuyện

Nguyễn Bỉnh Khiêm kế thừa trực tiếp Ức Trai trên 33 bài thơ ở những mức độ khác
nhau như ở trên đã mô tả; tuy nhiên, hai ý kiến ấy cho đến nay, chỉ là giả thiết, khi mà
chúng ta chưa tìm lại được ức Trai thi tập do Trần Khắc Kiệm sưu tầm, đề tựa và in
năm 1480. Và, vì chưa tìm lại được Ức Trai thi tập xuất hiện năm 1480, và vì các bản
QATT mà chúng ta hiện có đều dựa vào bản QATT do Nguyễn Năng Tĩnh, Dương Bá
23


Cung và Ngô Thế Vinh cùng nhau sưu tập và cho xuất bản năm 1868, sau Bạch Vân
quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), nên nhà nghiên cứu văn học
có quyền đặt giả thiết ngược lại với ý kiến của Bùi Văn Nguyên; có thể có sự lẫn lộn
giữa thơ Nôm của Nguyễn Trãi và thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, hiện nay chưa thể
nói đến dấu vết ảnh hưởng trực tiếp của thơ quốc âm Ức Trai đến thơ quốc âm của
Bạch Vân cư sĩ. Những ý kiến trái ngược nhau như thế là song song tồn tại, không ý
kiến nào có thể tồn tại như một chân lý tuyệt đối, lấn lướt những ý kiến khác.
Cách sưu tầm văn học của ông cha ta và nghề in Việt Nam trong thời trung đại
không cho phép chúng ta ngày nay đủ dũng cảm để khẳng định rằng 254 bài thơ Nôm
trong QATT do Nguyễn Năng Tĩnh, Dương Bá Cung và Ngô Thế Vinh sưu tập và xuất
bản năm 1868, tất cả những bài thơ Nôm ấy, đích thực là của Nguyễn Trãi; do đó, 254
bài thơ Nôm trong các bản QATT đều dựa vào bản Bối Khê 1868 xuất hiện từ 1956
đến nay cũng không thể coi tất cả là do Ức Trai sáng tác.
Để giải tỏa sự bế tắc về vấn đề xác định những bài thơ nào trong QATT mà
chúng ta hiện có là của Nguyễn Trãi cần phải làm gì?
Nguyễn Tài Cẩn trong bài viết: "Thử phân định thơ Nôm Nguyễn Trãi và thơ
Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm" đã xác định: Muốn giải quyết vấn đề tác giả của những bài
thơ trùng nhau giữa hai tác giả Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm cần có sự hợp tác
liên ngành, vì đây là vấn đề phức tạp, cần phải có sự cân nhắc ở mọi phương diện. Sau
khi nêu ra một số ví dụ giữa các dị bản, Nguyễn Tài Cẩn cho rằng nên đi vào các chi
tiết cụ thể trong thói quen sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Trãi,
từ việc sử dụng từ, cách kết hợp từ tổ, cách dùng 2, 3 từ liên đới với nhau, hoặc hô ứng

với nhau trong cùng một câu, thói quen bố cục toàn bài của mỗi tác giả... Sau khi nêu
ra một số thao tác như vậy, tác giả đi đến kết luận: "Muốn cân nhắc về một nét khu
biệt nào đây phải so sánh với hơn 390 bài thơ còn lại của Nguyễn Bỉnh Khiêm và của
Nguyễn Trãi; muốn cân nhắc về hơn 120 nét khu biệt đã dựng thành danh sách, tính ra
phải đọc gần 5 vạn lượt bài. Hơn nữa, trước khi tìm ra được hơn 120 nét khu biệt đó
thì cũng phải khảo sát thăm dò khoảng vài trăm hiện tượng ngôn ngữ, nghĩa là số
lượng lượt bài phải đọc để cân nhắc còn nhân lên gấp đôi gấp ba" [133: 885] (Những
chữ in nghiêng là do chúng tôi muốn nhấn mạnh).

24


×