Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên với trẻ mẫu giáo 4 5 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.33 KB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Ngọc Trinh

THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ
PHẠM CỦA GIÁO VIÊN VỚI TRẺ MẪU GIÁO
4 - 5 TUỔI Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Ngọc Trinh

THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ
PHẠM CỦA GIÁO VIÊN VỚI TRẺ MẪU GIÁO
4 - 5 TUỔI Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành :
Mã số

:


Tâm Lí Học
60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ PHƯƠNG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là do chính tôi thực hiện. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong các
công trình nghiên cứu nào khác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có sự khiếu nại, tố
cáo bản quyền tác giả.
Học viên

Nguyễn Ngọc Trinh

1


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường ĐHSP Tp.HCM và Quý
thầy cô khoa Tâm lý giáo dục đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn cho tôi trong suốt thời
gian học tập, nghiên cứu tại trường.
Đồng thời, tôi xin cảm ơn quý thầy cô Phòng Sau đại học đã nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong thời gian học tập, nghiên cứu và bảo vệ luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Trần Thị Phương đã tận tình

hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu và giáo viên các lớp chồi của Trường Mầm
Non Thực Hành 19 Tháng 5, Quận 1 và Trường Mầm Non 6, Quận 3 đã hết sức tạo điều
kiện cho tôi tiến hành quan sát khi nghiên cứu đề tài này. Ngoài ra cũng xin cảm ơn tất cả
những giáo viên mầm non có tham gia trả lời phỏng vấn hay điền phiếu khảo sát đã rất tích
cực cộng tác, giúp phần khảo sát được hoàn thành.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong Hội đồng chấm luận văn sẽ xem xét và
đóng góp những ý kiến quý báu cho đề tài này.
Sau cùng, tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, người thân và gia đình đã ủng hộ, tạo
điều kiện cho tôi tham gia chường trình học Cao học và hoàn thành luận văn đúng hạn.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2013
Học viên

Nguyễn Ngọc Trinh

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ 5
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 6
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 7
3. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................................... 7
4. Khách thể nghiên cứu ..................................................................................................... 7
5. Giả thuyết khoa học ........................................................................................................ 7
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 7

7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 8
8. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 8
9. Đóng góp của đề tài ......................................................................................................... 9

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ PHẠM CỦA
GIÁO VIÊN MẦM NON .......................................................................................... 10
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 10
1.1.1. Ở nước ngoài. ........................................................................................................10
1.1.2. Ở Việt Nam ...........................................................................................................11
1.2. Cơ sở lý luận về kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên với trẻ mẫu giáo 4 – 5
tuổi 15
1.2.1. Kỹ năng giao tiếp sư phạm ....................................................................................15
1.2.2. Đặc đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi ..............................................28
1.2.3. Kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi ..35

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ PHẠM CỦA GIÁO
VIÊN VỚI TRẺ MẪU GIÁO 4 – 5 TUỔI Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................................................ 46
2.1. Tồ chức nghiên cứu.................................................................................................... 46
2.1.1 Mục đích nghiên cứu ..............................................................................................46
2.1.2 Khách thể nghiên cứu .............................................................................................46
2.1.3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................46
2.2. Tiêu chí và thang đánh giá kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non
với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi ................................................................................................ 47
3


2.2.1. Cách cho điểm từng câu ........................................................................................47
2.2.2. Tiêu chí và thanh điểm đánh giá ...........................................................................49
2.3. Thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi ở

một số trường mầm non tại Thành Phố Hồ Chí Minh .................................................. 55
2.3.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên ở một số trường mầm non tại Thành Phố Hồ
Chí Minh về vai trò và nội dung của kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non
với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi ..............................................................................................55
2.3.2. Thực trạng biểu hiện kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ
mẫu giáo 4 – 5 tuổi ..........................................................................................................60
2.3.3. Nguyên nhân của thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non
với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi ..............................................................................................68
2.4. Đề xuất một số biện pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên
mầm non với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi ............................................................................... 77
2.4.1. Cơ sở của việc đề xuất biện pháp ..........................................................................77
2.4.2. Những biện pháp cụ thể ........................................................................................78
2.4.3. Khảo sát mức độ khả thi của các biện pháp ..........................................................83

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 93
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 96

4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GV

: Giáo viên

GVMN

: Giáo viên mầm non


KN

: Kỹ năng

KNĐH

: Kỹ năng định hướng

KNĐK

: Kỹ năng điều khiển

KNĐV

: Kỹ năng định vị

KNGT

: Kỹ năng giao tiếp

KNGTSP

: Kỹ năng giao tiếp sư phạm

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Đảng và Nhà Nước ta quan niệm giáo dục là nhiệm vụ tối quan trọng nhất để xây dựng
thế hệ tương lai. Trong đó, giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên, là giai đoạn quan trọng
tạo nền tảng của việc hình thành nhân cách, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống mai sau của
trẻ.
Trẻ đi học mầm non hàng ngày hầu như thời gian tiếp xúc với giáo viên là nhiều nhất,
người giáo viên không chỉ “nuôi nấng” mà còn “dưỡng dục” trẻ, cho trẻ phát triển cả thể
chất lẫn tinh thần. Trong khi đó, đây là giai đoạn đang dần hình thành những nền tảng của
nhân cách, cho nên cách thức mà giáo viên cư xử với trẻ hằng ngày như thế nào đều có thể
là một hình mẫu cho trẻ học theo. Như vậy, vai trò của giáo viên mầm non là vô cùng quan
trọng trong cuộc sống của trẻ và có sức ảnh hưởng đến tương lai của trẻ rất lớn. Những ảnh
hưởng đó, phần lớn là thông qua giao tiếp giữa giáo viên và trẻ. Như vậy rõ ràng tính chất
của sự giao tiếp giữa cô và trẻ có vai trò không nhỏ trong quá trình hình thành nhân cách
của trẻ, nếu sự giao tiếp đó càng tốt, càng chất lượng, thì càng đem lại nhiều thuận lợi cho
sự phát triển tâm lý của trẻ. Hay nói theo cách khác, nếu như con người nói chung đều cần
có giao tiếp để tham gia vào các mối quan hệ xã hội thì riêng trẻ em còn thông qua giao tiếp
với người lớn mà hình thành và phát triển nhân cách. Như vậy kỹ năng giao tiếp của giáo
viên với trẻ đóng vai trò rất quan trọng.
Đặc biệt, đặc điểm giao tiếp của trẻ ở giai đoạn trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi nằm trong giai
đoạn giao tiếp nhận thức ngoài tình huống (A.I. Lixina). Trẻ vừa rất háo hức khám phá, vừa
nhạy cảm với thái độ của người lớn trong giao tiếp với mình. Trong khi đó ngôn ngữ trẻ
chưa phát triển đủ cao nên đôi khi trẻ không biết diễn đạt theo ý mình, có lúc diễn đạt sai,
hoặc là không hiểu hết ý của người lớn. Như vậy, phải nắm hết những đặc điểm tâm lý và
nhất là đặc điểm giao tiếp của lứa tuổi này thì giáo viên mới có cơ sở để định hướng giao
tiếp của mình với các em cũng như sử dụng các phương tiện giao tiếp sao cho phù hợp. Nếu
không chịu khó lắng nghe, chịu khó tìm hiểu trẻ qua từng tình huống, không biết cách giải
thích hợp tình hợp lý và thuyết phục trẻ, thì rõ ràng giáo viên sẽ khó đạt được hiệu quả cao
khi giao tiếp với trẻ mẫu giáo lứa tuổi này.
Vì vậy, có hai vấn đề quan trọng như sau: thứ nhất, về mặt lý luận, nếu có sự hệ thống
hóa những vấn đề lý luận về kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên với trẻ mẫu giáo 4 – 5
6



tuổi và nhất là những đặc điểm tâm lý lứa tuổi mẫu giáo 4 – 5 tuổi nói chung cũng như đặc
điểm giao tiếp của lứa tuổi này nói riêng, sẽ góp phần rất lớn vào việc trang bị kiến thức, tức
tác động vào yếu tố nhận thức của giáo viên về vấn đề giao tiếp sư phạm với trẻ mẫu giáo 4
– 5 tuổi; thứ 2, về thực tiễn, nếu tiến hành việc tìm hiểu về thực trạng kỹ năng giao tiếp sư
phạm của giáo viên với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi và đưa ra được những nguyên nhân chính,
thì có thể sẽ có được những biện pháp góp phần nâng cao kỹ năng giao tiếp sư phạm của
giáo viên với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi. Từ đó góp phần tạo thuận lợi tối đa cho sự phát triển
nhân cách của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi thông qua giao tiếp với giáo viên hằng ngày ở trường
mầm non.
Với những lý do nêu trên, thiết nghĩ nếu đề tài “Thực trạng kỹ năng giao tiếp sư
phạm của giáo viên với trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi ở một số trường mầm non tại Thành phố
Hồ Chí Minh” được thực hiện thì sẽ đem lại nhiều ý nghĩa thực tiễn.

2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên với trẻ mẫu giáo 4 – 5
tuổi, xác định những nguyên nhân chính và từ đó đề xuất một số biện pháp nâng cao kỹ
năng giao tiếp của giáo viên với trẻ.

3. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.

4. Khách thể nghiên cứu
Giáo viên đang trực tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ 4 – 5 tuổi ở một số trường mầm non tại
Tp. Hồ Chí Minh.

5. Giả thuyết khoa học
Kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi ở một số trường
mầm non tại Tp. Hồ Chí Minh chưa cao. Nguyên nhân chính của thực trạng trên có thể do

yếu tố nhận thức và tính chất công việc của nghề giáo viên mầm non.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hóa những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.
6.2. Khảo sát thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên với trẻ mẫu giáo 4 -5
tuổi ở một số trường mầm non tại Tp. Hồ Chí Minh và tìm ra nguyên nhân của
7


thực trạng trên. Đề xuất một số biện pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp sư phạm
của giáo viên với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài để hệ thống hóa những vấn đề lý
luận của đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp chính được dùng trong đề tài là phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Sử dụng bảng câu hỏi gồm câu hỏi đóng và câu hỏi mở để tìm hiểu ý kiến của giáo
viên mầm non về những nội dung:
Nhận thức của giáo viên mầm non về vai trò kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên
với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.
Nhận thức của giáo viên mầm non về đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.
Thực trạng sự biểu hiện kỹ năng giao tiếp của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo 4 –
5 tuổi.
Nguyên nhân của thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ
mẫu giáo 4 – 5 tuổi.
7.2.2. Phương pháp quan sát
Tìm hiểu thực trạng biểu hiện thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm

non với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi
Quan sát thực tế hoạt động tại trường mầm non để tìm hiểu rõ hơn về thực trạng kỹ
năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi, chú trọng tới
cách thức cư xử của giáo viên với trẻ và phản ứng của trẻ..
7.2.3. Phương pháp thống kê toán học:
Xử lý số liệu thu thập được bằng toán thống kê theo chương trình phần mềm SPSS for
Windows version 16.0: tính tỉ lệ phần trăm và điểm số trung bình.

8. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài tập trung chủ yếu các khía cạnh như: tìm hiểu nhận thức của giáo
viên về kỹ năng giao tiếp sư phạm với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi và đặc điểm giao tiếp của trẻ
8


mẫu giáo 4 – 5 tuổi; tìm hiểu sự biểu hiện ở giáo viên về kỹ năng định hướng, kỹ năng định
vị, kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp.
Về khách thể và địa bàn nghiên cứu: nghiên cứu trên các giáo viên mầm non đang dạy
lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi tại một số trường thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

9. Đóng góp của đề tài
Đề tài làm rõ thực trạng kỹ năng giao tiếp của giáo viên với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi ở
một số trường mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ ra những nguyên nhân chính của
thực trạng. Từ đó đề xuất một số biện pháp có thể nâng cao kỹ năng giao tiếp của giáo viên
với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.

9


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ
PHẠM CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ở nước ngoài.
Vấn đề giao tiếp đã được con người xem xét từ thời cổ đại, nhà triết học Socrate (470
– 399 TCN) và Platon (428 – 347 TCN) đã coi đối ngoại như là sự giao tiếp trí tuệ, phản
ánh các mỗi quan hệ giữa con người với con người.
Đến thời kì Phục Hưng (1452 – 1512). Leonardo De Vince, họa sĩ thiên tài người Ý,
đã mô tả sự giao tiếp mẹ con.
Đến thế kỉ 18, nhà triết học Hà Lan M. Phemtecloi đã viết một tiểu luận dưới nhan đề
“Một bức thư về con người và các quan hệ của nó với người khác”, trong đó có đoạn:
“…trái tim và lương tâm trong con người chỉ bộc lộ khi người ấy cùng sống với người
khác”.
Đến thế kỉ 19, nhà triết học Đức Phơ-bach (1804-1872) đã viết: “Bản chất người chỉ
biểu hiện trong giao tiếp, trong sự thống nhất của con người, trong sự thống nhất dựa trên
tính hiện thực của sự khác biệt giữa tôi và bạn”.
Đến thế kỉ 20, vấn đề GT ngày càng được các nhà triết học, xã hội học, tâm lí học
quan tâm nhiều hơn. Có thể kể đến một vài hướng nghiên cứu sau đây:
Hướng thứ nhất: Nghiên cứu những vấn đề lí luận chung về giao tiếp như bản chất,
cấu trúc, cơ chế, phương pháp luận nghiên cứu giao tiếp, mối liên hệ giữa giao tiếp và hoạt
động. Hướng nghiên cứu này được thể hiện trong nhiều công trình nghiên cứu của các nhà
tâm lý học Liên Xô như: “Về bản chất giao tiếp người” (1973) của Xacophin, “Tâm lý học
về các mỗi quan hệ qua lại trong nhóm nhỏ”(1976) của I.L.Kolominxki, “Tâm lý học giao
tiếp”(1978) của A.A.Leonchiev, “Giao tiếp trong tâm lý học” (1981) của K.Platonow,
“Phạm trù giao tiếp và hoạt động trong tâm lý học” của B.P.Lomov.
Hướng thứ 2: Nghiên cứu giao tiếp với nhân cách có công trình “Nhân cách trong cấu
trúc giao tiếp sư phạm” (1980) của Polotnhicova, “Những trở ngại tâm lí trong giao tiếp
giữa các nhân cách”(1985) của Sakanova…
Hướng thứ 3: Nghiên cứu các dạng giao tiếp nghề nghiệp trong đó có GTSP là một
loại GT nghề nghiệp được nhiều nhà TLH quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến một vài tác
giả có những nghiên cứu về giao tiếp sư phạm như A.A.Leochiev với “Giao tiếp sư phạm”
10



(1979), A.V.Krutetxki với “Những cơ sở tâm lý học sư phạm”(1980), Ph.N.Gonobolin với
“Những phẩm chất tâm lý của giáo viên”.
Hướng thứ 4: Nghiên cứu các dạng giao tiếp như kỹ năng giao tiếp trong quản trị kinh
doanh với những bí quyết trong quan hệ giao tiếp có công trình của Allan Pease đã xuất bản
cuốn “Body language”(1988) với Tiếng việt là “Cuốn sách hoàn hảo về ngôn ngữ cơ thể”
(Lê Huy Lâm dịch -2008) đã phân tích kỹ năng phát hiện các trạng thái tâm lí thông qua
động tác, cử chỉ, điệu bộ, tư thế…của con ngườ trong giao tiếp, Derak Torrington viết cuốn
“Tiếp xúc đối mặt trong quản lí: (1994) đã đi sâu phân tích các hình thức giao tiếp thường
gặp giữa người quản lý với ngườ bị quản lý qua đó đòi hỏi người quản lý cần có những
KNGT nhất định như kỹ năng nghe, kỹ năng hỏi và gợi ý vấn đề, kỹ năng truyền đạt.
1.1.2. Ở Việt Nam
1.1.2.1. Những nghiên cứu về giao tiếp
Nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề giao tiếp với các khía cạnh khác nhau về bản chất của
giao tiếp, vai trò, vị trí của giao tiếp trong sự hình thành nhân cách như “Các Mác và phạm
trù giao tiếp” (1963) của Đỗ Long, “giao tiếp, tâm lý, nhân cách” (1981), “Giao tiếp và sự
phát triển nhân cách của trẻ” (1981), “Bàn về phạm trù giao tiếp” của Bùi Văn Huệ, “nhập
môn khoa học giao tiếp” (2006) của Nguyễn Sinh Huy, Trần Trọng Thủy.
Hiện tại, giao tiếp là một nội dung quan trong được giảng dạy trong các trường cao
đẳng, đại học. Trong “Giáo trình Tâm Lý Học xã hội – những vấn đề lý luận” của Mai
Thanh Thế, “Đặc điểm giao tiếp sư phạm” (1985) của tác giả Trần Trọng Thủy, “Giao tiếp
và ứng xử sư phạm” (1992) của tác giả Ngô Công Hoàn, “Giao tiếp sư phạm” (1997) của tác
giả Hoàng Anh, “Giáo trình giao tiếp sư phạm” (2002) của Lê Thanh Hùng (Đại học An
Giang), “Khoa học giao tiếp” (2002) của Nguyễn Ngọc Lâm (Đại học mở Tp HCM), “Ứng
xử sư phạm”(2006) của Trịnh Trúc Lâm,… đã đề cập đến khái niệm giao tiếp, chức năng,
vai trò của giao tiếp, phong cách giao tiếp, hệ thông giao tiếp,… cũng như nguyên tắc, quy
trình ứng xử trong giao tiếp sư phạm, cung cấp cái nhìn hệ thống về các vấn đề lý luận và
thực tiễn trong giao tiếp sư phạm. Đây là cơ sở quan trọng giúp cho đề tài hình thành các cơ
sở lý luận nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non.

Bên cạnh đó, một số luận án, luận văn nghiên cứu về giao tiếp và các vấn đề liên quan
như:

11


Luận án Tiến sĩ tâm lý học giáo dục “Một số đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo trong
nhóm chơi không cùng độ tuổi” của Lê Xuân Hồng (1996) đã hệ thống các lý luận về giao
tiếp của trẻ, nghiên cứu việc tổ chức chơi và những ảnh hưởng của tác động qua lại giữa trẻ
trong nhóm chơi không cùng lứa tuổi ở trường mẫu giáo. Những nghiên cứu của đề tài giúp
chúng tôi có sơ sở xem xét đặc điểm giao tiếp của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo ở các
lứa tuổi khác nhau. [11]
Luận án Tiến sĩ “Những khó khăn tâm lý trong giao tiếp sư phạm” (1997) của Nguyễn
Thanh Bình đã khẳng định giao tiếp sư phạm là một loại giao tiếp nghề nghiệp giữa giáo
viên và học sinh cần có sự tiếp xúc tâm lý, xây dựng bầu không khí thuận lợi nhằm tạo kết
quả tối ưu trong hoạt động dạy và hoạt động học. Qua đó, cho thấy giao tiếp sư phạm có vị
trí đặc biệt quan trọng trong cấu trúc năng lực sư phạm. Đây là vấn đề cần quan tâm khi
nghiên cứu vấn đề giao tiếp và kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non. [4]
Luận văn Thạc sĩ tâm lý học “Đặc điểm giao tiếp của sinh viên trường Cao đẳng sư
phạm An Giang” (1999) của Đỗ Văn Thông, đã khái quát một số vấn đề cơ bản về lý luận
giao tiếp, kỹ năng giao tiếp, giao tiếp sư phạm. Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng
trắc nghiệm của IP.Dakharov để đo khả năng giao tiếp của sinh viên sư phạm trường Cao
đẳng sư phạm An Giang. Qua đó, tác giả khẳng định giao tiếp có vai trò quan trọng đối với
sự hình thành và phát triển nhân cách của người giáo viên. [32]
Luận văn Thạc sĩ “Nghiên cứu đặc điểm giao tiếp của sinh viên có kiểu nhân cách
hướng nội và hướng ngoại” (1999) của Trần Thị Kim Thoa đã nghiên cứu một số vấn đề lý
luận như khả năng giao tiếp, nhu cầu giao tiếp, ấn tượng giao tiếp… của những sinh viên có
kiểu nhân cách hướng nội và hướng ngoại. Đồng thời qua khảo sát thực tế đặc điểm giao
tiếp của sinh viên sư phạm Yên Bái, tác giả đề xuất một số biện pháo sư phạm phù hợp với
từng loại sinh viên có kiểu nhân cách hướng nội hoặ hướng ngoại nhằm nân cao khả năng

giao tiếp cho sinh viên đẻ chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai. [31]
1.1.2.2. Những nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp
Những năm cuối thế kỉ 20, ở trong nước đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu vấn
đề kỹ năng giao tiếp trong các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp. Có thể kể đến một số nghiên
cứu như:
Trần Trọng Thủy với bài “Tình người, giao tiếp và văn hóa giao tiếp” (1998) đã phân
tích mối quan hệ giữa tình người, văn hóa và giao tiếp. Giao tiếp là phương tiện thể hiện
12


tình người, là hình thức tác động qua lại của con người được thể hiện, thu nhận được các tri
thức về thế giới, về người khác, về bản thân… Tác giả đã đề cập đến một số kỹ năng giao
tiếp như kỹ năng chỉnh sửa các ấn tượng ban đầu của mình về người khác khi mới quen họ,
kỹ năng bước vào giao tiếp với người khác một cách không có định kiến. [35,tr20]
Tác giả Nguyễn Đình Xuân nghiên cứu giao tiếp trong quản lý, tác giả đã đề cập đến
một số kỹ năng giao tiếp như kỹ năng lựa chọn địa điểm, thời gian tiếp khách, kỹ năng làm
chủ cảm xúc của mình trong giao tiếp,…[35]
Tác giả Nguyễn Văn Đính đề cập đến một số kỹ năng giao tiếp mà người hướng dẫn
viên cần có khi tiếp xúc với khách du lịch trong “Giao trình tâm lý và nghệ thuật giao tiếp
ứng xử trong kinh doanh du lịch” (1997) như kỹ năng định hướng, kỹ năng định vị, kỹ năng
điều khiển giao tiếp.
Tác giả Nguyễn Đình Chỉnh, Phạm Ngọc Uyển trong “Tâm lý học quản lý” (1998) đề
cập đến vấn đề giao tiếp, giao tiếp sư phạm và giao tiếp quản lý trong đó nêu lên kỹ năng
giao tiếp sư phạm với cấu trúc bao gồm các thành phần như biết định hướng, hiểu được các
dấu hiệu bên ngoài của ngôn ngữ trong giao tiếp, biết điểu khiển quá trình giao tiếp. [5]
Bên cạnh đó, các luận án, luận văn nghiên cứu kỹ năng giao tiếp có thể kể như:
Luận án Tiến sĩ tâm lý học “Kỹ năng giao tiếp nghiệp vụ của trinh sát an ninh và
phương pháp đánh giá chúng” (2002) của Võ Sĩ Lục. Đề tài đã trình bày những kỹ năng
giao tiếp nghiệp vụ cần thiết cho hoạt động nghiệp vụ an ninh theo các nhóm kỹ năng định
hướng, kỹ năng định vị, kỹ năng điều khiển trong giao tiếp. [34]

Đề tài nghiên cứu khoa học (mã số CS.2000-04) “Tìm hiểu những khó khăn (về mặt
kỹ năng) trong giao tiếp của trẻ 4-5 tuổi với bạn cùng độ tuổi và biện pháp khắc phục”
(2002) của tác giả Phan Thị Thu Hiền đã nghiên cứu, tìm hiểu những khó khăn về kỹ năng
giao tiếp của trẻ 4-5 tuổi với bạn cũng độ tuổi. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số biện
pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong giao tiếp và nâng cáo kỹ năng giao tiếp của trẻ.
[11]
Luận án Tiến sĩ tâm lý học “Kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên” (1992) của
Hoàng Thị Anh đã khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về giao tiếp sư phạm và nghiên
cứu thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm theo các nhóm như nhóm kỹ năng định hướng
gồm kỹ năng nhận thấy sự thay đổi trạng thái tâm lý qua nét mặt, ánh mắt, lời nói, kỹ năng
phán đoán nhanh được ý định, thái độ của đối phương,…; nhóm kỹ năng điểu khiển bản
thân gồm kỹ năng biết chủ động đề xuất giao tiếp theo mục đích của mình, kỹ năng tự kiềm
13


chế,…; nhóm kỹ năng điểu khiển đối phương bao gồm các kỹ năng hướng đối tượng theo ý
mình để đạt mục đích giao tiếp, kỹ năng kích thích hứng thú học tập của học sinh trên
lớp,…[1]
Các luận văn Thạc sĩ nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên như luận văn
Thạc sĩ tâm lý học “Kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo sinh người dân tộc trong trường
trung học sư phạm” (1996) của Trịnh Thị Ngọc Thìn, “Tìm hiểu kỹ năng giao tiếp sư phạm
của sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội có nhu cầu giao tiếp khác nhau” (1997) của
Lê Minh Nguyệt, “Nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên trường Cao đẳng sư
phạm Lạng Sơn” (1999) của Lô Thị Na, “Nghiên cứu khả năng giao tiếp của sinh viên
trường Cao đẳng sư phạm Sơn La” (2001) của Lò Mai Thoan, “Kỹ năng giao tiếp của sinh
viên trường Cao đẳng sư phạm Vĩnh Phúc có nhu cầu giao tiếp ở những mức độ khác nhau”
(2001) của Phạm Văn Đại, “Kỹ năng giao tiếp của sinh viên sư phạm trường Cao đẳng Cần
Thơ” (2010) của Châu Thúy Kiều, đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về giao
tiếp, giao tiếp sư phạm, kỹ năng giao tiếp sư phạm và nghiên cứu thực trạng kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng giao tiếp sư phạm và nghiên cứu thực trạng kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giao

tiếp sư phạm của sinh viên Cao đẳng sư phạm.
1.1.2.3. Những nghiên cứu về giao tiếp sư phạm ở ngành giáo dục mầm non
Ở trong nước vấn đề kỹ năng giao tiếp trong ngành mầm non mới chỉ được chú
trọng những năm gần đây. Các tác giả Ngô Công Hoàn “Giao tiếp và ứng xử sư phạm (dùng
cho giáo viên mầm non)” (1997), Lê Xuân Hồng và Vũ Thị Ngân biên dịch “Những vấn đề
về giao tiếp sư phạm mầm non” (2000); “Một số vấn đề giao tiếp và kỹ năng giao tiếp sư
phạm trong hoạt động của giáo viên mầm non” (2004), đã đề cập đến vấn đề giao tiếp, ứng
xử, giao tiếp sư phạm, kỹ năng giao tiếp sư phạm, những đặc điểm phát triển nhu cầu giao
tiếp của trẻ mầm non, đặc điểm giao tiếp sư phạm của người lớn với trẻ, những nguyên tắc
và phương thức giao tiếp, ứng xử giữa cô giáo và trẻ …Đây là cơ sở qua trọng góp phần
giúp cho đề tài hình thành vấn đề lý luận trong nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm của
giáo viên mầm non. [10], [12], [24]
Nhìn chung vấn đề kỹ năng giao tiếp và kỹ năng giao tiếp sư phạm được quan tâm
nghiên cứu trên các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu trên
vẫn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non
đối với trẻ mầm non ở một lứa tuổi cụ thể nào đó. Trong khi đó, trên thực tế, kỹ năng giao
14


tiếp sư phạm của người giáo viên thể hiện khi giao tiếp đối với trẻ ở từng độ tuổi khác nhau
thì đòi phải khác nhau, bởi có sự khác biệt trong đặc điểm tâm lý nói chung và đặc điểm
giao tiếp nói riêng của mỗi độ tuổi. Do đó, việc nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm của
giáo viên mầm non đối với trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi là một trong những đề tài cần được thực
hiện.

1.2. Cơ sở lý luận về kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên với trẻ mẫu giáo 4
– 5 tuổi
1.2.1. Kỹ năng giao tiếp sư phạm
1.2.1.1. Kỹ năng
a. Khái niệm kỹ năng

Trong Tâm Lý Học có nhiều quan niệm về kỹ năng, chủ yếu xem xét hai xu hướng
quan niệm như sau:
Quan niệm thứ nhất cho rằng kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác, hành động hay hoạt
động. Muốn thực hiện được hành động, cá nhân phải có tri thức về hành động đó, hiểu mục
đích, phương thức và các điều kiện để thực hiện nó. Đại diện là các tác giả sau:
Ph.N.Gonobolin (1973) cho rằng: “Kỹ năng là những phương thức tương đối hoàn
chỉnh của việc thực hiện những hành động bất kỳ nào đó. Các hành động này được hình
thành trên cơ sở các tri thức và kỹ xảo – những cái được con người lĩnh hội trong quá trình
hoạt động”. [2, tr.95]
V.A.Krutretxki (1980) cho rằng: “Kỹ năng là các phương thức thực hiện hoạt động –
cái mà con người lĩnh hội được”. Tác giả cho rằng: “Trong một số trường hợp thì kỹ năng là
phương thức sử dụng các tri thức vào trong thực hành, con người cần phải áp dụng và sử
dụng chúng vào trong cuộc sống, vào trong thực tiễn. Trong quá trình luyện tập, trong hoạt
động thực hành kỹ năng được trở nên hoàn thiện và trong mối quan hệ đó hoạt động của con
người cũng trở nên hoàn hảo hơn trước”. [2]
Tác giả Trần Trọng Thủy cho rằng: “Kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động, con
người nắm được cách hành động tức là có kỹ thuật của hành động, có kỹ năng”. [35, tr.103]
Quan niệm thứ hai cho rằng kỹ năng không đơn thuần là mặt kỹ thuật của hành động
mà còn là một biểu hiện năng lực của con người. Kỹ năng vừa có tính ổn định vừa có tính
mềm dẻo, tính linh hoạt, và tính mục đích. Đại diện cho quan điểm này là các tác giả:
15


N.D.Levitov cho rằng: “Kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay
một hoạt động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn, có
tính đến những điều kiện nhất định”. [2, tr.96]
A.V.Barabasicoov (1963) cho rằng: “kỹ năng là khả năng sử dụng tri thức và kỹ xảo
của mình một cách có mục đích và sáng tạo trong quá trình hoạt động thực tiễn. Khả năng
này là khả năng tự tạo của con người”. [2]
Theo từ điển tiếng Việt thì “kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận

trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế”.
Trong từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng, tác giả cho rằng: “Kỹ năng là năng lực vận
dụng có kết quả những tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực
hiện những nhiệm vụ tương ứng. Ở mức độ kỹ năng, công việc được hình thành trong điều
kiện hoàn cảnh không thay đổi, chất lượng chưa cao, thao tác chưa thuần thục và còn phải
tập trung chú ý căng thẳng. Kỹ năng được hình thành qua luyện tập. [6]
Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng “Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành
động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp
với những điều kiện cho phép’. [26, tr.20]
Như vậy kỹ năng vừa là mặt kỹ thuật của hành động tức là cách thức thực hiện hành
động, vừa là biểu hiện năng lực con người. Tri thức và kinh nghiệm đã có là cơ sở của kỹ
năng. Kỹ năng do luyện tập mà hình thành.
Trong luận văn này, khái niệm kỹ năng được sử dụng là khái niệm được trình bày theo
khái niệm của tác giả Huỳnh Văn Sơn trình bày trong quyển Tâm lý học giao tiếp: “Kỹ năng
là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức,
kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép. Kỹ năng không chỉ
đơn thuần về mặt kỹ thuật của hành động, mà còn là biểu hiện của năng lực con người”.
[26, tr.104]
b. Các mức độ kỹ năng
Theo tác giả V.P.Bexpalko, có năm mức độ của kỹ năng [4]
- Mức độ một gọi là kỹ năng ban đầu: Người học đã có kiến thức về nội dung một kỹ
năng nào đó, và trong những tình huống cụ thể khi cần thiết, sẽ có thể tái hiện được những
thao tác, hành động nhất định. Tuy nhiên, ở mức độ kỹ năng ban đầu này thì người học
thường chỉ thực hiện được yêu cầu của kỹ năng này dưới sự hướng dẫn của người dạy.

16


- Mức độ hai gọi là kỹ năng mức thấp: Con người có thể tự thực hiện được những
thao tác, hành động cần thiết theo một trình tự đã biết. Dù vậy cũng con người cũng chỉ mới

thực hiện được những thao tác, hành động trong những tình huống quen thuộc và chưa di
chuyển được sang những tình huống mới.
- Mức độ ba gọi là kỹ năng trung bình: Con người tự thực hiện thành thạo các thao
tác đã biết trong những tình huống quen thuộc. Việc di chuyển sang những tình huống mới
còn hạn chế.
- Mức độ bốn gọi là kỹ năng cao: Một sự khác biệt thể hiện kỹ năng ở mức độ cao là
người học đã tự lựa chọn hệ thống các thao tác, các hành động cần thiết trong các tình
huống khác nhau. Bên cạnh đó người học đã biết di chuyển kỹ năng trong phạm vi nhất
định.
- Mức độ năm gọi là kỹ năng hoàn hảo: Đây là mức độ cao nhất của kỹ năng. Con
người nắm được đầy đủ hệ thống các thao tác, hành động khác nhau, biết chọn lựa những
thao tác, hành động cần thiết và ứng dụng chúng một cách thành thạo trong các tình huống
khác nhau mà không gặp khó khăn gì.
c. Các bước hình thành kỹ năng
Kỹ năng được hình thành trong hoạt động. Theo tác giả Phạm Minh Hạc, sự hình
thành kỹ năng gồm ba bước:
- Bước một là nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức và điều kiện hành động.
- Bước hai là quan sát mẫu và làm thử theo mẫu.
- Bước ba là luyện tập để tiến hành các hành động theo đúng yêu cầu, điều kiện hành
động nhằm đạt được mục đích đặt ra.
1.2.1.2. Giao tiếp sư phạm
a. Khái niệm giao tiếp và giao tiếp sư phạm
 Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một hiện tượng tâm lý rất phức tạp biểu hiện ở nhiều mặt, nhiều cấp độ
khác nhau. Có nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp:
Theo quan điểm của các nhà Tâm lý học xã hội thì giao tiếp được xem là quá trình
thông tin bao gồm việc thực hiện và duy trì sự liên hệ giữa các cá nhân. Chẳng hạn như nhà
Tâm lý học xã hội Mỹ C.E. Osgood cho rằng: “Giao tiếp bao gồm các các hành động riêng

17



rẽ mà thực chất là chuyển giao thông tin và tiếp nhận thông tin”. Ông cho rằng giao tiếp là
một quá trình gồm hai mặt: liên lạc và ảnh hưởng lẫn nhau, tác động qua lại lẫn nhau” [17]
Các nhà Tâm lý học Liên Xô (cũ) cũng quan tâm nghiên cứu vấn đề giao tiếp trên
nhiều khía cạnh. Chẳng hạn L.X.Vugotxki cho rằng giao tiếp là quá trình chuyển giao tư
duy và cảm xúc [2]
Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp được nghiên cứu từ những năm1970 – 1980 và cũng có
nhiều khái niệm khác nhau về giao tiếp:
Theo Từ điển Tâm lý học: “Giao tiếp là quá trình thiết lập và phát triển tiếp xúc giữa
các cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động. Giao tiếp gồm hàng loạt các yếu tố
như trao đổi thông tin, xây dựng chiến lược hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người
khác. Giao tiếp có ba khía cạnh chính là giao lưu, tác động tương hỗ và tri giác” [6]
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và
người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau,
ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Hay nói khác đi, giao tiếp xác lập và vận hành các
quan hệ người – người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác”
[22].
Trong luận văn này, giao tiếp được hiểu theo quan niệm của tác giả Nguyễn Văn
Đồng: “Giao tiếp là tiếp xúc tâm lý có tính đa chiều và đồng chủ thể giữa người với người
được quy định bởi các yếu tố văn hóa, xã hội và đặc trưng tâm lý cá nhân. Giao tiếp có chức
năng thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, trao đổi thông tin, cảm xúc
định hướng và điều chỉnh nhận thức, hành vi của bản thân và của nhau, tri giác lẫn nhau, tạo
dựng quan hệ với nhau và tác động qua lại lẫn nhau”. [7]
Trong luận văn này, giao tiếp được hiểu theo quan niệm của tác giả Nguyễn Văn
Đồng: “Giao tiếp là tiếp xúc tâm lý có tính đa chiều và đồng chủ thể giữa người với người
được quy định bởi các yếu tố văn hóa, xã hội và đặc trưng tâm lý cá nhân. Giao tiếp có chức
năng thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, trao đổi thông tin, cảm xúc
định hướng và điều chỉnh nhận thức, hành vi của bản thân và của nhau, tri giác lẫn nhau, tạo
dựng quan hệ với nhau và tác động qua lại lẫn nhau”. [7]

 Khái niệm giao tiếp sư phạm
Theo A.P.Levitov: “Giao tiếp sư phạm là năng lực truyền đạt tri thức cho trẻ bằng cách
trình bày rõ ràng, hấp dẫn, ngắn gọn”.

18


F.N.Gonobolin cho rằng: “Năng lực giao tiếp sư phạm là năng lực truyền đạt một cách
dễ hiểu để các em nắm được và ghi nhớ tài liệu đó, năng lực thu hút học sinh, truyền nhiệt
tình cho các em, cuốn hút và kích thích các em có những cảm xúc thích hợp, năng lực thuyết
phục mọi người, có ảnh hưởng giáo dục đối với họ (bằng lời nói, việc làm, tấm gương của
bản thân).”
T.V.Trakhov quan niệm: “Giao tiếp sư phạm là năng lực tiếp xúc với học sinh. Kỹ
năng tìm được cách đối xử đúng đắn với trẻ, thiết lập mối quan hệ hợp lý theo quan điểm sư
phạm”.
Trong tác phẩm giao tiếp sư phạm, A.N.Leonchiev đã khẳng định: “Giao tiếp sư phạm
là giao tiếp có tính nghề nghiệp của giáo viên với học sinh ở trên lớp và ngoài giờ lên lớp”.
E.V.Sukhanova đã viết: Giao tiếp là một phương thức chủ yếu tác động lên các quan
hệ của học sinh … . Giao tiếp giữa thầy và trò là một khâu quan trọng trong quá trình hình
thành nhân cách, phát triển tính tích cực nhận thức và tính xã hội của học sinh trong quá
trình hình thành tập thể học sinh”[10].
Tác giả Ngô Công Hoàn cho rằng: “Giao tiếp giữa con người với con người trong hoạt
động sư phạm được gọi là giao tiếp sư phạm”.
Tác giả Hồ Lam Hồng cho rằng: “Giao tiếp sư phạm là giao tiếp có tính nghề nghiệp
giữa giáo viên với học sinh trong quá trình giảng dạy (giáo dưỡng) và giáo dục, có chức
năng sư phạm nhất định, tạo ra các tiếp xúc tâm lý, xây dựng bầu không khí tâm lý thuận lợi
cùng các quá trình tâm lý khác (chú ý, tư duy, …) tạo ra kết quả tối đa của mối quan hệ thầy
trò trong nội bộ tập thể học sinh và trong hoạt động dạy học”[12]
Tác giả Lê Xuân Hồng quan niệm: “Giao tiếp sư phạm diễn ra như điều kiện của hoạt
động sư phạm. Đó là sự tiếp xúc, trao đổi giữa người dạy và người học, bằng các phương

tiện giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ nhằm thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục có
hiệu quả”[11, tr 23].
Như vậy, giao tiếp sư phạm là giao tiếp mang tính nghề nghiệp giữa giáo viên với học
sinh trong quá trình dạy học và giáo dục, trong đó giáo viên là chủ thể giao tiếp với tư cách
là người tổ chức các quá trình giao tiếp, người đặt mục đích và xác định nội dung giao tiếp
còn học sinh là đối tượng giao tiếp.
Trong luận văn này, giao tiếp sư phạm được hiểu theo quan điềm của tác giả Ngô
Công Hoàn: “Giao tiếp sư phạm là sự tiếp xúc giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền đạt

19


và lĩnh hội những tri thức khoa học, vốn sống kinh nghiệm, kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp, xây
dựng và phát triển nhân cách toàn diện ở học sinh”. [10]
b. Các đặc điểm của giao tiếp sư phạm
Theo tác giả Ngô Công Hoàn [10], giao tiếp sư phạm có những đặc trưng sau:
- Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên không chỉ tiếp xúc với học sinh qua nội dung bài
giảng và tri thức khoa học mà còn là tấm gương mẫu mực về nhân cách cho học sinh noi
theo, đúng với yêu cầu của xã hội qui định. Nghĩa là, ở thầy giáo thì bao giờ cũng có sự
thống nhất giữa lời nói, việc làm với hành vi ứng xử. Vì thế, nhân cách của giáo viên có ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh.
- Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên dùng các biện pháp giáo dục tình cảm để thuyết
phục, vận động,…. đối với học sinh, không được dùng những biện pháp, hành vi xâm phạm
thân thể và danh dự của học sinh. Giáo viên phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm giảng dạy,
giáo dục và quản lý trường lớp, gương mẫu trong mọi hoạt động ở nhà trường, trong đời
sống xã hội. Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên phải biết khéo léo ứng xử sư phạm.
- Trong giao tiếp sư phạm, người giáo viên được nhà nước, xã hội, nhân dân tôn
trọng.
Như vậy, nếu không có giao tiếp sư phạm thì hoạt động sư phạm sẽ không còn ý
nghĩa. Bởi vì hoạt động sư phạm trong nhà trường chủ yếu là sự giao tiếp giữa giáo viên và

học sinh, trong đó giáo viên là chủ thể giao tiếp còn học sinh là người lĩnh hội tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo do giáo viên truyền đạt, đồng thời học sinh cũng là chủ thể của quá trình giao
tiếp. Và trong quá trình giao tiếp, nhân cách của học sinh được hình thành và phát triển
c. Các phương tiện giao tiếp sư phạm
Phương tiện giao tiếp sư phạm đóng vai trò rất quan trọng tron giao tiếp sư phạm,
thường được chia thành phương tiện giao tiếp ngôn ngữ và phương tiện giao tiếp phi ngôn
ngữ.
 Phương tiện ngôn ngữ trong giao tiếp sư phạm
Ngôn ngữ là hệ thống ký hiệu (âm thanh hoặc chữ viết) dưới dạng từ ngữ chứa đựng ý
nghĩa nhất định (tượng trưng cho sự vật, hiện tượng cũng như thuộc tính và các mối quan hệ
của chúng) được con người quy ước và sử dụng trong quá trình giao tiếp. Nói cách khác,
ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu dùng để tư duy và giao tiếp xã hội.[7]
Trong giao tiếp sư phạm, phương tiện ngôn ngữ giữ vị trí hàng đầu. Để sử dụng ngôn
ngữ giao tiếp có hiệu quả, giáo viên cần chú ý [7]:
20


- Nội dung của ngôn ngữ chuyển đến học sinh phải làm cho học sinh hiểu được ý của
giáo viên. Luôn cần phải dùng từ ngữ đúng, phù hợp hoàn cảnh, tình huống giao tiếp.
- Giọng nói, phát âm, tốc độ phải đảm bảo phù hợp với học sinh và có tác động được
tới học sinh. Cần chú ý là giọng nói cũng chuyển tải những thông tin về cảm xúc, thái độ khi
giao tiếp. Tất cả những gì chuyển tải mà không phải là từ ngữ và cử chỉ điệu bộ khi nói đều
được xem là giọng nói, bao gồm hơi thở, kỹ thuật phát âm, độ diễn cảm và những yếu tố
khác có liên quan chặt chẽ. Như vậy để có hiệu quả trong giao tiếp với học sinh, giáo viên
cần phải rèn luyện những yếu tố vừa nêu.
- Những yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ khi muốn rèn luyện về kỹ năng giao tiếp:
+ Giọng nói rõ ràng, dễ nghe và nếu đạt đến mức tròn vành, rõ chữ, biểu cảm thì đạt
được yêu cầu.
+ Phát âm cần chuẩn xác và bộc lộ được sự thiện cảm khi nói.
+ Cần tuân thủ việc sử dụng ngôn từ phù hợp, trong sáng và thể hiện tính chuẩn mực,

thích ứng với môi trường giao tiếp.
+ Ngôn ngữ nói cần đảm bảo sự lưu loát, diễn đạt cụ thể, dễ hiểu và tạo hiệu ứng giao
tiếp tích cực với đối tượng.
+ Giọng nói đầy tính biểu cảm thích ứng cũng như mang màu sắc diễn cảm sẽ là một
lợi thế rất cơ bản trong giao tiếp.
 Phương tiện phi ngôn ngữ trong giao tiếp sư phạm:
Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ còn gọi là ngôn ngữ không lời được sử dụng để
biểu hiện tâm trạng, xúc cảm, tình cảm, thái độ,… của giáo viên.
Theo tác giả Hoàng Anh, phương tiện phi ngôn ngữ trong giao tiếp bao gồm: Ngôn
ngữ cơ thể (dáng vẻ bên ngoài, khuôn mặt và biểu hiện của nét mặt, mắt và ánh nhìn, đầu và
cử động của đầu, cử chỉ, tư thế, tiếp xúc thân thể); Giọng nói; Khung cảnh giao tiếp (thời
gian, cách bài trí không gian, khoảng cách, định hướng, âm thanh, ánh sáng và màu sắc);
Các phương tiện vật chất.
- Giao tiếp sư phạm qua ngôn ngữ cơ thể (dáng vẻ bên ngoài, khuôn mặt và biểu hiện
của nét mặt, mắt và ánh nhìn, đầu và cử động của đầu, cử chỉ, tư thế, tiếp xúc thân thể)
Dáng vẻ bên ngoài có thể xem như một dạng đặc biệt của giao tiếp phi ngôn ngữ.
Dáng vẻ bên ngoài bao gồm hình dáng thân thể, cung cách đi đứng, trang phục và cung cách
ứng xử. Trong giao tiếp sư phạm người giáo viên cần chú ý tạo được tác phong sư phạm,
lịch sự, mẫu mực. Nhất là trang phục của người giáo viên, nó mang ý nghĩa định hướng
21


trong giao tiếp sư phạm với học sinh. Vì vậy cần chú trọng trang phục sao cho lịch sự, sạch
sẽ, gọn gàng, văn minh, tạo được thiện cảm cho người nhìn, ngay cả với các bé.
Nét mặt biểu lộ cảm xúc của con người như vui, buồn, ngạc nhiên, tức giận, sợ hãi,
ghê tởm. Trong giao tiếp sư phạm, năng lực biểu cảm qua nét mặt của người giáo viên góp
phần lớn vào hiệu quả giao tiếp với học sinh. Trên thực tế, giáo viên có nét mặt dịu hiền, cởi
mở, vui tươi thường đem lại bầu không khí tâm lý tốt, tạo cảm giác an toàn cho học sinh,
ngược lại giáo viên có nét mặt kém vui, căng thẳng, nghiêm khắc hay bực tức thường tạo ra
bầu không khí tâm lý nặng nề cho học sinh. Từ đó làm cho học sinh cảm thấy xa cách,

không dám gần gũi, thân thiện.
Đặc biệt nhất trên nét mặt là nụ cười. Nụ cười có nhiều kiểu và nhiều ý nghĩa khác
nhau. Đối với người giáo viên, nếu thường trực trên môi là nụ cười tươi tắn, tự nhiên thì nụ
cười đó chắc chắn không chỉ thể hiện tinh thần lạc quan, vui vẻ của cô mà còn quan trọng
hơn cả đó là sẽ tạo cho học sinh cảm giác thoải mái, dễ chịu, dễ gần gũi, thân thiện, từ đó
mà đem lại một hiệu quả rất lớn trong sự giao tiếp đôi bên. Ánh mắt là phương tiện chuyển
tải tâm trạng, cảm xúc, tình cảm của con người, và cũng là nơi tiếp nhận các thông tin từ
môi trường bên ngoài. Qua ánh mắt sẽ cho thấy biểu hiện của giáo viên và học sinh trong
giao tiếp như nhu cầu, sự đồng ý hay không đồng ý, thích hay không thích,… qua đó có sự
đáp ứng bằng hành vi, thái độ của cả hai bên. Tần suất nhìn vào mắt học sinh cũng thể hiện
sự quan tâm của người giáo viên đối với học sinh.
Điệu bộ, cử chỉ là sự phối hợp vận động của các cơ ở đầu, cổ, mặt, tay, chân, thân
mình, được con người dùng để biểu lộ cảm xúc và thái độ. Điệu bộ, cử chỉ thường được
dùng để minh họa, nhấn mạnh, bổ sung cho những gì đang nói thậm chí có thể thay thế cho
lời nói thông qua các dấu hiệu của điệu bộ, cử chỉ. Mỗi điệu bộ, cử chỉ là một trạng thái xúc
cảm, một tín hiệu giao tiếp sư phạm của giáo viên đối với học sinh. Ví dụ lắc đầu là không
đồng ý, gật đầu là tán thành, mi mắt mở to thể hiện sự ngạc nhiên,… Người giáo viên khi
giao tiếp với học sinh cần giữ thái độ thiện cảm, với thiện ý tốt, luôn đứng về phía vị trí của
học sinh mà đồng cảm với học sinh.
Tư thế là sự vận động của toàn thân theo một hướng chủ đích nào đó. Tư thế là yếu tố
quan trọng trong giao tiếp. Tư thế của con người tác động vào nhận thức cảm tính, vì thế
trong quan hệ thầy – trò (quan hệ trên – dưới), giáo viên cần thể hiện tư thế mẫu mực của
mình để học sinh noi theo.

22


Hành vi là sự phối hợp vận động của toàn bộ, giác quan, tư thế… của toàn bộ cơ thể
hướng vào một đối tượng nhất định. Hành vi giao tiếp sư phạm thể hiện ở thái độ, nhận thức
của giáo viên đối với học sinh và ngược lại. Hành vi trong giao tiếp sư phạm của giáo viên

cần hướng vào mục tiêu giáo dục, xây dựng đạo đức, phát triển trí tuệ, thể lực và năng lực
thẩm mỹ của học sinh, và trên tất cả, hành vi của giáo viên cần phải xuất phát từ tình yêu
thương nhân hậu với học sinh.
Đặc biệt với người giáo viên mầm non, sự tiếp xúc thân thể một cách đúng mực với trẻ
cũng là điều quan trọng, thường xuyên tiếp xúc, ôm ấp, dỗ dành, vỗ về, vuốt tóc, âu yếm,
cúi người xuống hoặc ngồi xuống để kéo trẻ lại gần và mắt cô ngang tầm mắt trẻ trong khi
nói chuyện, hay khuyên dạy, bảo ban trẻ,... vừa giúp thỏa mãn nhu cầu được quan tâm, tôn
trọng, được yêu thương vỗ về của trẻ trong giai đoạn mầm non lại vừa giúp tạo mối quan hệ
yêu thân thiện, gần gũi giữa cô và trẻ. Ngược lại những cách tiếp xúc thân thể làm tổn
thương trẻ là đánh đập, phát vào tay vào mông, nhéo, v.v... tuyệt đối bị nghiêm cấm. Nó vừa
không đem lại hiệu quả thực sự trong giao tiếp sư phạm, vừa làm ảnh hưởng tiêu cực đến
trẻ, ngày nay giáo viên mầm non đều được yêu cầu là không được làm đau trẻ dưới bất cứ
hình thức nào.
Nói chung, trong vấn đề giao tiếp qua ngôn ngữ cơ thể, người giáo viên cần sử dụng
những biểu hiện những biểu hiện ngôn ngữ cơ thể sao cho hiệu quả. Vì đây là phương tiện
giao tiếp phi ngôn ngữ, người giáo viên dù vô tình hay cố ý thì đều để lại những tác động
đến học sinh và đến chất lượng giao tiếp sư phạm. Do đó cần chú ý để có thể làm cho những
phương tiện phi ngôn ngữ này trở nên được sử dụng một cách có ý thức, phù hợp với yêu
cầu của nhân cách người giáo viên, đem lại hiệu quả cao trong giáo dục.
- Giao tiếp sư phạm qua giọng nói
Giọng nói có thể chuyển tải thông tin về cảm xúc, thái độ của người đang nói. Giọng
nói còn phần nào cho thấy đặc điểm nhân cách, vai trò, vị trí xã hội của người nói thông qua
cách nói, giọng điệu to nhỏ, trầm bổng... Giọng nói bao gồm hơi thở, kỹ thuật phát âm, độ
diễn cảm và những yếu tố khác có liên quan chặt chẽ. Trong giao tiếp sư phạm, nhất là đối
với giáo viên mầm non, âm lượng của giọng nói rất quan trọng, nếu giọng nói nhỏ nhưng rõ
ràng, vừa đủ nghe, kèm theo thái độ ôn hòa, nét mặt thoải mái, dễ chịu thì biểu đạt được cao
nhất tình cảm yêu thương và tạo cảm giác an toàn, thân thiện với trẻ. Trẻ nhỏ rất nhạy cảm
với những tín hiệu phi ngôn ngữ này.

23



×