Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Phân tích những tác động của tự do hoá tài chính đến hệ thống tài chính của Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.25 KB, 45 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

TIỂU LUẬN
MÔN NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG VỐN

Đề tài: Phân tích những tác động của tự do hoá
tài chính đến hệ thống tài chính của Việt Nam
hiện nay

Giáo viên hướng dẫn: TS.Nguyễn Thị Lan
Người thực hiện

: Nguyễn Hà Quyên (LP, stt 64)
Trần Ánh Ngọc (stt 55)
Đặng Tuyết Nhung (stt 58)

Lớp

: Cao học 19C.TCNH

Hà Nội, tháng 02 – Năm 2013
1


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
LỜI MỞ ĐẦU
Trang
Chương 1



Tổng quan về tự do hóa tài chính

5

1.1.

Khái niệm chung

5

1.1.1.

Khái niệm tự do hoá tài chính

5

1.1.2.

Trình tự tự do hoá tài chính

7

1.1.3.

Bản chất tự do hoá tài chính

10

1.2.


Kinh nghiệm quốc tế về tự do hoá tài chính

10

1.2.1.

Kinh nghiệm của Trung Quốc

11

1.2.2.

Kinh nghiệm của Canada

13

1.2.3.

Kinh nghiệm của Malaysia, Thái Lan và Tây Ban Nha

16

Chương 2

Thực trạng về tự do hóa tài chính ở Việt Nam

18

2.1.


Quá trình hội nhập của Việt Nam với nền kinh tế toàn cầu

18

2.1.1.

Quá trình tự do hoá tài chính trong nước ở Việt Nam

18

2.1.1.1.

Cải cách hệ thống ngân hàng để nâng cao hiệu quả phân bổ 18
và sử dụng các nguồn lực tài chính

2.1.1.2.

Từng bước thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho phù hợp 20
với tình hình mới

2.1.1.3.

Hình thành và phát triển hệ thống điều hành tiền tệ dựa 22
trên cơ sở thị trường với hệ thống các công cụ gián tiếp

2.1.2.

Quá trình tự do hoá tài chính với nước ngoài ở Việt Nam


2.1.2.1.

Chính sách quản lý ngoại hối trong lĩnh vực đầu tư nước 23
ngoài
2

23


2.1.2.2.

Chính sách đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư nước ngoài

23

2.1.2.3.

Tự do hoá chính sách kết nối

24

2.2.

Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi tiến hành quá 26
trình tự do hoá tài chính

2.2.1.

Thuận lợi


26

2.2.2.

Khó khăn

26

2.3.

Phân tích tác động của tự do hoá tài chính

28

2.3.1.

Tác động tích cực của tự do hoá tài chính

28

2.3.2.

Tác động tiêu cực của tự do hóa tài chính

32

Chương 3

Một số quan điểm cơ bản và định hướng tự do hóa tài chính 36
ở Việt Nam trong giai đoạn sắp tới


3.1.

Một số quan điểm cơ bản về tự do hoá tài chính ở Việt Nam

3.2.

Định hướng giải pháp chính sách tự do hoá tài chính ở Việt 38

36

Nam trong các năm tới
3.2.1.

Định hướng tự do hóa lãi suất

39

3.2.2.

Định hướng tự do hoá hoạt động tín dụng

41

3.2.3.

Định hướng tự do hoá hoạt động ngoại hối

42


KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
Hình 1.1.

Cấu trúc hệ thống tài chính quốc gia

Hình 1.2.

Lộ trình tự do hoá tài chính theo MacKinnon

3


LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi thực hiện chính sách mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã có những
bước tiến đáng kể trong việc ổn định và phát triển trên cơ sở từng bước thâm
nhập vào nền kinh tế thế giới. Việc chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (năm 1995) kèm theo là những cam kết tham gia khu vực Mậu
dịch tự do châu á (AFTA) và việc ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là
những mốc sự kiện lịch sử quan trọng trong tiến trình gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) của Việt Nam. Theo đà phát triển đó, Việt Nam sẽ phải mở
cửa thị trường ở hầu hết các lĩnh vực, trong đó có thị trường dịch vụ tài chính.
Tự do hóa tài chính không chỉ là yêu cầu bắt buộc để có thể tham gia sân chơi
thế giới mà còn là xu thế tất yếu của hội nhập kinh tế bởi những lợi ích vô cùng
to lớn mà nó mang lại cho các quốc gia.
Quá trình tự do hóa tài chính sẽ giúp tạo ra một môi trường minh bạch, linh
hoạt và hiệu quả cho hệ thống tài chính, thu hút đầu tư, kích thích sự cạnh tranh
lành mạnh, mang lại động lực phát triển, khả năng tiếp cận công nghệ mới cho

các tổ chức tài chính trong nước cũng như cơ hội sử dụng các dịch vụ tài chính
đa dạng, chất lượng cao cho người dân …Tự do hóa tài chính cũng sẽ mang lại
nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Điều này cũng đồng nghĩa với việc sẽ có nhiều
thách thức và cạnh tranh đối với các nhà cung cấp dịch vụ của Việt Nam, bao
gồm các ngân hàng trong nước. Bên cạnh đó áp lực về quản lý, những thay đổi
về chính sách cũng sẽ đè nặng lên các nhà lập pháp và quản lý của Việt Nam.
Bài tiểu luận tập trung vào việc phân tích, nghiên cữu những tác động của tự do
hoá tài chính đến hệ thống tài chính của nước ta, từ đó rút ra một số bài học cho
tiến trình mở cửa thị trường tài chính của Việt Nam trong thời gian sắp tới.

4


Chương 1
Tổng quan về tự do hóa tài chính
1.1.

Khái niệm chung

1.1.1. Khái niệm Tự do hóa tài chính
Trong các hoạt động kinh tế, nguồn vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Tuy nhiên, trong một nền kinh tế tồn tại những người thừa vốn và những người
thiếu vốn. Thông qua hệ thống tài chính, nguồn vốn sẽ được luân chuyển từ
những người thừa vốn sang những người thiếu vốn theo nhiều kênh khác nhau.
Xét tổng quan, hệ thống tài chính quốc gia có cấu trúc như sau:

Tài chính gián tiếp

Vốn


Trung gian tài chính

Vốn

Người thiếu vốn

Người thừa vốn

Vốn

Thị trường tài chính

Vốn

Tài chính trực tiếp
Hình 1.1. Cấu trúc hệ thống tài chính quốc gia

Trong đó:
Người thừa vốn là Hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ, người nước ngoài.
Người thiếu vốn là doanh nghiệp, chính phủ, hộ gia đình, người nước ngoài.
Trung gian tài chính bao gồm các ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng, quỹ
bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, …
5


Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường vốn và thị
trường ngoại hối.
Trong những điều kiện nhất định, hệ thống tài chính quốc gia sẽ hòa vào
các hệ thống khác tạo thành hệ thống tài chính quốc tế cũng tuân theo cấu trúc
như hình trên. Vậy như thế nào gọi là quá trình tự do hóa tài chính?

Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm
soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho
hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường.
Tự do hóa tài chính có thể phân loại theo chiều dọc và theo chiều ngang.
Phân loại theo chiều dọc thì tự do hóa tài chính bao gồm tự do hóa thị trường
tiền tệ và tự do hóa thị trường vốn. Nếu phân loại theo chiều ngang thì tự do hóa
tài chính bao gồm tự do hóa tài chính trong nước và tự do hóa tài chính với
nước ngoài. Tự do hóa tài chính trong nước là cho phép các tổ chức tài chính
trong nước tự do thực hiện các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, các
thị trường tài chính trong nước được khuyến khích phát triển, các công cụ chính
sách tiền tệ được điều hành theo tín hiệu thị trường hay ta có thể nói rõ hơn là
xóa bỏ kiểm soát lãi suất, phân bổ tín dụng và dịch vụ tài chính. Tự do hóa tài
chính với nước ngoài bao gồm tự do hóa giao dịch vãng lai và tự do hóa giao
dịch vốn hay nói cách khác tự do hóa tài chính với nước ngoài là loại bỏ kiểm
soát vốn và các hạn chế trong quản lý ngoại hối.
Nhìn chung, nội dung cơ bản của tự do hóa tài chính sẽ bao gồm: Tự do
hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, tự do
hóa hoạt động ngoại hối, tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị
trường tài chính.
Tự do hóa lãi suất được coi là hạt nhân của tự do hóa tài chính trong nước.
Theo đó, lãi suất phải do thị trường quyết định tùy thuộc vào cung và cầu về đầu
tư, vào mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh tế.
6


Tự do hóa hoạt động phân bổ tín dụng là nguồn tín dụng được phân bổ dựa
trên lãi suất thị trường và mức độ tin cậy của người đi vay thay vì các quyết
định hành chính.
Tự do hóa tài khoản vốn: Tài khoản vốn trong cán cân thanh toán của một
quốc gia bao gồm các giao dịch đầu tư vào trong nước và đầu tư ra nước ngoài,

vay và cho vay quốc tế ngắn hạn, trung và dài hạn. Tự do hóa cho phép một
nước tự do trong việc tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài hoặc đầu tư ra nước khác
thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp (bằng việc góp
vốn cổ phần), vay và cho vay nợ.
Tự do hóa các dịch vụ tài chính là cho phép các ngân hàng, tổ chức tài
chính trong và ngoài nước được tự do tham gia cung cấp các dịch vụ tài chính
trên thị trường và không phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp các dịch vụ tài
chính này.
Trong quá trình thực hiện tự do hóa tài chính, các hoạt động trên có thể
được thực hiện đồng thời cùng một thời điểm hoặc thực hiện theo từng bước
khác nhau để phù hợp với bối cảnh quốc tế và đặc điểm của từng quốc gia. Cách
thức tiến hành như vậy được gọi là trình tự tự do hóa tài chính.
1.1.2. Trình tự tự do hóa tài chính
Có rất nhiều cách tiếp cận về trình tự tự do hoá tài chính của một quốc gia.
Theo MacKinnon (1992), đối với một quốc gia có những đặc điểm thông
thường thì trình tự tối ưu hóa các chính sách tài trính trong quá trình chuyển từ
sự kiểm soát tập trung sang nền kinh tế thị trường đầy đủ, hội nhập vào thế giới
cần tiến hành theo các bước như sau:
Trước khi lạm phát giá cả có khả năng giảm dần và thị trường vốn được
mở cửa theo hướng cho vay tự do, thì yêu cầu đầu tiên là phải đạt được sự cân
đối tài chính của chính phủ tức là phải giảm được thâm hụt ngân sách Nhà
nước. Sự thâm hụt ngân sách quá lớn của chính phủ trong điều kiện thị trường
7


tài chính chưa phát triển thường dẫn đến việc Ngân hàng trung ương phát hành
nội tệ quá mức để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, hậu quả là gây ra lạm phát cho
nền kinh tế.
Tự do hoá tài chính
Giảm

dự trữ
bắt
buộc
Giảm thâm
hụt Ngân sách
Nhà nước

Bỏ
kiểm
soát lãi
suất

Đa dạng
hoá sở
hữu

Tăng
cạnh
tranh

Bỏ tín
dụng chỉ
định

Điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt

Tự do hoá
tài khoản
vốn


Cải cách thương mại

Hình 1.2. Lộ trình tự do hoá tài chính theo MacKinnon (1992)

Sau khi giảm thâm hụt ngân sách, thị trường vốn sẽ được mở cửa sao cho
người gửi tiền nhận được lãi suất thực dương (tự do hoá lãi suất). Việc đi vay và
cho vay không hạn chế giữa các doanh nghiệp và hộ gia đình chỉ có thể thực
hiện được khi mức giá cả ổn định và các thâm hụt tài khoá được loại trừ. Trong
điều kiện lạm phát quá cao, người cho vay không có lợi do lãi suất thực có xu
hướng âm, điều này sẽ cản trở hành vi cho vay của người thừa vốn.
Song song với tự do hoá lãi suất là tự do hoá hoạt động của các ngân hàng
và việc phân bổ tín dụng. Tuy nhiên hệ thống ngân hàng chỉ được giải phóng
khỏi các yêu cầu dự trữ bắt buộc và các quy định trong việc xác định lãi suất
tiêu chuẩn đối với tiền gửi vào và tiền cho vay khi việc kiểm soát tài khoá chặt
chẽ được đảm bảo, Chính phủ không còn phải đánh thuế lạm phát hay đánh thuế
vào khoản tiền tích trữ quá mức của người gửi tiền để có thu nhập. Như vậy,
kiểm soát tài khoá đóng vài trò là bước đệm quan trọng trong trình tự tự do hoá
tài chính.
8


Sau khi các ngân hàng đã bắt nhịp với cách thức hoạt động độc lập theo cơ
chế thị trường, bước tiếp theo là mở rộng sự tham gia của các trung gian tài
chính mới, cho phép cả các tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động. Tuy nhiên,
sự mở rộng này cũng cần được thực hiện dần dần bởi nếu hệ thống tài chính
được nới lỏng hoàn toàn và bất ngờ, các tổ chức tài chính mới tham gia sẽ áp
dụng mức lãi suất cao hơn lãi suất mà các tổ chức tài chính hiện có đang trả
nhằm cạnh tranh giành tiền gửi. Do vậy, các ngân hàng đang hoạt động muốn
cạnh tranh được sẽ phải trả lãi suất thị trường đối với tất cả các khoản tiền gửi
(bao gồm các khoản tiền gửi cũ và các khoản tiền gửi mới) mặc dù lãi suất đó

chỉ đáng trả cho các khoản vay mới. Hậu quả là các ngân hàng này phải chịu lỗ
về vốn. Khi các khoản vay như vậy chiếm tỷ trọng quá lớn so với giá trị tài sản
của ngân hàng thì nguy cơ phá sản ngân hàng là rất cao.
Cuối cùng, khi thị trường vốn trong nước được tự do hoá hoàn toàn tức là
việc vay và cho vay trong nước diễn ra tự do theo lãi suất cân bằng (không bị
hạn chế) và tỷ lệ lạm phát trong nước được kiềm chế, chính sách tỷ giá được
điều hành linh hoạt đến mức việc phá giá đồng nội tệ theo tỷ giá hối đoái hiện
hành không còn cần thiết thì mới tiến hành tự do hoá tài khoản vốn. Từ đó, các
doanh nghiệp, hộ gia đình được cho phép đi vay hoặc gửi tiền tự do trên các thị
trường vốn quốc tế, được cho phép mua bán chứng khoán để huy động vốn tự
do, và cuối cùng là chuyển đổi ngoại tệ tự do trên tài khoản vốn.
Ngoài cách tiếp cận của MacKinnon, các tổ chức quốc tế như OECD,
ADB, IMF cũng thiết lập lộ trình tự do hoá tài chính riêng đối với một quốc gia.
Theo OECD thì trình tự tự do hóa tài chính cần tập trung vào tự do hóa các
luồng vốn, đầu tiên là tự do hóa đầu tư nước ngoài trực tiếp, cuối cùng là tự do
hóa tài khoản vốn.
ADB dựa vào rủi ro để đánh giá và xây dựng lộ trình tự do hóa tài chính
với mục tiêu cuối cùng là tự do hóa tài khoản vốn. Cách tiếp cận của IMF cũng
khá phức tạp, đó là xem xét đầy đủ mọi vấn đề từ cải cách vi mô, cơ cấu, xây
9


dựng thể chế, các chính sách kinh tế vĩ mô và cơ chế tỷ giá để xây dựng lộ trình
để tự do hóa.
1.1.3. Bản chất của tự do hóa tài chính
Bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại
vốn có của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị
trường. Mục tiêu là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường
trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế – xã hội.
Theo Ngân hàng thế giới (1989), mục tiêu chính của tự do hóa tài chính là

phát triển một hệ thống tài chính dựa trên cơ sở thị trường, hội nhập vào thế giới
để nhằm huy động tiết kiệm, phân bổ các nguồn lực có thể đầu tư trong nước
cũng như nước ngoài một cách có hiệu quả và thúc đẩy sự tăng trưởng. Do đó,
kết quả của tự do hóa tài chính thường được thể hiện bằng tỷ số giữa tiền mở
rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống NHTM) trên thu nhập quốc dân.
Hạt nhân của tự do hóa tài chính là tự do hóa lãi suất và cần thiết phải kiểm
soát quá trình tự do hóa lãi suất, cụ thể là:
-

Xác định thời điểm bắt đầu và tốc độ tự do hóa lãi suất căn cứ vào những

tiến bộ đạt được trong cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực
ngân hàng;
-

Quyết định lộ trình và trật tự tiến hành tự do hóa lãi suất của các công cụ

tài chính khác nhau để không gây ảnh hưởng xấu tới hệ thống ngân hàng;
-

Ngân hàng Trung ương cần có chiến lược chỉ đạo chính sách tiền tệ trong

khuôn khổ hệ thống tài chính đã tự do hóa;
-

Chuẩn bị những công cụ tài chính mới sau khi thực hiện tự do hóa tài

chính.
1.2.


Kinh nghiệm quốc tế về tự do hóa tài chính
Kinh nghiệm tự do hóa tài chính cho thấy tầm quan trọng của việc xử lý

ngay từ đầu những vấn đề liên quan đến sự lành mạnh của hệ thống tài chính –
10


ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ các nguồn lực và ngăn ngừa
nguy cơ khủng hoảng. Nguyên nhân cơ bản của các cuộc khủng hoảng tài chính
thường bắt nguồn từ các biện pháp tự do hóa tài chính.
1.2.1. Kinh nghiệm của Trung quốc
Trung Quốc bắt đầu chính sách mở cửa kinh tế vào năm 1979. Tuy nhiên,
trong 5 năm đầu tiên của thời kỳ mở cửa, công cuộc cải cách dường như chưa
chạm đến hệ thống tài chính ngân hàng. Dấu hiệu cải cách trong hệ thống tài
chính thực sự mới xuất hiện vào năm 1984 khi hệ thống ngân hàng tách thành
hai cấp: ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc) và Ngân hàng
thương mại. Kể từ đó mới xuất hiện dấu hiệu cạnh tranh giữa các ngân hàng và
ở một mức độ thận trọng, các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được phép thành
lập và hoạt động ở Trung Quốc. Nhìn chung cho đến nay, hệ thống dịch vụ tài
chính ở Trung Quốc vẫn bị chính phủ khống chế và kiểm soát chặt chẽ. Mức độ
mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động còn rất hạn chế. Các ngân
hàng nước ngoài chỉ được phép hoạt động ở một số vùng kinh tế đặc biệt. Chính
phủ Trung Quốc không cho phép các ngân hàng đầu tư nước ngoài mở chi
nhánh. Ngân hàng nước ngoài có thể hoạt động dưới dạng liên doanh hoặc
100% vốn nước ngoài nếu được cơ quan có thẩm quyền cho phép và phải gửi
30% vốn tối thiểu vào Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc. Họat động giao dịch
của ngân hàng nước ngoài chủ yếu hạn chế trong khuôn khổ các ngoại tệ mạnh
(gần đây có cấp phép cho một số ít ngân hàng nước ngoài được thực hiện giao
dịch bằng đồng nhân dân tệ). Ngân hàng nước ngoài chỉ được thực hiện các hoạt
động dịch vụ bán buôn (wholesale banking).

Thị trường bảo hiểm còn nhỏ bé và thống trị bởi các công ty bảo hiểm Nhà
nước. Nhà nước quyết định tỷ lệ hoa hồng bảo hiểm. Đa số tiền bảo hiểm thu
được được gửi tại tài khoản có tính lãi. Thị trường chứng khoán ở Trung Quốc
chưa phát triển. Thị trường trái phiếu rất mỏng. Thị trường trái phiếu phi chính
phủ không đáng kể. Trung Quốc chưa có Luật chứng khoán quốc gia. Chính phủ
kiểm soát giao dịch chứng khoán của các công ty, doanh nghiệp sở hữu Nhà
nước. Các công ty nước ngoài kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán không
11


được phép thành lập chi nhánh hoặc công ty con, mà chỉ được phép thành lập
dưới dạng liên doanh.
Như vậy có thể nhận thấy Trung Quốc đã xây dựng lộ trình tự do hóa tài
chính dựa trên cách tiếp cận của ADB. Trình tự mở cửa thị trường tài chính của
Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở thừa nhận sự yếu kém của hệ thống tài
chính ngân hàng, đánh giá mức độ rủi ro và thực hiện tự do hóa thận trọng. Đầu
tiên là khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiếp theo là đầu tư gián tiếp
nước ngoài vào thị trường chứng khoán, cuối cùng là tự do hóa các khoản vay
nợ nước ngoài, cụ thể là:
-

Giải quyết nợ xấu để hạn chế rủi ro cho các ngân hàng;

-

Xây dựng thể chế để có hệ thống luật pháp công khai minh bạch;

-

Từng bước tự do hóa tài chính nội địa;


-

Từng bước tự do hóa lãi suất;

-

Tổ chức lại và củng cố các tổ chức tín dụng để tăng cường tiềm lực tài chính

và năng lực cạnh tranh;
-

Thực hiện cơ chế tỷ giá theo hướng linh hoạt hơn;

-

Giải quyết khó khăn tài khóa để giảm bớt tình trạng thất nghiệp.
Tự do hóa tài khoản vốn là mục tiêu cuối cùng, nhưng Trung Quốc chưa

đủ điều kiện nên được thực hiện có giới hạn với sự giám sát chặt chẽ, nhất là đối
với dòng vốn ngắn hạn vào thị trường chứng khoán và dòng vốn ra. Về quản lý
nợ vay nước ngoài, Chính phủ quyết định hạn mức vay nợ trung, dài hạn hàng
năm, quy định thời hạn trả nợ và loại tiền vay và phân bổ cho các ngành nghề,
khu vực.
Như vậy, có thể thấy rằng việc cải cách kinh tế theo hướng mở cửa tuy đã
được thực hiện trên hai thập kỷ, song Trung Quốc vẫn tỏ ra hết sức dè dặt trong
việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính. Sự cho phép thâm nhập của một số tổ
chức nước ngoài trong lĩnh vực này dường như chỉ có tính chất thử nghiệm và
chỉ giới hạn trong một số khu vực địa lý nhất định với nhiều điều kiện ngặt
nghèo.Thị trường dịch vụ tài chính vẫn gần như được thống soái tuyệt đối bởi

12


các tổ chức tài chính nội địa và chủ yếu là khu vực Nhà nước. Với những đặc
điểm đó, Trung Quốc cần có thời gian và những cải cách mạnh mẽ hơn, trước
khi thực hiện việc tự do hoá theo những cam kết khi gia nhậpWTO.
1.2.2. Kinh nghiệm của Canada
Canada là một trong những nước có trình độ phát triển kinh tế cao nhất thế
giới (là thành viên của khối G7) với tư cách thành viên lâu đời của OECD,
GATT và gần đây là NAFTA. Vì vậy, lĩnh vực dịch vụ tài chính không những
phát triển và có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế Canada, mà còn
có tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Năm 1997, khu vực dịch vụ tài
chính ở Canada chiếm tới 5,2% GDP và thu nạp 4,5% lao động của toàn bộ nền
kinh tế. Do việc mở cửa thị trường nên hoạt động dịch vụ tài chính ở Canada
mang tính quốc tế hoá cao, nhiều tổ chức, công ty nước ngoài thực hiện hoạt
động kinh doanh tại Canada và ngược lại, nhiều tổ chức, công ty của Canada
thực hiện các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Hoa Kỳ là đối tác kinh doanh
lớn nhất chiếm tới hơn 50% giá trị dịch vụ kể cả nhập khẩu và xuất khẩu. Tuy
mức độ mở cửa thị trường ngày càng trở nên thông thoáng trog thời gian gần
đây (đặc biệt kể từ khi ký kết hiệp định chung về thương mại dịch vụ nói chung
- GATT - và hiệp định về dịch vụ tài chính nói riêng - FSA), song việc mở cửa
thị trường dịch vụ tài chính ở Canada cũng không có nghĩa là tự do hoá hoàn
toàn.
Trước khi tham gia ký kết hiệp định về thương mại dịch vụ tài chính giữa
các nước thành viên WTO (năm 1997), cả một thời kỳ dài Canada áp dụng luật
10/25 trong lĩnh vực ngân hàng. Luật này quy định cá nhân (tổ chức) nước
ngoài không được phép sở hữu quá 10% (25%) bất kỳ loại cổ phiếu nào của một
ngân hàng nhất định được thành lập theo một điều khoản riêng (Schedule I).
Bên cạnh đó, việc mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện trực tiếp từ các ngân
hàng nước ngoài là điều không thể. Các ngân hàng nước ngoài muốn hoạt động

tại Canada phải thành lập dưới hình thức công ty con hoạt động bằng vốn độc
lập của chính công ty con đó theo một điều khoản riêng (Shcedule II) và không
được tham gia vào các hoạt động dịch vụ bán lẻ. Những hạn chế này là những
13


trở ngại đáng kể đối với sự thâm nhập của các ngân hàng nước ngoài, nhưng
đồng thời lại được coi là những biện pháp an toàn chon sự hoạt động của các
ngân hàng nội địa tránh được sự cạnh tranh và đảm bảo tính chủ quyền điều
hành của chính phủ trong một chừng mực nhất định.
Các ngân hàng được thành lập theo Schedule I đều là những ngân hàng lớn
có mạng lưới toàn quốc với hơn 8000 chi nhánh, nắm giữ trên 90% tài sản của
toàn bộ ngành ngân hàng và chủ yếu do người Canada sở hữu. Những công ty
con của các ngân hàng nước ngoài được thành lập theo Schedule II chỉ chiếm
một thị phần nhỏ và chuyên biệt trong một số lĩnh vực như dịch vụ đầu tư, dịch
vụ vay trả, thanh toán đối với các doanh nghiệp kinh doanh.
Sau hiệp định FSA, một số hạn chế đối với hoạt động của các ngân hàng
nước ngoài đã được loại bỏ. Chẳng hạn luật sở hữu không quá 10% cổ phần nay
được áp dụng chung cho cả cá nhân trong nước và nước ngoài, luật sở hữu
không quá 25% cổ phần (đối với tổ chức hoặc nhóm cá nhân) được loại bỏ, các
ngân hàng nước ngoài được phép mở chi nhánh trực tiếp tại Canada... Tuy nhiên
một số hạn chế cần thiết vẫn được giữ nguyên, chẳng hạn : chi nhánh của ngân
hàng nước ngoài (ngân hàng cho vay hoặc dịch vụ) không được phép thực hiện
các hoạt động thuộc về chức năng chuyên biệt của các công ty tài chính được
quy định trong luật ngân hàng. Chi nhánh của ngân hàng nước ngoài thực hiện
chức năng dịch vụ chỉ được phép nhận những khoản tiền gửi dưới 150.000 đôla
Canada.... Một số bang còn đòi hỏi đa số thành viên của hội đồng quản trị phải
là cư dân Canada hoặc quy định người nước ngoài có thể không được hưởng
quyền bầu cử khi họ nắm giữ cổ phiếu của ngân hàng Canada trong một số
trường hợp nhất định.

Mức độ mở cửa thị trường bảo hiểm ở Canada tỏ ra thông thoáng nhất so
với các lĩnh vực khác trong hoạt động dịch vụ tài chính. Các hãng bảo hiểm
nước ngoài chiếm thị phần đáng kể. Mặc dù việc mở cửa thị trường bảo hiểm đã
ở mức cao song vẫn có những hạn định ràng buộc nhất định khi cam kết tham
gia hiệp định FSA. Những ràng buộc này chủ yếu là những quy định về hình
thức cung ứng dịch vụ, quyền sở hữu vốn hoặc quyền điều hành. Chẳng hạn,
14


Canada đòi hỏi tất cả các dịch vụ bảo hiểm phải được thực hiện thông qua hình
thức hiện diện thương mại (Commercial presence). Một số bang như (Quebec)
quy định người không phải là cư dân Canada không được phép sở hữu (gián tiếp
hay trực tiếp) quá 30% cổ phiếu có quyền bầu cử nếu không có sự chấp thuận
của cấp bộ trưởng (Ministerial Approval). Một số bang khác không cấp giấy
phép hoạt động đại lý bảo hiểm cho những người không phải là cư dân thuộc
bang đó, hoặc một khoản thuế đặc biệt sẽ được áp dụng đối với khoản hoa hồng
bảo hiểm thuần trả cho người không phải là đối tượng cư trú ở Canada. Quebec
còn yêu cầu ba phần tư thành viên của hội đồng quản trị phải là công dân
Canada và phần lớn phải định cư tại Quebec...
Canada có lẽ là nước duy nhất trong số những nước phát triển duy trì sự
hoạt động của thị trường chứng khoán trên cơ sở điều luật và quản lý của các
bang. Chính phủ liên bang không tham gia điều chỉnh hoặc ban hành điều luật
hoạt động của thị trường chứng khoán. Vì vậy mức độ tự do hoá hoàn toàn phụ
thuộc vào quy định riêng của từng bang. Tuy nhiên sự ràng buộc nói chung của
đa số các bang thường là: cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại,
người mua bán chứng khoán phải đăng ký để thực hiện giao dịch thông qua các
nhà môi giới, ít nhất một giám đốc hoặc một cán bộ chủ chốt của một hãng kinh
doanh chứng khoán phải là cư dân của Canada trong thời hạn ít nhất một năm
mới đủ điều kiện cho phép thành lập.
Tóm lại: Việc tự do hoá tài chính ở Canada đã có lịch sử lâu dài và được

coi là một trong những yếu tố quan trọng làm cho hệ thống dịch vụ tài chính của
Canada có tính cạnh tranh cao. Canada không có trở ngại gì đáng kể trong việc
thực hiện những cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính trong khuôn khổ
FSA của WTO. Ngược lại, việc tham gia FSA sẽ là cơ hội lớn cho các ngành
dịch vụ tài chính của Canada có điều kiện mở rộng các hoạt động đó ra nước
ngoài, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy vậy, vẫn có thể thấy rằng việc
mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng vẫn còn tương đối thận trọng (so với vị thế
của một nước phát triển và so với các hoạt động dịch vụ khác). Những hạn chế
được quan tâm nhất đối với việc mở cửa thị trường là Nhà nước hạn chế về tỷ lệ
15


sở hữu vốn, hình thức cung cấp dịch vụ, và tính chất cư trú của những người
nắm giữ quyền quyết định đối với các tổ chức tài chính được phép thành lập và
hoạt động tại Canada. Tất cả những hạn chế về mặt đối xử quốc gia và quốc tế
nêu trên được coi là cần thiết nhằm đảm bảo một chế độ giám sát, kiểm tra có
hiệu quả, duy trì sự khống chế của chính phủ đối với toàn bộ hệ thống tài chính
và do đó đảm bảo sự ổn định bền vững của nền kinh tế Canada.
1.2.3. Kinh nghiệm của Malaysia, Thái Lan và Tây Ban Nha
Trong quá trình tự do hóa tài chính, kiểm soát luồng vốn được coi là vấn đề
được nhiều nước quan tâm đặc biệt, mục tiêu là đảm bảo tính tự chủ của chính
sách tiền tệ và giảm áp lực đối với tỷ giá. Kiểm soát luồng vốn cũng nhằm bảo
vệ sự ổn định tài chính – tiền tệ khi phải đối mặt với nguy cơ lạm phát do những
luồng vốn vào liên tục, nhất là nguồn vốn ngắn hạn. Tuy nhiên, các biện pháp
kiểm soát luồng vốn cũng có những nhược điểm nhất định.
Kiểm soát luồng vốn, nhất là những hạn chế toàn diện được áp dụng, có thể
gây trở ngại cho các giao dịch vốn và giao dịch vãng lai;
Các biện pháp kiểm soát có thể đòi hỏi chi phí hành chính khá lớn nhằm
đảm bảo thực thi có hiệu quả;
Các biện pháp kiểm soát vốn nhằm bảo vệ thị trường trong nước có thể dẫn

đến việc trì hoãn điều chỉnh những chính sách cần thiết;
Các biện pháp kiểm soát vốn có thể làm nảy sinh những nhận thức tiêu cực
về thị trường, quốc gia áp dụng phải tốn kém hơn và khó khăn hơn trong việc
tiếp cận nguồn vốn nước ngoài.
Kinh nghiệm các nước cũng cho thấy, việc kiểm soát luồng vốn ra thường
được quan tâm nhiều hơn. Sau khủng hoảng tài chính, một số nước như Tây
Ban Nha, Malaysia, Thái Lan tái thực hiện kiểm soát luồng vốn ra trước áp lực
lớn về tỷ giá, mục tiêu là ngăn chặn đầu cơ và ổn định thị trường ngoại hối
trong bối cảnh dự trữ ngoại hối giảm mạnh. Các cơ quan tiền tệ trong nước có
khoảng thời gian nhất định để khắc phục những mất cân bằng về kinh tế vĩ mô
và thực hiện cải cách hệ thống ngân hàng.

16


Trong đó, Tây Ban Nha phải thỏa thuận với các nước thành viên trong hệ
thống về quyết định thay đổi tỷ giá, Thái Lan áp dụng cơ chế “neo” tỷ giá tại
thời điểm áp đặt kiểm soát, Malaysia thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có sự quản
lý của Nhà nước. Nhằm hạn chế luồng vốn ra, Malaysia thực hiện đánh thuế vào
lợi nhuận từ đầu tư gián tiếp không kể cổ tức và lãi thu được, thu nhập liên quan
đến các giao dịch vãng lai và các luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thái Lan yêu cầu các tổ chức tài chính hạn chế và đình chỉ các giao dịch
với người không cư trú (bao gồm cho vay đồng baht qua giao dịch hoán đổi,
giao dịch kỳ hạn về đồng baht và bán đồng baht lấy ngoại tệ), phải thanh toán
bằng đô la Mỹ đối với giao dịch mua hối phiếu bằng đồng baht trước kỳ hạn và
những công cụ nợ khác, cấm các nhà đầu tư cổ phiếu nước ngoài chuyển vốn về
nước bằng đồng baht (nhưng được tự do chuyển vốn bằng ngoại tệ), người
không cư trú phải áp dụng tỷ giá nước ngoài khi chuyển đổi lợi nhuận bằng
đồng baht thu được từ việc bán chứng khoán.Về kiểm soát luồng vốn ra, kinh
nghiệm của các nước cho thấy:

Để đảm bảo hiệu quả, các kiểm soát phải toàn diện và cần được tiến hành
một cách bắt buộc đồng thời với cải cách và điều chỉnh chính sách cần thiết.
Hiệu quả của những kiểm soát này dường như bị hạn chế trong những thị trường
phức tạp;
Bên cạnh những tác động tích cực, các biện pháp kiểm soát có thể dẫn đến
phản ứng tiêu cực hơn từ các thị trường tài chính quốc tế và làm suy giảm lòng
tin của các nhà đầu tư quốc tế;
Các kiểm soát không có tác dụng bảo vệ kéo dài khi phải đối mặt với động
cơ tránh kiểm soát, nhất là chênh lệch thu nhập hấp dẫn và kỳ vọng lớn của thị
trường vào việc giảm tỷ giá hối đoái;
Khả năng kiểm soát hoạt động thị trường nước ngoài có thể là phương tiện
để hạn chế luồng vốn vào và ngăn chặn các áp lực đầu cơ;
Các biện pháp hiệu quả hạn chế rủi ro của các giao dịch hợp pháp, bao gồm
đầu tư trực tiếp nước ngoài và các giao dịch phòng ngừa liên quan đến thương
mại, nhưng có thể làm tăng chi phí tiếp cận thị trường vốn quốc tế.
17


Kinh nghiệm tự do hóa tài chính cho thấy tầm quan trọng của việc xử lý
ngay từ đầu những vấn đề liên quan đến sự lành mạnh của hệ thống tài chính –
ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ các nguồn lực và ngăn ngừa
nguy cơ khủng hoảng. Nguyên nhân cơ bản của các cuộc khủng hoảng tài chính
thường bắt nguồn từ các biện pháp tự do hóa tài chính.

Chương 2
Thực trạng về tự do hóa tài chính ở Việt Nam
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ
năm 1986, nền kinh tế Việt Nam từng bước chuyển sang hoạt động theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Việt Nam đang trên đường tiến tới tự do hóa tài chính hoàn toàn.

2.1.

Quá trình hội nhập của Việt Nam với nền kinh tế toàn cầu

2.1.1. Quá trình tự do hóa tài chính trong nước ở Việt Nam
2.1.1.1. Cải cách hệ thống ngân hàng để nâng cao hiệu quả phân bổ và sử
dụng các nguồn lực tài chính:
Cũng giống như các nước đang phát triển khác, quá trình tự do hóa tài
chính ở Việt Nam đã bắt đầu bằng việc cải tiến và hiện đại hóa ngân hàng, điều
kiện cần thiết để phát triển cơ sở hạ tầng trên thị trường tài chính.
Nếu như trước năm 1988, hệ thống ngân hàng Việt Nam được xây dựng
theo mô hình một cấp, theo đó NHNN vừa làm chức năng kinh doanh vừa quản
lý. Trong thời kỳ này, hoạt động của NHNN không hiệu quả, nó mang nặng tính
chất bao cấp nên không kích thích đầu tư và nền kinh tế chưa đủ lực để phát
triển.
Tuy nhiên, vào ngày 26/03/1988, nghị định 53/HĐBT của Hội đồng bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã được ra đời. Nội dung cơ bản của Nghị
định này là đã hình thành việc phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của
18


NHNN và các ngân hàng chuyên doanh, làm tiền đề cho hai pháp lệnh về
NHNN và pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính
ngày 23/05/1989 của Hội đồng Nhà nước. Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ
ngày 01/10/1990 với nội dung chủ yếu là xóa hẳn mô hình ngân hàng một cấp
và xây dựng mô hình ngân hàng hai cấp phù hợp với mô hình của ngân hàng các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong đó, các NHTM thực hiện nhiệm
vụ kinh doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ ngân hàng; NHNN thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước và chức năng NHTW. Từ Pháp lệnh ngân hàng có hiệu
lực 01/10/1990, đến ngày 01/10/1998 Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng

ra đời tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động kinh doanh của hệ
thống ngân hàng trong nền kinh tế. Sau nhiều lần bổ sung, sửa đổi, hệ thống
pháp luật về ngân hàng được hoàn thiện về căn bản với việc ban hành Luật
NHNN và Luật các TCTD vào tháng 06/2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2011.
Trong quá trình cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống ngân hàng Việt Nam theo
hướng nâng cao năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập, vốn điều lệ và
tổng tài sản của các ngân hàng thương mại quốc doanh và của các ngân hàng
thương mại cổ phần không ngừng được tăng lên, trong đó, các ngân hàng
thương mại quốc doanh vẫn đóng vai trò trụ cột, thống lĩnh thị trường. Bên cạnh
đó, bản thân các NHTM Việt Nam cũng đã chủ động tiếp cận nhanh với các tiến
bộ khoa học kỹ thuật ngân hàng, không ngừng cải tiến trang thiết bị, nâng cao
năng lực quản lý, điều hành hoạt động ngân hàng, từ đó, không ngừng cho ra
đời các loại hình sản phẩm mới để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh trong
bối cảnh mới, có thể kể đến như sự ra đời của thẻ ATM, hệ thống tiền gửi trực
tuyến với nhiều tiện ích cho người sử dụng,… Điều này, bên cạnh việc giúp cho
các ngân hàng trong nước đã nhanh chóng tận dụng được các cơ hội từ bên
ngoài khi nền kinh tế mở cửa và hội nhập, từ đó gia tăng tốc độ phát triển của hệ
thống ngân hàng trong nước và rút ngắn khoảng cách giữa hệ thống ngân hàng
trong nước với hệ thống ngân hàng thế giới; nó còn góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống cho người dân.
19


2.1.1.2. Từng bước thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho phù hợp với tình
hình mới
Như chúng ta đã biết, trong các nội dung của tự do hóa tài chính, tự do hóa
lãi suất là nội dung quan trọng nhất. Theo thời gian, cơ chế điều hành lãi suất đã
từng bước được đổi mới, các ràng buộc trong cơ chế điều hành lãi suất đã dần
được xóa bỏ, lãi suất dần dần đã được tự do hóa theo cơ chế thị trường, cụ thể

như sau:
- Trước năm 1988 (thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh tế theo phương
thức kế hoạch hóa tập trung): Áp dụng chính sách bao cấp khá nặng nề, lãi suất
được xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi suất thực
thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm cho ngân hàng không
thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm, vì tỷ
lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.
- Từ năm 1989 đến tháng 5/1992: Áp dụng chính sách lãi suất cố định.
NHNN can thiệp ở mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định các
mức lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Cơ chế lãi suất âm và mang nặng tính
chất bao cấp được duy trì suốt thời kỳ này với lãi suất cho vay đối với doanh
nghiệp nhà nước nhỏ hơn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất danh
nghĩa nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát, lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn dài hạn và lãi
suất tiền gửi tiết kiệm lớn hơn lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Tình
trạng này làm cho lãi suất không thực hiện được chức năng vốn có của nó, lãi
suất không còn là đòn bẩy kích thích nhu cầu gửi tiền của công chúng, phát huy
tính hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng.
- Từ tháng 6/1992 đến năm 1995: NHNN điều hành cơ chế lãi suất theo
khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với
nền kinh tế. Các NHTM và các tổ chức tín dụng căn cứ vào khung lãi suất để
đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, đây thực chất là bước chuyển đổi căn
bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, bảo đàm cho các NHTM
và các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu
cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. Trong thời kỳ này, sự chênh lệch về
20


lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế cũng được xóa bỏ về cơ bản,
NHNN cho phép các NHTM được thỏa thuận lãi suất với khách hàng.
- Từ năm 1996 đến tháng 7/2000: Áp dụng cơ chế điều hành lãi suất trần

đối với lãi suất cho vay. Với cơ chế này, NHNN đã bước đầu thực hiện tự do
hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của NHTM) và linh hoạt trần lãi suất cho
vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh
tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của VND trong sự tương quan của các
đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước
Đông Nam Á.
- Từ tháng 8/2000 đến tháng 5/2002: Áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ
bản kèm biên độ. Lãi suất cơ bản và biên độ dao động cho phép được công bố
định kỳ hàng tháng, trên cơ sở đó, NHTM sẽ quyết định lãi suất kinh doanh của
mình; trường hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời. Đối với lãi
suất cho vay bằng ngoại tê, về cơ bản các NHTM, các tổ chức tín dụng được ấn
định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong
nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy NHNN Việt Nam
đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn
lãi suất trong nước vào khu vực và thế giới.
- Từ tháng 6/2002 đến ngày 18/05/2008: Áp dụng cơ chế lãi suất thỏa
thuận. Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được NHNN chuyển đổi từng bước bắt
đầu từ tháng 05/2001 áp dụng cho hình thức cho vay bằng ngoại tệ, tiếp theo
05/2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong
nước. Theo đó, việc ban hành lãi suất cơ bản của NHNN chỉ mang tính chất làm
tín hiệu cho thị trường, lãi suất được hình thành hoàn toàn dựa trên quan hệ
cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm trong quan hệ tài chính.
- Từ ngày 18/05/2008 đến nay: áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất. Theo đó,
các NHTM ấn định lãi suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN
công bố trong từng thời kỳ. Đây là công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh
doanh của NHTM. Lãi suất cơ bản được xác định và công bố trên cơ sở xu
hướng biến động cung – cầu vốn thị trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và
21



các nhân tố tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài
nước. Việc áp dụng kịp thời cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đã ngăn chặn được
nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các NHTM
trong những tháng đầu năm 2008, an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo,
củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ
thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong
huy động vốn giữa các NHTM bằng cách đẩy lãi suất lên cao.
2.1.1.3. Hình thành và phát triển hệ thống điều hành tiền tệ dựa trên cơ sở thị
trường với hệ thống các công cụ gián tiếp
CSTT đã được đổi mới căn bản và có trật tự theo hướng tăng cường các
công cụ và phương pháp điều hành gián tiếp, phù hợp với sự thay đổi về thể chế
và hạ tầng tài chính
Trước tiên, NHNN đã có những thay đối liên tục trong chính sách lãi suất
tái cấp vốn. Chẳng hạn như trong năm 1997, NHNN đã thay đổi hình thức qui
định lãi suất tái cấp vốn, chuyển sang qui định mức lãi suất cụ thể. Mức lãi suất
tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1% năm
1997 xuống 0,7%/tháng từ 4/9/ 99) để phù hợp với chỉ số lạm phát.
Để bổ sung thêm công cụ điều hành lãi suất, vào tháng 11/1999, NHNN
đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các
NHTM. Trong thời kỳ đó, lãi suất tái chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn
0,05%/tháng so lãi suất tái cấp vốn. Hiện nay, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái
chiết khẩu mà NHNN Việt Nam đang áp dụng lần lượt là 9,0%/năm và
7,0%/năm.
Ngoài ra, vào tháng 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường
mở, lãi suất thị trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch.
Như vậy, có thể thấy quá trình tự do hóa tài chính trong nước ở Việt Nam
đã và đang có những bước đi hết sức tích cực. Bên cạnh những cải cách trong hệ
thống ngân hàng, cơ chế điều hành lãi suất và hệ thống điều hành tiền tệ, chúng
22



ta còn có những thay đổi tích cực theo hướng ngày càng tự do hóa trong việc
phân bổ tín dụng và dịch vụ tài chính, cụ thể là::
- Hoạt động tín dụng thay đổi từ tín dụng phân phối cho một số ít đối
tượng khách hàng sang tín dụng không phân biệt thành phần kinh tế và tách
bạch hoạt động cho vay chính sách với cho vay thương mại.
- Mở rộng hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính cho các thành phần kinh
tế và tổ chức tài chính trong và ngoài nước, từng bước chuyển từ hoạt động
cung ứng dịch vụ độc quyền của ngành ngân hàng sang thị trường tài chính đa
ngành
- Hệ thống thanh toán và thị trường tài chính đã được hình thành và phát
triển, góp phần hỗ trợ cho quá trình tự do hóa và cải cách khu vực tài chính –
ngân hàng, lòng tin của công chúng vào VND và hệ thống ngân hàng ngày càng
được tăng cường.
2.1.2. Quá trình tự do hóa tài chính với nước ngoài ở Việt Nam
2.1.2.1. Chính sách quản lý ngoại hối trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
Trước đây các doanh nghiệp FDI phải tự cân đối ngoại tệ trong kế hoạch
thu, chi của mình và không được phép mua ngoại tệ tại các ngân hàng (trừ
doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc sản xuất hàng
thay thế nhập khẩu), việc mua ngoại tệ phải được cấp giấy phép. Tuy nhiên đến
cuối những năm 1990, các quy đinh này đã được bãi bỏ, cơ chế cấp giấy phép
không còn nữa, các doanh nghiệp FDI có nhu cầu ngoại tệ cho các giao dịch
vãng lai, các giao dịch được phép khác được trực tiếp liên hệ với các ngân hàng
thương mại để mua ngoại tệ.
2.1.2.2. Chính sách đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư nước ngoài
Việt Nam đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư vào
trái phiếu, cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam với một tỷ lệ nhất định
(Quyết định số 998/QĐ-NHNN ngày 13/9/2002 của Thống đốc NHNN quy định
về quản lý ngoại hối với các giao dịch mua, bán chứng khoán của các tổ chức và
cá nhân nước ngoài tại trung tâm giao dịch chứng khoán).

23


Và trong khoản 3 điều 3 Luật đầu tư của Việt Nam được thông qua năm
2005 và có hiệu lực từ tháng 7/2006 quy định rõ “Đầu tư gián tiếp là hình thức
đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu
tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu
tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”.
Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam theo hình thức đầu tư
quy định tại các Điều 21, 22, 23, 24, 25 và 26 của Luật Đầu tư và quy định của
Nghị định 108/2006NĐ-CP theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián
tiếp:
- Nhà đầu tư thực hiện đầu tư gián tiếp tại Việt Nam theo các hình thức sau

đây: Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; Thông qua
quỹ đầu tư chứng khoán; Thông qua các định chế tài chính trung gian khác.
- Đầu tư thông qua mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá
khác của tổ chức, cá nhân và thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp theo
quy định của pháp luật về chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có
liên quan.
Nhà đầu tư nước ngoài đã được đơn giản hóa thủ tục mở tài khoản giao
dịch khi tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam, theo quy định tại Thông tư
213/2012. Còn Thông tư 212/2012 đã mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài lần
đầu tiên được phép thành lập tổ chức kinh doanh chứng khoán 100% vốn ngoại
tại thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.1.2.3. Tự do hóa chính sách kết hối
Tháng 9/1998 Chính phủ ban hành Quyết định 173 và Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) ban hành Thông tư 8 hướng dẫn chế độ kết hối. Theo đó quy
định, các tổ chức kinh tế là người cư trú (trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài - doanh nghiệp FDI) phải bán 80% nguồn thu vãng lai cho ngân hàng, các

tổ chức phi kinh tế phải bán 100% ngoại tệ từ nguồn thu vãng lai.
Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế, với xu hướng tự do hóa các giao
dịch vãng lai, tỷ lệ kết hối đã được giảm dần, năm 1999 còn 50%, năm 2001 còn
40%, năm 2002 còn 30% và từ năm 2003 là 0%.
24


Thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá từ tỷ giá cố định sang tỷ giá có điều
chỉnh, đến tỷ giá công bố theo mức hình thành cuối ngày trên thị trường
Đặc biệt trong tiến trình tự do hóa tài chính ngoài nước của Việt Nam để
tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế là việc Việt Nam đã chủ động hội nhập tài
chính và từng bước thực hiện tự do hóa tài chính. Trước hết là việc :
- Thiết lập được các mối quan hệ tài chính với các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế: Quỹ tiền tệ thế giới (IMF); Ngân hàng thế giới (WB) kể từ năm 1992.
- Gia nhập và trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995.
- Tham gia các diễn đàn hợp tác kinh tế: Diễn đàn hợp tác Á – Âu năm
tháng 3/1996 với tư cách là thành viên sáng lập. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu
Á – Thái Bình Dương (APEC) từ tháng 11/1998.
- Tham gia khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
- Điều đặc biệt đáng lưu ý là vào tháng 7/2000, Việt Nam đã tiến hành đàm
phán và ký kết hiệp định thương mại Việt Mỹ, đến tháng 12/2001 Quốc hội hai
nước đã chính thực thông qua hiệp định này.
- Và cuối cùng là việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức
WTO với những cam kết trong lộ trình sẽ tự do hóa hoàn toàn tài chính.
Như vậy, có thể thấy cũng giống như quá trình tự do hóa tài chính trong
nước, quá trình tự do hóa tài chính với nước ngoài ở Việt Nam đã có những sự
thay đối đáng kể. Nhìn chung, có thể nói Chính sách quản lý ngoại hối từng
bước được tự do hóa, xóa bỏ nhiều loại giấy phép theo hướng phù hợp dần với
thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập quốc tế, bước đầu đã đáp ứng được yêu

cầu của cải cách hành chính, của Luật Doanh nghiệp trong việc phân định rõ
quyền hạn và nghĩa vụ của doanh nghiệp, tạo ra sự thông thoáng hơn cho hoạt
động kinh tế đối ngoại. Việc thực hiện chính sách quản lý ngoại hối đã được
tiến hành theo hướng đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền quản lý để nâng cao tinh
thần trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của các địa phương, đồng thời tạo điều
kiện cho doanh nghiệp và người dân thực hiện các giao dịch ngoại hối, giúp
NHNN có điều kiện tập trung nghiên cứu cơ chế, chính sách theo mô hình ngân
25


×