Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phân tích những ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.1 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thuế tiêu thụ đặc biệt là một khoản thuế gián thu đánh vào một số lạo hàng
hóa , dịch vụ đặc biệt với mức thuế suất rất cao. Với tốc độ tăng trưởng bình
quân từ số thu từ thuế tiêu thụ đặc biệt từ 12- 14% Thuế tiêu thụ đặc biệt đã và
đang khảng định được vai trò to lớn của mình. Nhưng làm như thế nào để việc
thực thi pháp luật thế tiêu thụ đặc biệt đạt được hiệu quả? Những yếu tố nào đã
tác động tới hoạt động thực thi đó? Để làm rõ vấn đề này em đã quyết định lựa
chọn bài tập số 12 : “Phân tích những ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật
thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện nay” để hoàn thiện bài tập lớn của mình.
Kết cấu bài của em gồm 3 phần: Lời mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó
phần nội dung em chia làm 3 phần nhỏ
I) Lý luận chung .
II) Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
III) Một số ý kiến để hoàn thiện thực thi pháp luật thuê tiêu thụ đặc biệt.
Bài làm của em chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự
đóng góp của thầy cô để em có thể hoàn thiện bài tập của mình. Em xin trân
thành cảm ơn
Danh mục từ viết tắt
TTĐB: Tiêu thụ đặc biệt
NỘI DUNG
I) Lý luận chung.
1) khái niệm thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) là loại thuế tiêu dùng được áp dụng phổ
biến ở các nước trên thế giới với những tên gọi khác nhau: Pháp gọi là thuế tiêu
dùng đặc biệt, Thụy Ðiển gọi là thuế đặc biệt. Đối với Việt Nam, tiền thân của
1
thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành là thuế hàng hóa được ban hành năm 1974. Luật
Thuế TTĐB ban hành lần đầu tiên vào năm 1990. Kể từ khi ban hành đến nay,
Luật thuế TTĐB đã qua nhiều lần bổ sung sửa đổi cho phù hợp với chính sách
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn phát triển.
Thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào một số loại hàng hóa dịch vụ đặc biệt, cần


điều tiết mạnh nhằm hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng đồng thời làm tăng nguồn
thu cho ngân sách nhà nước.
Nhìn chung, các hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB thường có các tính
chất sau:
- Một số hàng hoá, dịch vụ có giá bán cao ( xa xỉ).( Ô tô dưới 24 chỗ, tàu bay,
du thuyền...)
- Hàng hóa không thiết yếu gây lãng phí (Hàng mã, vàng mã...)
- Hàng hoá có thể có hại cho sức khoẻ, làm ảnh hưởng không tốt đến môi
trường.( Thuốc lá, rượu, bia..)
Việc quy định các hàng hóa, dịch vụ nào thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ
đặc biệt tùy thuộc vào chính sách điều tiết của từng nước, xuất phát từ hoàn cảnh
khách quan, chính sách điều tiết, hướng dẫn sản xuất tiêu dùng của Nhà nước,
trong từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội cụ thể.
2) Khái niệm thực thi pháp luật thuế tiêu thục đặc biệt
Thực thi pháp luật được hiểu chung nhất là hoạt động thực hiện và thi
hành pháp luật. Theo nghĩa hẹp thực thi pháp luật chỉ là hoạt động của riêng cơ
quan quản lý nhà nước trong việc áp dung, thi hành pháp luật. Nhưng cách hiểu
đó là phiến diện và chưa đầy đủ vì pháp luật là những chuẩn mực chung và bất
cứ ai trong xã hội phải tuân theo.Vì vậy thực thi pháp luật phải là hoạt động thực
hiện và tuân theo pháp luật của tất cả mọi người.
Đối với pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt nói
riêng việc thực thi pháp luật chia làm 2 nhóm hoạt thu(quản lý thuế) và hoạt
động đóng thuế tương ứng với 2 nhóm đối tượng đó là cơ quan nhà nước( chủ
thể quyền lực) và chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế( chủ thể mang nghĩa vụ).
2
3) Vai trò của hoạt động thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
Pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt là một trong những công cụ giúp Nhà
nước thực hiện chính sách quản lý đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và nhập
khẩu hàng hóa dịch vụ giúp Nhà nước quản lý hoạt động nhập khẩu mặt hàng
này. Vì vậy, khi thuế tiêu thụ đặc biệt không được thực thi trên thực tế thì Nhà

nước không thể xác định số lượng của các mặt hàng bị đánh thuế tiêu thụ đặc biệt
trên thị trường Việt Nam hiện nay, điều này sẽ dẫn tới hậu quả là hành vi trốn
thuế của các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế( nhất là đối với loại thuế có mức thuế
suất cao như thuế tiêu thụ đặc biệt), gây khó khăn cho chủ thể quản lý thuế.
Công bằng trong xã hội là điều mà bất kỳ quốc gia hay dân tộc nào đều
hướng tới. Nhưng với sự phát triển của kinh tế xã hội việc chênh lệch mức sống
giữa các tầng lớp nhân dân ngày càng cao. Những người có mức sống cao thường
muốn sử dùng những mặt hàng xa xỉ hơn so vơi mức sống của người khác như ô
tô, máy bay, du thuyền... Vì vậy thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt còn
nhằm mục đích điều tiết thu nhập của các tầng lớp trong dân cư có thu nhập cao
bằng cách áp dụng mức thuế cao đối với những mặt hàng đó. Mặt khác, những
mặt hàng là đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt còn là những mặt hàng có hàng
tuy không phải xa xỉ nhưng có hại cho sức của người sử dụng và những người
xung quanh nên hạn chế sử dụng như rượu, bia, thuốc lá... Với mức thuế suất
cao, người tiêu dùng đôi khi phải bỏ quan hoặc hạn chế tới mức thấp nhất việc sử
dụng hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt vì không đủ khả năng chi trả hoặc cân
nhắc về giá trị mang lại và giá trị bỏ ra. Như vậy, việc thực thi thuế tiêu thụ đặc
biệt còn có vai trò hướng dẫn tiêu dùng hợp lý.
Cũng như các loại thuế khác, thuế tiêu thụ đặc biệt tạo nguồn Thu cho
ngân sách Nhà nước. Việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt còn có ý nghĩa
trong việc đem lại nguồn thu ổn định cho Ngân sách nhà nước. Đảm bảo cho việc
thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước
II) Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc
biệt.
3
1) Yếu tố khách quan
1.1- Yếu tố kinh tế
Ở nước ta, thuế TTĐB được Quốc hội khoá IX ban hành Luật Thuế TTĐB và
có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1990 và đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.

Trong đó những lần sửa đổi quan trọng vào các năm 1998, 2003 và 2005. Năm
2008, Luật thuế TTĐB (sửa đổi) được trình Quốc hội thông qua vào tháng
11/2008, có hiệu lực thi hành kể từ 01/04/2009. Như vậy, nhìn chung khung pháp
lý cho thuế tiêu thụ đặc biệt xuất hiện muộn hơn so với các nước trong khu vực
và trên thế giới.
Nói chung nền kinh tế Việt Nam phát triển muộn hơn so với nhiều nước.
Trước đây khái niệm hàng hóa đặc biệt còn khá xa lạ. Đối với thuế hàng
hóa( được xem là tiền thân của thuế TTĐB) được quy định tại Quyết nghị 487-
NQ/QHK4 quy định còn mang tính liệt kê, đánh cả vào những mặt hàng thiết yếu
do lúc đó kinh tế Việt Nam còn mang tính bao cấp, những kinh doanh ngoài Nhà
nước đều không được khuyến khích. Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường
Nhà nước chỉ đánh thuế TTĐB vào những mặt hàng không khuyến khích tiêu
dùng nhằm khuyến kích phát triển kinh tế xã hội, bằng cách tạo điều kiện cho các
thành phần kinh tế trong xã hội. Cùng với sự phát triển của kinh tế Việt Nam các
mặt hàng bị đánh thuế liên tục được điều chỉnh để phù hợp với tình hình kinh tế
mới.
Các yếu tố kinh tế thay đổi làm cho hành vi thực thi pháp luật thuế TTĐB
cúng thay đổi. Khi các yếu tố kinh tế thay đổi sẽ có tác động tới việc thực hiện
thuế TTĐB: Ví dụ: có nhiều loại mặt hàng, dịch vụ tương tự những mặt hàng bị
đánh thuế TTĐB nhưng pháp luật chưa quy định, nên các doanh nghiệp sẽ trốn
thuế bằng cách áp dụng các hàng hóa, dịch vụ mới này.Mặt khác, các mặt hàng
được xem là xa xỉ như ô tô dưới 24 chỗ sẽ không phải là đối tượng của thuế
4
TTĐB khi kinh tế tăng lên, đời sống cũng như cơ sở hạ tầng ở Việt Nam ngày
càng đươc nâng cao…
1.2- Văn hóa – giáo dục
Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới đều có pháp luật để đảm bảo trật tự xã
hội. Nhưng văn hóa để thực thi pháp luật ở mỗi quốc gia thì không như nhau.
Pháp luật nói chung và pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt nói riêng luôn có một hệ
thống pháp chế để đảm bảo thi hành, nhưng hoạt động của các cơ quan công

quyền nếu không có văn hóa, không tôn trọng pháp luật thì việc thực thi pháp
luật chắc chắn không đúng. Bên cạnh đó, nếu các chủ thể quyền lực này đã có
văn hóa, ý thưc thực thi đúng pháp luật nhưng các chủ thể có nghĩa vụ không có
văn hóa và ý thưc tôn trọng ý thức thực thi thuế sẽ dẫn tới hành vi trốn thuế, để
thu được lợi nhuận cao hơn. Hành vi trốn thuế tiêu thụ đặc biệt đồng nghĩa với
không thực thi thuế đối với một số mặt hàng nhất định, cơ quan có quyền lực đôi
khi không thể tìm ra do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Văn hóa bắt nguồn từ việc giáo dục, giáo dục ở đây mang ý nghĩa rộng tức là
giáo dục ý thức của người dân ở gia đình, nhà trường và cả xã hội. Đối với chủ
thể có nghĩa vụ nộp thuế cần giáo dục họ nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và muốn
làm được điều đó thì trước hết cần giáo dục nhóm chủ thể mang quyền lực được
vai trò của thuế tiêu thụ đặc biệt, giáo dục sự tôn trọng một cách thực sự chứ
không phải là nỗi khiếp sợ về các chế tài xử lý.
1.3- Hội nhập quốc tế
Trong xu hướng phát triển toàn cầu, Việt Nam đã gia nhập rất nhiếu sân chơi
chung của quốc tế. Trong đó, Việt Nam ra nhập WTO( tỏ chức thương mại thế
giới). Bên cạnh những lợi ích đạt được như bình đẳng với các nước lớn hơn,
được bảo vệ quyền lợi khi bị xâm phạm, việc ra nhập WTO cũng đặt ra đối với
Việt Nam những thách thức và khó khăn mới trong việc thực thi pháp luật đang
tồn tại. Đặc biệt với thuế tiêu thụ đặc biệt, Việt Nam đã có những hoạt động cụ
thể như sau:
5
Để thực hiện các cam kết hội nhập, việc quy định lộ trình từng bước tăng thuế
đối với một số mặt hàng như ô tô sản xuất lắp ráp trong nước (2004-2005), thuốc
lá, bia hơi (2006-2007) có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp. Một mặt, bảo đảm thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối
xử giữa hàng sản xuất trong nước với hàng nhập khẩu theo đúng các nguyên tắc
của WTO. Mặt khác, đã hạn chế những tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất
kinh doanh mặt hàng thuốc lá, bia hơi khi phải thực hiện các cam kết hội nhập,
giúp các doanh nghiệp có thời gian phục hồi và ổn định sản xuất, kinh doanh

Đối với mặt hàng rượu: Theo cam kết, trong vòng 3 năm kể từ ngày gia nhập
Tổ chức thương mại Thế giới - WTO (tức là từ năm 2010), tại Việt Nam tất cả
các loại rượu được chưng cất có nồng độ từ 20 độ cồn trở lên sẽ áp dụng một
mức thuế tuyệt đối tính theo lít rượu cồn nguyên chất hoặc một mức thuế phần
trăm.
Đối với mặt hàng bia: Tương tự như rượu, theo cam kết, trong vòng 3 năm kể
từ khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ áp dụng một mức thuế suất phần trăm (%)
chung đối với các loại bia, không phân biệt hình thức đóng gói bao bì.
Vì vậy, việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2005 không còn phù
hợp nữa. Và Việt Nam đã có những điều chỉnh cần thiết để việc thực thi luật thuế
tiêu thụ đặc biệt không vấp phải sự phản đối của thế giới bằng cách sửa đổi Luật
thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 để phù hợp với hoàn cảnh mới, đảm bảo thực thi
diễn ra phù hợp trong sân chơi chung toàn thế giới.
2) Yếu tố từ phía các cơ quan nhà nước
Dưới các tác động của kinh tế xã hội nêu trên, các cơ quan Nhà nước sẽ là
người quyết đinh phương hướng thực thi cơ bản của pháp luật thuế tiêu thụ đặc
biệt.Yếu tố tác động từ các cơ quan Nhà nước có thể được xem kim chỉ nam cho
các hoạt động thự thi thuế tiêu thụ đặc biệt. Nếu có các chủ trương và phương
hướng phù hợp sẽ góp phần tích cực tới việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc
biệt trên thực tế. Và ngược lại, cũng có thể làm cho việc thực thi thuế khó được
6

×