Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt, thực trạng, đặc điểm, cơ chế hình thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.15 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Vũ Thị Hương

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Vũ Thị Hương

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HUỲNH VĂN THÔNG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


LỜI CẢM ƠN
Người viết xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình TS Huỳnh
Văn Thông, sự giảng dạy nhiệt tình của quý thầy cô trong tổ bộ môn
Ngôn ngữ của khoa Ngữ Văn và quý thầy cô Phòng sau đại học trường
ĐHSP TPHCM.


Ngoài ra, người viết xin gửi lời cảm ơn tới ban giám hiệu và đồng
nghiệp trường THCS và THPT Lạc Hồng đã tạo điều kiện cho tôi trong
quá trình học tập.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình và bạn bè, đặc biệt là các anh chị học
viên lớp Ngôn ngữ K21 trường ĐHSP TPHCM đã động viên, giúp đỡ
người viết hoàn thành luận văn này.

Vũ Thị Hương


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
DẪN NHẬP ...................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TIẾNG
LÓNG TRÊN CÁC DIỄN ĐÀN .................................................................... 7
1.1. Tiếng lóng và các thuật ngữ hữu quan .................................................... 7
1.1.1. Định nghĩa......................................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của tiếng lóng Việt Nam................................................... 9
1.1.2.1. Đặc điểm tạo từ, ngữ lóng .......................................................... 9
1.1.2.2. Đặc điểm chức năng ................................................................. 11
1.1.3. Phân biệt tiếng lóng với thuật ngữ, từ ngữ địa phương, tiếng nghề
nghiệp. ....................................................................................................... 12
1.1.3.1. Phân biệt tiếng lóng với thuật ngữ............................................ 12
1.1.3.2. Phân biệt tiếng lóng với từ ngữ địa phương. ............................ 15
1.1.3.3. Phân biệt tiếng lóng với tiếng nghề nghiệp. ............................. 17
1.1.4. Kết luận ........................................................................................... 18
1.2. Diễn đàn ................................................................................................ 19
1.2.1. Khái niệm diễn đàn ......................................................................... 19

1.2.2. Các thành phần của diễn đàn .......................................................... 20
1.2.3. Phân loại diễn đàn ........................................................................... 21
1.2.4. Tham gia diễn đàn........................................................................... 22
1.2.5. Thực trạng sử dụng tiếng lóng trên các diễn đàn............................ 25
1.2.6. Những hiện tượng lóng mới xuất hiện ............................................ 26
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA TIẾNG LÓNG TRÊN CÁC
DIỄN ĐÀN. .............................................................................. 28
2.1. Đặc điểm cấu tạo ................................................................................... 28
2.2. Từ loại ................................................................................................... 30
2.2.1. Phân loại.......................................................................................... 30


2.2.2. Hiện tượng chuyển loại ................................................................... 32
2.3. Phương thức tạo từ, ngữ lóng ............................................................... 36
2.3.1. Chơi chữ .......................................................................................... 36
2.3.1.1. Nói lái ....................................................................................... 36
2.3.1.2. Đồng âm.................................................................................... 38
2.3.1.3. Hiệp vần .................................................................................... 43
2.3.2. Phiên âm tiếng nước ngoài ............................................................. 48
2.4. Tiểu kết ................................................................................................. 51
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TIẾNG LÓNG TRÊN CÁC
DIỄN ĐÀN ................................................................................. 52
3.1. Trường từ vựng ..................................................................................... 52
3.2. Các phương thức chuyển nghĩa. ........................................................... 56
3.2.1. Ẩn dụ ............................................................................................... 56
3.2.1.1. Ẩn dụ dựa trên sự tương đồng về hình thức ............................. 56
3.2.1.2. Ẩn dụ dựa trên sự tương đồng về đặc điểm, tính chất.............. 58
3.2.1.3. Ẩn dụ dựa trên sự tương đồng về chức năng............................ 60
3.2.1.4 Ẩn dụ dựa trên sự tương đồng về cách thức .............................. 60
3.2.2. Hoán dụ ........................................................................................... 61

3.2.2.1. Hoán dụ dựa trên mối liên hệ giữa dấu hiệu và sự vật. ............ 61
3.2.2.2. Hoán dụ dựa trên mối liên hệ giữa chức năng và sự vật .......... 64
3.2.2.3. Hoán dụ dựa trên mối quan hệ giữa bộ phận và toàn thể ......... 64
3.2.2.4. Hoán dụ dựa trên mối liên hệ giữa sự vật và tính chất, đặc trưng
của sự vật ấy .......................................................................................... 65
3.3. Hiện tượng đồng nghĩa.......................................................................... 66
3.4. Tiểu kết ................................................................................................. 70
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 74
PHỤ LỤC


1

DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Tiếng lóng là một hiện tượng trong hầu như bất kỳ ngôn ngữ nào trên thế
giới. Văn hào Pháp Victor Hugo đã từng nhận định: "Tiếng lóng là gì? Nó là
quốc gia, đồng thời là quốc âm; đó là một đánh cắp dưới hai hình thức: nhân
dân và ngôn ngữ. (...) Tiếng lóng vừa là một hiện tượng văn học, vừa là một
kết quả xã hội. Tiếng lóng, căn bản, là gì? Tiếng lóng là ngôn ngữ của khốn
cùng. (...) Mọi nghề, mọi nghiệp, có thể mọi ngẫu nhiên của hệ thống xã hội
và hết thảy các hình thức của trí tuệ, đều có tiếng lóng của nó. Về phương
diện thuần túy văn học, nghiên cứu tiếng lóng có thể là kỳ thú hơn nhiều khoa
học khác." (Bản dịch của Huỳnh Lý, Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức
Hiểu - NXB Văn Học, Hà Nội, 1977).
Trong nhiều giáo trình ngôn ngữ học đại cương, tiếng lóng là nội dung
không thể thiếu ở chuyên đề từ vựng học. Trong nhiều hội nghị, hội thảo khoa
học, một số báo cáo về nghiên cứu tiếng lóng đã thu hút sự quan tâm của khá
đông người.

Tiếng lóng là một hiện tuợng ngôn ngữ học xã hội có vai trò đáng kể đối
với vốn từ vựng của toàn dân. Sau một thời gian tồn tại chính thức, bất ổn
định trong một phạm vi xã hội hạn hẹp, có nhiều tiếng lóng sẽ không còn là...
tiếng lóng. Hoặc chúng biến mất. Hoặc chúng trở thành đơn vị từ ngữ của
toàn dân, đuợc mọi nguời sử dụng rộng rãi, không chỉ tồn tại trong các tác
phẩm văn chuơng báo chí, hoặc trên màn bạc, mà còn xuất hiện cả ở nhiều
văn bản hành chính. Trong Việt ngữ hiện đại, tiếng lóng ngày càng có xu
hướng phát triển mạnh, nhất là đối với giới trẻ ở các đô thị, tạo nên hiện
tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là ngôn ngữ đường phố (street language).


2

Đặc biệt khi công nghệ thông tin phát triển, con người có thể sử dụng internet
như một công cụ đắc lực trong việc khai thác, tìm kiếm thông tin đồng thời
chia sẻ các quan điểm, tư tưởng của mình với cộng đồng mạng thông qua các
diễn đàn trực tuyến. Tham gia các diễn đàn này phần đông là giới trẻ nên việc
sử dụng tiếng lóng khá phổ biến và có xu hướng ngày càng tăng. Chính vì
vậy, luận văn khai thác hiện tượng này làm đề tài nghiên cứu.
Hơn nữa, xuất phát từ tình yêu tiếng Việt, quan tâm tới vấn đề giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt và đặc biệt là sự hứng thú với lĩnh vực ngôn ngữ
học xã hội, cùng những lí do trên, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài nghiên
cứu “Tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng Việt: thực trạng, đặc
điểm, cơ chế hình thành”.

2. Lịch sử vấn đề
Tiếng lóng Việt Nam đã được nhiều học giả trong và ngoài nước chú ý
nghiên cứu từ đầu thế kỷ 20. Một trong những công trình đầu tiên về đề tài
này là của J.N. Cheon, mang tiêu đề L'argot anamite (Tiếng lóng Việt Nam)
đăng trên tập san trường Viễn Đông Bác Cổ (BEFEO) từ năm 1905. Ứng Hòe

Nguyễn Văn Tố (1889-1947) từng có khảo luận L'argot anamite de Hanoi
(Tiếng lóng Việt Nam ở Hà Nội) công bố năm 1925. Đến nay, tồn tại hai quan
điểm trái ngược nhau trong việc nhìn nhận hiện tượng ngôn ngữ đặc thù này:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng tiếng lóng là hiện tượng không lành mạnh
trong ngôn ngữ, nó chỉ tồn tại ở xã hội có giai cấp và mất dần đi, vì vậy
phải triệt để chống tiếng lóng và kiên quyết gạt nó ra khỏi ngôn ngữ
văn hóa. Đó là ý kiến của Nguyễn Văn Tu và Nguyễn Kim Thản... trình
bày qua các ấn phẩm Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại (NXB Đại học và
Trung học Chuyên nghiệp 1976) hoặc Tiếng Việt trên đường phát triển
(NXB Khoa học Xã hội 1982).


3

- Quan điểm khác thì đề nghị chấp nhận những tiếng lóng tốt, tích cực,
nhằm bổ sung cho ngôn ngữ toàn dân. Đó là ý kiến của Trịnh Liễn và
Trần Văn Chánh... phát biểu trong hội nghị "Giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt về mặt từ ngữ" được tổ chức tại Hà Nội năm 1979. Đồng
quan điểm ấy, Nguyễn Thiện Giáp soạn sách Từ vựng học tiếng Việt
(NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp 1985) đã đặt tiếng lóng
trong mối quan hệ với toàn bộ lớp từ tiếng Việt rồi cho rằng: Chỉ nên
lên án những tiếng lóng "thô tục"; còn loạt tiếng lóng "không thô tục: là
tên gọi có hình ảnh của sự vật, hiện tượng nào đó thì có khả năng phổ
biến và thâm nhập dần vào ngôn ngữ toàn dân. Sách này còn chỉ ra rằng
tiếng lóng chính là một phương tiện tu từ học được dùng để khắc họa
tính cách và miêu tả hoàn cảnh sống của nhân vật trong các tác phẩm
văn học nghệ thuật. Đây cũng chính là điều mà nhiều nhà nghiên cứu
về tu từ học (rhétorique) về phong cách học (stylistique), cũng như
nhiều cây bút văn chương, báo chí quan tâm tìm hiểu và vận dụng.
Từ trước tới nay, nhiều chuyên gia về Việt ngữ đã quan tâm nghiên cứu

tiếng lóng, song chỉ mới trình bày qua một vài chương đoạn trong các công
trình liên quan đến từ vựng học, tu từ học, phong cách học; hoặc mới chỉ
dừng lại ở báo cáo khoa học - như của Trịnh Liễn và Trần Văn Chánh năm
1979; hoặc mới giới hạn trong khuôn khổ bài báo - như bài “Tiếng lóng trong
giao thông vận tải” của Chu Thị Thanh Tâm (Ngôn ngữ và đời sống, 1998),
Tiếng lóng của sinh viên, học sinh TP HCM (2005). Cũng có vài sinh viên
làm khóa luận tốt nghiệp đại học với đề tài tiếng lóng, như Lê Lệnh Cáp
(1989) hoặc Lương Văn Thiện (1996).
Gần đây có tác phẩm sách Tiếng lóng Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn
Khang gồm hai phần: khảo luận về đặc điểm của tiếng lóng Việt Nam và Từ
điển từ ngữ lóng tiếng Việt. Mới nhất là “Sổ tay từ - ngữ lóng tiếng Việt” của


4

hai tác giả Đoàn Tử Huyến và Lê Thị Yến đã tập hợp nhiều những từ, ngữ
lóng đã và hiện có trong tiếng Việt.
Luận văn nghiên cứu “Tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng
Việt: thực trạng, đặc điểm, cơ chế hình thành” để góp phần có được cái nhìn
đầy đủ hơn về một hiện tượng thú vị của ngôn ngữ.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục tiêu
- Nhận diện các từ ngữ lóng trên các diễn đàn trực tuyến và tìm hiểu thực
trạng sử dụng của các thành viên
- Miêu tả, phân loại các từ, ngữ lóng thông qua đặc điểm về ngữ pháp và
ngữ nghĩa của chúng.
b. Nhiệm vụ
- Xác lập những cơ sở lí thuyết liên quan đến tiếng lóng.
- Thống kê, miêu tả, phân tích chỉ ra một số đặc điểm về ngữ pháp và
ngữ nghĩa của chúng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các từ, ngữ lóng được sử dụng
trong các diễn đàn trực tuyến.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các diễn đàn trực tuyến. Diễn đàn
trực tuyến, hay được gọi là forum, là nơi để cho người
dùng Internet trao đổi thảo luận và tán gẫu với nhau. Phương thức
thường được dùng trong diễn đàn trực tuyến là người đầu tiên gửi
lên một chủ đề (topic, thread) trong một đề mục (category,forum) và
sau đó những người tiếp theo sẽ viết những bài góp ý, thảo luận lên
để trao đổi xung quanh chủ đề đó.


5

5. Đóng góp của luận văn
- Về mặt lí luận: góp phần làm rõ hơn cách nhìn đối với tiếng lóng và các
đặc trưng của từ, ngữ lóng Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: khảo sát phạm vi và thực trạng sử dụng tiếng lóng
trong đời sống xã hội nhất là trên internet.

6. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu của mình, luận văn chủ yếu sử dụng các
phương pháp sau đây:
- Phương pháp điều tra xã hội học.
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp miêu tả
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích tổng hợp
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn sẽ

được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết và thực trạng sử dụng tiếng lóng trên các
diễn đàn
Trong chương này chúng tôi sẽ bàn tới thuật ngữ tiếng lóng và các đặc
trưng của tiếng lóng Việt. Đồng thời chúng tôi tiến hành phân biệt tiếng lóng
với một số đối tượng như: thuật ngữ, tiếng nghề nghiệp, …Bên cạnh đó,
những vấn đề chung về diễn đàn và thực trạng sử dụng tiếng lóng trên diễn
đàn cũng được đề cập tới.
Chương 2: Đặc điểm ngữ pháp
Ở chương này, chúng tôi tiến hành phân tích, tìm hiểu và phân loại các
đơn vị lóng theo cấu tạo, từ loại và phương thức tạo từ.


6

Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa
Chương cuối cùng chúng tôi giải quyết thông qua việc miêu tả, phân tích
các yếu tố thuộc về ngữ nghĩa của các từ, ngữ lóng như: trường từ vựng, hiện
tượng chuyển nghĩa và hiện tượng đồng âm.


7

Chương 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TRẠNG SỬ
DỤNG TIẾNG LÓNG TRÊN CÁC DIỄN ĐÀN
1.1. Tiếng lóng và các thuật ngữ hữu quan
1.1.1. Định nghĩa
Tiếng lóng được coi là một tiểu loại của phương ngữ xã hội, là biến thể
sử dụng trong giao tiếp khẩu ngữ. Đỗ Hữu Châu đã đưa ra nhận xét: “Hiện
tượng lóng là phổ biến với mọi tập thể xã hội. Hầu như tất cả tập thể xã hội

nào đã có cái gì chung về sinh hoạt hay sản xuất thì đều có những tiếng lóng
của riêng mình.” Cách nói lóng nói chung và từ ngữu lóng nói riêng là do các
nhóm xã hội “tạo ra” và chỉ các thành viên trong nhóm xã hội đó biết sử
dụng: giao tiếp với nhau và hiểu được nhau, tất nhiên là có giới hạn về mặt
thời gian. Thông thường, khi có một cách nói lóng mới xuất hiện, do phạm vi
sử dụng rất hẹp, các thành viên trong cộng đồng xã hội đó đều có ý thức giữ
bí mật (vì liên quan đến quyền lợi thiết thực của họ) nên thời gian đầu sử
dụng “chưa bị lộ”. Nhưng dần dà theo thời gian cùng nhiều lí do tác động vào
mà các từ ngữ lóng, cách nói lóng mất dần tính bí mật, bị xã hội hóa. Chính vì
thế coi lóng có giá trị xã hội còn là vì tiếng lóng có giá trị xã hội trong phạm
vi xã hội rất hạn hẹp và phần nhiều chúng thay đổi theo bối cảnh xã hội. Có
thể nói, tiếng lóng vừa là công cụ giao tiếp riêng của từng nhóm xã hội nhất
định vừa là tín hiệu cho mỗi thành viên của nhóm nhận ra nhau, tìm đến nhau,
hay nói cách khác, tìm được “sự đồng nhất trong mỗi nhóm”.
Cho đến nay, đã có không ít định nghĩa về tiếng lóng của các nhà nghiên
cứu. Chúng tôi xin dẫn quan niệm về tiếng lóng của một số nhà Việt ngữ học:
- Tiếng lóng bao gồm các đơn vị từ vựng thuộc loại thứ hai trong các biệt
ngữ tức là những tên gọi “chồng lên” trên những tên gọi chính thức. (Đỗ Hữu
Châu, 1981, tr.227)


8

- Tiếng lóng là những từ ngữ được dùng hạn chế về mặt xã hội, tức là
những từ ngữ không phải toàn dân sử dụng mà chỉ một tầng lớp xã hội nào đó
sử dụng mà thôi. (Nguyễn Thiện Giáp, 1985, tr.228-229)
- Tiếng lóng là loại ngôn ngữ chỉ cốt nói cho một nhóm người biết mà
thôi, những người khác không thể biết được. Vì mục đích của biệt ngữ và
tiếng lóng là che đậy việc làm không cho người ngoài nhóm biết, cho nên tất
cả những từ gì có thể khiến người ta phỏng đoán được nội dung của công việc

đều bị thay thế nhất là trong đám người làm nghề bất lương, bị xã hội ngăn
cấm như bọn cờ bạc bịp, bọn ăn cắp, bọn buôn lậu. (Hoàng Thị Châu, 1989,
tr56).
- Tiếng lóng là một thứ tiếng ước lệ có tính chất bí mật, một lối nói kín
của bọn nhà nghề dùng để giấu những ý nghĩ, việc làm của mình cho người
khác khỏi biết. Nó thường có trong những hạng người làm nghề bất lương,
tầng lớp lưu manh hoặc tầng lớp con buôn trong xã hội có giai cấp. (Lưu Vân
Lăng, 1960, tr.75)
- Tiếng lóng chỉ gồm có một số từ. Nó không phải là công cụ giao tế của
xã hội mà chỉ là một số từ với ý nghĩa bí hiểm của một nhóm người với mục
đích không cho người khác biết. (Nguyễn Văn Tu, 1968, tr.132).
- Tiếng lóng là ngôn ngữ riêng của một nhóm xã hội hoặc nghề nghiệp
có tổ chức gồm các yếu tố của một hoặc một số các ngôn ngữ tự nhiên đã
được chọn lọc và biến đổi đi nhằm tạo ra sự cách biệt ngôn ngữ với những
người không liên đới. Khác với biệt ngữ, tiếng lóng không có nghĩa xấu.
Thông thường, tiếng lóng được sử dụng nhằm mục đích che giấu đối tượng
giao tiếp, đồng thời là phương tiện tách biệt của một nhóm người ra khỏi phần
còn lại của xã hội. (Đái Xuân Ninh – Nguyễn Đức Dân – Nguyễn Quang –
Vương Toàn, 1986, tr.227).


9

- Nói cho giản dị thì tiếng lóng là một bộ phận từ ngữ do những nhóm,
những lớp người trong xã hội dùng để gọi tên những sự vật, hiện tượng, hành
động,... vốn đã có tên gọi trong vốn từ vựng chung, nhằm giữ bí mật trong nội
bộ nhóm mình, tầng lớp mình. (Mai Ngọc Chừ - Vũ Đức Nghiệu - Hoàng
Trọng Phiến. 1997).
- Tiếng lóng là loại ngôn ngữ riêng của một nhóm xã hội nhằm tạo ra sự
tách biệt với những người không liên đới; sự tách biệt này có thể là nhằm mục

đích giữ bí mật, nhưng cũng có thể chỉ nhằm tạo ra một nét riêng cho nhóm
xã hội mình. (Đoàn Tử Huyến, Lê Thị Yến)
Tống hợp các ý kiến trên, chúng tôi xin đưa ra định nghĩa về tiếng lóng
như sau:
Tiếng lóng là một hình thức phương ngữ xã hội không chính thức của một
ngôn ngữ, thường được sử dụng trong giao tiếp thường ngày, bởi một nhóm
người. Tiếng lóng ban đầu xuất hiện nhằm mục đích che giấu ý nghĩa diễn đạt
theo quy ước chỉ những người nhất định mới hiểu. Tiếng lóng thường không
mang ý nghĩa trực tiếp, nghĩa đen của từ phát ra mà mang ý nghĩa tượng
trưng, nghĩa bóng.
1.1.2. Đặc điểm của tiếng lóng Việt Nam
1.1.2.1. Đặc điểm tạo từ, ngữ lóng
Theo tác giả Nguyễn Văn Khang, từ ngữ lóng tiếng Việt được hình thành
trên cơ sở của vốn từ tiếng Việt. Tức là, từ các vật liệu sẵn có và bằng các
phương pháp tạo từ vốn có để tạo nên những từ ngữ lóng. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, vẫn có những từ ngữ lóng được tạo nên từ chất liệu của các ngôn
ngữ khác. Điều này sẽ được trình bày và phân tích ở chương sau. Tác giả
Nguyễn Văn Khang đưa ra các hình thức sau:
- Có những từ ngữ lóng mới nguyên.


10

- Có những từ được gọi là từ lóng do cách gọi tách nghĩa lóng ra khỏi từ
đa nghĩa để gọi riêng cho nghĩa lóng ấy. Tức là nghĩa lóng chỉ là một nghĩa
trong từ đa nghĩa đó mà thôi
Những từ lóng thường thấy nhất là những từ lóng sử dụng ngay các đơn vị
từ vựng vốn có của tiếng Việt và cấp cho chúng thêm một nghĩa mới: nghĩa
lóng. Có thể coi đây là hình thức tạo từ lóng cơ bản nhất, phổ biến nhất của
tiếng Việt. Có thể nhận thấy, giữa nghĩa ngữ văn với nghĩa lóng vẫn có ít

nhiều những mắt xích liên tưởng ngữ nghĩa nhất định. Theo cách cấu tạo này,
nghĩa của từ lóng quan hệ với nghĩa ngữ văn vốn có. Cho nên có một điều khá
lí thú là:
- Nghĩa của các từ lóng, trong nhiều trường hợp, chẳng qua chỉ là sự dịch
chuyển thay đổi vị trí nghĩa cho nhau. Nhưng giữa chúng có quan hệ theo
kiểu nào lại phụ thuộc vào sự liên tưởng của người “sáng tạo – sử dụng”
chúng.
- Cũng chính nhờ đó, các hành vi xấu lại được thăng hoa bằng những
ngôn từ đẹp. Các bộ phận kín mang nội dung giới tính của cơ thể, các hành vi
về quan hệ xác thịt được lóng hóa dưới dạng “uyển ngữ” .
- Đây cũng là lí do dẫn đến một số đặc điểm về đồng âm, đồng nghĩa, đa
nghĩa của tiếng lóng. Thực tế cho thấy mỗi nhóm xã hội tự tạo cho mình
những từ ngữ lóng mang tính bí mật riêng của từng nhóm và do những liên
tưởng khác nhau mà tạo nên những hiện tượng này.
Nguyễn Văn Khang đã liệt kê một số trường hợp như sau:
- Đồng âm – đa nghĩa
- Đồng nghĩa
- Trái nghĩa
- Từ hóa các yếu tố tạo từ
- Từ các đơn vị từ vựng nước ngoài


11

- Sử dụng tên riêng
- Gán thêm “họ” cho các từ ngữ địa phương
Một đặc điểm thú vị nữa là có một số từ ngữ lóng mang nặng dấu ấn của
phương ngữ địa lí. Tức là, chúng được các nhóm xã hội sử dụng tiếng địa
phương của vùng đó để tạo từ lóng.
1.1.2.2. Đặc điểm chức năng

- Như đã nêu, tiếng lóng bao giờ cũng đi liền với nhóm xã hội cụ thể.
Nói cách khác, sự sinh tồn của tiếng lóng gắn liền với sự sinh tồn nhóm xã
hội sinh ra chúng, sử dụng chúng.
Nói chung, mỗi nhóm xã hội với mục đích bảo vệ, giữ bí mật thông tin đã
cố gắng tạo cho mình một thứ ngôn ngữ - tiếng lóng riêng. Nhờ đó mà trong
mỗi loại tiếng lóng đều chứa đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của nhóm xã hội
đó.
- Được dùng trong một phạm vi hẹp (trong một nhóm xã hội cụ thể) và
mang tính khẩu ngữ, tiếng lóng luôn có những biến động: ở những nhóm xã
hội mang tính băng đảng xã hội đen thì sự biến động, thay đổi nhằm đảm bảo
an toàn, bí mật còn ở giới trẻ thì sự thay đổi chủ yếu là để “làm cho mới”.
Cùng với nhiều lí do khác nữa mà tiếng lóng chỉ tồn tại theo từng thời gian cụ
thể. Đây chính là thể hiện đặc trưng lâm thời của tiếng lóng (cũng là một khó
khăn cho việc xác lập một bảng từ ngữ lóng trong một thời gian dài). Tuy
nhiên, trong số những từ ngữ lóng đã xuất hiện, đã có không ít từ lóng đi vào
vốn từ chung của tiếng Việt.
- Tiếng lóng nói chung và từ ngữ lóng nói riêng, được người viết đưa vào
tác phẩm của mình, chủ yếu dưới dạng dẫn lại lời nói của nhân vật hoặc nhắc
lại nhằm “miêu tả hiện trường”. Điều đó cho thấy rằng, dù được xuất hiện
trong hình thức ngôn ngữ viết, nhưng lóng vẫn chỉ là lóng ở dạng khẩu ngữ
mà thôi (thường được để trong ngoặc kép). Thực tế cho thấy, sử dụng lượng


12

tiếng lóng trong một bài báo như một con dao hai lưỡi: nếu thích hợp sẽ làm
cho giá trị bài báo tăng lên, tác dụng tốt với đời sống xã hội; ngược lại, sa vào
miêu tả bằng cách dùng tràn lan các tiếng lóng sẽ phản tác dụng. Thực tế cuộc
sống đã làm nảy sinh ra tiếng lóng trong đó có từ ngữ lóng thì việc sử dụng
chúng là điều tất nhiên. Nhưng không vì thế mà sử dụng tràn lan, lạm dụng

như một ngón nghề để gợi sự tò mò của người đọc.
- Với tư cách là biến thể trong sử dụng của phương ngữ xã hội, tiếng
lóng chỉ được dùng giới hạn trong nhóm xã hội khác nhau. Vì vậy, từ góc
nhìn của tiếng Việt toàn dân, tiếng lóng có một phạm vi sử dụng hạn hẹp.
Ngoại trừ giao tiếp trong các nhóm xã hội, về nguyên tắc, cách nói lóng, từ
ngữ lóng trong quá trình “khẩu ngữ hóa” không sử dụng ở phong cách giao
tiếp chính thức. Tuy nhiên trong một số trường hợp giao tiếp chính thức,
người ta vẫn có thể sử dụng chúng như một “chiến lược giao tiếp” nhằm rút
ngắn khoảng cách giữa những người tham gia giao tiếp (tức tạo bầu không khí
“cởi mở” hơn).
1.1.3. Phân biệt tiếng lóng với thuật ngữ, từ ngữ địa phương, tiếng
nghề nghiệp.
Giữa tiếng lóng và các lớp từ ngữ trên đây đôi khi dễ xảy ra những nhầm
lẫn, vì vậy việc phân biệt chúng là hết sức cần thiết. Về vấn đề này, chúng tôi
xin tán thành quan điểm của nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ - Vũ Đức Nghiệu Hoàng Trọng Phiến trong cuốn Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt.
1.1.3.1. Phân biệt tiếng lóng với thuật ngữ
Thuật ngữ là những từ ngữ làm tên gọi cho các khái niệm, các đối
tượng được xác định một cách chặt chẽ, chuẩn xác trong mỗi ngành, mỗi lĩnh
vực khoa học chuyên môn.


13

Ví dụ: Trong sinh vật học ta có: họ, loài, giống, bộ, lớp, ngành, đột
biến, di truyền, tính trội, tính lặn, biến dị, phân bào, đơn bào, đa bào, miễn
dịch, kháng thể, kháng nguyên,...
Trong ngôn ngữ học ta có: âm vị, hình vị, từ vị, cú vị, nghĩa vị, ngữ pháp
vị, âm tố, âm vực, nguyên âm, phụ âm, bán nguyên âm, âm tiết, âm đệm, âm
chính, âm cuối, âm đoạn, âm vực,...
Như vậy, mỗi môn khoa học, kĩ thuật đều có một hệ thống thuật ngữ của

mình. Tuy nhiên, đó không phải là những từ vựng biệt lập mà chúng là những
bộ phận riêng trong từ vựng của một ngôn ngữ thống nhất.
Thuật ngữ luôn luôn biểu thị khái niệm được xác định trong một ngành
khoa học và lệ thuộc vào hệ thống khái niệm của ngành đó. Trong các khoa
học còn có danh pháp (danh từ khoa học) của từng ngành. Danh pháp và thuật
ngữ không phải là một. Danh pháp chỉ là toàn bộ tên gọi cụ thể của các đối
tượng được dùng trong từng ngành khoa học mà thôi. Chẳng hạn, nếu ta có
một danh sách về tên các loài thực vật ở Việt Nam:xoan, muồng, bằng lăng,
lát hoa, lát vân, lim, sến, táu, dổi, dẻ, xoan đào,... thì đó là danh pháp thực vật
Việt Nam.
So với từ ngữ thông thường thì thuật ngữ có ngoại diên hẹp hơn nhưng nội
hàm sâu hơn và được biểu thị một cách logic chặt chẽ hơn. Trong thuật ngữ
không bao giờ biểu thị những sắc thái phụ như thái độ đánh giá của người nói,
xấu nghĩa hay đẹp nghĩa, khen hay chế, kính trọng hay xem thường,... Từ ngữ
bình thường cũng biểu thị khái niệm nhưng đó là “khái niệm đời thường” chứ
không hẳn là “khái niệm khoa học”, có tính nghiêm ngặt của nó. Ví dụ:
NƯỚC – “hợp chất của ô-xi và hi-đrô” khác với NƯỚC trongnước mắt, nước
dãi, nước bọt, nước tiểu, mỡ nước, nước phở, nước xốt, nước mắm, nước
mưa, nước ao...


14

Thuật ngữ có 3 đặc điểm cơ bản sau đây
 Tính chính xác
Chính xác ở đây là chính xác và chuẩn tắc về nội dung khái niệm do nó
biểu thị. Nội dung đó có thay đổi hay không, thay đổi như thế nào là tuỳ theo
sự phát triển, khám phá của ngành khoa học chứ không lệ thuộc vào những
biến đổi của hệ thống từ vựng, ngôn ngữ như các từ thông thường.
 Tính hệ thống

Mỗi thuật ngữ đều nằm trong một hệ thống nhất định và hệ thống ấy phải
chặt chẽ. Trước hết là phải bảo đảm tính hệ thống về mặt nội dung trong toàn
bộ hệ thống các khái niệm của từng ngành. Từ tính hệ thống về nội dung, dẫn
đến tính hệ thống về hình thức biểu hiện. Tính hệ thống về hình thức, ngược
lại giúp cho người ta biểu thị được và nhận ra được tính hệ thống trong nội
dung. Ví dụ: Trong Toán học ta có: đại số, hàm số, tham số, hiệu số, thương
số, tích số, tổng số, tử số, mẫu số, cơ số, căn số, hằng số, biến số, biến chính,
biến bổ trợ, biến lưỡng trị, biến bù, biến phụ thuộc, biến riêng, biến độc lập,
biến ngẫu nhiên,...
 Tính quốc tế
Trước hết phải là quốc tế hoá về mặt nội dung. Đây là yêu cầu tất yếu và
nói chung nội dung khái niệm của một ngành khoa học trong các nước là
không lệch nhau. Đó là biểu hiện của sự thống nhất khoa học trên con đường
nhận thức chân lí.
Cái khó là quốc tế hoá về mặt hình thức. Không thể đòi hỏi sự quốc tế hoá
hoàn toàn về mặt hình thức của các thuật ngữ được, vì mỗi ngôn ngữ có
những thuộc tính riêng của nó. Có nên chăng là chỉ phấn đấu đạt tới tính quốc
tế ở cách xây dựng cấu trúc của mỗi thuật ngữ mà thôi.


15

Tuy vậy, thực tế cho thấy nhiều ngành khoa học ở một số khu vực trên thế
giới đã có những hệ thống thuật ngữ ít nhiều mang tính quốc tế trong khu vực
đó. Ví dụ: khu vực châu Âu với các ngôn ngữ Ấn Âu; khu vực tiểu Á, Bắc Phi
với tiếng A-rập; khu vực Đông Á và Nam Á với ảnh hưởng của tiếng Hán...
1.1.3.2. Phân biệt tiếng lóng với từ ngữ địa phương.
 Những từ thuộc một phương ngữ (tiếng địa phương) nào đó của ngôn
ngữ dân tộc và chỉ phổ biến trong phạm vi lãnh thổ địa phương đó, thì được
gọi là từ địa phương.

Như vậy, khái niệm từ địa phương trước hết nhằm vào những khác biệt về
mặt từ vựng chứ không phải là những khác biệt về mặt ngữ âm. Sự khác biệt
chẳng hạn như: lắt lẻo – lắc lẻo, gập ghềnh – gập ghình,... không phải là mục
tiêu chú ý của từ vựng.
 Có những con đường khác nhau đã dẫn tới sự hình thành những kiểu
phương ngữ khác nhau.
• Do sự vật được gọi tên chỉ có ở một vài địa phương nhất định nên tên
gọi của chúng trở thành từ địa phương. Loại này, trong từ vựng chung của
toàn dân tộc không có từ tương ứng với chúng. Ví dụ: nhút, lớ, (quả) tắt,
chẻo... (phương ngữ Trung Bộ), sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, tràm, trâm
bầu, chao,... (phương ngữ Nam Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam).
• Có những từ cùng gọi tên một sự vật, hiện tượng với từ trong từ vựng
chung, nhưng hai từ khác nhau hoàn toàn về mặt ngữ âm. Ví dụ: ngái – xa, nỏ
– không, rào – sông, rú – núi, mô – đâu, tê – kia, rứa – thế, chộ – thấy, trốc –
đầu, nhủ – bảo, xán – đập/ném,... (phương ngữ Trung Bộ); má – mẹ, điệp –
phượng, mè – vừng, muỗng – thìa, lượm – nhặt, mắc cỡ – xấu hổ,... (phương
ngữ Nam Trung Bộ và Nam Bộ).


16

Trường hợp này có thể có hai nguyên nhân chính. Một là, cùng một sự vật
nhưng mỗi địa phương, trong quá trình phát triển cùng dân tộc, đã định danh
một cách khác nhau. Dần dần, một tên gọi (một cách định danh) của một địa
phương trở nên phổ biến rộng rãi, khiến cho tên gọi của địa phương kia không
thể phổ biến được nữa. Nó chỉ còn hoạt động tồn tại trong phạm vi địa
phương và trở thành từ địa phương. Hai là, cả hai từ vốn đã cùng là từ của từ
vựng chung, nhưng sau đó, vì xung đột đồng nghĩa, một từ phải rút lui và
được bảo toàn trong phạm vi địa phương rồi trở thành từ địa phương. Các cặp
từ:đầu – trốc, nhủ – bảo,... là như vậy.

• Nhiều từ vốn là dạng cổ của từ tương ứng trong từ vựng chung hiện
nay. Dạng cổ đó được bảo toàn trong một địa phương, còn dạng mới, dạng
hậu kì của chúng thì đi vào từ vựng chung. Kết cục là hai dạng chỉ khác nhau
ở một bộ phận ngữ âm nào đó mà thôi. Ví dụ: gấy – gái, chí – chấy, nác –
nước, kha – gà, khót – gọt, cúi – gối, ví – với,...
• Kiểu từ địa phương thứ tư là những từ đồng âm với từ trong từ vựng
chung. Có hai khả năng có thể dẫn tới tình hình này: Một là chúng quan hệ
đồng âm thuần tuý, ngẫu nhiên, hai là do trước đây, chúng vốn chỉ là một từ,
nhưng một địa phương nào đó đã chuyển đổi đối tượng gọi tên của từ đi, theo
những chiều hướng khác nhau; hoặc ngược lại, từ trong từ vựng chung đã
chuyển đổi đi như thế. Chúng ta có thể so sánh những ví dụ sau đây:
Từ

Nghĩa chung

Nghĩa trong phương ngữ Nam Bộ

ốm

có bệnh

gầy

hòm

vật hình hộp để đựng đồ đạc

săng, quan tài

thằn lằn thằn lằn


thạch sùng

kiềng

rế

bếp kiềng


17

1.1.3.3. Phân biệt tiếng lóng với tiếng nghề nghiệp.
Từ nghề nghiệp là một lớp từ bao gồm những đơn vị từ ngữ được sử
dụng phổ biến trong phạm vi những người cùng làm một nghề nào đó.
Ví dụ: Các từ: thìu, choòng, lò chợ, lò thượng, đi lò,... là những từ
thuộc về nghề thợ mỏ. Các từ: bó, vét, xịt, phủ, bay, hom, thí một, thí hai, lót
sống,... là của nghề sơn mài.
Thật ra, nghề nào cũng cũng có các từ ngữ riêng của nó để chỉ: đối tượng
lao động, động tác lao động, nguyên liệu sản xuất, sản phẩm làm ra, công cụ
để lao động,...
Tuy vậy, không phải là hễ người ngoài nghề thì không thể biết được từ
nghề nghiệp. Người ta (trong phạm vi rộng rãi toàn xã hội) vẫn có thể hiểu
được chúng nhiều hay ít tuỳ theo mức độ quen biết của xã hội đối với nghề
đó.
Ví dụ, nghề làm ruộng ở Việt Nam, nói chung cả xã hội đều không xa lạ
với nó. Ai cũng biết và sử dụng rất tự nhiên các từ như: cày, bừa, ruộng, bón,
gieo,... nhưng chắc chắn không phải ai cũng biết các từ: chia vè, cứt gián, nứt
nanh, cắm vè, lúa con, bông cài, đỏ đuôi, đứng cái,...
Như vậy, lớp từ nghề nghiệp tập trung chủ yếu ở những nghề mà xã hội ít

quen như: nghề làm giấy, làm đồ gốm, làm sơn mài (hoặc hát tuồng, hát chèo
vốn cũng được coi là nghề), nghề đúc đồng, nghề chài lưới,...
Ở một nước nông nghiệp như Việt Nam, những nghề thủ công nghiệp hoặc
tiểu công nghiệp vốn phân tán và không tiếp xúc rộng rãi với toàn xã hội. Vì
thế, những nghề thuộc phạm vi này có nhiều “từ nghề nghiệp” hơn cả. Ví dụ:
Nghề thợ mộc có: bào cóc, bào phá, bào xoa, chàng tách, mộng vuông,
mộng nanh sấu, mộng mỏ sẻ, xảm, phạt mộc, cất nóc, cầu bẩy, thuận, bức
bàn,... Nghề hát tuồng có: đào kép, lão, mụ, vai ấu, đào thương, đào chiến,


18

đào điên, đào võ, đào lẳng, đào yêu, đào đẻ, đào tiên, kép văn, kép võ, kép
xanh, kép phong tình, kép trắng, kép đỏ, kép rằn, kép núi, kép biển, lão đỏ,
lão trắng, lão đen, lão văn, lão võ, mụ ác, mụ lành,... (Xem thêm: Tạp chí Sân
khấu, 11–12/1977).
Nói chung, sự hoạt động của các từ nghề nghiệp là không đồng đều, có từ
thì vô cùng hạn chế, nhưng cũng có không ít từ ngữ đã đi vào vốn từ vựng
chung. Chúng được coi là một trong những nguồn cung cấp thêm từ ngữ để
làm phong phú hơn cho vốn từ vựng chung.
1.1.4. Kết luận
Về thái độ đối với tiếng lóng, đến nay tồn tại hai quan điểm trái ngược
nhau.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng tiếng lóng là hiện tượng không lành
mạnh và kiên quyết gạt nó ra khỏi ngôn ngữ văn hoá. "Những tiếng
lóng này không làm cho ngôn ngữ phong phú thêm lên mà chỉ làm
cho nó bị tê liệt với số lượng từ đông đảo, nay sinh mai chết"; "Khác
biệt ngữ, tiếng lóng có nghĩa xấu”.
- Quan điểm thứ hai thì đề nghị chấp nhận những từ lóng "tích cực"
nhằm bổ sung cho ngôn ngữ toàn dân: "Không lên án toàn bộ song

cũng không chấp nhận tất cả"(5); "Những tiếng lóng không thô tục,
mà chỉ là những tên gọi có hình ảnh của sự vật, hiện tượng nào đó
có thể được dùng phổ biến, dần dần thâm nhập vào ngôn ngữ toàn
dân. Trong các tác phẩm văn học nghệ thuật, tiếng lóng được dùng
làm một phương tiện tu từ học để khắc hoạ tính cách và miêu tả
hoàn cảnh sống của nhân vật"(6).
Nhưng mặc các nhà nghiên cứu tranh luận, trong thực tế cuộc sống thì thứ
ngôn ngữ ấy vẫn nảy sinh và mất đi một cách không ngừng, ngày càng phát


19

triển, được nhiều tầng lớp xã hội sử dụng, được những người viết đưa vào tác
phẩm văn học, báo chí của mình như một phương tiện tu từ học nhằm phản
ánh sinh động đời sống xã hội và tính cách nhân vật, làm tăng giá trị biểu đạt
của tác phẩm.
Những từ lóng sinh ra, tồn tại chính thức trong một phạm vi xã hội hạn
hẹp, nhưng không ổn định, nhiều từ dần dần biến mất (hoặc chúng không còn
được sử dụng nữa; hoặc chúng được giải mã, đi vào vốn từ chung của toàn
dân, được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày và trong các văn bản
hành chính, các ấn phẩm báo chí hay các tác phẩm văn học).
Bên cạnh những từ lóng bị biến mất thì hàng ngày, hàng giờ, trong các
nhóm xã hội lại xuất hiện thêm những từ lóng mới. Dù được chấp nhận hay bị
phản đối thì tiếng lóng của người Việt vẫn là một bộ phận của ngôn ngữ tiếng
Việt, và có thể nói, thuộc loại năng động nhất. Trong xu hướng bình dân, dân
chủ hoá mọi hoạt động xã hội, văn chương, nghệ thuật hậu hiện đại, tiếng
lóng càng có vị trí và vai trò quan trọng cần được quan tâm.
1.2. Diễn đàn
1.2.1. Khái niệm diễn đàn
Hay diễn đàn Internet, là một site thảo luận trực tuyến, nó xuất phát từ

các bản tin nhanh (bulletin). Còn được hiểu như ứng dụng tự động gửi thư
(ellectronics mailing list). Diễn đàn là ứng dụng web được thiết kế thuận tiện
cho việc cập nhật nội dung của người dùng cuối.
Forum (Diễn đàn điện tử) là một website nơi mọi người có thể trao đổi,
thảo luận, bày bỏ ý kiến về những vấn đề cùng quan tâm. Các vấn đề thảo
luận được lưu giữ dưới dạng các trang tin. Đây là hình thức thảo luận không
trực tiếp, bạn có thể đưa bài thảo luận của mình lên Forum nhưng có khi ngay
lập tức hoặc vài ngày, vài tuần, thậm chí vài tháng sau mới có người trả lời


20

vấn đề của bạn.
Ban đầu diễn đàn được hiểu là nơi trao đổi của một nhóm người (trong
mailing list). Nó cho phép mọi người có thể đăng tải các ý kiến và đánh giá
nhận xét , phản hồi cho ý kiến đó.
Diễn đàn phát triển nhanh chóng tại các quốc gia trên thế giới, tại Nhật Bản
có thể đếm được 2 triệu bài trả lời mỗi ngày, tại Trung Quốc cũng có hàng
triệu trả lời mỗi ngày tại các diễn đàn internet.
Diễn đàn là phần mềm được tải (download) một cách dễ dàng trên internet.
Hầu hết các diễn đàn được viết bằng các ngôn ngữ lập trình : perl, php, asp,
asp.net.
Thông thường các diễn đàn chỉ cho phép đăng các văn bản chữ thuần túy,
một số diễn đàn cung cấp thêm các công cụ hiển thị hình ảnh, film, video, các
dạng hiển thị đặc biệt khác. Các dạng đặc biệt này thường được gọi với tên
BBCode (hoặc Forum Code).
1.2.2. Các thành phần của diễn đàn
• Nhóm thông tin (Sub Forum, Category) : phân loại các chủ đề thảo luận
• Chủ đề (Thread, Topic) : là tập hợp các ý kiến, bình luận (post) của các
thành viên trong diễn đàn.

• Trả lời (Post) : Là thông điệp (electronic message) người dùng đăng tải
thông qua phần mềm diễn đàn.
• Administrator : Người quản trị cao nhất, có tất cả mọi quyền.
• Moderator : người quản trị trung gian, có quyền trên tất cả các post thuộc
nhóm, có quyền tới tất cả các thread trong nhóm , trong phân loại chủ đề đó.
• Member : thành viên thông thường.
• Thông điệp cá nhân (private message) : Cho các thành viên gửi thông điệp
riêng cho nhau.


×