Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ của nhật báo cần thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (851.2 KB, 166 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_________________________

Trương Thu Sương

TÌM HIỂU ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ
CỦA NHẬT BÁO CẦN THƠ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
___________________

Trương Thu Sương

TÌM HIỂU ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ
CỦA NHẬT BÁO CẦN THƠ

Chuyên ngành

: Ngôn ngữ học

Mã số

: 66 22 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRỊNH SÂM

Thành Phố Hồ Chí Minh- 2012


Lời cảm ơn
Khi quyết định học sau đại học, em chọn ngành ngôn ngữ học xuất phát
từ sở thích của bản thân. Trong quá trình học tại Trường Đại học Sư phạm TP
Hồ Chí Minh, em được mở mang kiến thức rất nhiều và em nhận ra rằng làm
nghiên cứu khoa học không phải là điều dễ, và luận văn này chỉ là bước đầu
tập tễnh đi vào con đường nghiên cứu. Em chân thành cảm ơn tất cả Thầy Cô
đã dạy em.
Khi viết những dòng này, học trò khắc ghi sâu sắc lòng biết ơn đối với
Thầy Trịnh Sâm là người đã hướng dẫn học trò hoàn thành luận văn. Thầy
Trịnh Sâm đã tận tình chỉ dạy cách thức làm việc cho học trò, uốn nắn từng
câu từng chữ để luận văn nên vóc nên hình. Qua thời gian làm việc với Thầy,
học trò học được ở Thầy nhiều bài học quý báu về phương pháp làm việc
khoa học, nghiêm túc và say mê với công việc. Bên cạnh việc hoàn thành luận
văn thì thành công của bản thân chính là sự trưởng thành trong nhận thức của
học trò đối với cuộc sống và công việc. Sau này, dù đi đến đâu hay làm việc
gì thì kỷ niệm đẹp nhất trong quãng thời gian học sau đại học tại Trường Đại
học Sư Phạm TP Hồ Chí Minh chính là tình cảm thầy trò mà Thầy Trịnh Sâm
đã dành cho em.
Con cảm ơn mẹ, mẹ đã yêu thương con, hy sinh cả cuộc đời vì con, dõi
theo từng bước con đi, dù giờ đây con đã trở thành bà mẹ của hai đứa con
nhỏ. Em cảm ơn anh Triều và các con đã tạo điều kiện thuận lợi cho em, động
viên em vượt qua nhiều khó khăn trong quá trình học. Sau khi bảo vệ luận

văn, em tự nhủ, bên cạnh vận dụng những kiến thức học được vào công việc,
em sẽ dành nhiều thời gian hơn cho những người thân yêu nhất của em, bù
đắp lại thời gian qua.
Em kính chúc quý Thầy Cô, gia đình và bạn bè luôn hạnh phúc trong
cuộc sống. Thêm một lần nữa em xin tri ân đến tất cả mọi người bằng niềm
vui và lòng biết ơn chân thành nhất!
Trương Thu Sương


MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG .................................................... 12
1.1. Cần Thơ ............................................................................................... 12
1.1.1. Vùng đất, con người..................................................................... 12
1.1.2. Báo Cần Thơ ................................................................................ 13
1.2. Phong cách ngôn ngữ báo chí .............................................................. 14
1.2.1. Các quan điểm khác nhau về phong cách ngôn ngữ báo chí ....... 14
1.2.2. Chuẩn ngôn ngữ và chuẩn phong cách ngôn ngữ báo chí ........... 16
1.3. Lý thuyết giao tiếp của Roman Jakobson và việc nhận diện phong cách
và thể loại ............................................................................................ 20
1.4. Chức năng của phong cách ngôn ngữ báo chí ..................................... 24
1.5. Đặc điểm ngôn ngữ báo chí ................................................................. 28
1.5.1. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ sự kiện ........................................ 28
1.5.2. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ của sự tương tác ......................... 28
1.5.3. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ của sự hấp dẫn ............................ 29
1.6. Một số thể loại báo chí tiêu biểu ......................................................... 30
1.7. Màu sắc địa phương và màu sắc địa phương Nam Bộ ........................ 33
1.7.1. Màu sắc địa phương ..................................................................... 33

1.7.2. Màu sắc địa phương Nam Bộ ...................................................... 36
1.8. Tiểu kết ................................................................................................ 38
Chương 2 : NGÔN NGỮ NHẬT BÁO CẦN THƠ ................................... 40
2.1. Tiêu đề ................................................................................................. 40
2.1.1. Cấu tạo của tiêu đề ....................................................................... 41


2.1.2. Sự phân bố 5W + 1H ở đơn đề .................................................... 49
2.1.3. Mối quan hệ về mặt nội dung trong hệ thống đa đề .................... 53
2.1.4. Một số thủ pháp nghệ thuật sử dụng ở tiêu đề ............................. 55
2.2. Dẫn đề .................................................................................................. 56
2.2.1. Mô hình dẫn đề theo lý thuyết của F. Danes ............................... 57
2.2.2. Mô hình dẫn đề theo T- R- I ........................................................ 65
2.2.3. Mô hình dẫn đề theo cấu trúc 5W + 1H....................................... 72
2.3. Đoạn văn .............................................................................................. 78
2.3.1. Mô hình đoạn văn theo cấu trúc diễn dịch ................................... 79
2.3.2. Mô hình đoạn văn theo cấu trúc quy nạp ..................................... 83
2.4. Văn bản ................................................................................................ 84
2.4.1. Mô hình 1 ..................................................................................... 85
2.4.2. Mô hình 2 ..................................................................................... 87
2.5. Màu sắc địa phương Nam Bộ .............................................................. 93
2.5.1. Từ biến thể ngữ âm ...................................................................... 94
2.5.2. Từ ngữ địa phương....................................................................... 95
2.5.3. Từ ngữ xưng hô ............................................................................ 98
2.5.4. Địa danh ..................................................................................... 101
2.5.5. Sản vật địa phương..................................................................... 103
2.5.6. Thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ ................................................... 106
2.5.7. Một só biểu thức diễn đạt........................................................... 107
2.6. Tiểu kết .............................................................................................. 110
KẾT LUẬN .................................................................................................. 111

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 113


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của đất nước, trong những năm qua, các phương
tiện truyền thông đại chúng bao gồm các loại như báo nói, báo hình, báo ảnh,
báo chữ đều có bước phát triển nhảy vọt. Hầu như ở thành phố nào, tỉnh nào
cũng có các đài truyền hình, đài phát thanh, báo đảng. Và các cơ quan thông
tấn địa phương bên cạnh những cái chung, xét riêng về mặt ngôn ngữ nó cũng
có những yêu cầu riêng ví dụ như đáp ứng cho một bộ phận công chúng trên
một địa bàn cụ thể. Và như vậy, liệu các phương ngữ địa lý, các phương ngữ
xã hội có vai trò gì trong việc chuyển tải thông tin, chuyển tải các đường lối
chính sách của nhà nước đến với người dân.
Khác với tiếng Hán hiện đại, phương ngữ địa lý và phương ngữ xã hội
khác biệt nhau rất lớn thậm chí phải dùng bút đàm, tiếng Việt đang tồn tại
dưới dạng các phương ngữ và ít nhất theo một quan niệm phổ biến, tiếng Việt
có 3 phương ngữ: phương ngữ Bắc, phương ngữ Trung và phương ngữ Nam.
Giữa chúng ít nhiều có sự khác biệt, rõ nhất là về mặt ngữ âm và một ít là từ
vựng. Tuy nhiên, cư dân của 3 phương ngữ này có thể giao tiếp với nhau một
cách dễ dàng. Điều đó cho thấy rằng, tiếng Việt là một ngôn ngữ thống nhất
trên thế đa dạng. Sự đa dạng gắn liền với các phương ngữ, liên quan đến vấn
đề ở đây là gắn liền với các cơ quan truyền thông ở địa phương. Và giữ gìn,
phát triển sự đa dạng của phương ngữ cũng như giữ gìn sự đa dạng sinh học,
sinh thái thiên nhiên.
Vậy liên quan đến chuẩn mực ngôn ngữ, việc xử lý các yếu tố phương ngữ
đối với một tờ báo, đối với các cơ quan thông tấn ở địa phương như thế nào?
- Phương ngữ Nam Bộ là một phương ngữ khá thống nhất, có thể dễ

dàng nhận thấy là từ Ninh Thuận trở vào Cà Mau hầu như là không có sự
khác biệt nhiều. Trong hệ thống phương ngữ đó, thành phố Cần Thơ với tư


2

cách là một cơ quan địa hành chính mà mọi người gọi là thủ phủ của Tây Đô,
xét trên nhiều phương diện là có sức lan tỏa. Do vậy, có thể nói, nghiên cứu
ngôn ngữ trên báo Cần Thơ là một nghiên cứu có tính chất điển hình và chắc
chắn rằng, kết quả thu gặt được từ các ngữ liệu sẽ là những gợi ý lý thú và bổ
ích cho cả phương ngữ Nam Bộ.
- Là một người công tác tại báo đảng Cần Thơ, chúng tôi muốn có một
cái nhìn sâu sắc và toàn diện về việc sử dụng ngôn ngữ. Từ những khái quát
đúc kết sẽ đề xuất một số gợi ý trong việc phát huy thế mạnh cũng như hạn
chế những nhược điểm xét thuần túy về mặt ngôn ngữ của tờ báo mình hiện
đang công tác.
Từ tất cả những điều nêu trên, chúng tôi mạnh dạn chọn tìm hiểu đặc trưng
ngôn ngữ của nhật báo Cần Thơ làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1 Trước hết, cần minh định rõ cái đối tượng mà luận văn trực tiếp
khảo sát. Khi xác định đề tài luận văn, đặc trưng ngôn ngữ của báo Cần Thơ,
trong nhận thức của chúng tôi, là ngôn ngữ của nhật báo Cần Thơ, là các ngữ
liệu khảo sát được sưu tập trên tờ báo này. Đương nhiên, là một tờ báo tại địa
phương, với yêu cầu phục vụ một công chúng cụ thể, về mặt ngôn ngữ, hiển
nhiên ít nhiều có sự khác biệt so với các địa phương khác cũng như ở các báo
trung ương. Mặt khác, trong quá trình tiếp cận để làm rõ một số đặc trưng nào
đó, luận văn sẽ tiến hành so sánh đối chiếu với một số ngữ liệu ở một số báo
khác. Cũng cần lưu ý là, không phải tất cả các văn bản xuất hiện ở trên mặt
báo nói chung, báo Cần Thơ nói riêng đều thuộc phong cách báo chí. Vì vậy
cần phải xác định rõ hơn đối tượng mà luận văn khảo sát.

2.2 Đặc trưng ngôn ngữ của một tờ báo nhìn khái quát có thể được thể
hiện ở mọi cấp độ ngôn ngữ dù tiếp cận từ trên xuống hay từ dưới lên. Tuy
nhiên, theo chúng tôi, các đơn vị sau đây: i) tiêu đề, đề dẫn, đoạn văn và văn


3

bản; ii) màu sắc địa phương là những thành tố có khả năng thể hiện rõ nhất. Ở
i), là những thực thể thuộc cấp độ ngôn ngữ, còn ở ii), là các biểu thức ngôn
từ thuộc về lời nói theo lý thuyết của Saussure.
2.3 Về mặt thể loại báo chí, xét từ góc độ ngôn ngữ học cũng như
truyền thông học, hiện nay có nhiều nghiên cứu rất khác nhau. Hệ thống thể
loại này nhiều hay ít là tùy thuộc vào quan niệm và các tiêu chí phân loại. Đó
là chưa kể có một khoảng cách rất lớn từ lý thuyết và việc vận dụng ngay ở
cách định danh ở các tòa soạn báo. Đây là một vấn đề hết sức lý thú nhưng
không phải là trọng tâm của luận văn. Để tiện làm việc, xuất phát từ cách định
danh của tòa soạn, ngữ liệu mà chúng tôi sưu tập gồm các thể loại sau đây:
- Tin tức
- Phóng sự
- Phỏng vấn
- Phản ánh, ghi nhanh
- Gương điển hình.
Bên trên, ngoài việc nhận diện 3 thể loại đầu là khá hạn hữu và phổ
biến, cách gọi tên các thể loại thuộc nhóm sau xuất phát từ tính quen dùng và
thực tiễn ở tòa soạn báo. Chúng tôi hiểu là, sự phân loại ở đây chỉ có tính chất
tương đối, chủ yếu là để tiện làm việc.
Chúng tôi cũng xác định đối tượng nghiên cứu của luận văn là các văn
bản báo chí trên nhật báo Cần Thơ xuất bản từ đầu năm 2010 đến 9 – 2012.
3. Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu

Tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ của báo Cần Thơ, bao gồm những đặc
trưng có tính chất phổ biến cũng như những đặc trưng riêng là mục tiêu mà
luận văn hướng đến. Về phương diện thứ nhất, như đã nói, tiếng Việt là một
ngôn ngữ thống nhất, các đặc trưng ngôn ngữ thuộc kiểu này có thể thể hiện


4

trên nhiều cấp độ ngôn ngữ. Kết quả của luận văn này góp phần làm rõ thêm
một số đặc trưng chung của báo chí hiện đại. Về phương diện thứ 2, ở đây,
chúng tôi không hoàn toàn dùng thủ pháp đối lập có không mà đặc biệt chú ý
đến độ đậm nhạt của các phương tiện ngôn ngữ.
Xin lưu ý, một số từ ngữ của từ ngữ địa phương Nam Bộ lúc đầu chỉ
xuất hiện ở trong vùng sau đó được một số báo chí địa phương sử dụng và lâu
dần, nó hoàn toàn nhập vào hệ thống tiếng Việt toàn dân. Và đến lúc nào đó,
người sử dụng quên mất gốc gác của nó, đó là các trường hợp sau: chìm
xuồng, trùm mền, rút ruột, quyết liệt, nở nồi, chiên, xào, .v.v…
Nói rộng ra, lớp từ ngữ trong phong cách báo chí nói chung, báo Cần
Thơ nói riêng chúng thể hiện bộ mặt ngôn từ mà ở đó người ta có thể nhận ra
xu hướng phát triển từ vựng. Đương nhiên, báo Cần Thơ không tránh khỏi
tình trạng du nhập khá nhiều từ vựng hoặc mô phỏng hoặc dịch nghĩa hoặc
dùng nguyên dạng.
Bên cạnh đó, do nhiều lý do khác nhau, các từ ngữ địa phương cũng
tràn vào trang báo.
Luận văn bên cạnh hướng tới các ngữ liệu trung tâm, cũng không bỏ
sót các ngữ liệu thuộc ngoại vi, mặc dầu về mặt sử dụng tính tích cực và tiêu
cực không như nhau.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các thủ pháp nghiên cứu mà bất kỳ một khảo sát nào cũng vận
dụng như nhận diện, sưu tập, phân loại, miêu tả, luận văn này chủ yếu sử

dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê ngôn ngữ học: thống kê các đối tượng ( từ
ngữ, câu, văn bản các thể loại, v.v. ) và phân loại theo chủ điểm nghiên cứu,
từ đó tìm ra các quy luật, các mối liên hệ giữa các đối tượng.


5

- Phương pháp đối chiếu, so sánh: so sánh, đối chiếu các đơn vị cùng
loại; so sánh, đối chiếu cứ liệu ngôn ngữ trên báo Cần Thơ với một số báo
khác để tìm ra những tương đồng và khác biệt; từ đó các kết luận có được vừa
mang tính cụ thể vừa mang tính khái quát.
- Phương pháp phân tích cú pháp- ngữ nghĩa: là phương pháp đặc
trưng để nghiên cứu ngữ nghĩa, cấu trúc của các đối tượng đã thống kê ( các
yếu tố được đặt trong hệ thống và xem xét trên nhiều bình diện).
- Phương pháp mô hình hóa: để trình bày một cách có hệ thống; mô
hình các thể loại văn bản, cách tổ chức ngôn ngữ của từng thể loại và miêu tả
quan hệ của các đối tượng khảo sát ( qua các sơ đồ, bảng biểu).
Trong quá trình nghiên cứu, các thủ pháp, phương pháp được vận dụng, kết
hợp; tùy vào từng nội dung nghiên cứu, tùy vào từng đối tượng cụ thể mà sử
dụng chủ yếu một phương pháp thích hợp.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lịch sử nghiên cứu phong cách học diễn ra trong một thời gian khá lâu
dài. Trong “Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt” của
Hữu Đạt (2000), tác giả chia ra hai giai đoạn trong lịch sử nghiên cứu phong
cách học: giai đoạn trước Ch.Bally và giai đoạn sau Ch.Bally. Giai đoạn truớc
Ch.Bally: trước khi các lý thuyết về ngôn ngữ học đại cương của
F.de.Saussuse ra đời, việc nghiên cứu phong cách học chưa có tính hệ thống,
chưa phải là một bộ môn khoa học thực sự vì nó chưa có được những phương
pháp nghiên cứu cụ thể. Thậm chí, ngay cả những đối tượng và nhiệm vụ

nghiên cứu của nó vẫn còn là một vấn đề rất mơ hồ.
Có thể nói rằng, trong nhiều thế kỷ hình thành và phát triển của ngôn
ngữ học thế giới, phong cách học chưa hề xác lập được cho mình một chỗ
đứng với tư cách là một bộ môn khoa học độc lập. Phải đợi đến thế kỷ thứ XX
sau khi F.de.Saussuse tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại trong ngôn ngữ học


6

với công trình lý thuyết về ngôn ngữ học đại cương, phong cách học mới có
những điều kiện để trở thành một bộ môn khoa học độc lập thật sự với đầy đủ
ý nghĩa của nó.
Tiếp đến là giai đoạn sau Ch.Bally. Chính nhờ một hệ thống các khái
niệm được từng bước hoàn chỉnh và một hệ thống các phương pháp nghiên
cứu được định hình, phong cách học bắt đầu có cơ sở để xây dựng cho mình
những cách thức làm việc, phương pháp luận và nội dung nghiên cứu. Từ đây,
phong cách học trở thành ngành học mới đáp ứng những tiêu chuẩn cần có
của một môn khoa học thật sự. Người ta gọi phong cách học từ giai đoạn này
trở về sau là giai đoạn phát triển của phong cách học hiện đại. Người đặt nền
móng đầu tiên cho phong cách học hiện đại chính là một trong các học trò
xuất sắc nhất của Saussuse: Ch.Bally, đánh dấu một chặng đường mới của
lịch sử nghiên cứu phong cách học.
Phương pháp nghiên cứu của ông là đẳng nhất hóa các sự kiện ngôn
ngữ. Ông chú ý nhiều tới “tính biểu cảm, gợi cảm” ở các yếu tố của hệ thống
ngôn ngữ và đặc biệt quan tâm tới sự phối hợp các sự kiện lời nói để tạo nên
hệ thống các phương tiện này.
Có thể nói Ch.Bally trở thành người mở đầu của nền phong cách học
hiện đại chính là do cách tiếp cận rất mới của ông về các đối tượng nghiên
cứu cũng như xây dựng phong cách nghiên cứu để thực hiện các nhiệm vụ đặt
ra. Sau Ch.Bally, việc nghiên cứu phong cách học vẫn được tiếp tục ở Pháp

và phát triển ở nhiều nước như Liên Xô (cũ), Tiệp Khắc.
Trên đây là nội dung về lịch sử nghiên cứu phong cách học trên thế giới
mà Hữu Đạt đã trình bày trong công trình nghiên cứu của mình. Còn truyền
thống phong cách học ở Việt Nam cũng có một tiến trình phát triển riêng.
Trước những năm 60, bộ môn phong cách học ở Việt Nam chưa xuất hiện.
Trong khi đó trên bình diện thực tế, ta gặp không ít những lời hay ý đẹp nói


7

đến ý thức rèn luyện phong cách nói năng, giao tiếp, biểu hiện nét đẹp của
truyền thống văn hóa Việt Nam rất cần được nghiên cứu từ góc độ phong
cách học.
Từ sau năm 1960, môn phong cách học tiếng Việt được hình thành ở
Việt Nam (1964). Lúc đầu nó được gọi với cái tên “tu từ học”. Có thể xem
đây là bộ môn kế thừa những kết quả ban đầu của việc vận dụng các lý thuyết
về phong cách học của thế giới (chủ yếu của Liên Xô cũ) vào nghiên cứu thực
tiễn Việt Nam.
Trong công trình của mình, Hữu Đạt nêu ra những khái niệm cơ bản
trong nghiên cứu phong cách học, bao gồm: khái niệm phong cách và phong
cách học, phân biệt các hiện tượng đúng và hiện tượng chuẩn trong sử dụng
ngôn ngữ tiếng Việt (chuẩn ngữ âm, từ vựng, chính tả, ngữ pháp,…). Đặc biệt
tác giả đề cập đến cơ sở phân chia các phong cách chức năng. Theo tác giả,
tiếng Việt được chia làm 6 loại phong cách chức năng, mỗi loại lại chia ra ở
hai hình thức nói và viết. Cụ thể: phong cách sinh hoạt hàng ngày, phong cách
hành chính công vụ, phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong
cách báo chí, phong cách văn học nghệ thuật.
Ở “Phong cách học tiếng Việt” của tác giả Đinh Trọng Lạc (1997) và
“Phong cách học tiếng Việt” của Đinh Trọng Lạc (chủ biên, 1997) và Nguyễn
Thái Hòa thì phân chia ra: i) các phong cách chức năng gồm: các phong cách

chức năng của hoạt động lời nói và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật và ii)
trên cơ sở đối lập với ngôn ngữ phi nghệ thuật. Các phong cách chức năng
của hoạt động lời nói trong tiếng Việt bao gồm: phong cách hành chính,
phong cách khoa học, phong cách báo, phong cách chính luận và phong cách
sinh hoạt.
“Phong cách học tiếng Việt” của nhóm tác giả Cù Đình Tú – Lê Anh
Hiền – Nguyễn Thái Hòa – Võ Bình (1982) thì chia ra các phong cách chức


8

năng tiếng Việt làm hai loại đó là i) phong cách khẩu ngữ và ii) phong cách
văn hóa. Trong phong cách văn hóa lại chia ra: phong cách khoa học, phong
cách chính luận, phong cách báo chí – tin tức, phong cách hành chính công
vụ, phong cách cổ động, phong cách nghệ thuật.
Phong cách học văn bản của Đinh Trọng Lạc (1994) cũng là một công
trình có giá trị trong việc luận bàn về vấn đề phong cách học xét từ góc độ
văn bản.
Mục đích của giáo trình này là nêu lên sự cần thiết phải mở rộng phạm
vi nghiên cứu phong cách học, đồng thời đi sâu vào những vấn đề mà sự ra
đời của ngôn ngữ học văn bản đã đặt ra cho bộ phận này. Khi vượt qua giới
hạn của câu – mà ngữ pháp truyền thống cho là loại đơn vị ngữ pháp thuộc
bậc cao nhất – để đi đến những đơn vị quy mô và kích thước lớn hơn những
văn bản, thì ngôn ngữ học văn bản đã thật sự làm một cuộc cách mạng, vì nó
đã được ngôn ngữ học nâng lên một tầm khoa học bao quát hết đối tượng của
mình.
Trong lĩnh vực phương ngữ học, “Phương ngữ học tiếng Việt” của
Hoàng Thị Châu ( 2004 ) được xem là một công cụ thiết thực cho người
nghiên cứu ngôn ngữ học. Giáo trình thật sự là một cẩm nang bổ ích giúp
người nghiên cứu bổ sung nền tảng kiến thức ngôn ngữ học nói chung,

phương ngữ học nói riêng. Những vấn đề trong giáo trình được trình bày một
cách mạch lạc, rõ ràng, dễ hiểu xoay quanh khái niệm phương ngữ học, đặc
trưng phương ngữ cũng như bước đường diễn tiến của các phương ngữ, được
xem xét trong thế đối lập giữa các phương ngữ với nhau cũng như giữa
phương ngữ với ngôn ngữ toàn dân. Đặc biệt hơn cả, qua công trình nghiên
cứu này, người nghiên cứu luận văn hiểu thêm cái hay cái đẹp của tâm hồn
quê hương mỗi vùng miền chất chứa đằng sau ngôn từ mỗi phương ngữ, bởi
lẽ “phương ngữ là biểu hiện vật chất cụ thể” cho vốn văn hóa của người dân


9

bản xứ. Trên cơ sở lý luận mà giáo trình cung cấp, người viết ứng dụng vào
việc xem xét lý giải các văn bản báo chí trên nhật báo Cần Thơ để thấy được
bản sắc địa phương miền Tây thông qua các tác phẩm báo chí.
Ngoài ra, phải kể đến các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí,
các sách tham khảo nghiệp vụ, chuyên ngành báo chí, từ lý luận chung đến
từng thể loại riêng thuộc phong cách báo chí. Từ nền kiến thức này, người
nghiên cứu có một cái nhìn vừa bao quát vừa cụ thể, vừa khách quan vừa chủ
quan về vấn đề mình quyết định nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu dạng này như:
“Đi tìm bản sắc tiếng Việt” của Trịnh Sâm (2011), Nhà xuất bản Tuổi trẻ.
“Ngôn ngữ báo chí”, Vũ Quang Hào ( 2007 ), Nhà xuất bản Thông tấn.
“ Ngôn ngữ báo chí – Những vấn đề cơ bản”, Nguyễn Đức Dân (2007),
Nhà xuất bản Giáo dục.
“Tác phẩm báo chí ” của Trần Thế Thiệt ( 1995), Khoa báo chí – Học viện
chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh – Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Nhà
xuất bản Giáo dục Hà Nội.
“Biên tập ngôn ngữ sách và báo chí” của Nguyễn Trọng Báu (2002), Học
viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện báo chí và tuyên truyền,

Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
“Công việc của người viết báo” của Hữu Thọ (1997), Nhà xuất bản Giáo
dục.
“Các thể ký báo chí” của Đức Dũng ( 1996 ), Nhà xuất bản Văn hóa Thể
thao.
“Công tác biên tập”, Claudia Mast ( 2003 ), Nhà xuất bản thông tấn.

Bên cạnh những công trình về phong cách, về ngôn ngữ báo chí và một
số nghiên cứu về phương ngữ trong đó có phương ngữ Nam bộ nói trên,


10

khoảng 20 năm gần đây, trên cơ sở tiếng Việt, trào lưu phân tích diễn ngôn
nói chung, phân tích diễn ngôn báo chí nói riêng cũng đạt được một số kết
quả khả quan. Đặc điểm chung của trào lưu này là bên cạnh cách hình dung
mỗi diễn ngôn là một chỉnh thể, việc phân tích cấu trúc của nó, bao gồm cả
cấu trúc nội dung và cấu trúc hình thức, việc gắn diễn ngôn với quá trình hành
chức với ngữ cảnh (ngữ cảnh rộng và ngữ cảnh hẹp). Nói một cách khái quát,
những yếu tố như quan hệ giữa diễn ngôn với hiện thực, diễn ngôn với người
sử dụng, đã đặt ra nhiều vấn đề lý thú và bổ ích.
Luận văn này, trên cơ sở kế thừa các thành tựu của các công trình đi
trước, bao gồm một số lĩnh vực vừa nêu trên, mạnh dạn triển khai việc tìm
hiểu đặc trưng trên nhật báo Cần Thơ một cách toàn diện và có hệ thống.
5. Đóng góp của luận văn
5.1 Luận văn không có tham vọng giải quyết những vấn đề lý thuyết
phức tạp của truyền thông học và ngôn ngữ báo chí. Bởi đây là những vấn đề
mà thành tựu nghiên cứu trên cứ liệu tiếng Việt là rất lớn. Vả lại là một công
việc quá sức đối với người nghiên cứu. Tại đây, thông qua những nhận xét,
đúc kết cụ thể, luận văn muốn làm sáng tỏ thêm một số vấn đề về vai trò và

chức năng của phương ngữ ( nhất là phương ngữ Nam bộ từ Ninh Thuận trở
vào), một phương ngữ tương đối thuần nhất về mặt ngôn ngữ lại được số
người sử dụng nhiều nhất đối với những phạm vi giao tiếp trên địa bàn, trong
đó có giao tiếp bằng báo chí.
5.2 Là một người công tác trong ngành báo chí, khi tiến hành đề tài
này, người viết trước hết xem đây là cơ hội để học tập, nâng cao trình độ về
mặt lý thuyết cũng như khả năng xử lý thực tiễn và thông qua những đúc kết,
những nhận xét cụ thể, hy vọng góp sức nhỏ bé của mình vào việc nâng cao
những công việc báo chí có tính chất bếp núc và gợi ra một số gợi ý tương đối
với những ai quan tâm đến đề tài.


11

6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, bố cục của
luận văn chia làm 2 chương chính:
Chương 1: Giới thiệu về cơ sở lý thuyết chung, mang tính khái quát,
bao gồm: vùng đất và con người Cần Thơ, lịch sử báo Cần Thơ, đặc điểm
chung của ngôn ngữ báo chí, cách phân chia và nhận diện các thể loại thuộc
phong cách báo chí, đặc biệt là vai trò của phương ngữ trong giao tiếp xã hội
cũng như trong việc tạo bản sắc văn hóa vùng, miền cho từng địa phương.
Đây có thể coi là phần lý thuyết, tiền đề làm xuất phát điểm mà luận văn dựa
vào để tiếp tục khảo sát những vấn đề cụ thể ở chương tiếp theo.
Chương 2: Ngôn ngữ nhật báo Cần Thơ
Trình bày những kết quả nghiên cứu cụ thể trên cả hai bình diện ngôn
ngữ và lời nói trong đó đặc biệt chú ý là các nhân tố làm nét riêng về mặt
ngôn ngữ của nhật báo Cần Thơ.



12

Chương 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
Trước khi đi vào khảo sát những đặc trưng ngôn ngữ của báo in Cần Thơ
không thể không đề cập đến một số tri thức nền liên quan đến đề tài. Ở
chương này luận văn lần lượt đề cập đến các vấn đề sau đây:
- Tổng quan về vùng đất Cần Thơ
- Phong cách ngôn ngữ báo chí
- Chức năng ngôn ngữ báo chí
- Đặc điểm ngôn ngữ báo chí
- Lý thuyết về giao tiếp của Roman Jakobson và việc nhận diện các phong
cách và thể loại
- Nhận diện một số thể loại trong báo chí, màu sắc địa phương và màu sắc
địa phương Nam Bộ
1.1. Cần Thơ
1.1.1. Vùng đất, con người
“Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó lòng không muốn về”
Đó là câu ca dao quen thuộc ngợi ca xứ sở Tây Đô tươi đẹp. Với diện
tích 1.389,59 km2 nằm bên bờ phải sông Hậu, Cần Thơ hiền hòa với những
luồng gió mát thổi vào từ hai con sông là sông Hậu và sông Cần Thơ. Mỗi
năm hai mùa mưa nắng cho Cần Thơ nhiều cây xanh trái ngọt, tạo nên đặc
trưng của một xứ sở miệt vườn. Thiên nhiên ưu đãi, Cần Thơ trù phú nhiều
sản vật. Đất đai màu mỡ, người dân nơi đây yên tâm chăm lo sản xuất, xây
dựng cuộc sống ấm no giàu đẹp. Sự ưu đãi của thiên nhiên ảnh hưởng đến sự
hình thành tính cách của con người Cần Thơ.
Người Cần Thơ chân chất thật thà, hiền hòa, chí tình chí nghĩa. Trong
đối nhân xử thế, tình người luôn được xem làm trọng. Vì lẽ đó, ai một lần đến
Cần Thơ đều lưu luyến trước tình đất tình người của đất Tây Đô.



13

1.1.2. Báo Cần Thơ
Phát huy truyền thống, thành tích báo chí Cách mạng trong các thời kỳ
đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ ngày tái lập
tỉnh Cần Thơ (1992), báo Cần Thơ được tách ra từ báo Hậu Giang cũ, trong
hoàn cảnh mới vẫn tiếp tục nỗ lực phấn đấu xây dựng lực lượng, từng bước
trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại, không ngừng cải tiến nâng cao chất
lượng tờ báo, tạo bước đi lên vững chắc.
Sau 7 năm (1992- 1999), phấn đấu xây dựng và phát triển, báo Cần Thơ
luôn giữ vững tôn chỉ mục đích tờ báo của cơ quan ngôn luận của đảng bộ và
diễn đàn của nhân dân địa phương. Báo Cần Thơ bám sát sự chỉ đạo và định
hướng tuyên truyền của Đảng, các quy định của nhà nước, không ngừng cải
tiến nội dung, cách tân hình thức, thông tin kịp thời các sự kiện chính trị quan
trọng, phản ánh trung thực, sinh động mọi lĩnh vực đời sống xã hội, những
tiềm lực của quê hương đất nước trong những năm đổi mới.
Từ chỗ kế thừa báo Hậu Giang (cũ) định kỳ xuất bản 2 số/ tuần, 8 trang/ khổ
30 x40 cm, đến tháng 4 năm 1996, báo Cần Thơ tăng lên 3 số/ tuần, tháng 8
năm 1997 cả 3 kỳ báo trong tuần tăng từ 8 trang lên 12 trang và từ tháng 1
năm 1999 tăng thêm kỳ chủ nhật, 16 trang in 4 màu. Số lượng ấn bản phát
hành ngày càng tăng lên. Hiện nay báo Cần Thơ là món ăn tinh thần không
chỉ của cán bộ, công nhân viên chức mà còn của nhân dân địa phương.
Cùng với việc chăm lo xây dựng phát triển đội ngũ, báo Cần Thơ từng
bước đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật nhằm đáp ứng tốt nhất
việc chuyển tải thông tin, đường lối chính sách của Đảng, của Nhà nước đến
với đông đảo bạn đọc.
Đi đôi với việc tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng các kỳ báo Cần
Thơ, kể từ ngày 01-01-2001, báo Cần Thơ trở thành nhật báo.



14

1.2. Phong cách ngôn ngữ báo chí
1.2.1. Các quan điểm khác nhau về phong cách ngôn ngữ báo chí
Như chúng ta đã biết, phong cách học trên thế giới đã có lịch sử từ rất
lâu đời, nhưng ở Việt Nam, lĩnh vực nghiên cứu này còn khá mới mẻ, bắt đầu
từ những thập niên 60 của thế kỷ trước. Chưa có một công trình nghiên cứu
phong cách học thật sự xét một cách toàn diện các cấp độ ngôn ngữ. Các nhà
nghiên cứu còn tranh luận với nhau nhiều vấn đề thuộc phong cách học. Thậm
chí, riêng bản thân một nhà ngôn ngữ học cũng có sự thay đổi quan điểm theo
thời gian. Do đó việc phân chia các phong cách chức năng của tiếng Việt còn
là một vấn đề rối rắm, chưa thống nhất.
So với các phong cách khác, về mặt lí luận và nhận thức, phong cách
báo chí được nhìn nhận như một phong cách độc lập là khá muộn. Các tài liệu
như Tu từ học tiếng Việt hiện đại (Cù Đình Tú, Lê Anh Hiền, Nguyễn
Nguyên Trứ, 1975) hay Phong cách học tiếng Việt (Cù Đình Tú, Lê Anh
Hiền, Nguyễn Thái Hòa, Võ Bình, 1982) không đề cập đến phong cách báo
chí. Mãi đến 1982, Nguyễn Thái Hòa mới đề cập trong cuốn Phong cách học
tiếng Việt. Như vậy, đến thập niên 80 của thế kỉ XX, phong cách chức năng
báo chí tiếng Việt mới được nhìn nhận như một phong cách độc lập, mặc dù
báo chí tiếng Việt đã có từ năm 1865, năm Gia Định Báo ra đời.
Nhóm tác giả Cù Đình Tú – Lê Anh Hiền – Nguyễn Thái Hòa – Vũ
Bình (1982) chia tiếng Việt toàn dân ra hai thế đối lập là phong cách khẩu
ngữ và phong cách văn hóa (văn học). Trong phong cách văn hóa lại bao gồm
các phong cách chức năng: phong cách khoa học, phong cách chính luận,
phong cách báo chí - tin tức, phong cách hành chính - công vụ, phong cách cổ
động và phong cách nghệ thuật.
Trong cả hai công trình nghiên cứu của mình năm 1991 và năm 1997,
tác giả Đinh Trọng Lạc đều quan niệm các phong cách chức năng tiếng Việt



15

bao gồm hai loại là phong cách chức năng của hoạt động lời nói và phong
cách hoạt động nghệ thuật đối lập với phong cách ngôn ngữ phi nghệ thuật.
Các phong cách chức năng của hoạt động lời nói trong tiếng Việt bao gồm:
phong cách hành chính, phong cách khoa học, phong cách báo, phong cách
chính luận và phong cách sinh hoạt.
Xét từ phương diện truyền thông tác giả Vũ Quang Hào cho rằng không
có sự phân biệt một phong cách báo chí riêng biệt, trong thế đối lập với các
phong cách chức năng khác của hệ thống tiếng Việt. Theo ông, báo chí
thường sử dụng ba phong cách chủ yếu là: phong cách chính luận, phong cách
khoa học và phong cách hành chính.
Quan niệm của tác giả Hữu Đạt (2000) trong công trình nghiên cứu
“Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt” thì đứng từ một
góc độ khác để phân chia các phong cách chức năng tiếng Việt. Hữu Đạt chia
tiếng Việt ra làm sáu phong cách chức năng theo cách nhìn từ trong ra ngoài,
bao gồm: phong cách sinh hoạt hằng ngày, phong cách hành chính công vụ,
phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong cách báo chí, phong cách
văn học - nghệ thuật. Trong đó, mỗi phong cách lại có hai dạng nói và viết.
Song song đó, cũng từ công trình nghiên cứu này, theo cách nhìn từ ngoài vào
Hữu Đạt lại phân chia tiếng Việt thành hai thế đối lập, bao gồm: phong cách
khẩu ngữ toàn dân và phong cách văn chương (còn gọi là phong cách gọt
giũa). Trong phong cách văn chương lại phân ra các phong cách: phong cách
hành chính công vụ, phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong
cách báo chí, phong cách văn học nghệ thuật.
Có sự khác biệt đáng chú ý trong hai cách phân chia vừa nêu trên. Ở
cách phân chia thứ nhất, nói và viết chỉ coi là các dạng biểu hiện của phong
cách chức năng. Tuy nhiên, ở cách phân chia thứ hai, nói và viết được quan

niệm là chính phong cách chức năng. Tuy khác nhau, nhưng mỗi quan niệm


16

đều có những hạt nhân hợp lý của mình. Vấn đề quan trọng ở đây là sự phân
biệt giữa một bên là ngôn ngữ nói với tư cách là hình thức thể hiện của ngôn
ngữ và một bên là ngôn ngữ nói với tư cách là chức năng.
Nhìn chung, từ thập niên 80 của thế kỷ XX trở về sau, ở hầu hết các
công trình nghiên cứu, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học đều có sự phân biệt
phong cách chức năng ngôn ngữ báo chí xét trong thế đối lập với các phong
cách chức năng ngôn ngữ khác. Phong cách ngôn ngữ báo bao gồm các kiểu
và thể loại văn bản phục vụ cho mục đích trao đổi thông tin giữa cơ quan báo
chí với bạn đọc, nhằm thực hiện chức năng tác động, chức năng giáo dục và
thẩm mỹ, tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể mà chức năng này hay chức năng
kia nổi trội.
1.2.2. Chuẩn ngôn ngữ và chuẩn phong cách ngôn ngữ báo chí
1.2.2.1. Chuẩn ngôn ngữ
Có nhiều quan niệm khác nhau về chuẩn ngôn ngữ. Hoàng Tuệ quan
niệm về chuẩn ngôn ngữ như sau:
“ Chuẩn mực nói một cách khái quát là cái đúng. Đó là cái đúng có tính chất
chung, tính chất bình thường được mọi người trong cộng đồng ngôn ngữ chấp
nhận ở một giai đoạn nhất định trong quá trình phát triển lịch sử của ngôn
ngữ. Cái đúng cũng được xác định theo một tập hợp những quy tắc nhất định
thuộc các phạm vi phát âm, chữ viết, dùng từ, cấu tạo từ mới và đặt câu”.
[94, tr.21] Hai tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa cũng đồng ý với
quan niệm trên về chuẩn ngôn ngữ. Riêng tác giả Hữu Đạt quan niệm chuẩn
ngôn ngữ trước hết phải là những thói quen giao tiếp ngôn ngữ được định
hình về mặt xã hội và được chấp nhận trong cảm thức ngôn ngữ của người
bản ngữ.

Tác giả Cù Đình Tú ( 1982) thì quan niệm chuẩn mực ngôn ngữ là hệ
thống các phương tiện liên kết biểu hiện tốt nhất, hợp lý nhất, được mọi người


17

thừa nhận, sử dụng để phục vụ cho sự giao tiếp xã hội trong thời kỳ nhất định.
Cù Đình Tú còn nhấn mạnh, hệ thống các phương tiện ngôn ngữ bao giờ cũng
tồn tại dưới dạng các biến thể. Mỗi biến thể tương ứng với một chức năng
giao tiếp nhất định, đúng trong phạm vi giao tiếp này nhưng có thể sai trong
phạm vi giao tiếp khác. Cái được công nhận là chuẩn mực trong phong cách
chức năng ngôn ngữ này chưa hẳn đã được chấp nhận ở phong cách chức
năng ngôn ngữ kia. [93, tr.62]. Tác giả Cù Đình Tú này cũng đề cập, đối với
các biến thể ngôn ngữ, chuẩn mực ngôn ngữ chỉ thừa nhận hoặc phủ định chứ
không giải quyết vấn đề lựa chọn biến thể để sử dụng trong các phong cách
chức năng ngôn ngữ.
Song song với khái niệm chuẩn mực trong ngôn ngữ, người ta thường
nhắc đến hiện tượng lệch chuẩn. Đó là những hiện tượng ngôn ngữ không phù
hợp với thói quen sử dụng ngôn ngữ và đi khỏi cảm thức ngôn ngữ của cộng
đồng [93, tr.21]. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, một số hiện tượng ngôn ngữ
mới nảy sinh, ban đầu, chúng được coi là lệch chuẩn, nhưng được cộng đồng
sử dụng thường xuyên và chấp nhận, dần dần những hiện tượng đó sẽ tham
gia vào chuẩn. Ta thường bắt gặp hiện tượng lệch chuẩn trong các sáng tác
văn chương, trong tác phẩm báo. Đặc biệt, báo chí là lĩnh vực tiên phong
trong việc sử dụng các hiện tượng lệch chuẩn trong ngôn ngữ.
Có thể phân chia các cấp độ của chuẩn ngôn ngữ gồm:
i) chuẩn ngữ âm,
ii) chuẩn từ vựng,
iii) chuẩn chính tả
iiii) chuẩn ngữ pháp.

Chúng tôi lần lượt xem xét từng cấp độ của chuẩn ngôn ngữ như sau:
i) Chuẩn ngữ âm: Chuẩn ngữ âm được đặt ra khi có hai hay nhiều biến
thể phát âm cho cùng một từ. Hiện tượng được coi là chuẩn là hiện tượng


18

được dùng chung cho toàn quốc gia, cho mọi lĩnh vực giao tiếp, mọi phong
cách chức năng. Hiện tượng chuẩn bao giờ cũng mang tính hợp lý, được cộng
đồng chấp nhận và được sử dụng chính thức trong ngôn ngữ hành chính, pháp
luật, mang tính nhà nước.
Mặc dù vậy, chuẩn không phải là quy ước mang tính hành chính thuần
túy. Tính quy ước này là kết quả cuối cùng của quy ước mang tính xã hội. Nó
liên quan đến tính hệ thống, áp lực của cấu trúc tiếng Việt và chịu thử thách
qua thời gian.
Nói một cách khái quát, tiếng Việt không có chuẩn ngữ âm, ( tức không
có giọng của vùng nào có đầy đủ các thế đối lập được thể hiện trong hệ thống
ngữ âm), chuẩn mà chúng ta nhắc ở đây là chuẩn trên chữ viết.
ii) Chuẩn chính tả: Nếu chuẩn ngữ âm được xây dựng trên việc lựa
chọn các biến thể ngữ âm, chuẩn từ vựng đươc xây dựng dựa trên sự lựa chọn
một đơn vị từ vựng trong loạt từ có nghĩa khác nhau mà người sử dụng dễ
nhầm lẫn là một thì chuẩn chính tả là những quy định cụ thể về cách viết,
cách phiên âm cho từng âm cụ thể.
iii) Chuẩn từ vựng: Cần thiết để xác lập các chuẩn từ vựng, tránh nhầm
lẫn các biến thể ngữ âm của cùng một từ hay các từ hoàn toàn khác nghĩa
nhau, đảm bảo cho việc sử dụng từ đạt được sự chính xác và đúng đắn.
So với chuẩn ngữ âm và chuẩn từ vựng, chuẩn chính tả ngoài tính dân
tộc còn có tính quốc tế. Chuẩn chính tả và chuẩn ngữ âm có quan hệ mật thiết
với nhau nhưng không phải là một.
Chuẩn chính tả là một hiện tượng phức tạp. Một mặt là do hệ thống chữ

cái tiếng Việt vốn được mượn từ hệ thống chữ cái tiếng Latin dùng để ghi âm,
mặt khác, mối quan hệ giữa âm và chữ vốn là mối quan hệ không ổn định
trong lịch sử. Sự thay đổi tương đối nhanh cách phát âm một số phụ âm đã tạo
nên những khó khăn nhất định trong việc phân biệt chính tả. Do đó, xây dựng


19

chuẩn chính tả đã và đang là vấn đề đặt ra. [21, tr.26].
iiii) Chuẩn ngữ pháp: Là toàn bộ những quy tắc quy định cho việc tổ
chức câu trong quá trình giao tiếp. Bộ quy tắc này ở mỗi ngôn ngữ đều có
những nét riêng ngoài những nét chung mang tính phổ quát.
1.2.2.2. Chuẩn phong cách ngôn ngữ báo chí
Bên cạnh khái niệm chuẩn ngôn ngữ, chuẩn phong cách cũng là vấn đề
thời sự được các nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu.
Trong nhiệm vụ của mình, phong cách học một mặt phải chỉ ra khả năng và
hiệu lực biểu đạt của từng loại phương tiện ngôn ngữ trong các phong cách
chức năng ngôn ngữ, mặt khác phải chỉ ra ở một phong cách chức năng nhất
định thì sử dụng các phương tiện ngôn ngữ như thế nào là hợp lý, là có hiệu
lực. Do đó phong cách học có mối quan hệ mật thiết với vấn đề xây dựng
chuẩn mực ngôn ngữ trong đó có chuẩn mực phong cách.
Theo tác giả Cù Đình Tú ( 1994), chuẩn mực phong cách là toàn bộ
những quy ước, chỉ dẫn về tính hợp lý, tính đúng chỗ của việc sử dụng các
phương tiện ngôn ngữ phù hợp với yêu cầu của mỗi phong cách chức năng
ngôn ngữ.
Nhắc đến chuẩn mực phong cách là nói đến màu sắc phong cách. Màu
sắc phong cách là khái niệm gắn với phong cách chức năng ngôn ngữ, được
thể hiện qua những đặc trưng chung về việc dùng từ, đặt câu ở từng phong
cách chức năng cụ thể. Màu sắc phong cách là cái có tính chất ổn định tương
đối và có tính chất thông dụng, là tập hợp những đặc điểm mang tính khác

biệt của phong cách chức năng này với phong cách chức năng kia nên nó
mang tính khách quan và có tính quy luật trong quá trình sử dụng, không phụ
thuộc vào ý đồ chủ quan của người nói.
Muốn phân tích đặc điểm ngôn ngữ của mỗi lời nói ra xem nó thuộc về
phong cách chức năng nào, ta cần phải đặt nó trong quan hệ và hoàn cảnh


20

giao tiếp nhất định.
1.3. Lý thuyết giao tiếp của Roman Jakobson và việc nhận diện phong
cách và thể loại
Để đạt được hiệu quả giao tiếp thì quá trình giao tiếp phải đảm bảo các
điều kiện là người nói và người nghe phải cùng một ngôn ngữ; đồng thời có
sự tương xứng về hiểu biết trong lĩnh vực giao tiếp; có tập quán ngôn ngữ,
thói quen sử dụng các quy tắc ngôn ngữ đang được dùng làm công cụ giao
tiếp; có sự gần nhau về tâm lý và mức độ quan tâm với vấn đề đặt ra.
Người nói ( viết) và người nghe ( đọc) nằm trong mối quan hệ truyền
tin và tác động. Trong đó người viết là người cung cấp thông tin, là người tác
động và thuyết phục. Người đọc, nghe, là người nhận tin và chịu sự tác động,
thuyết phục. Đây là cơ sở làm xuất hiện phong cách báo chí- chính luận.
Liên quan đến vấn đề đang bàn, mô hình 6 yếu tố và tương ứng với nó
là 6 chức năng của Roman Jakobson (1960) không chỉ có ý nghĩa trong việc
nhận thức bản chất của ngôn ngữ thơ ca mà còn có thể xem xét để nhận diện
các phong cách chức năng và thể loại.
Theo Roman Jakobson, mọi giao tiếp đều có 6 yếu tố sau:
Quy chiếu
Người gửi

Thông điệp


Người nhận

Tiếp xúc

Và tương ứng với 6 yếu tố này, chúng ta có 6 chức năng ngôn ngữ khác
nhau: chức năng biểu hiện (gắn với người gửi), chức năng thi ca (gắn với
thông điệp), chức năng tác động (gắn với người nhận), chức năng nhận thức
(gắn với quy chiếu), chức năng siêu ngôn ngữ (gắn với mã) và chức năng đưa
đẩy (gắn với yếu tố tiếp xúc). Xem hình sau:


×